Duy lí hạn chế
(tính)
Bounded
rationality
® Giải Nobel: FRIEDMAN, 1976 – SELTEN, 1994 – SIMON, 1978
Lí thuyết tối ưu hoá là cách giải thích thống trị về những hành vi kinh
tế. Thể theo lí thuyết này, các tác nhân ứng xử như thể quyết định của họ là
kết quả của việc họ tối đa hoá những mục tiêu của bản thân (dù cho đó là lợi
ích hay lợi nhuận) dưới một số ràng buộc (ví dụ ràng buộc về của cải, thời gian
hay công nghệ).
Những giới hạn của
tối ưu hoá
Milton Friedman (1912-2006) |
Leonard J. Savage (1917-1971) |
Lí thuyết tối ưu hoá dựa trên một sự trừu tượng hoá kép. 1) Lí
thuyết gạt sang một bên những cơ chế ra quyết định. Do đó tối ưu hoá là một lí
thuyết về những vấn đề ra quyết định chứ không phải là một lí thuyết về những
thủ tục được các tác nhân triển khai. Dùng thuật ngữ của Friedman (1953), thì
các tác nhân ứng xử như thể những quyết định của họ là kết quả của một chương
trình tối ưu hoá. 2) Lí thuyết tối ưu hoá cũng gạt sang một bên những
giới hạn về mặt nhận thức của các tác nhân. Lí thuyết cung cấp một mô tả hình
thức vấn đề ra quyết định, trang bị cho các tác nhân một khả năng tự điều chỉnh
một cách hoàn hảo với bất kì tình thế nào. Sử dụng thuật ngữ của Savage (1972),
duy chỉ những tác nhân lí tưởng mới bao giờ cũng ứng xử như thể là họ tối ưu
hoá.
Thành công của tối ưu hoá là do sự trừu tượng hoá kép này. Chính vì lí
thuyết này bỏ qua những cơ chế ra quyết định cũng như những giới hạn nhận thức
của các tác nhân mà tối ưu hoá mô tả các hành vi một cách dè sẻn. Bằng sự trừu
tượng hóa kép này, kinh tế học tự giải phóng ra khỏi mọi nhận định tâm lí. Đó
là những lợi thế của lí thuyết tối ưu hoá.
Amos Tversky (1937-1996) |
Daniel Kahneman (1934-) |
Nhưng những trừu tượng hoá này đồng thời cũng đánh dấu những điểm yếu của
tối ưu hoá. Nếu ta từ chối lí tưởng hoá các tác nhân thì những giới hạn nhận thức
hiện lên trong những hành vi của họ. Như thế vấn đề mô hình hoá những cơ chế ra
quyết định cũng trở thành cần thiết. Thế mà giả thiết về tính hoàn hảo của các
tác nhân không đứng vững được. Một phê phán thứ nhất đến từ phía tâm lí học
thực nghiệm: các tác nhân không ứng xử như thể họ tối ưu hoá kì vọng lợi ích
của họ (Kahneman & Tversky, 1986). Phê phán này đi kèm với một phê phán
khác. Trong một thời gian dài kinh tế học vi mô đã để các tác nhân biến hoá
trong những môi trường đơn giản hoá, trong đó giả thiết cạnh tranh hoàn hảo
loại bỏ mọi hình thái bất trắc, thông tin không đối xứng hay tương tác chiến
lược. Như thế làm một tác nhân duy lí chỉ đòi hỏi có những năng lực nhận thức
bình thường. Nhưng ngày nay lí thuyết tính duy lí mở rộng ra những môi trường
phức tạp. Bắt buộc phải không ngừng củng cố năng lực của các tác nhân, lí
thuyết vẽ nên một chân dung cực kì không thực tế của tác nhân kinh tế.
Việc bác bỏ những trừu tượng hoá làm cơ sở cho lí thuyết tối ưu hoá đã dẫn
Herbert Simon đưa vào hai giả thiết đối chọn, một mặt đó là giả thiết tính duy
lí hạn chế và mặt khác là tính duy lí thủ tục.
Tính duy lí hạn
chế
Herbert A. Simon (1916-2001) |
Trong những công trình đầu của ông, Simon (1947) đã dành ưu tiên cho một
quan điểm phê phán. Như vậy ông đã trách lí thuyết tối ưu hoá là đã gán cho các
tác nhân kinh tế những khả năng nhận thức không thực tế. Trong cách nhìn này,
tính duy lí hạn chế được định nghĩa một cách tiêu cực: tính duy lí bị gọi là
hạn chế khi các tác nhân không thể ứng xử một cách tối ưu, do có những khả năng
nhận thức hạn chế.
Ta thấy những gì là không thoả đáng trong cách đặc trưng hoá đầu tiên này:
chủ yếu do tính tiêu cực của nó, cách đặc trưng hoá này không cung cấp giải
pháp đối chọn. Làm thế nào tính đến những giới hạn nhận thức ngăn cản các tác
nhân ứng xử phù hợp với những khuyến cáo của lí thuyết tối ưu hoá? Trong lúc
dường như tối ưu hoá cung cấp một hình thức hoá tự nhiên của tính duy lí hoàn
hảo thì tính duy lí hạn chế có thể được đặc trưng bằng nhiều cách. Như vậy có
những mô hình khác nhau được đề nghị: 1) trong lí thuyết ra quyết định,
những hành vi được mô tả bằng những khái niệm thoả mãn, chi phí hay độ tin cậy;
2) trong lí thuyết trò chơi, những hành vi được mô tả bằng những khái
niệm tập huấn, automat hay tiến hoá (Laville, 1998).
Nhưng, tuy là hiện thân của nhiều giả thiết lí thú, không có mô hình nào
trong số những mô hình khác nhau có vẻ thắng thế cả. Đó là lí do vì sao Simon,
sau khi đã đề xuất một mô hình thứ nhất về tính duy lí hạn chế bằng khái niệm
thoả mãn (Simon, 1955) đã hướng sang tâm lí học, nhằm mục đích đặc trưng hoá
một cách thực nghiệm những cơ chế nhận thức của các tác nhân.
Tính duy lí thủ
tục
Như thế xuất hiện giả thiết thứ hai, giả thiết tính duy lí thủ tục. Simon
(1976) đã đối lập tính duy lí thực chất, tương ứng với tối đa hoá, với tính duy
lí thủ tục, tương ứng với việc nghiên cứu những cơ chế ra quyết định. Trong lúc
tính duy lí đầu nhằm vào các kết quả thì tính duy lí sau nhằm vào các thủ tục.
Khái niệm tính duy lí thủ tục rõ ràng qui chiếu về việc nghiên cứu những quá
trình nhận thức của các tác nhân. Bằng cách đưa khái niệm này vào, Simon mong
muốn đặt gần nhau kinh tế học và tâm lí học, trang bị cho kinh tế học một lí
thuyết những quá trình nhận thức.
Như thế ta thấy rõ quan hệ giữa tính duy lí hạn chế và tính duy lí thủ
tục. Trong lúc tính duy lí hạn chế nhấn mạnh đến những giới hạn nhận thức thì
tính duy lí thủ tục nhấn mạnh đến những cơ chế ra quyết định. Sự đối lập giữa
tính duy lí hạn chế và tính duy lí hoàn hảo nằm ở trừu tượng hoá đầu: cần phải
tính đến những giới hạn nhận thức. Sự đối lập giữa tính duy lí thực chất và
tính duy lí thủ tục nằm ở trừu tượng hoá thứ hai: cần phải tính đến những quá
trình ra quyết định của các tác nhân. Nhưng hai đường ranh này gắn bó chặt chẽ
với nhau. Chính vì tính duy lí là hạn chế nên mới phải cần đến một lí thuyết về
tính duy lí thủ tục.
Quan hệ với tối
ưu hoá
George Stigler (1911-1991) |
Philippe Mongin |
Trong những điều kiện đó, tối ưu hoá có quan hệ như thế nào với tính duy
lí hạn chế và tính duy lí thủ tục? Có tác giả nghĩ là chỉ cần sắp xếp lại lí
thuyết tối ưu hoá để giảm bớt phê phán đối với tính phi thực tế của tối ưu hoá.
Như vậy, Stigler đề nghị đưa những chi phí thông tin vào những chương trình tối
ưu hoá truyền thống để tính đến những giới hạn nhận thức của các tác nhân.
Nhưng một việc sắp xếp như thế vấp phải nhiều phê phán. Mongin (1984) đã dài
dòng phê phán luận điểm qui giản này. Ngày nay rõ ràng là không thể qui tính
duy lí hạn chế và tính duy lí thủ tục về bất kì hình thức tối ưu hoá nào cả.
Thật vậy, khi tính đến việc nối khớp chúng tôi đề nghị như trên thì có một
quan quan hệ kép giữa hai tính duy lí này với tối ưu hoá. 1) Tính duy lí
hạn chế chỉ có thể được qui về tối ưu hoá với giả thiết những tác nhân lí
tưởng. Trên quan điểm này, tính duy lí hạn chế tiến đến tối ưu hoá khi những năng
lực của các tác nhân tiến đến lí tưởng những năng lực hoàn hảo. 2) Với
giả thiết này, tính duy lí thủ tục tính đến những quá trình ra quyết định tương
ứng với một hành vi tối ưu hoá. Trong lúc tối ưu hoá mô tả trạng thái cuối
cùng, kết quả của một bài toán ra quyết định, thì tính duy lí thủ tục mô tả con
đường dẫn đến kết quả, thủ tục được sử dụng.
▶ FRIEDMAN M., “The Methodology of
Positive Economics”, Essays in Positive Economics, Chicago, Chicago University Press,
1953, p. 3-43. – LAVILLE F., “Modélisations
de la rationalité limitée: de quels outils dispose-t-on?”, Revue économique, 1998, XXX, p.
XXX. – MONGIN P., “Modèle
rationel ou modèle économique de la rationalité?”, Revue économique, 1984, vol.
35, p. 9-64. – SAVAGE L. J., The
Foundations of Statistics, New York, Wiley, 1954. – SIMON H. A., Administrative Behavior,
New York, MacMillan, 1947; “A
Behavioral Model of Rational Choice”, Quarterly Journal of Economics,
1955, vol. 69, p. 99-118; “From
Substantive to Procedural Rationality”, trong LATSIS S. J. (chủ biên), Method
and Appraisal in Economics, Cambridge, Cambridge University Press, 1976, p.
129-148; Models of Bounded Rationality, Cambridge, MIT Press, 1982. – STIGLER G. J., “The
Economics of Information”, Journal of Political Economy, 1961, vol. 69, p. 213-225. – TVERSKY A. & KAHNEMAN D., “Rational
Choice and the Framing of Decisions”, Journal of Business, 1986, vol.
54, p. 251-278.
Frédéric LAVILLE
Tiến sĩ khoa học kinh tế đại học Nanterre (Paris 10)
Nguyễn Đôn Phước dịch
® Lí thuyết ra quyết định; Lợi ích;
Tối ưu hoá tĩnh; Tối ưu hoá và phân tích nhiều tiêu chí.
Nguồn: Dictionnaire des sciences
économiques, sous la direction de Claude Jessua, Christian Labrousse,
Daniel Vitry, PUF, Paris, 2001