VỤ LỪA ĐẢO ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM PHƠI BÀY LỖ HỔNG CỐ HỮU CỦA NGÂN HÀNG
Trương Mỹ Lan tại phiên tòa ở Việt Nam, tháng 4 năm 2024. EPA-EFE/STRINGER |
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 cho thấy thế giới phụ thuộc nhiều đến
cỡ nào vào việc
các ngân hàng được vận hành tốt. Kể từ đó, các cơ quan quản lý đã được trao những quyền mới để siết chặt kiểm soát một vài tổ chức lớn nhất nhằm
ngăn chặn rủi ro, lòng tham và tham nhũng.
Nhưng dù ở đâu thì cách tiếp cận này cũng đều không hiệu quả. Vào ngày 11 tháng 4 năm 2024, một
nữ doanh nhân ở Việt Nam bị kết án tử hình vì lừa đảo vay 44 tỷ USD từ một trong những
ngân hàng lớn nhất đất nước.
Trương Mỹ Lan đã lấy số tiền – mà hầu hết là khó có khả năng thu hồi – ra khỏi Ngân hàng Thương mại Sài Gòn (SCB) bằng
cách lách luật Việt Nam vốn cấm bất kỳ ai sở hữu trên 5% cổ phần của ngân
hàng. Bằng cách sử dụng hàng trăm công ty bình phong [shell company] (kèm những phương pháp khác), cuối cùng bà đã sở hữu hơn 90%
cổ phần của SCB.
Trong khi đó, các khoản vay mà bà vay (trị giá gần
bằng 10% GDP Việt Nam năm 2024) chiếm tới 93% tổng danh mục cho vay của
ngân hàng. Bà ta đã nhân nhiều cơ hội để rút một lượng lớn tiền mặt và cất giữ dưới tầng hầm
nhà mình.
Bà Lan dự kiến sẽ kháng cáo phán quyết của tòa án. Nhưng về cơ bản, trường hợp gian lận đặc biệt này phơi bày
những điểm yếu cố hữu của các ngân hàng sử dụng tiền gửi để tài trợ cho các khoản
vay. Nói một cách đơn giản, cứ mỗi 10 đồng gửi vào, ngân hàng có thể cho vay
tới 9 đồng để
hỗ trợ các khoản thế chấp hoặc cho
vay doanh nghiệp, chỉ giữ lại 1 đồng làm dự trữ để cho phép rút tiền.
Nhưng về mặt lý thuyết, người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ khi nào họ muốn,
nếu họ yêu cầu một lượng tiền mặt đặc biệt lớn, ngân hàng có thể không có đủ dự
trữ (thanh khoản – ND) để trang trải. Sau khi bà Lan bị bắt vào năm 2022, SCB phải đối mặt với tình trạng rút tiền
hàng loạt (khi một lượng lớn khách hàng cố gắng rút tiền) và kể từ đó ngân hàng này được đặt dưới sự kiểm soát
của nhà nước.
Để tránh tình trạng trên, các ngân hàng ở hầu hết các nước đều được quản
lý chặt chẽ. Và kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhiều ngân hàng được
yêu cầu duy trì mức vốn và thanh khoản cao hơn để bù đắp
cho các khoản lỗ trong thời kỳ căng
thẳng.
Quy mô gian lận và tham nhũng diễn ra tại SCB nêu bật tác động tàn khốc mà
môi trường tham nhũng có thể gây ra đối với lĩnh vực tài chính. Các nghiên cứu
khác nhau cho thấy tham nhũng có thể ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của ngành ngân hàng, giảm cho vay và tăng khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
Việt Nam đã phải đối mặt với những thách thức về tham nhũng suốt một thời gian dài, và phiên tòa xét xử SCB là một phần
quan trọng của chiến dịch được gọi là “Đốt Lò” nhắm vào các chính trị gia và lãnh đạo doanh nghiệp như một phần trong
nỗ lực xóa bỏ tham nhũng khỏi chính phủ Việt Nam và nền kinh tế.
Nhưng chuyện có lẽ không đơn giản đến thế.
Có lập luận cho rằng trong một số trường hợp, tham nhũng thực sự có thể
mang lại lợi ích xã hội - nó có thể “bôi trơn bánh xe” của một nền kinh tế trì
trệ. Một số người lập luận rằng những gì xảy ra với SCB là khá phổ biến
(ở quy mô nhỏ hơn) trong nền kinh tế Việt Nam, và tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể mà đất nước trải qua trong những năm gần
đây (quy mô nền
kinh tế đã tăng gấp ba lần kể từ năm 2010) phần lớn là nhờ mức độ tham nhũng cao.
Ý tưởng này được ủng hộ bởi nghiên cứu cho thấy rằng tham nhũng không phải lúc nào cũng tàn phá về mặt kinh tế mà trên thực tế có thể đóng vai trò hỗ trợ.
Lý thuyết này cho rằng ở những nơi mà việc quản lý chậm chạp
và nạn quan liêu vô tận, tham nhũng đôi khi có thể đẩy nhanh tiến độ mọi việc, nhờ bỏ qua những hạn chế
kém hiệu quả của bộ máy quan liêu.
Những ảnh hưởng của tham nhũng
Trong một số trường hợp, tham nhũng có thể khiến các doanh nghiệp và tổ chức hoạt động hiệu quả
hơn. Các dự án được khởi động, việc làm ra đời, hợp đồng được trao. Mọi việc đâu vào đấy.
Quan liêu hạn chế. Ảnh: Lightspring/Shutterstock |
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là cổ xúy cho tham nhũng nhiều hơn – mà chỉ để minh họa rằng
tác động của nó có thể phức tạp hơn chúng ta nghĩ. Và chúng ta cần nhớ rằng bản
thân giới quy
định cũng có thể bị tham nhũng.
Mặc dù quy định tài chính nhắm vào tham nhũng có thể có hiệu quả, nhưng việc các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền lực điều tiết cũng có thể sinh ra những hành vi tham nhũng.
Nghiên cứu cho thấy rằng điều này tạo các cơ hội nhận tiền (hối lộ) đổi
lấy các ưu đãi, trợ cấp và hợp đồng
chính phủ.
Thậm chí người ta còn lập luận rằng các
quy định được đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ở Mỹ, cụ thể nhằm ngăn chặn một
cuộc khủng hoảng tương tự, đã tạo ra những rủi ro mới về gia tăng tham nhũng.
Nhưng hợp tác quốc tế có thể hữu dụng. Các nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ và EU đều
là thành viên của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, nơi các hướng dẫn pháp lý cho lĩnh vực ngân hàng được thông qua chung. Điều
này bảo vệ các quốc gia thành viên – và công dân của họ – chống
lại tham nhũng bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn chung, giám sát các thủ tục của
nhau và trao đổi thông tin.
Kết quả là, một trường hợp cực đoan như trường hợp xảy ra ở Việt Nam khó có
thể xảy ra ở phương Tây. Nhưng cần phải cảnh giác liên tục, vì ngay cả các thủ
tục và quy định được đưa ra để duy trì các tiêu chuẩn cao cũng dễ bị ảnh hưởng
bởi chính loại
tham nhũng mà chúng được thiết kế để ngăn chặn.
Tác giả
George Kladakis |
Giảng viên Tài chính, Đại học St Andrews
Tuyên bố công
khai
George Kladakis không làm việc, tư vấn, sở hữu cổ phần trong hoặc nhận tài
trợ từ bất kỳ công ty hoặc tổ chức nào có thể hưởng lợi từ bài viết này và
không có sự trực thuộc nào ngoài giới chuyên môn của mình.
Huỳnh
Thị Thanh Trúc dịch
Nguồn: Extraordinary
Vietnam fraud case exposes the inherent vulnerabilities of banks, The
Conversation, April 24, 2024.