4.6.21

Khoảng cách chênh lệch về giới trong ngành kinh tế là rất lớn - thậm chí còn tồi tệ hơn trong ngành công nghệ

KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH VỀ GIỚI TRONG NGÀNH KINH TẾ LÀ RẤT LỚN - THẬM CHÍ CÒN TỒI TỆ HƠN TRONG NGÀNH CÔNG NGHỆ

Tác giả: Veronika Dolar

Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Janet Yellen là người phụ nữ duy nhất đã làm chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang trong lịch sử hơn 100 năm của nó. Ảnh AP/Annie Rice

Không thiếu những chuyên ngành khoa học và ngành nghề kinh doanh đầy rẫy phân biệt đối xử vì giới tính. Các lĩnh vực STEM - khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học - đặc biệt nổi tiếng với các nền văn hóa có ác cảm với nữ giới.

Nhưng dựa trên kinh nghiệm cá nhân của tôi, kinh nghiệm của các nhà kinh tế học nữ đồng nghiệp của tôi dữ liệu cứng, tôi tin có lý do chính đáng để tranh luận rằng kinh tế học là lĩnh vực học thuật tồi tệ nhất đối với nữ giới.

Và hậu quả thì không chỉ nữ giới làm việc trong lĩnh vực này và phải chịu đựng các chính sách phân biệt đối xử vì giới tính và hành vi thù địch mới cảm nhận được. Các chính sách của chính phủ có thể sẽ rất khác nếu có nhiều phụ nữ hơn tham gia vào việc soạn thảo.

Những con số không nói dối

Hầu hết mọi người đều nhận ra rằng có rất ít nữ giới trong các lĩnh vực STEM. Nhưng mặc dù trên thực tế có ít nữ giới hơn trong lĩnh vực kinh tế, dường như vẫn có rất ít nhận thức về mức độ nghiêm trọng của những điều tồi tệ trong lĩnh vực kinh tế - và những điều tồi tệ này đang thay đổi chậm chạp như thế nào.

Nam giới thống trị lĩnh vực kinh tế, cả về mặt giảng viên và sinh viên, với số lượng không cân đối, chỉ có một số ít nữ giới và những thành viên của các nhóm dân tộc và chủng tộc thiểu số ít được đại diện do mang tính lịch sử, so với dân số nói chung và so với các ngành học thuật khác.

Theo cấp bậc, nữ giới chiếm chưa tới 15% số giáo sư chính thức trong các khoa kinh tế và 31% số giảng viên ở cấp trợ lý. Theo một cuộc khảo sát của Hiệp hội Kinh tế Hoa Kỳ thực hiện vào năm ngoái, tổng cộng chỉ có 22% giảng viên biên chế và có quy hoạch vào biên chế trong chuyên ngành kinh tế học là nữ giới.

Theo nhiều thước đo, khoảng cách giới trong ngành kinh tế là lớn nhất so với bất kỳ ngành học thuật nào. Ví dụ, nữ giới nhận được khoảng 30% bằng tiến sĩ và cử nhân kinh tế trong năm 2014 – tương tự như năm 1995 - so với 45% đến 60% bằng cấp trong lĩnh vực kinh doanh, nhân văn và STEM. Đó là năm mới nhất có sẵn các số liệu có thể so sánh tương đương.

Không có sự gia tăng nữ giới trong ngành kinh tế

Chỉ hơn 30% bằng tiến sĩ kinh tế được trao cho nữ giới vào năm 2014, một tỉ lệ hầu như không thay đổi kể từ năm 1995. Trong cùng thời kì, các lĩnh vực kinh doanh và quản lý cũng như STEM và các ngành khoa học xã hội khác đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể đối với nữ giới.


STEM gồm có khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. 2014 là năm mới nhất có sẵn các số liệu có thể so sánh tương đương.

The Conversation, CC-BY-ND. Nguồn: Amanda Bayer và Cecilia Elena Rouse - Lấy dữ liệu

Trên toàn quốc, cứ một người nữ thì có khoảng ba người nam học chuyên ngành kinh tế, và tỷ lệ này không thay đổi trong hơn 20 năm qua. Nữ giới thậm chí còn ít được trình bày trong sách giáo khoa kinh tế, trong cả những ví dụ thực tế và tưởng tượng.

Cả lĩnh vực công nghệủy ban công nghiệp điện ảnh trao Giải thưởng Viện hàn lâm (Oscar) - hai nhóm này bị chỉ trích trong những năm gần đây vì họ thiếu tính đa dạng – thì đều có tính đại diện tốt hơn lĩnh vực kinh tế.

Thiếu hình mẫu về vai trò và phân biệt đối xử vì giới tính

Có vẻ lạ khi lĩnh vực kinh tế lại có khoảng cách chênh lệch về giới như vậy khi một trong những nhà kinh tế quyền lực nhất thế giới, Janet Yellen, lại là một phụ nữ. Bà hiện là Bộ trưởng tài chính Hoa Kỳ và từng là chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang từ năm 2014 đến năm 2018.

Nhưng bà ấy ở trong số những trường hợp ngoại lệ.

Ai cũng biết nữ giới ít được đại diện ở vị trí hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế. Chỉ 8 trong số 140 chủ tịch Fed[*] được bổ nhiệm kể từ năm 1914 là nữ giới, cũng như nữ giới chiếm chỉ 1/5 số thành viên hiện tại của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia - một trong những cơ quan có ảnh hưởng nhất về nghiên cứu chính sách kinh tế ở Hoa Kỳ.

Rất ít thống đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế là nữ giới. Ảnh: IMF, CC BY-NC-ND

Điều này cũng có thể thấy ở việc có rất ít giải thưởng liên quan đến kinh tế được trao cho nữ giới, bao gồm chỉ hai giải Nobel trong lĩnh vực này kể từ năm 1969.

Việc thiếu người có vai trò hình mẫu cho các nữ sinh viên quan tâm đến lĩnh vực kinh tế là một trong những lý do khiến ngày càng ít nữ sinh viên theo học kinh tế ở bậc đại học hoặc cao học.

Tuy nhiên, tôi tin rằng lý do lớn nhất dẫn đến khoảng cách chênh lệch về giới là sự phân biệt đối xử vì giới tính phổ biến trong các khoa kinh tế, điều này đã được báo cáo và ghi chép đầy đủ. Ví dụ, một cuộc khảo sát của Hiệp hội Kinh tế Hoa Kỳ năm 2019, đã thu hút 9.000 câu trả lời từ các thành viên hiện tại và trước đây, cho thấy gần một nửa số nữ thành viên cho biết họ đã bị phân biệt đối xử vì giới tính hoặc không nói chuyện tại các hội nghị và đã tránh xa các sự kiện xã hội để tránh bị quấy rối và đối xử thiếu tôn trọng có thể xảy ra.

Một nhóm các nhà nghiên cứu gần đây đã cố gắng định lượng mức độ nữ giới phải đối mặt với tình trạng phân biệt đối xử vì giới tính khi trình bày các bài báo và dữ liệu nghiên cứu với đồng nghiệp của họ. Họ phát hiện ra rằng nữ giới không chỉ được hỏi nhiều câu hỏi hơn trong khi thuyết trình so với nam giới mà những câu hỏi này có nhiều khả năng mang tính kẻ cả hoặc thù địch - điều mà tôi và nhiều bạn đồng nghiệp nữ đã từng trực tiếp trải nghiệm.

Và một nghiên cứu năm 2018 về các bài đăng trên một diễn đàn nổi tiếng trên web về việc làm kinh tế cho thấy rằng 9 trong số 10 từ tiên đoán hàng đầu của một bài đăng về nữ giới có chứa các đề cập tình dục rõ ràng. Nó cũng cho thấy rằng các bài đăng về nữ giới có 43% thuật ngữ học thuật hoặc chuyên môn ít hơn và có 192% nhiều hơn về khả năng chứa các thuật ngữ liên quan đến thông tin cá nhân hoặc thuộc tính về thể chất.

Nhưng bất chấp bằng chứng về phân biệt đối xử vì giới tính trong ngành này, điều đáng ngạc nhiên đối với tôi là có bao nhiêu nhà kinh tế học nam giới dường như không nghĩ rằng sự thù địch trên cơ sở giới có bất kỳ ảnh hưởng nào đến việc ít có nữ giới trong nghề hoặc thậm chí sự thù địch trên cơ sở giới có tồn tại hay không.

Gần đây, tôi đã hướng dẫn một sinh viên kinh tế ở một trường đại học khác, nghiên cứu về phân biệt đối xử vì giới tính trong nghề nghiệp của chúng ta. Cô ấy đến với tôi vì không tìm được ai trong khoa kinh tế toàn nam sẵn sàng tư vấn cho cô ấy. Cô nói rằng cô đã được cho biết sự phân biệt đối xử như vậy không thực sự tồn tại trong ngành kinh tế, vì vậy sẽ rất khó để thực hiện nghiên cứu về chủ đề này.

Hầu hết các đồng nghiệp nữ của tôi và tôi đều đã trải qua những hình thức bị thao túng tâm lý tương tự - họ nói rằng chúng tôi quá nhạy cảm, phản ứng thái quá hoặc quá cá nhân khi đưa ra vấn đề này.

Vấn đề về tính đa dạng của kinh tế học

Đạt được nhiều hơn tính đa dạng về giới và các loại đa dạng khác trong kinh tế học không chỉ là sự đúng đắn về mặt chính trị. Tính đa dạng dẫn đến kết quả tốt hơnchính sách tốt hơn bằng cách thay đổi động lực của nhóm và việc ra quyết định.

Nhiều thập kỷ nghiên cứu của các nhà khoa học về tổ chức, nhà tâm lý học, nhà xã hội học, nhà kinh tế học và nhà nhân khẩu học cho thấy rằng khi xung quanh mình có những người khác biệt với chúng ta - không chỉ theo giới, mà theo chủng tộc, giai cấp, dân tộc và khuynh hướng tính dục - thì con người trở nên sáng tạo, sốt sắng và làm việc chăm chỉ hơn.

Và nghề kinh tế không chỉ có vấn đề về giới. Nghề này cũng có một thành tích khủng khiếp về chủng tộc. Trong khi người Da đen chiếm khoảng 13% dân số Hoa Kỳ, họ chỉ chiếm chưa đến 3% sinh viên tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế, 2% giáo sư chính thứcchưa đến 1% nhân viên tại Fed ở Washington.

Sự thiếu đa dạng về giới và chủng tộc này có hậu quả đối với chính sách. Ví dụ, về mặt giới, các nhà nữ kinh tế học có nhiều khả năng hơn để tin rằng các quy định ở Hoa Kỳ là không quá mức, rằng phân phối thu nhập nên được thực hiện công bằng hơn và rằng cơ hội việc làm không giống nhau cho nam và nữ, trong khi các chính sách trong vài thập kỷ qua thường ủng hộ các mục tiêu đối lập với các tin tưởng trên.

Veronika Dolar

Nếu mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu kinh tế là phát triển và truyền đạt những hiểu biết sâu sắc lâu dài, thì bằng chứng này cho thấy rằng giá trị và tác động của nghề kinh tế không chỉ khiến nữ giới thất bại trong kinh tế học mà còn làm thất bại tất cả mọi người.

Vài nét về tác giả

Veronika Dolar

Veronika Dolar là Trợ lý Giáo sư Kinh tế tại Trường Đại học SUNY Old Westbury (State University of New York). Bà quan tâm nghiên cứu về kinh tế y tế, kinh tế lao động, kinh tế thực phẩm, tài chính công, kinh tế đô thị và giáo dục kinh tế.

Người dịch: Lê Thị Hạnh

Nguồn: The gender gap in economics is huge – it’s even worse than tech, The Conversation, March 13, 2021.




Chú thích:

[*] Chủ tịch Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (ND).

Print Friendly and PDF