TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRONG CÔNG VIỆC: CÁI LỢI ĐƯỢC THOẢI MÁI HƠN CÓ THỂ LÀM BẠN TRẢ GIÁ ĐẮT
Tác giả: Kathleen Desveaud
Tiến sĩ khoa học quản trị, giáo sư marketing, Kedge Business School
![]() |
Sự thoải mái do trí tuệ nhân tạo tạo sinh đem lại có thể gây tác dụng phản lại người lao động. Yta23/Shutterstock |
Trí tuệ nhân tạo hứa hẹn giảm bớt sự buồn chán của những thao tác lặp đi lặp lại trong công việc, nhưng dùng nó thái quá sẽ dần dần làm suy giảm năng lực chuyên môn và kéo theo một dạng thất vọng mới trong nghề nghiệp. Giữa sự tự động hoá có lợi và nguy cơ của một “công việc vô hồn” (“travail zombie”), làm thế nào để làm cho trí tuệ nhân tạo trở thành một đồng minh của sự phát triển các năng lực thay vì là nguồn gốc của sự làm nghèo nhận thức?
_____________
Tác động của trí tuệ nhân tạo đối với các nghề nghiệp là một chủ đề quan trọng đã được phân tích trong nhiều nghiên cứu. Bên cạnh vấn đề biến mất của một số việc làm thường thu hút sự quan tâm, một vấn đề trọng yếu khác cần được xem xét: các công nghệ này đang và sẽ biến đổi một cách cụ thể hoạt động hàng ngày, các năng lực và động lực của người lao động như thế nào?
Trí tuệ nhân tạo, một phương thuốc chống lại sự buồn chán trong công việc?
Đôi khi trí tuệ nhân tạo được nêu ra như một phương thuốc cho sự nhàm chán trong công việc (bore-out), một hội chứng của sự kiệt sức và mất động lực trong công việc vì nhàm chán. Hội chứng bore-out tác động đến nhiều nhân viên bị buộc phải thực hiện những công việc đơn điệu và ít hứng thú về mặt trí tuệ. Trong thực tế, hiện tượng này xuất hiện khi những năng lực của một nhân viên bị khiếm dụng: ngày nào cũng sao chép-dán (copier-coller) các dữ liệu Excel hay thực hiện các công việc hành chính lặp đi lặp lại cuối cùng xói mòn động lực làm việc.
Đứng trước vấn đề này, trí tuệ nhân tạo nổi lên như một giải pháp đầy hứa hẹn, nhờ khả năng của nó về tự động hoá các công việc lặp đi lặp lại. Giải phóng khỏi những hoạt động tẻ nhạt này, người lao động thấy thời gian làm việc của họ được giảm bớt, điều này giúp hướng sức lực của họ đến những nhiệm vụ mang tính sáng tạo hơn. Do đó, một cuộc điều tra mới đây cho thấy 63% những nhân viên ăn lương của Pháp cho rằng việc tự động hoá giúp chống lại mệt mỏi và cải thiện sự hài lòng trong công việc.
Ý tưởng thật giản dị: bằng cách giao lại “công việc tồi tệ” cho máy móc, con người có thể tập trung vào những hoạt động khởi sắc hơn và có giá trị tăng thêm cao hơn. Ví dụ, trong hành chính của Pháp, Nhà Nước đang thử nghiệm việc dùng một phần mềm trí tuệ nhân tạo mang tên “Albert” để hỗ trợ các công chức. Phần mềm này được thiết kế để đảm nhận những công việc hành chính đáng ghét như điền vào các mẫu đơn, sắp xếp hồ sơ hay xử lý lặp đi lặp lại những đơn yêu cầu giống nhau, nhằm để giúp nhân viên công quyền dành thời gian cho những giao tiếp trực tiếp hơn với người dùng.
Đằng sau sự tự động hoá là nguy cơ giảm sút năng lực chuyên môn
Cái lợi được thoải mái hơn có thể gây tác dụng phản lại người lao động. Thực vậy, trí tuệ nhân tạo không dừng lại ở tự động hoá những công việc bạc bẽo, nó còn lấy đi các cơ hội học tập qua thực hành. Dần dần, các năng lực bị xói mòn và động lực làm việc bị giảm sút.
Lúc đó ta nói về hội chứng giảm sút trình độ chuyên nghiệp (deskilling syndrome), được định nghĩa là sự thay thế lao động có trình độ chuyên môn cao bằng những lao động ít chuyên môn hơn, hay là sự thu hẹp các cơ hội áp dụng năng lực của họ. Khi thường xuyên dựa vào trí tuệ nhân tạo, người lao động mất các năng lực chuyên môn của họ vì thiếu thực hành.
Ví dụ, một nghiên cứu học thuật mới đây nêu ra trường hợp các doanh nghiệp mà việc tự động hoá đã làm cho các nhân viên kế toán không thể thực hiện một số công việc căn bản như viết các báo cáo thuế đúng quy cách. Hiện tượng này, được cho là “vòng lẩn quẩn của sự xói mòn các năng lực chuyên môn” xuất hiện khi các nhân viên lệ thuộc thái quá vào công nghệ. Sự lệ thuộc này làm nảy sinh sự sút giảm của tư duy phản biện và của việc nắm bắt các quá trình cơ bản, điều này thực sự tác động đến sự cam kết của nhân viên.
Hơn nữa, khi trí tuệ nhân tạo đạt mức hoàn hảo, các doanh nghiệp có xu hướng tuyển dụng lao động ít chuyên nghiệp hơn vì rẻ hơn, điều này đặt ra một vấn đề thực sự, nhất là trong những khu vực đặc biệt nhạy cảm. Hãy lấy ví dụ về y tế. Đã được chứng minh rằng trí tuệ nhân tạo hiệu quả hơn các bác sĩ để xác định một bệnh lý như ung thư vú từ nhủ ảnh. Tất nhiên, kỹ thuật hình ảnh y học là một trong những ứng dụng đầu tiên của trí tuệ nhân tạo về nhận dạng hình ảnh. Điều này đã giúp trong việc thực hiện các chẩn đoán, nhưng ta nhận thấy một hiện tượng sút giảm trình độ chuyên môn ẩn chứa nguy hiểm tiềm tàng, như bác sĩ X quang giải thích trong tút dưới đây trên mạng xã hội X:
Vu qu’on utilise l’IA en radiologie en routine depuis des années, je commence à voir un effet qui était prévisible mais qu’on a encore du mal à quantifier: le deskilling (ou perte en compétence) et ça touche en premier lieu les non radiologues. C’est quoi? Je vous explique.
— Docteur TJ (@docteur_TJ) February 11, 2025
Vì người ta có thói quen sử dụng trí tuệ nhân tạo trong X quang từ nhiều năm nay, tôi bắt đầu thấy một hiệu ứng đã được dự báo nhưng còn khó định lượng: deskilling (hay mất năng lực chuyên môn) và điều này ảnh hưởng trước hết đến những nhân viên không chuyên về X quang. Đó là gì? Tôi xin giải thích.
Hơn nữa, những mất mát năng lực này thực sự làm mất tính tự chủ và dẫn đến một sự lệ thuộc về nhận thức: sự lệ thuộc vào trí tuệ nhân tạo có thể xói mòn các năng lực nhận thức chủ yếu như tư duy phân tích hay khả năng giải quyết vấn đề.
Do đó, một cách nghịch lý, trong lúc đầu tự động hoá dường như đơn giản hoá công việc và giảm sự nhàm chán, nhưng đồng thời nó lại gây ra một sự giảm sút dần dần các kỹ năng nghề nghiệp, sự giảm sút này tác động đến khả năng nhận thức và tạo ra một dạng mới của ức chế trong công việc: người lao động cảm thấy mất động cơ làm việc, dễ bị tổn thương, vô dụng, thậm chí thiếu năng lực.
Về vấn đề này, một nghiên cứu tiết lộ rằng 42% những nhà quản trị được hỏi đã giao quyền quyết định của mình cho các hệ thống trí tuệ nhân tạo sau khi đã lấy một quyết định sai. Nhận xét thật đáng báo động: đối diện với sự bất định, người ta chọn cách để máy móc tiến hành. Thế nhưng, khi các nhân viên không còn dùng và phát triển các năng lực của họ được nữa thì sự mất động lực xuất hiện.
Tiến đến một công việc “vô hồn”?
Một nghiên cứu học thuật về những người thiết kế website UX (trải nghiệm của người dùng – ND) đã chỉ ra rằng với trí tuệ nhân tạo người ta chuyển dần từ vai trò “tham gia chủ động” qua “vai trò giám sát thụ động”. Do đó, nhân viên có nguy cơ trở thành những người tác nghiệp thụ động, hợp thức hoá các quyết định của trí tuệ nhân tạo mà không có sự can dự của người sử dụng. Cũng nghiên cứu này nêu ra, trí tuệ nhân tạo càng đảm trách những công việc chính yếu nhất của nghề nghiệp thì những người chuyên nghiệp càng ít đối mặt với các quá trình nhận thức của nghề nghiệp của họ.
David Graeber đã định nghĩa những “công việc nhảm nhí” là những việc làm mà chính những người thực hiện chúng cho là vô nghĩa. Với trí tuệ nhân tạo, chúng ta có thể thấy nổi lên một phạm trù mới: “công việc với sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo” nơi mà những người lao động trở thành đơn thuần là những người hợp thức hóa những gì trí tuệ nhân tạo sản sinh ra. Hiện tượng này, mà Bernard Stiegler gọi là “vô sản hoá nhận thức” (prolétarisation cognitive) chiếm lấy bản chất của những kỹ năng dần dần bị thu hút bởi các hệ thống kỹ thuật.
Hiệu quả của trí tuệ nhân tạo có một mặt trái: suy xét (réfléchir) là tính toán, phân tích cái hiện hữu, trong khi tư duy (penser) là khám phá, sáng tạo, chất vấn.
Như vậy, ta sẽ chứng kiến một loại ức chế mới trong nghề nghiệp: đó là bị giản lược thành “một bổ sung của con người” cho máy móc thay vì là một người sáng tạo hay một nhà tư tưởng độc lập.
Làm thế nào để tránh cái bẫy này?
Để thoát khỏi sự sút giảm kỹ năng chuyên môn đã được lập trình, tư duy lại quá trình tự động hoá là điều cốt tử. Trí tuệ nhân tạo phải gia tăng các khả năng của con người thay vì chỉ thay thế chúng. Cách tiếp cận này đòi hỏi khuyến khích việc học tập liên tục và phát huy giá trị của năng lực chuyên môn của con người.
Như nghiên cứu mới đây được công bố trên Journal of Marketing nêu ra, những người ít biết về trí tuệ nhân tạo có xu hướng dùng nó nhiều hơn một cách mù quáng, xem nó là “kỳ diệu”. Do đó cần đào tạo nhân viên về các công nghệ này, và đặc biệt là khuyến khích họ phát triển một tư duy phản biện thực sự. Đó không chỉ là đi theo những khuyến nghị của các thuật toán, mà là học chất vấn các khuyến nghị này với sự suy xét rõ ràng. Khả năng đưa ra một cách nhìn có phê phán về các kết quả do trí tuệ nhân tạo tạo ra biểu thị một năng lực cơ bản trong kỷ nguyên của tự động hoá.
Do đó, để tận dụng tốt nhất các kết quả của trí tuệ nhân tạo như là một giải pháp tốt đẹp chống lại sự buồn chán trong công việc, thách thức là phải biến tự động hoá thành một đòn bẩy cho việc tăng cường các năng lực, thay vì là một nhân tố của sự lệ thuộc và làm nghèo nhận thức khiến cho các nhân viên rơi vào tình trạng bị giản lược thành đơn thuần là những người hợp thức hóa các quyết định được tạo ra từ tự động hoá.
Người dịch: Thái Thị Ngọc Dư
Nguồn: “L’IA au travail: un gain de confort qui pourrait vous couter cher”, The Conversation, 5.5.2025.