31.10.21

Đọc lại Tư bản (III)

Trần Hải Hạc

Đọc lại Tư bản (III)

LƯU Ý CỦA TÁC GIẢ - DỊCH GIẢ

Trần Hải Hạc (1945-)

Năm 2003, công trình nghiên cứu Pháp ngữ Relire Le Capital. Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique của Trần Hải Hạc ra mắt ở nhà xuất bản Page Deux (Lausanne, Thụy Sĩ) và gồm hai tập sách (t.1, 397 trang; t.2, 366 tr.). Từ đầu năm 2021, với nhan đề Đọc lại Tư bản. Marx, phê phán chính trị kinh tế học và đối tượng của phê phán chính trị kinh tế học, bản dịch tiếng Việt do tác giả tự thực hiện sẽ được công bố từng phần trên trang Phân tích kinh tế.

Phần thứ ba (III) bao gồm các nội dung như sau:

- Chương 2: Hình thái giá trị của sản phẩm lao động

- Thư mục

- Mục lục

Phần thứ hai (II): Hàng hóa như là hình thái của sản phẩm lao động.

- Tiêu đề I: Vấn đề tồn tại của giá trị và khái niệm về lao động trừu tượng.

- Chương 1: Lao động trừu tượng – cụ thể.

- Thư mục

- Mục lục

Do không có đầy đủ bản Việt ngữ các trước tác của Marx, dịch giả chọn sử dụng bản Pháp ngữ của các tác phẩm và tự chuyển ngữ. Trong thư mục, các văn bản của Marx được xếp theo thứ tự năm xuất bản tác phẩm gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp theo là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp. Đặt ở phía sau mỗi chương, các chú thích trích dẫn tác phẩm của Marx gồm có tên của văn bản Việt ngữ và quy chiếu đến văn bản Pháp ngữ.

Khi chuyển ngữ một số thuật ngữ của Marx chưa được thông dụng, lần đầu chúng tôi kèm theo từ Pháp ngữ trong dấu ngoặc đơn, đồng thời phía sau đây chúng tôi gom các thuật ngữ đó trong một bảng đối chiếu Việt - Pháp. Khi cần thiết, chúng tôi bổ sung bảng thuật ngữ với những chú giải về chọn lựa cách chuyển ngữ.

THUẬT NGỮ VIỆT - PHÁP

Hình thái giá trị/Hình thái của giá trị (Forme valeur/Forme de la valeur). Trong lý luận về giá trị, Marx phân biệt “hình thái giá trị” (forme valeur) và “hình thái của giá trị” (forme de la valeur). Phạm trù hình thái giá trị chỉ giá trị với tính cách là hình thái xã hội, giá trị như là quan hệ xã hội lịch sử đặc thù. Phạm trù hình thái của giá trị (forme de la valeur) chỉ hình thái biểu hiện của giá trị hay hình thái hiện tượng của nó, tức hình thái tiền tệ của giá trị giá mà Marx còn gọi là “giá trị trao đổi” để phân biệt với “giá trị”. Sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rõ ràng trong các văn bản của Tư bản, như trong ấn bản đầu tiên của Quyển I năm 1867, cho nên trong ấn bản 1875, tức phiên bản tiếng Pháp, Marx đã phải đính chính khi trình bày hình thái của giá trị hay giá trị trao đổi: “Nếu ở đoạn đầu chương này, theo cách nói thông thường, chúng tôi có nói: hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, thì xét theo nghĩa đen từng chữ, nói như vậy là sai. Hàng hóa là giá trị sử dụng hay đối tượng sử dụng, và là giá trị. Hàng hóa chỉ biểu hiện thành một vật hai mặt khi giá trị của nó có một hình thái hình tượng riêng, khác với hình thái tự nhiên của nó, tức hình thái giá trị trao đổi”[1]. Còn trong Bản thảo 1861-1863, để tránh hiểu sai, Marx phải cảnh báo người đọc: “Khi chúng tôi sử dụng từ giá trị mà không có chi tiết gì khác thì bao giờ cũng nên hiểu là giá trị trao đổi”[2].

Ngoài ra, thuật ngữ Đức ngữ “Werthform” mà Marx dùng để trình bày hình thái của giá trị ở Quyển I không được chuyển ngữ một cách thống nhất trong các ấn bản tiếng Pháp của bộ Tư bản. Trong ấn bản tiếng Pháp 1875 do chính tay Marx chỉnh sửa, thuật ngữ được dịch là “forme de la valeur”; còn trong ấn bản sau cùng của nhà xuất bản Editions Sociales năm 1983, nó được được dịch là “forme-valeur” làm cho khó phân biệt phạm trù hình thái giá trị với phạm trù hình thái của giá trị[3].

Thâu gồm (Subsomption)Trong triết học Kant, “thâu gồm” (subsomption) là đưa một đối tượng vào khái niệm của nó, đưa cái cá biệt vào cái phổ quát, theo nghĩa đặt nó vào quy luật của cái phổ quát. Marx vay mượn khái niệm này để phân tích các quan hệ về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông phân tích “sự thâu gồm của những cá nhân vào những giai cấp nhất định”[4]. Bộ Tư bản triển khai lý luận về “sự thâu gồm lao động vào tư bản” theo đó, trong mối quan hệ với tư bản, lao động chỉ tồn tại như là hình thái của tư bản; lao động không tồn tại như là hoạt động thể lực và trí lực mà người lao động tiến hành trong mọi phương thức sản xuất, nó trỏ hoạt động đặc thù của người làm công trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo nên giá trị thặng dư cho chủ tư bản. Theo nghĩa đó tư bản thâu gồm lao động như là hình thái của nó[5].

Trong các bản dịch tiếng Việt của nhà xuất bản Sự Thật, thuật ngữ Đức ngữ “Subsumtion” được chuyển ngữ là: “sự phụ thuộc” của những cá nhân vào những giai cấp nhất định (Hệ tư tưởng Đức), “sự lệ thuộc” của lao động vào tư bản (Tư bản, Quyển I) hay “sự phục tùng” của lao động đối với tư bản (Bản thảo kinh tế những năm 1861-1863) - tức chỉ nói lên một khía cạnh của nội dung khái niệm của Marx. Theo Trần Hữu Quang mà chúng tôi có tham khảo ý kiến, muốn diễn tả hết nội dung đó có lẽ cần tạo ra một từ mới như là “sự hàm nhiếp” (hàm: bao hàm; nhiếp: thu lấy) đã xuất hiện trong từ điển Trung Quốc. Tạm thời, chúng tôi sử dụng cách chuyển ngữ đơn giản của Bùi Văn Nam Sơn là “sự thâu gồm” trong bản dịch Phê phán lý tính thuần túy của Kant (nxb Văn học, 2004, tr. 1231).

Tính khách thể, tính vật (Objectalité) - Bản thân tác gỉa Tư bản gặp khó khăn khi chuyển ngữ thuật ngữ tiếng Đức “Gegenstandlichkeit” sang tiếng Pháp. Trong phiên bản Pháp ngữ 1875 của Quyển I do chính Marx kiểm tra việc dịch thuật, ông đã tránh né khó khăn trong Chương 1 bằng cách không chuyển ngữ mà dùng một thuật ngữ khác là “réalité” (hiện thực) để thay thế[6]. Trong các phiên bản Pháp ngữ về sau của Quyển I, các dịch giả đều chuyển ngữ “Gegenstandlichkeit” là “objectivité”[7] và gặp phải trở ngại là thuật ngữ này thường được dùng để chỉ “tính khách quan” đối lập với tính chủ quan (subjectivité).

Để khắc phục vấn đề đó, phiên bản Pháp ngữ mới nhất của Quyển I ở nxb Editions Sociales đã chọn thay “objectivité” bằng một từ tạo mới là “objectalité” để chỉ “tính vật” (le caractère d’objet)[8]. Trong khảo cứu việt ngữ này, chúng tôi đề nghị chuyển ngữ “Gegenstandlichkeit” là “tính vật” hay là “tính khách thể”.

Cái biểu đạt: Signifiant

Cái được biểu đạt: Signifié

Cái cụ thể hiện thực: Concret réel

Cái cụ thể trong tư duy: Concret de pensée

Cái phổ quát: Universel, généralité

Cái phổ quát cụ thể: Universel concret

Cái quy chiếu: Référent

Cương vị lý luận: Statut théorique

Danh pháp: Nomenclature

Giống / loài: Genre, espèce

Tính loài: Générique

Ký hiệu học: Sémiologie

Lãnh trường lý luận: Champ théorique

Lao động ngang bằng: Travail égal

Phép làm cho lao động ngang bằng: Égalisation des travaux

Người mang quan hệ xã hội: Porteur du rapport social

Nhân loại luận: Anthropologisme

Phái sinh: Dérivation

Quan hệ bó buộc giá trị thặng dư: Contrainte à la survaleur, à la plus-value

Siêu cấu trúc: Métastructure

Sự bao phủ: Recouvrement

Thiết định: Poser; position

Tiền giả định: Présupposer; présupposition

Tính đồng nhất: Unité, homogénéité

Tính đồng đẳng: Homologie

Tính hai chiều: Ambivalence

Tính nhập nhằng: Ambiguité

Tính quy định: Détermination

Tính thỏa dụng: Ophélimité

Tính thông ước: Commensurabilité

Vật đỡ quan hệ xã hội: Support du rapport social

Ý tưởng biến thành thực thể: Hypostase

* * *

CHƯƠNG 2:

HÌNH THÁI GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Karl Marx (1818-1883)

“Chủ đề mà tôi khảo cứu không phải là giá trị, cũng không phải là giá trị trao đổi, mà là hàng hóa - tác gi Tư bản nói rõ với độc giả[1]. Trái với truyền thống cổ điển, và khác với bản phác thảo ban đầu của Marx năm 1858, chương đầu tiên của Tư bản không mang đầu đề là “Giá trị” mà là “Hàng hóa”. Bởi muốn hiểu giá trị là gì, phải khởi đi từ hàng hóa trong tính hai mặt của nó, là giá trị và giá trị sử dụng. Quyển I Tư bản định nghĩa hàng hóa như là thống nhất hai mặt đối lập, giá trị và giá trị sử dụng. Không mấy nhà bình luận đã chú ý lý giải mệnh đề không hề đương nhiên này, trừ phi hiểu nó một cách tầm thường như có nghĩa rằng hàng hóa, một mặt là vật có ích, mặt khác là sản phẩm của lao động. Làm sao tính hai mặt ấy lại là thống nhất của hai mặt đối lập? Louis Althusser có lý do khi đặt câu hỏi: “Làm sao giá trị sử dụng của hàng hóa là làm vật-mang-giá trị (porte-valeur) có thể nói là mâu thuẫn với giá trị mà nó mang? Bí ẩn”[2]. Tuy nhiên, lời giải mà tác giả đề xuất không xác đáng khi cho rằng đó là chỉ dấu Marx đã “ve vãn” ngôn ngữ của Hegel khi soạn thảo Quyển I Tư bản. Thật vậy, người ta không thể bác bỏ tùy tiện như thế thuật ngữ về “tính mâu thuẫn của giá trị và giá trị sử dụng”. Trái lại, cần trau dồi từ ngữ đó để xác định cương vị của giá trị sử dụng trong mối tương quan với giá trị như là hình thái. Nhằm phân tích mâu thuẫn của hàng hóa, chúng ta sẽ đặc trưng trước tiên hình thái giá trị của sản phẩm lao động, rồi đến giá trị sử dụng của hàng hóa.

1) Hình thái giá trị của sản phẩm lao động chỉ, một mặt, hình thái vật hóa của xã hội (forme objective du social) và trỏ, mặt khác, hình thái xã hội của một vật (forme sociale de l’objet) trong các quan hệ về sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tính vật hay tính khách thể (objectalité) của giá trị không nằm ở tính vật chất của nó, mà ở trong hình thái của nó. Cho nên cần phân biệt tính khách thể và tính vật chất: giá trị là vật xã hội có hình thái vật chất. (Tiết 21)

2) Giá trị sử dụng của hàng hóa không chỉ tính hữu dụng riêng của vật có ích, mà trỏ một tính hữu dụng xã hội của hàng hóa với tư cách là vật-mang-giá trị (porte-valeur), là vật đỡ vật chất (support materiel) của những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định. Giá trị sử dụng có cương vị ở bên ngoài, đồng thời ở bên trong phạm trù về giá trị. Cho nên hàng hóa là sự thống nhất của giá trị và của giá trị sử dụng thâu gồm vào giá trị. Do vậy mà không gian kinh tế của chủ nghĩa tư bản không đơn giản là không gian đồng nhất của giá trị, nó là không gian của hình thái giá trị cấu thành bởi giá trị và giá trị sử dụng. (Tiết 22)

Tiết 21: TÍNH KHÁCH THỂ XÃ HỘI VÀ HÌNH THÁI VẬT CHẤT CỦA GIÁ TRỊ

Giá trị, đối với Marx, là gì? Lời đáp người ta thường nghe thấy thật đơn giản: giá trị của một hàng hóa là lượng lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó. Lời diễn giải này càng phổ biến thì càng phải tranh cãi, bởi nó quy vấn đề của giá trị vào một khía cạnh thuần định lượng, và bỏ qua điều chủ yếu. Đặc biệt, nó đưa đến ý niệm sai trái, đối với Marx, là giá trị đồng hóa với lao động - từ đó có truyền thống lệch lạc đặc trưng thuyết mácxít là thuyết giá trị-lao động.

Đối với Marx, lao động trừu tượng là thực thể của giá trị, nhưng không đồng nhất hóa với giá trị: “Lao động tạo thành giá trị nhưng không phải là giá trị. Lao động chỉ trở thành giá trị khi nó ở vào trạng thái đông đặc, ở hình thái một vật”[3]. Không nên hiểu mệnh đề này một cách đơn giản như có nghĩa rằng giá trị là một lượng lao động vật hóa. Bởi trước khi là một đại lượng, giá trì là một hình thái: một “hình thái vật hóa” mà Marx khái niệm hóa dưới tên gọi “hình thái giá trị của sản phẩm lao động”[4]. Tác giả Tư bản còn xác định nó như sau: “Trong mọi trạng thái xã hội, sản phẩm của lao động là vật có ích. Riêng chỉ có một thời đại lịch sử nhất định mới biểu tượng lao động tiêu phí trong sản xuất một vật có ích như là một thuộc tính “khách thể” của vật có ích, tức như là giá trị của vật đó”[5]. Hình thái giá trị của sản phẩm lao động không biểu tượng một thuộc tính của sản phậm lao động tự nó, mà một thuộc tính mà sản phẩm lao động sở hữu với tư cách là nó biểu hiện những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định: “Một quan hệ xã hội nhất định giữa người với người mang ở đây, đối với họ, hình thái huyền ảo của quan hệ giữa những vật với nhau”[6]. Dó đó, một phân tích đúng đắn về giá trị cần lý giải rằng: giá trị là một quan hệ xã hội về sản xuất (§ 211), mang hình thái của một vật (§ 212); nên tính chất khách thể của giá trị không ở tính vật chất của sản phẩm mà ở hình thái của nó (§ 213).

§ 211 - Giá trị như là hình thái vật hóa của xã hội

Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các quan hệ xã hội biểu hiện dưới hình thái giá trị của sản phẩm lao động, tức như là một thuộc tính gắn liền với sản phẩm của lao động. Hẳn, khi trình bày khái niệm về giá trị, Chương 1 Tư Bản không nói rõ ràng đến một xã hội phân chia thành giai cấp, mà chỉ nói đến một sự phân chia lao động xã hội thành lao động mang tính tư nhân. Đúng ra, việc chia tách quá trình sản xuất xã hội thành những quá trình tư nhân này tiền giả định, như là nền tảng, người lao động tách biệt với tư liệu sản xuất; và khái niệm giá trị không hề quy chiếu đến huyền thoại về một phương thức sản xuất hàng hóa gọi là “đơn giản”, mà thật sự quy chiếu đến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong chừng mực “hình thái giá trị của sản phẩm lao động là hình thái trừu tượng nhất nhưng cũng là phổ quát nhất của phương thức sản xuất tư sản, mà nó đặc trưng như là một phương thức đặc biệt về sản xuất xã hội, và do đó mang tính lịch sử”[7].

Isaak Roubine (1886-1937)

1. Tuy nhiên, “giá trị không mang trên trán nó chữ nào nói nó là gì. Nó còn biến mỗi sản phẩm của lao động thành một chữ tượng hình”[8]. Hình thái giá trị của sản phẩm lao động, đặc biệt là trong hình thái ngoại hiện của nó là tiền tệ, “thay vì bộc lộ những quan hệ xã hội thì lại che đậy chúng dưới vỏ bọc của các vật”; “dưới cái vỏ bề ngoài là một vật, tiền tệ trong thực tế ngụy trang một quan hệ xã hội”[9]. Đây không chỉ là hiện tượng bái vật mà, theo Marx, những con người cá nhân mắc phải. Nếu trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các vật ngụy trang những quan hệ xã hội, thì đó là vì các quan hệ xã hội về sản xuất nhất thiết mang hình thái quan hệ giữa các vật, và không thể biểu hiện khác hơn là dưới hình thái của một vật. Hay nói cách khác, bởi vì các quan hệ xã hội về sản xuất chỉ được xác lập dưới hình thái quan hệ giữa những vật, cho nên các vật che đậy những quan hệ xã hội. Như Isaak Roubine đã nhận xét, “sự vận động của giá cả sản phẩm trên thị trường không chỉ phản ánh quan hệ sản xuất giữa những con người, mà đó là hình thái biểu hiện duy nhất có thể của các quan hệ ấy”[10]. Điều đó có nghĩa rằng giá trị là hình thái qua đó các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện thực hóa, trở nên hiện thực. Sự vật hóa các quan hệ sản xuất dưới hình thái giá trị của sản phẩm lao động là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản như là một phương thức đặc thù về sản xuất.

2. “Lượng của giá trị thể hiện một quan hệ sản xuất, sự liên hệ mật thiết giữa một sản phẩm nào đó với phần lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó”[11]. Lượng giá trị được xác định trong mối tương quan với lao động của toàn thể xã hội, và các quan hệ về giá trị được điều tiết như thế nào mà xã hội chỉ sử dụng trong sản xuất các vật có ích khác nhau đúng thời gian lao động cần thiết mà thôi. “Trong việc quy định giá trị, vấn đề tóm lại là thời gian lao động xã hội, lượng lao động mà xã hội có thể sử dụng được, và phần lao động xã hội mà các sản phẩm khác nhau thu hút trong sản xuất, phần đó xác định tỷ trọng xã hội tương đối của mỗi sản phẩm ấy” - Marx viết[12]. Không nên hiều lầm những từ ngữ “thời gian” hay “lượng” lao động xã hội dùng ở đây. Không ít nhà bình luận cho rằng giá trị thể hiện bằng thực thể đo được của nó là lao động trừu tượng, và lượng của giá trị thì được đo bằng thời gian về lao động trừu tượng đã tiêu phí. Không lập luận nào có thể sai lầm hơn: đối với Marx, giá trị không hề thể hiện bằng lao động trừu tượng và lượng giá trị không hề đo bằng thời gian lao động. Trái lại, chính là lao động trừu tượng biểu hiện bằng hình thái của giá trị, và chính là việc đo thời gian lao động biểu hiện bằng lượng của giá trị. Nói cách khác, thời gian lao động chỉ “quy định” (détermine) lượng của giá trị theo nghĩa lượng của giá trị là hình thái dưới đó thời gian lao động “biểu hiện” (se représente). Việc hiểu ngược nghĩa tác giả Tư bản cho thấy người ta không bao giờ đọc Marx với đủ sự chú ý, nếu không thì đã không bỏ qua: “Lao động biểu hiện bằng giá trị, và việc đo lao động bằng thời gian lao động biểu hiện bằng lượng của giá trị các sản phẩm” - Marx nhắc lại nhiều lần trong Chương 1 Tư bản[13]. Sở dĩ có những diễn giải sai lầm là vì, như trong chính trị kinh tế học, khái niềm về giá trị, với tư cách là hình thái, không được chú ý. Bởi khi giá trị được thiết định như là hình thái, khó lòng có thể đồng nhất hóa nó với lao động trừu tượng: giá trị không phải là lao động trừu tượng mà là biểu tượng của lao động trừu tượng. Đó là lao động trừu tượng biểu hiện như là thuộc tính có thể trao đổi của sản phẩm lao động; hay là tính có thể trao đổi của sản phẩm như là hình thái đặc thù của lao động xã hội.

§ 212 - Giá trị như hình thái xã hội của một vật

Bởi vì trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, những quan hệ xã hội mang hình thái vật hóa, các vật ở đây là những “vật mang” (porteur), những “vật đỡ” (soutien) quan hệ xã hội về sản xuất nhất định. Công năng xã hội này trao cho các vật một “tính quy định về hình thái”, một “hình thái xã hội” cần phân biệt với hình thái vật lý, vật chất của vật có ích.

Louis Althusser (1918-1990)

1. Việc các quan hệ xã hội về sản xuất hiện thực hóa bằng những vật, tất nhiên, không phải là đặc tính của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như Althusser có nhận xét, khái niệm quan hệ xã hội về sản xuất bao giờ cũng kết hợp tác nhân của quá trình sản xuất với điều kiện vật chất về sản xuất theo những tổ hợp đặc thù. Trong bất cứ phương thức sản xuất nào cũng không thể quy các quan hệ xã hội về sản xuất vào những quan hề đơn thuần giữa những con người, bởi chúng bao giờ cũng bao hàm một quan hệ giữa “người” với “vật”. Hiểu quan hệ xã hội về sản xuất như là quan hệ thuần túy giữa các con người, tức chỉ giữa các tính chủ thể, là một quan niệm thuộc nhân loại luận về kinh tế, có thể tìm thấy trong văn bản của Marx thời trẻ, nhưng không tương hợp với cách đặt vấn đề của bộ Tư bản. Đặc trưng của quan hệ xã hội về sản xuất tư bản chủ nghĩa không ở chỗ các quan hệ giữa con người được xác lập thông qua các vật - điều này xẩy ra trong mọi phương thức sản xuất -, mà ở chỗ các quan hệ xã hội “biểu hiện” dưới hình thái thuộc tính có thể trao đổi của các vật - là đặc tính xác định một cách đặc thù hình thái giá trị.

Lucio Colletti (1924-2001)

2. Phải nói thêm rằng sự vật hóa - xác định hình thái giá trị của sản phẩm lao động - không liên quan đến lao động, mà đến tính xã hội của nó. Ở đây cần phân biệt các phạm trù về sự vật hóa tính xã hội và về vật xã hội là hàng hóa trong Tư bản, với những phạm trù về vật (hay “đối tượng”) và về vật hóa (hay “đối tượng hóa”) trong các văn bản của Marx trẻ. Trong Bản thảo 1844, nơi Marx còn đồng nhất hóa lao động với hoạt động có tính loài của con người, hoạt động của một chủ thể khẳng định bản thể của nó, các vật phẩm là sự vật hóa của thực thể tính loài, của bản thể của một chủ thể cấu thành: “Mọi đối tượng trở thành sự đối tượng hóa của bản thân con người, sự khẳng định và sự thực hiện cá tính của con người”[14]. Trong Tư bản, điều mang hình thái của một vật không phải là lao động với tư cách là hoạt động của một chủ thể, mà là tính quy định xã hội của lao động; không phải vật như là đối tượng hóa của một chủ thể cấu thành, mà là vật với tư cách là biểu tượng của phương thức lao động xã hội đặc thù trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa[15]. Đó là điều mà Lucio Colletti không thấy khi ông tìm trong Tư bản phạm trù về “vật” / “đối tượng” của Bản thảo 1844[16].

Adam Smith (1723-1790)
Georg Hegel (1770-1831)

Marx từ bỏ quan niệm về vật / đối tượng của nhân loại luận khi ông đoạn tuyệt vơi chủ nghĩa duy tâm về lao động đã khiến ông ca tng, trong Bản thảo 1844, “hôn phối về lý luận của Smith và Hegel”, Smith vì đã quy mọi của cải thành lao động của con người, và Hegel vì quan niệm lao động như là bản thể của con người[17]. Trong Tư bản, phân tích hàng hóa phân đôi nó thành vật có giá trị và vật có ích, mà không vật nào có thể quy hoàn toàn thành lao động cả. Vật có giá trị không quy chiếu đến lao động mà đến những quan hệ sản xuất trong đó lao động được tiến hành. Còn vật có ích bao giờ cũng kết hợp hai yếu tố, lao động và vật chất: “Nếu ta trừ tổng số các thứ lao động có ích mà vật thể của hàng hóa chứa đựng, thì bao giờ cũng còn lại một xác vật chất do tự nhiên cung cấp chứ không phải do con người tạo ra. (…) Như vậy lao động không phải là nguồn gốc duy nhất của những giá trị sử dụng mà nó làm ra, của của cải vất chất”[18]. Bằng cách đó, Marx bác bỏ quan niệm duy tâm về lao động như là sáng tạo, và tước đi hiệu lực của những diễn giải về lý luận mácxít như là triết học về lao động. Quan niệm duy vật của Marx trong Tư bản là xác lập những điều kiện vật chất của mọi quá trình lao động và các hình thái xã hội của chúng; hay nói cách khác: là xác định các quan hệ xã hội về sản xuất và những lực lượng sản xuất vật hóa quan hệ ấy - sự thống nhất quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đó cấu thành mọi nền kinh tế.

§ 213 - Tính khách thể và tính vật chất

Khái niệm về hình thái giá trị của sản phẩm lao động có nghĩa rằng, một mặt, giá trị biểu hiện một quan hệ xã hội về sản xuất nhất định, chứ không phải một thuộc tính của sản phẩm lao động tự nó; nhưng mặt khác, nó cũng có nghĩa rằng quan hệ xã hội nhất định về sản xuất này biểu hiện như là một thuộc tính gắn liền với sản phẩm của lao động. “Hình thái giá trị và quan hệ về giá trị của các sản phẩm lao động, tuyệt đối, không dính líu gì đến tính chất vật lý của sản phẩm. Đó chỉ là một quan hệ xã hội nhất định giữa người với người mang ở đây hình thái huyền ảo (fantasmagorique) của một quan hệ giữa các vật với nhau”[19]. Sự vật hóa xã hội dưới hình thái giá trị của sản phẩm lao động ấy chuyển hóa các vật thành “vật xã hội”, tức một cái gì “thuộc về cảm giác, vừa không thuộc về cảm giác”[20]. Tính chất “bái vật” gắn liền với các sản phẩm của lao động xuất phát từ đó, và chính trị kinh tế học đã mắc phải nó vì không nắm bắt được tính chất hai mặt của các vật, nhầm lẫn vật xã hội với vật thể vật lý. Phân tích của Marx làm rõ “tính vật” hay tính khách thể (objectalité) của giá trị không nằm ở tính vật chất của giá trị, mà nằm ở hình thái của giá trị. Song vẫn có nhà bình luận trách Marx đã không thoát ra khỏi sự sùng bái mà chính ông phê phán, vì Tư bản vẫn lẫn lộn tính khách thể và tính vật chất, tức lẫn lộn khách thể xã hội và khách thể vật lý.

Carlo Benetti
Jean Cartelier (1942-)

Đó là tường hợp của Carlo Benetti và Jean Cartelier xuất phát từ một luận đề của Tiết 3 Chương 1 theo đó: “tính khách thể của lao động con người tự nó là cái gì trừu tượng (…) là một tính khách thể nhất thiết trừu tượng, một vật thuộc về tư duy”; hay nói cách khác: “tính khách thể của giá trị mang tính thuần túy xã hội”[21]. Từ đó, hai tác giả nêu câu hỏi: “Nếu tính khách thể của giá trị là thuần túy trừu tượng, không dính líu gì với tính vật chất của vật lý, vậy thì tại sao nó cần đến tính vật chất của vật lý để biểu hiện?”. Theo hai tác giả, phải tìm lời đáp trong “sự đồng nhất hóa tính vật chất với tính khách thể”, đã dẫn đến chỗ gán “tính khách thể cho tính vật chất của vật lý”[22]. Đối với Benetti và Cartelier, trình bày của bộ Tư bản mắc phải nhập nhặng là “lẫn lộn thường xuyên tính khách thể xã hội với tính khách thể vật lý”. Và lý do là vì lý luận của Marx, cũng như kinh tế học cổ điển, dựa trên “giả thuyết về danh pháp” (hypothèse de nomenclature) cho rằng có thể xác định mọi vật một cách tiên nghiệm, tức là độc lập và trước mọi thực tiễn xã hội. Giả thuyết danh pháp tựu trung “giả định có thể mô tả một tập hợp những vật gọi là của cải hay hàng hóa trước mọi mệnh đề liên quan đến xã hội. Nói cách khác, các hình thái xã hội đặc thù được xác lập trên “một thể nền trung tính: thế giới tự nhiên hay thế giới vật lý mà người ta có thể nói đến trước tiên”. Vả chăng người ta có thể đọc ở đầu Chương 1 Tư bản rằng “giá trị sử dụng là nội dung vật chất của của cải, vô luận hình thái xã hội của của cải đó như thế nào”. Đó là tiền giả định của Marx khiến ông không thể phân tích khách thể và chủ thể kinh tế như là sản phẩm của những quan hệ sản xuất đặc thù[23].

1. Trước tiên, cần xác minh rằng không có gì xa lạ đối với bộ Tư bản hơn là “giả thuyết về pháp danh” mà người ta gán cho nó. Phân tích hình thái kinh tế của Marx không hề đi từ những khách thể (hay chủ thể) vật lý tồn tại độc lập với những quan hệ xã hội về sản xuất, và làm thể nền trên đó tác giả Tư bản chồng lên một hình thái xã hội nhất định.

Khảo cứu của Marx về hai quá trình sản xuất giá trị sử dụng và sản xuất giá trị thặng dư ở Chương 7 Quyển I Tư bảnđiển hình. Quả là trình bày của Marx bắt đầu bằng định nghĩa quá trình lao động nói chung, như là “điều kiện chung của những trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên, như là sự cần thiết thuc về cơ thể trong đời sống loài người, một sự cần thiết độc lập với mọi hình thái xã hội hay, nói cách khác, một sự cần thiết chung cho tất cả mọi hình thái xã hội”[24]. Và chỉ sau đó, Marx mới đ cập đến đặc trưng của hình thái đặc thù tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Nhưng không phải vì vậy mà quá trình lao động có trước quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Trái lại đối tượng phân tích của Marx là vạch rõ rằng các nhân tố của quá trình sản xuất giá trị thặng dư không phải là sức lao động và tư liệu sản xuất định nghĩa như trong quá trình lao động, mà là tư bản khả biến và tư bản bất biến; tức sức lao động và tư liệu sản xuất định nghĩa lại theo công năng sản xuất giá trị thặng dư của chúng, hay nói cách khác, vận hành trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cách tiếp cận vấn đề của Marx nhm chứng minh rằng, một mặt, không có hình thái về quan hệ sản xuất nào có thể tồn tại ở ngoài tính qui định vật chất của các lực lượng sản xuất hiện hành và, theo nghĩa đó, là tiền giả định; nhưng, mặt khác, các lực lượng sản xuất không tồn tại chung chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới tính quy định hình thái của các quan hệ sản xuất, khiến nội dung của lực lượng sản xuất mang tính đặc thù. Cho nên, Marx chỉ có thể khảo cứu các lực lượng sản xuất sau khi đã đặc trưng quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa tại Phần 4, Quyển I Tư bản (Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối) ở đó các hình thái phát triển quá trình lao động được phân tích như là “những phương pháp khác nhau để sản xuất giá trị thặng dư”. Tránh xa mọi giả thuyết về pháp danh xem lực lượng sản xuất như là thể nền trung tính trên đó các quan hệ sản xuất được xác lập, Marx trong Phần 4 này bảo về luận điểm về sự “thâu gồm hiện thực” (subsomption réelle) của quá trình lao động vào tư bản, theo đó chính quan hệ sản xuất khuôn nắn lực lượng sản xuất[25].

Chương 1 Tư bản khảo cứu tương tự mối tương quan của giá trị sử dụng với giá trị. Trình bày của Marx bắt đầu bằng định nghĩa giá trị sử dụng trước khi tiến hành phân tích giá trị. Tuy nhiên, ở điểm khởi đầu ấy, đó chưa phải là giá trị sử dụng của hàng hóa, mà chỉ là vật có ích “bất luận hình thái xã hội của nó”[26]. Thật vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thật sự được xác định sau khi Marx phân tích giá trị, với khái niệm về “giá trị sử dụng xã hội”, tức về “vật-mang-giá trị” (porte-valeur). Sự minh định tính đặc thù này hay, chính xác hơn, sự thâu gồm giá trị sử dụng vào giá trị được Marx phân tích trong hình thái của giá trị, ở đó giá trị sử dụng là hình thái tồn tại của giá trị: “hình thái tồn tại của chính nó trở thành hình thái tồn tại của giá trị”[27]. Do vậy, giả thuyết về pháp danh tương ứng với một cách hiểu phạm trù về giá trị sử dụng bị cắt cụt. Đó là một cách đọc không chú ý đến trình bày của Marx ở ngay đầu Chương 1 khi ông phân biệt rõ rệt giá trị sử dụng nói chung với tính quy định đặc thù của nó trong xã hội tư bản chủ nghĩa: “Giá trị sử dụng là nội dung vật chất của của cải, vô luận hình thái xã hội của của cải như thế nào. Trong xã hội mà chúng ta sắp nghiên cứu, giá trị sử dụng đồng thời là “vật đỡ vật chất” (soutien matériel) của giá trị trao đổi”[28]. Marx không thể rõ ràng hơn[29].

2. Nhưng vì sao tính khách thể thuần túy xã hội của giá trị - theo Marx - lại cần đến một tính khách thể vật chất để biểu hiện? Câu trả lời ở trong khái niệm về lao động trừu tượng và biểu tượng tiền tệ của nó. Với tư cách là hình thái đặc thù của lao động xã hội trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lao động trừu tưng chỉ, như ta biết, lao động ngang bằng biểu hiện như là thuộc tính có thể trao đổi của sản phẩm lao động, cho nên giá trị của sản phẩm có hình thái của một vật. Tất nhiện Marx nói rằng giá trị có một tính vật, tính khách thể thuần túy xã hội bởi nó chỉ là biểu hiện của một quan hệ xã hội về sản xuất nhất định. Nhưng Marx còn nói rằng quan hệ xã hội ấy vật hóa, khách thể hóa như là một thuộc tính gắn liền với sản phẩm của lao động, tức dưới một hình thái vật chất. Vừa là hình thái vật hóa của xã hội và hình thái xã hội của một vật, giá trị được định nghĩa bởi một tính khách thể xã hội và một hình thái vật chất.

Hình thái vật chất này là một tính quy định cần thiết của khái niệm về giá trị. Nếu bỏ nó qua một bên thì khái niệm trở nên bất định. Bởi “nếu chúng ta nói rằng: với tư cách là giá trị, tất cả hàng hóa chỉ là lao động của con người kết tinh lại thì phân tích của chúng ta quy hàng hoá thành cái trừu tượng giá trị (l’abstraction valeur); tuy nhiên trước cũng như sau, các hàng hóa vẫn chỉ có một hình thái duy nhất, hình thái tự nhiên của vật có ích”[30]. Điều đó có nghĩa là nếu chỉ quy hàng hóa vào lao động trừu tượng, ta không làm cho hàng hóa hiện ra như là vật có giá trị, bởi “trước cũng như sau” các hàng hóa không có hình thái giá trị tách biệt hình thái vật có ích của chúng. Nói cách khác, giá trị không tồn tại nếu không có hình thái: thiếu hình thái giá trị, không có khái niệm về giá trị, mà chỉ có “cái trừu tượng giá trị”. Đây cũng là vấn đề của khái niệm về lao động trừu tượng: nó không chỉ là “khách thể trừu tượng” như Benetti và Cartelier khẳng định[31]; quy thành “cái trừu tượng lao động”, lao động trừu tượng là bất định. “Lao động con người không thôi, tiêu phí về sức lao động của con người, hẳn tất cả có thể xác định được, nhưng tự nó và cho nó thì không có tính quy định nào cả” - Marx nhận xét trong phân tích về hình thái của giá trị[32]. Đó là vì khái niệm về lao động trừu tượng không chỉ có định nghĩa một cách phủ định, khi không xét đến các hình thái có ích của lao động, mà còn có định nghĩa thực định, khi nó biểu tưng trong vật ngang giá chung. Nói gọn lại, dưới một hình thái vật chất, giá trị che đậy một hiện thực xã hội có hai chiều kích, có thể cảm giác được vừa không thể cảm giác được (sensible-suprasensible), tạo nên tính chất phức tạp của lý luận mácxít. Để qua một bên một trong hai chiều kích thì ta không thể nắm bắt được do đâu mà hình thái giá trị của sản phẩm là một vật thuộc về cảm giác vừa không thuộc về cảm giác, một vật xã hội[33]. Từ đó, ta không thể hiểu rằng, trong phân tích của Marx, giá trị sử dụng là vật dùng để biểu hiện của giá trị, hay giá trị tồn tại dưới hình thái của giá trị sử dụng: rằng, “nếu để qua một bên biểu tượng của giá trị một cách thuần tượng trưng bởi ký hiệu, thì giá trị chỉ tồn tại trong vật có ích, trong một vật”[34].

Tiết 22: GIÁ TRỊ VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG

Nhiều nhà bình luận thường trích dẫn mệnh đề ở đầu bộ Tư bản theo đó: “Dĩ nhiên là người ta không xét đến giá trị sử dụng của hàng hóa khi trao đổi hàng, và đó chính là đặc trưng của mọi quan hệ trao đổi”[35]. Không ít người coi mệnh đề này là khuyết điểm khởi thủy của thuyết Marx, và không thử tìm hiểu cương vị của phạm trù về giá trị sử dụng trong phân tích về giá trị. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hàng hóa với tư cách là vật có ích không phải là cái mà nhà sản xuất quan tâm: đối với người sản xuất, hàng hóa là “phi-giá trị sử dụng”. Điều mà nhà sản xuất nhắm khi làm ra hàng hóa là sản xuất giá trị, tức hàng hóa với tư cách là “cái-mang-giá trị”, là hàng hóa như đại biểu cho một lượng lao động xã hội và, đối với mọi người, đó là cái quyết định khả năng của họ tiếp xúc với các vật có ích[36]. Nói cách khác, các vật có ích chỉ được sản xuất ra với tư cách là vật-mang-giá trị: “Giá trị sử dụng chỉ có hiệu lực như là vật hóa lao động của con người”[37]. Tính quy định này không cộng vào tính quy định về vật có ích của hàng hóa, mà xác định cái đặc thù của tính có ích ấy: giá trị sử dụng của hàng hóa phải là giá trị sử dụng “cho những người khác”, là “giá trị sử dụng xã hội”[38]. Theo Marx, tính quy định đặc thù của hàng hóa ở chỗ “giá trị sử dụng của nó xuất hiện: 1) như lá xóa bỏ giá trị sử dụng (cá thể) trực tiếp, tức như là giá trị sử dụng cho những người khác, cho xã hội; 2) như là vật chất hóa giá trị trao đổi cho người sở hữu hàng hóa”[39]. Trong các hình thái xã hội về sản xuất khác hơn chủ nghĩa tư bản, vật có ích có một giá trị sử dụng trực tiếp, còn ở đây vật có ích chỉ có giá trị sử dụng trong chừng mực nó là vật mang giá trị: như Marx viết, “dưới hình thái sản phẩm được sản xuất ra và trong những điều kiện sản xuất ra nó, ta thiết định là sản phẩm chỉ được sản xuất với tư cách là vật mang giá trị, và giá trị sử dụng của nó chỉ là điều kiện mà thôi”[40].

Ngược lại với điều nhiều nhà kinh tế học thường nghĩ, Marx cho rằng giá trị sử dụng của hàng hóa mang tính quy định xã hội: “với tư cách là vật có ích, hàng hóa có một tính quy định xã hội trong chừng mực nó là giá trị sử dụng cho những người khác”[41]; rằng giá trị sử dụng của hàng hóa là một hình thái: “một hình thái xã hội nhất định về giá trị sử dụng”[42]; rằng giá trị sử dụng can dự vào phân tích về giá trị: “giá trị sử dụng là thể thức tồn tại của giá trị trao đổi”[43]; rằng giá trị sử dụng, cũng như giá trị, là một phạm trù kinh tế: “nếu giá trị của hàng hóa chỉ là một hình thái lịch sử, thì đó cũng là trường hợp của giá trị sử dụng của nó”[44].

Roman Rosdolsky (1898-1967)

Ngoài ra, như Roman Rosdolsky[45] đã nhận xét, ý kiến cho rằng phạm trù về giá trị sử dụng của hàng hóa là “độc lập” với mọi tính quy định về hình thái kinh tế, là “đứng ra ngoài” lãnh trường của giá trị, là “không thuộc” về phạm vi của chính trị kinh tế học[46] - các ý kiến đó đều quy chiếu đến một văn bản của Góp phần phê phán chính trị kinh tế học mà nội dung thật ra nói điều ngược lại. Bản vản như sau: “Dù hình thái xã hội của của cải như thế nào, các giá trị sử dụng bao giờ cũng hình thành nội dụng của của cải ấy, và nội dung đó ban đầu không liên quan gì đến các hình thái xã hội. (…) Khi mà giá trị sử dụng là độc lập với mọi tính quy định về hình thái kinh tế, tức khi giá trị sử dụng được xét với tư cách là giá trị sử dụng, thì nó không thuộc lĩnh vực của chính trị kinh tế học. Giá trị sử dụng chỉ thuộc về lĩnh vực này khi bản thân nó là một tính quy định về hình thái[47]. Chính xác hơn nữa, Marx viết trong Bản thảo 1857-1858 rằng: “Hàng hóa là giá trị sử dụng, tức vật có ích. Đó là một khía cạnh vật chất của nó, một khía cạnh có thể chung cho những thời đại sản xuất rất khác nhau, cho nên nó nằm ngoài phạm vi xem xét của chính trị kinh tế hoc. Giá trị sử dụng đi vào phạm vi đó khi các quan hệ sản xuất hiện đại biến đổi nó, hoặc khi nó tác động lại và biến đổi các quan hệ ấy”. Trong những điều kiện đó, không chỉ phạm trù về giá trị mà “cả giá trị sử dụng cũng đóng vai trò phạm trù kinh tế”[48]. Cho nên giá trị sử dụng can dự vào sự thành hình các hình thái kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản: hình thái hàng hóa, hình thái tiền tệ, hình thái tư bản[49]. Đó là vì giá trị chi phối hình thái của giá trị sử dụng, khiến giá trị sử dụng của hàng hóa, ngoài hình thái có ích tự nhiên của nó, còn có thêm một hình thái xã hội đặc thù. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa có hình thái hai mặt: vừa là vật có ích, vừa là vật mang giá trị, hay chính xác hơn, nó là vật có ích với điều kiện là vật mang giá trị. Để làm rõ cương vị của phạm trù về giá trị sử dụng của hàng hóa: 1) cần phân biệt giá trị sử dụng với vật có ích, tức là với tính hữu dụng mà người ta thường đồng nhất hóa nó (§ 221); 2) cần tư duy giá trị sử dụng trong tính thống nhất của nó với giá trị, tức như là sự thống nhất của hai mặt đối lập định nghĩa hình thái hàng hóa (§ 222).

§ 221 - Sự phân biệt giữa tính hữu dụng và giá trị sử dụng

Giá trị sử dụng của hàng hóa không trỏ giá trị sử dụng tự nó mà một giá trị sử dụng xã hội. Một cách tương liên, lao động làm ra giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là lao động có ích mà là lao động cụ thể, lao động có tính xã hội. Và cũng như chúng ta đã phân biệt lao động có ích với hình thái lao động cụ thể của nó, phải phân biệt ở đây vật có ích, tức tính hữu dụng của nó, với hình thái giá trị sử dụng. Để không lẫn lộn trong thuật ngữ, có thể xác lập khác biệt giữa tính hữu dụng hay vật có ích tự nó, với giá trị sử dụng hay vật có ích với tư cách là vật mang giá trị. Để nhấn mạnh sự thâu gồm giá trị sử dụng vào giá trị, duy trì thuật ngữ về “giá trị sử dụng” là cần thiết - trái với ý kiện của Louis Althusser coi đó là tàn dư của chủ nghĩa Hegel, và chủ trương thay thế nó bằng từ ngữ về “tính hữu dụng xã hội của sản phẩm” (utilité sociale des produits). Althusser cảnh báo rằng, trong Phần 1 của Tư bản, Marx bàn về hai cái hoàn toàn khác nhau, là tính hữu dụng xã hội của sản phẩm và giá trị trao đổi của những sản phẩm ấy, với những từ ngữ có cùng chung từ “giá trị”, một bên là giá trị trao đổi, bên kia là giá trị sử dụng: “Marx đã không cẩn thận xóa bỏ từ giá trị trong từ ngữ giá trị sử dụng, để chỉ bàn về tính hữu dụng xã hội của sản phẩm như đáng lý ra ông phải làm”[50].

Adolph Wagner (1835-1917)

Đúng ra, đây không phải là một vấn đề thuật ngữ, bởi cho dù dùng từ ngữ nào, vấn đề là phân biệt khái niệm về tính hữu dụng xã hội của sản phẩm - một khái niệm mà tính chất xã hội là bất định vì khái quát hóa cho mọi phương thức sản xuất -, với hình thái đặc thù của tính hữu dụng xã hội này trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giá trị sử dụng của hàng hóa. Hình thái đặc thù này, Marx - trong Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner (1879-1880) -, còn gọi là “hình thái đặc trưng dưới đó giá trị sử dụng hiện ra ở đây”, vì “chính giá trị sử dụng, với tư cách là giá trị sử dụng của hàng hóa, có một tính chất lịch sử đặc thù”[51]. Đề xuất của Althusser nhằm chỉnh sửa Tư bản dường như không biết đến phân tích của Marx về hình thái: bởi nếu đúng là vật có ích tự nó có thể độc lập với hình hái xã hội về sản xuất, thật sai lầm nếu cho rằng giá trị sử dụng của hàng hóa không hề biểu hiện hình thái xã hội về sản xuất. Đó là đánh mất cương vị về hình thái của giá tr sử dụng, và đề xuất thay thế nó bằng tính hữu dụng xã hội của sản phẩm khiến cho Althusser trượt dần đến một khái niệm thuộc về nhân loại luận. Mặt khác, nếu quả là tính hữu dụng của sản phẩm và giá trị của nó là “hai cái hoàn toàn khác nhau”, cũng thật sai lầm nếu cho rằng giá trị sử dụng của hàng hóa không ăn nhập gì với giá trị hay với giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ vật có ích nhưng với tư cách là cái-vật-mang-giá trị, tức là nó có một cương vị vừa bên ngoài, vừa bên trong đối với phạm trù về giá trị, mà thiếu vắng mối tương quan này thì không có thể tư duy sự thống nhất của hai mặt đối lập, giá trị và giá trị sử dụng. Nó giải thích vì sao, đối với Althusser, mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng chỉ có thể là “một bí ẩn”.

Böhm-Bawerk (1851-1914)
Jean Baudrillard (1929-2007)

Từ những nhận định khái quát trên, chúng ta có thể xem xét hai cách đọc phê phán khái niệm về giá trị sử dụng trong Tư bản: 1) Sự phân biệt của Eugen von Bohm-Bawerk giữa giá trị sử dụng cụ thể và giá trị sử dụng trừu tượng. 2) Tính đồng đẳng theo Jean Baudrillard của giá trị trao đổi-biểu đạt, giá trị sử dụng-được biểu đạt và vật có ích-quy chiếu.

I. Giá trị sử dụng cụ thể và giá trị sử dụng trừu tượng. Trong phân tích về hình thái, không có tính hữu dụng nói chung của sản phẩm, vật có ích không tồn tại độc lập với những quan hệ xã hội sản xuất mà nó là sản phẩm. Giá trị sử dụng của hàng hóa do đó không ăn nhập gì với khái niệm về tính hữu dụng (utilité), tính ham muốn (désirabilité) hay tính thỏa dụng (ophélimité) của kinh tế học tân cổ điển - những khái niệm tiền giả định một bản thể của con người. Giá trị sử dụng của hàng hóa trỏ tính hữu dụng của nó với tư cách là vật-mang-giá trị, điều Marx nhấn mạnh khi viết rằng: “đối với giá trị, không cần biết là loại giá trị sử dụng nào làm vật đỡ nó, chỉ biết là nó phải có vật đỡ là giá trị sử dụng”[52]. Cần nói thêm là, đối với Marx, các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quy giá trị sử dng thành những vật-mang-giá trị, chứ không quy giá trị sử dụng thành giá trị - như Bohm-Bawerk tưởng[53].

Lời phản biện của Bohm-Bawerk, như đã xét đến ở trên (Tiết 13), là tác giả Tư bản lẫn lộn “trừu tượng hóa của giống” với “trừu tượng hóa những hình thái biểu hiện của giống”: trong phân tích về giá trị, thay vì không kể đến những hình thái cụ thể, cá biệt của giá trị sử dụng, Marx không kể đến giá trị sử dụng nói chung, giá trị sử dụng trừu tượng. Nhưng ý nghĩa các từ ngữ của Bohm-Bawerk về “hình thái cá biệt của giá trị sử dụng” và “giá trị sử dụng trừu tượng” là gì? Chúng ta biết rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có đặc trưng là tính hữu dụng cá biết của vật có ích phụ thuộc vào tính hữu dụng xã hội của nó với tư cách là vật mang giá trị. Cho nên, nếu phải cho tính hữu dụng “trừu tượng” của hàng hóa một ý nghĩa, thì đó chỉ có thể là tính hữu dụng của nó với tư cách là vật mang giá trị, là hình thái mà tất cả hàng hóa đều quy thành khi ta không kể đến hình thái cá biệt của chúng như là vật có ích. Theo nghĩa ấy, và để dùng lại từ ngữ của Bohm-Bawerk, có thể nói rằng phân tích của Marx chỉ trừu tượng hóa, chỉ không kể đến giá trị sử dụng cụ thể và cá biệt của hàng hóa, chứ tác giả Tư bản không hề trừu tượng hóa, không kể gạt bỏ giá trị sử dụng trừu tượng, phổ quát hay hình thức của hàng hóa. Điều này càng hiện ra rõ ràng về sau, khi Marx phân tích hình thái của giá trị và khái niệm về tiền tệ[54].

II. Giá trị trao đổi-biểu đạt, giá trị sử dụng-được biểu đạt và vật có ích-quy chiếu. Theo một cách đọc phê phán bộ Tư bản, giá trị sử dụng là một khái niệm thuộc về nhân loại luận mà Marx đã không hoàn toàn đoạn tuyệt: đó là luận đim của Jean Baudrillard khi ông chủ trương mở rộng phê phán chính trị kinh tế học thành đề án “phê phán triệt để khái niệm về giá trị sử dụng, nhằm triệt nhân loại luận duy tâm làm cơ sở cho nó, ngay cả trong lý luận của Marx”[55]. Tác giả trình bày cương vị của giá trị sử dụng trong thuyết Marx như sau: hàng hóa là giá trị trao đổi và giá trị sử dụng; giá trị sử dụng bao giờ cũng cụ thể và cá biệt, còn giá trị trao đổi thì là trừu tượng và phổ quát; trong khi Marx định nghĩa giá trị trao đổi bằng “tính ngang giá” (équivalence), ông xác lập “tính không thể so sánh” (incomparabilité) của các giá trị sử dụng. Vì vậy, “lô-gíc riêng của giá trị trao đổi không thể bao hàm giá trị sử dụng”; giá trị sử dụng “không nằm trong lãnh trường của chính trị kinh tế học”; nó “không biểu hiện quan h xã hội”; tóm lại, nó “thoát khỏi tính quy định lịch sử về giai cấp”. Đối với Baudrillard, quan niệm giá trị sử dụng như là tương quan tự nhiên giữa nhu cầu của con người với thuộc tính có ích của một vật chỉ là “ảo giác thuộc nhân loại luận”, và Marx đã góp phần vào “huyền thoại” đó[56]. Rõ ràng là luận điểm phê phán của Baudrillard căn cứ trên một cách diễn giải Tư bản đồng nhất hóa, tức lẫn lộn, tính hữu dụng với giá trị sử dụng của hàng hóa.

Lẫn lộn này lại tương liên với một điều lẫn lộn khác: đó là sự đồng nhất hóa giá trị trao đổi với giá trị. Hãy xét điểm xuất phát của luận điểm Baudrillard là định nghĩa tính hai mặt của hàng hóa. “Điểm mạnh của lý luận mácxít cũng là điểm yếu của nó, sự phân biệt giữa giá trị trao đổi và giá trị sử dụng”: theo Baudrillard, phân tích của Marx căn cứ trên một giá trị sử dụng “tiền giả định” trong khi thật ra nó chỉ là “hiệu ứng” của hệ thống giá trị trao đổi[57]. Baudrillard còn định nghĩa tính hai mặt của hàng hóa là giá trị trao đổi và giá trị sử dụng, tức ông bỏ mặc khái niệm về giá trị. Hơn thế, tác giả nói đến giá trị trao đổi và giá trị sử dụng như là “hai giá trị”, một giá trị trừu tượng và một giá trị cụ thể, trong khi Marx đã dứt khoát bác bỏ cách trình bày này: “Đối với tôi, giá trị của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng, cũng không phải là giá trị trao đổi”; “tôi không chia cách giá trị thành giá trị sử dụng và giá trị trao đổi”; “hàng hóa một mặt là giá trị sử dụng, mặt khác là giá trị, chứ không phải là giá trị trao đổi, bởi hình thái hiện tượng không phải là nội dung của nó”[58]. Là hình thái của giá trị, giá trị trao đổi được Marx khái niệm hóa như là hình thái của mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Phân tích của Marx về giá trị trao đổi không thuộc lô-gíc về “tính ngang giá” mà lô-gíc về tính mâu thuẫn[59]. Khái niệm giá trị trao đổi chứa đựng trong định nghĩa của nó cả phạm trù về giá trị mà nó là hình thái biểu hiện, lẫn phạm trù về giá trị sử dụng như là vật dùng để biểu hiện.

Do từ khởi điểm ông không phân biệt được giá trị với giá trị trao đổi, Baudrillard không thể xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giá trị trao đổi và giá trị sử dụng: đó là “cặp đôi của hai mặt không có tương quan bao hàm nhau”[60]. Tác giả trình bày mối quan hệ của giá trị trao đổi với giá trị sử dụng theo tính đồng đẳng (homologie) trong lãnh trường của ký hiệu học (sémiotique)[61]: Gt / Gs = B / đB. Tương quan của giá trị trao đổi [Gt] với giá trị sử dụng [Gs] như là tương quan của cái biểu đạt [B] (signifiant) với cái được biểu đạt [đB] (signifié). Có thể nhận xét rằng, trong quan điểm này, giá trị trao đổi-biểu đạt trở thành biểu hiện vật chất, vật đỡ của giá trị sử dụng-được biểu đạt. Việc nhầm lẫn khái niệm đưa tác giả đến chỗ đảo ngược phân tích của Marx theo đó chính giá trị sử dụng vận hành như là vật đỡ vật chất của giá trị, chứ không phải ngược lại.

Phê phán khái niệm về giá trị sử dụng, Baudrillard nhắm vạch ra rằng tính hai mặt của hàng hóa thật ra “che giấu một sự đồng nhất về hình thức, trong đó hệ thống giá trị trao đổi chi phối giá trị sử dụng, còn giá trị sử dụng thì mang đến bảo chứng duy t nhiên cho hệ thông giá trị trao đổi”; và tương tự như giá trị trao đổi không có thực thể trong sản phẩm, mà chỉ là hình thái biểu hiện một quan hệ xã hội, thì giá trị sử dụng cũng không phải là công năng bẩm sinh của một vật, mà là một tính quy định xã hội”; là hiệu ứng của giá trị trao đổi, giá trị sử dụng không có tính độc lập, mà chỉ là “thủ thuật của giá trị trao đổi”[62]. Cho nên, thay vì trỏ “cái vượt ra ngoài chính trị kinh tế học”, giá trị sử dụng đúng ra là “chân trời của giá trị trao đổi”[63].

Cách Baudrillard trình bày giá trị sử dụng dường như không xa về mặt hình thức với cách chúng tôi đọc Tư bản, khoảng cách về nội dung phân tích vì vậy càng phải làm cho rõ. Theo Baudrillard, để có thể trao đổi, các hàng hóa không những phải “ngang giá”, “tương đương” về mặt lao động trừu tượng, mà còn phải được “công năng hóa”, “hợp lý hóa” về mặt tính hữu dụng: với tư cách là giá trị sử dụng, các vật phẩm trở nên “so sánh được” bởi được qui đồng mẫu số chung là tính công năng, duy lý. Tính hữu dụng trở nên “nguyên lý về tính tương đương” (principe d’équivalence) theo nghĩa nó thu hẹp “tính đôi chiều của biểu trưng” (ambivalence symbolique): công năng duy nhất thay thế tính đa công năng của các vật[64]. Phân tích của Baudrillard căn cứ trên một quan niệm về ngôn ngữ học hình thức trong đó không những cái được biểu đạt (signifié) mà cả cái quy chiếu (référent) được định nghĩa như là hiệu ứng của cái biểu đạt (signifiant), xem như là nguyên lý về hiện thực độc nhất[65]. Nói cách khác, dưới tính quy định của cái biểu đạt [B], cái quy chiếu [Q] quy thành cái được biểu đạt [đB] và đồng nhất hóa với cái được biểu đạt[66]: tức B / đB viết khái quát là B / (đB - Q). Tóm lại, vật có ích (cái quy chiếu) không là gì khác hơn giá trị sử dụng (cái được biểu đạt) của nó. Theo chúng tôi, chính sự lẫn lộn giữa tính hữu dụng của vật phẩm và giá trị sử dụng của hàng hóa gây ra vấn đề. Trong khi thuyết tân cổ điển đồng nhất hóa khái niệm giá trị sử dụng với tính hữu dụng, Baudrillard ngược lại đồng nhất hóa tính hữu dụng với giá trị sử dụng là một sự lẫn lộn cũng không thể chấp nhận hơn. Hẳn là một vật không có tính hữu dụng chung chung, mà chỉ có những hình thái hữu dụng xã hội nhất định của các vật. Song cũng không thể đơn giản đồng nhất hóa vật có ích với hình thái xã hội của nó: nếu trong những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, vật có ích bị quy vào một phương thức sử dụng nhất định, không thể nào quy tính hữu dụng của một vật vào giá trị sử dụng của nó với tư cách là hàng hóa. Chính tính bất khả quy của vật có ích thành giá trị sử dụng của hàng hóa khiến cho hàng hóa là nơi mâu thuẫn[67]. Ở Baudrillard, sự đồng nhất hóa tính hữu dụng với hình thái về giá trị sử dụng chỉ nói lên một điều là ông phân tích hệ thống tư bản chủ nghĩa đã loại bỏ mâu thuẫn về hàng hóa, do ông đã “sát nhập mâu thuẫn ấy và vô hiệu hoá nó”: trong điều kiện đó, giá trị sử dụng quả không còn đặt ra vấn đề cho chủ nghĩa tư bản[68].

Điều người ta có thể ghi nhận trong luận điểm của Baudrillard là phản biện của tác giả đối với cách diễn giải truyền thống khái niệm về giá trị sử dụng trong Phần 1 Quyển I Tư bản. Ở cấp độ phân tích ấy của hàng hóa, tính quy định giá trị sử dụng bởi phạm trù giá trị chỉ mang tính “hình thức”, theo nghĩa hình thái của nó chỉ có tính “bề mặt” và chưa đụng đến nội dung. Marx nhắc nhở điểm đó: khi mà phân tích quan hệ về hàng hóa chưa xét đến hình thái tư bản, nội dung về giá trị sử dụng của hàng hóa thế nào cũng được, “điều đó không quan trọng” (indifférent)[69]. Chính tính bất định tương đối này của khái niệm về giá trị sử dụng trong Phần 1 của Tư bản để chỗ cho cách diễn giải nhân loại luận và sự phê phán nó bởi Baudrillard[70]. Phạm trù về giá trị sử dụng chỉ hoàn toàn được xác định ở cấp độ phân tích tư bản, là nơi Marx phân biệt sức lao động, tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Tác giả Tư bản xác định hình thái của giá trị sử dụng bởi các phương thức nhất định mà xã hội sử dụng các vật, tức bởi các chuẩn tư bản chủ nghĩa về sử dụng lực lượng sản xuất trong quá trình lao động, và về sử dụng tư liệu sinh hoạt trong quá trình tái sản xuất sức lao động. Hẳn Marx không có triển khai phân tích phương thức tiêu dùng tư bản chủ nghĩa mà ông đã phác hoạ nguyên lý trong Lời tựa 1857[71]. Song, Phần 4 Quyển I Tư bản chứa đựng một phân tích về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa được mọi nhà bình luận coi như là mẫu mực[72]. Dù sao đi nữa, người ta không thể cho rằng Marx đã đồng hóa giá trị sử dụng với tính hữu dụng chỉ vì thiếu vắng trong Tư bản một thuyết về giá trị sử dụng[73].

§ 222 - Tính thống nhất của giá trị và giá trị sử dụng

David Ricardo (1772-1823)
Jean Baptiste Say (1767−1832)

Việc nhiều nhà bình luận không nhận thức cương vị của giá trị sử dụng trong thuyết của Marx là hệ quả của một cách đọc Tư bản theo thuyết của Ricardo. Như Marx đã nhấn mạnh, trong thuyết Ricardo, khái niệm về giá trị sử dụng như là “chết” - Marx dùng từ ngữ “lettre morte” - theo nghĩa khái niệm này không có hiệu ứng, vô tác dụng. Marx nhận xét rằng, trong Những nguyên lý về chính trị trịnh tế học và thuế má, Ricardo ban đầu có nêu ra giá trị sử dụng một cách hình thức như là điều tiền giả định, rồi ngay sau đó gạt nó ra khỏi phân tích, cho nên giá trị trao đổi trở nên phạm trù kinh tế duy nhất mà ông xem xét[74]. Trong khi tác giả của Những nguyên lý nghĩ rằng chính trị kinh tế học “chỉ bàn về giá trị trao đổi và chỉ có quan hệ bề ngoài với giá trị sử dụng”, tác giả của Tư bản nhấn mạnh trên sự cần thiết triển khai phân tích của giá trị sử dụng để, “ngược lại với Ricardo, giá trị sử dụng không chỉ là một điều tiền giả định, như là một khái niệm chết”[75]. Theo Marx, không nên bắt chước Ricardo “mà không kể đến giá trị sử dụng”, cũng không được bắt chước Jean-Baptiste Say “mà chỉ thiết định từ ngữ về ‘tính hữu dụng’”. Điều quan trọng là làm rõ “trong những chừng mực nào giá trị sử dụng không chỉ là một thực thể tiền giả định ngoài phạm vi của kinh tế học và những tính quy định hình thái của nó, và trong những chừng mực nào giá trị sử dụng bước vào phạm vị ấy”[76]. Trong Tư bản, giá trị sử dụng là một phạm trù thiết yếu để khái niệm hóa hình thái giá trị, và để hình thành không gian kinh tế của chủ nghĩa tư bản.

Bởi vì các tác giả cổ điển xem giá trị sử dụng như là tiền giả định, là ở bên ngoài giá trị, phạm trù về hàng hóa của họ chỉ quy chiếu đến giá trị và vấn đề đo lường nó. Từ đó, không gian kinh tế của chủ nghĩa tư bản mang hình thái của một không gian thuần nhất về giá trị. Vì vậy, các nhà kinh tế học cổ điển không có khả năng phân tích các hình thái kinh tế và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, mà những giới hạn, đối với họ, chỉ có thể là ngoại sinh, do tự nhiên áp đặt cho xã hội[77]. Về mặt này, thuyết cổ điển về giá trị-lao động và thuyết tân cổ đin về giá trị-hữu dụng có cùng một cách đặt vấn đề.

Trái lại, bởi vì Marx thiết định tính phụ thuộc của giá trị sử dụng vào các quan hệ xã hội về sản xuất - tức sự thâu gồm giá trị sử dụng vào giá trị -, phạm trù về hàng hóa có thể được tư duy như là sự thống nhất của giá trị và giá trị sử dụng dưới tính quy định của giá trị. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không quy giá trị sử dụng thành giá trị, như có người nói, mà quy tính hữu dụng của các vật thành giá trị sử dụng, và do đó sản xuất các giá trị sử dụng với tư cách là vật mang giá trị.

Không gian kinh tế của chủ nghĩa tư bản là không gian của hình thái giá trị được cấu thành bởi hai mặt đối lập của giá trị và giá trị sử dụng. Mâu thuẫn của hình thái giá trị gắn với cương vị của giá trị sử dụng, vừa có tính bên ngoài, vừa mang tính bên trong đối với hình thái giá trị: bên ngoài với tư cách là vật có ích, bên trong với tư cách là vật mang giá trị. Tính bên ngoài và đồng thời bên trong này có nghĩa rằng: giá trị chuyển hóa giá trị sử dụng thành hình thái tồn tại của nó, giá trị quy vật có ích vào cương vị của vật mang giá trị. Nhưng mặt khác, không thể nào quy giá trị sử dụng thành một hình thái tồn tại của giá trị không thôi, bởi giá trị sử dụng bao giờ cũng vượt ra ngoài cương vị vật mang giá trị của nó. Nói cách khác, giá trị thâu gồm giá trị sử dụng nhưng không thể hoàn toàn khng chế nó. Do đó mà không thể hoàn toàn loại trừ tính thống nhất của giá trị với giá trị sử dụng có thể vỡ, và khả năng hình thái giá trị đi vào khủng hoảng. Cho nên, mâu thuẫn của giá trị và giá trị sử dụng, mà thông qua đó các quan hệ tư bản chủ nghĩa tái sản xuất, cũng có thể tiềm tàng khiến các quan hệ đó không thể tái sản xuất[78].

Henryk Grossman (1881-1954)

I. Tính hai mặt giá trị – giá trị sử dụng. Cũng có những nhà bình luận Tư bản quan tâm giải tỏa văn bản của Marx khỏi cách đọc truyền thống theo thuyết Ricardo: họ nhấn mạnh trên phân tích tính hai mặt giá trị – giá trị sử dụng của các phạm trù kinh tế. Henryk Grossman nhận xét: trong khi các tác giả cổ điển đề ra thuyết một chiều kích “căn cứ chỉ vào giá trị”, thì Marx triển khai thuyết hai chiều kích của hiện thực tư bản chủ nghĩa, luôn luôn là tổng thể hợp nhất giá trị và giá trị sử dụng, từ đó mà các hiện tượng kinh tế đều mang “tính hai mặt”, với “một thể giá trị và một thể vật chất”[79]. Căn cứ vào luận đề của Marx, theo đó giá trị sử dụng trở nên phạm trù kinh tế của chủ nghĩa tư bản “khi các quan hệ sản xuất hiện đại biến đổi nó, hoặc khi nó tác động lại và biến đổi các quan hệ ấy”[80] - Roman Rosdolsky quan tâm đến các phân tích của Tư bản trong đó giá trị sử dụng đi vào tính quy định của những hình thái kinh tế, như là: phát sinh của tiền tệ, sản xuất của giá trị thặng dư, tái sản xuất của tư bản, xu hướng của tỷ suất lợi nhuận giảm xuống, quá trình hình thành của giá trị thị trường, của địa tô, v.v..[81]

Tuy nhiên, khi xử lý mối tương quan giữa giá trị và giá trị sử dụng, Rosdolsky cũng như Grossman chỉ tập trung vào tính quy định hình thái kinh tế bởi giá trị sử dụng, mà không xét đến tính quy định hình thái giá trị sử dụng bởi giá trị. Tức là họ chỉ quan tâm phân tích sự biến đổi hình thái quan hệ sản xuất do giá trị sử dụng, mà bỏ qua sự khuôn nắn giá trị sử dụng do quan hệ về hình thái. Trong khi chính tính quy định giá trị sử dụng - như là phương thức tồn tại của giá trị - chi phối khả năng của giá trị sử dụng can dự vào lĩnh trường giá trị. Thật vậy, giá trị sử dụng chỉ tác động lên các hiện tượng về giá trị sau khi giá trị đã chuyển hóa nó thành vật mang giá trị. Chỉ sự thâu gồm giá trị sử dụng vào giá trị mới cho phép ta tư duy tính thống nhất của hai mặt đối lập giá trị và giá trị sử dụng. Còn không thì tính hai mặt giá trị – giá trị sử dụng có thể chỉ là một tương quan bề ngoài, sự cùng tồn tại của hai quan hệ ở ngoài nhau: một tính quy định xã hội (giá trị) và một tính quy định tự nhiên (giá trị sử dụng). Sự đối lập giá trị – giá trị sử dụng khi ấy là tương quan lưỡng phân hơn là mâu thuẫn. Mà khi chưa thể tư duy mâu thuẫn, khi nó chỉ là thiết định, khó lòng ta có thể giải tỏa các văn bản của Marx ra khỏi cách đọc theo Ricardo.

II. Tính đối lập giá trị – giá trị sử dụng. Jean Cartelier nhận xét xác đáng rằng vấn đề tính hai mặt của hàng hóa là đá thử vàng của các học thuyết kinh tế. Thuyết Ricardo đã hình thành “bằng cách bỏ qua tính hai mặt của hàng hóa”, bởi cho rằng về mặt lô-gíc tính hữu dụng của hàng hóa có trước giá trị trao đổi. Ở Jean-Baptiste Say, hàng hóa có tính quy định hai mặt, thể hiện điều kiện sản xuất của hàng hóa (cung) và tính hữu dụng của nó (cầu), song “tính hai mặt ấy, không mang tính đối lâp vì được khắc phục bởi cân bằng của cung và cầu”. Thuyết Marx đặt vấn đề về “tính hai mặt đối lập” của hàng hóa, vừa là giá trị sử dụng xã hội, vừa là giá trị trao đổi[82]. Tuy nhiên tác giả Tư bản mắc mứu quan niệm về giá trị như là không gian “thuần nhất”, không kể đến các giá trị sử dụng, khiến Marx vận dụng khái niệm giá trị “trong phân tích những hiện tượng kinh tế mà, mặt khác, ông công nhận rằng chúng luôn luôn có một chiều kích tự nhiên, vật lý”[83].

Quả là Cartelier chỉ một điểm nút trong định nghĩa của Marx về hàng hóa như là thống nhất hai mặt đối lập. Do trình bày của bộ Tư bản không tránh khỏi những chỗ nhập nhằng, cần xem xét lại cách Marx khái niệm hóa các tính hai mặt giá trị – giá trị sử dụng, lao động trừu tượng – lao động cụ thể. Cách Cartelier đọc Chương 1 Tư bản kết hợp ba điều. Điều đầu tiên xác định khởi điểm phân tích của Marx (Tiết 1) trong vấn đề thông ước của hàng hóa và sự thiết kế không gian thuần nhất về giá trị với khái niệm về lao động trừu tượng, đưa ông đến bỏ qua một bên tính có ích của lao động và của các sản phẩm. Trong điều thứ hai, Cartelier cho rằng, với lý luận về tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hóa (Tiết 2), Marx tìm cách đưa trở lại vào phân tích những khái niệm trước đây bị loại bỏ là lao động cụ thể và giá trị sử dụng - nhưng việc đưa vào lại này chỉ có thể thất bại do định nghĩa ban đầu của ông về không gian lý luận. Điều sau cùng khẳng định rằng lý luận về hình thái của giá trị (Tiết 3) mà Marx thiết kế là phương cách để ông thoát ra khỏi không gian về giá trị mà ông tự giam cầm - bước đi ra này, tác giả Tư bản thực hiện bằng viện dẫn một giá trị sử dụng đặc biệt (vàng) có nhiệm vụ nối liền hai thế giới riêng biệt của giá trị trao đổi và của giá trị sử dụng. Theo Cartelier, mắc mứu về lý luận mà Marx cuối cùng không khắc phục được bắt nguồn trong sự đoạn tuyệt thiếu dứt khoát về mặt khoa học luận của bộ Tư bản đối với diễn từ của chính trị kinh tế học cổ điển.

Nhằm đáp lại các tác giả diễn giải sai lạc Chương 1 Tư bản, đặc biệt trên vấn đề về tính hai mặt giá trị – giá trị sử dụng của hàng hóa, Marx đã thảo văn bản cuối cùng 1879-1880 tựa đề Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolphe Wagner. Nó là văn bản quy chiếu để ta xem xét cách đọc của Cartelier.

1. Trong Chương 1 về “Hàng hóa” của Tư bản, Marx không mở đầu phân tích với câu hỏi cổ điển về sự thông ước của hàng hóa, mà với câu hỏi về hai cách xuất hiện của hàng hóa: “Một mặt, tôi nhận thấy rằng hàng hóa, dưới hình thái tự nhiên của nó, là một vật có ích, tức một giá trị sử dụng; mặt khác, hàng hóa là vật mang giá trị và dưới hình thái này nó là giá trị trao đổi”. Sau đó, khi đề cập câu hỏi về sự thông ước, vấn đề đối với Marx không phải là gạt qua một bên các giá trị sử dụng để chỉ khảo cứu khái niệm về giá trị trao đổi như là Ricardo; mà vấn đề là tạm thời để qua một bên các giá trị trao đổi để tập trung khảo cứu khái niệm về giá trị: “Phần sau cuộc khảo cứu sẽ dẫn chúng ta trở lại giá trị trao đổi với tư cách là phương thức biểu hiện cần thiết hay hình thái của giá trị - mà chúng ta đã xem xét trước tiên một cách độc lập với hình thái của nó”. Do đó phân tích của Marx về hàng hóa khởi đi từ “hình thái dưới đó nó hiện ra” để đi đến định nghĩa thiết yếu của nó theo đó: “Hàng hóa một mặt là giá trị sử dụng và mặt khác là giá trị, chứ không phải là giá trị trao đổi, bởi hình thái hiện tượng không phải là nội dung của nó”[84].

Như vậy, Marx bác bỏ ý kiến cho rằng ông đã gạt bỏ giá trị sử dụng: người ta “cũng có thể nói rằng tôi đã gạt qua một bên giá trị trao đổi, vì nó chỉ là hình thái hình tượng của giá trị, chứ không phải là giá trị, bởi đối với tôi giá trị của một hàng hóa không phải là giá trị sử dụng của hàng hóa, cũng không phải là giá trị trao đổi của nó”. Và cũng như phân tích hàng hóa không dừng ở hình thái giá trị trao đổi, nó cũng không dừng ở hình thái tự nhiên về vật có ích của giá trị sử dụng. Song song với khái niệm về giá trị, Marx xác lập “hình thái xã hội nhất định” của giá trị sử dụng: “Để sản xuất hàng hóa, người ta không những phải sản xuất những giá trị sử dụng mà phải là giá trị sử dụng cho những người khác, những giá trị sử dụng xã hội”[85].

2. Phân tích tính hai mặt của hàng hóa, và tính hai mặt tương liên của lao động sản xuất ra hàng hóa, hình thành đối tượng của không chỉ các Tiết 1 và 2 Chương 1, mà đó là đối tượng của toàn bộ bốn tiết hợp thành chương này. Trong hai tiết đầu tiên, lao động trừu tượng được hiểu như là tiêu phí về sức lao động “bất luận hình thái có ích của nó”, tương tự giá trị của hàng hóa được xác định bất luận nhu cầu mà hàng hóa đó thỏa mãn, chỉ biết là nó đáp ứng một nhu cầu xã hội nào đó: vật có ích và lao động có ích được xem xét ở đây trong mối tương quan bên ngoài của nó với giá trị và với lao động trừu tượng. Phải đến các Tiết 3 và 4 là nơi Marx trin khai phân tích về hình thái, thì giá trị sử dụng và lao động cụ thể mới có cương vị vừa bên ngoài, vừa bên trong. Khái niệm về giá trị bao hàm giá trị sử dụng của hàng hóa trong tính quy định hình thái của nó: hẳn đó không phải là tính hữu dụng của vật phẩm tự nó và vô định về mặt xã hội; mà là tính hữu dụng của hàng hóa như là vật mang giá trị, tức là vật đỡ những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định. Nói gọn lại, trong những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị sử dụng mang hai hình thái: trong khi hình thái tự nhiên về vật có ích của nó nằm ngoài khái niệm về giá trị thì, với tư cách là hình thái biểu hiện của giá trị, giá trị sử dụng - theo Marx - mang “tính lịch sử đặc thù”[86].

Do không nắm bắt tính hai mặt của giá trị sử dụng, Cartelier trách Marx đã “khái niệm hóa không đủ giá trị sử dụng”, đặc biệt là đã “nhầm lẫn giá trị sử dụng (yếu tố xã hội hình thành hàng hóa) với đồ vật (“hình thái tự nhiên”, bất định về mặt xã hội)[87]. Phê phán này của Cartelier sụp đổ với sự hình thành của khái niệm về giá trị sử dụng như là hình thái kinh tế của vật có ích và tách biệt với nó (và với khái niệm về lao động cụ thể như là hình thái kinh tế của lao động có ích và tách biệt với nó). Do vậy mà không gian kinh tế của chủ nghĩa tư bản không thể là không gian thuần nhất của giá trị như trong thuyết Ricardo, mà đó là không gian của hình thái giá trị, cấu thành bởi mâu thuẫn của giá trị và giá trị sử dụng[88]. Và cũng như khái niệm về lao động trừu tượng hình thành không phải bằng loại trừ lao động có ích, khái niệm về giá trị không hình thành bằng loại trừ giá trị sử dụng, mà bằng cấu trúc hóa hai mặt đối lập.

3. Cương vị phân tích hình thái của giá trị sẽ được xem xét trong chương tiếp theo, ở đó sẽ bàn về cách diễn giải của Cartelier. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu lên sai lầm của nhà bình luận khi sử dụng không phân biệt - tức lẫn lộn - hai thuật ngữ “giá trị” và “giá trị trao đổi”. Trong khi giá trị trao đi của hàng hóa không phải là giá trị của nó, mà là hình thái về giá trị của nó: phạm trù giá trị trao đổi thành hình là do “giá trị của hàng hóa có một hình thái hiện tượng riêng, tách biệt với hình thái tự nhiên” về giá trị sử dụng của nó. Nói cách khác, “giá trị của một hàng hóa thể hiện như là giá trị sử dụng của một hàng hóa khác, tức là thể hiện dưới hình thái tự nhiên của hàng hóa khác”[89]. Sự nhầm lẫn về thuật ngữ ấy gắn với cách đọc sai Tư bản trên hai điểm nói trên. Thật thế, nếu người ta không phân biệt rõ giá trị với giá trị trao đổi, phân tích giá trị quy vào vấn đề cổ điển về tính thông ước, trong khi nó đặt ra trước tiên một vấn đề về hình thái: vấn đề “tại sao nội dung này mang hình thái đó” - như Marx nhấn mạnh khi phê phán thuyết Ricardo về giá trị[90]. Tương tự, nếu giá trị bị nhẫm lẫn với giá trị trao đổi, người ta không thể nối khớp giá trị với giá trị sử dụng, trừ phi dùng bạo lực về lý luận (coup de force théorique) - bởi vì, cũng như trong thuyết Ricardo, ta không thể tìm thấy gì “làm rõ ra mối tương quan mật thiết giữa giá trị và hình thái của nó, tức giá trị trao đổi[91]. Đó là một điểm cơ bản trong phê phán của Marx đối với Ricardo, vì tác giả này, do không phân biệt giá trị và giá trị sử dụng, đã không phân tích được tương quan giữa giá trị, giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.

Trong một văn bản khác của Cartelier, nhà bình luận Tư bản thừa nhận tìm thấy ở Marx khẳng định “ngầm” rằng không gian thuần nhất về giá trị “khác biệt” với thuyết về lao động trừu tượng. Việc thiết kế một không gian về tính thông ước là một điều cần thiết chung của mọi thuyết về trao đổi: “việc Marx đã có công làm rõ điều này với độ chính xác chưa từng có, đã khiến người ta nhầm lẫn nó với sự thiết kế khái niệm về lao động trừu tượng”. Cartelier đưa ra luận đề theo đó: “qua khái niệm về lao động trừu tượng - và biểu hiện cần thiết của nó trong lao động cụ thể sản xuất vật ngang giá chung -, Marx hình thành một khái niệm về hàng hóa rộng hơn khái niệm về giá trị, ngược lại với chính trị kinh tế học chỉ quan niệm hàng hóa như đại lượng về giá trị”[92]. Bằng cách đó và một cách xác đáng, Cartelier tìm cách giải tỏa cách đọc Tư bản khỏi lô-gíc thuần số lượng và đo đạc. Song, cách lý giải tnh lược của ông không được thỏa đáng, trong chừng mực nó đối lập phạm trù về giá trị với phạm trù về hàng hóa, xem như là “rộng hơn”. Theo chúng tôi, sự đối lập không phải là giữa khái niệm về giá trị và khái niệm về hàng hóa của Marx, mà là giữa khái niệm về giá trị của Marx và khái niệm về giá trị của chính trị kinh tế học cổ điển; khi đã vạch rõ quá trình hình thành của hình thái giá trị, phạm trù khái quát nhất của học thuyết Marx không còn là giá trị như là đại lượng đo theo thời gian lao động, mà là giá trị như là hình thái, là hình thái giá trị của sản phẩm lao động hay hình thái hàng hóa[93]. Cho nên hình thái hàng hóa và hình thái giá trị của sản phẩm lao động là những phạm trù che phủ nhau, sự hình thành đồng thời của hình thái hàng hóa và hình thái giá trị trong Chương 1 Tư bản cho thấy điều ấy: “Sự phát triển của hình thái giá trị đồng nhất hóa với sự phát triển của hình thái hàng hóa”[94]. Đó là nền tảng phân tích về tiền tệ của Marx.

Cái được-mất trong vấn đề giá trị sử dụng chính là ở đây, cũng là điểm Marx đoạn tuyệt với chính trị kinh tế học, cả cổ điển lẫn tân cổ điển gộp lại. Trong thuyết Ricardo về giá trị, việc loại bỏ giá trị sử dụng tương liên với sự loại bỏ tiền tệ ra khỏi phân tích về giá trị trao đổi: thuyết giá trị-lao động phủ định giá trị sử dụng để có thể xác định giá trị trao đổi duy bằng lao động[95]. Còn khẳng định chỉ có giá trị sử dụng, đưa các tác giả tân cổ điển đến hệ quả tương tự: thuyết giá trị-hữu dụng cũng như thuyết giá trị-lao động đều loại bỏ tiền tệ ra khỏi phân tích về giá trị[96]. Cho nên sự phân biệt giữa giá trị-lao động và giá trị-hữu dụng không có tính quyết định đối với phân tích về giá trị. Điều quyết định, như chương tiếp theo sẽ phân tích, là xử lý mối tương quan giá trị – giá trị sử dụng – giá trị trao đổi như thế nào mà hình thái tiền tệ trở nên thiết yếu: tức là cho phép lý giải các quan hệ về hàng hóa như là quan hệ hàng hóa – tiền tệ.

* * *

THƯ MỤC

Tác phẩm của Marx

(xếp theo thứ tự năm xuất bản văn bản gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp đến là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp được sử dụng trong công trình nghiên cứu này)

1835-1874: Thư từ trao đổi Marx - Engels / Correspondance Marx – Engels, Editions Sociales, 1971-1989, 12 t.

1841-1861: Tác phẩm III. Triết học / Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1843a: Phê phán triết học pháp quyền của Hegel / Critique du droit politique hégelien, Editions Sociales, 1975.

1843b: Về vấn đề Do Thái / “A propos de la Question juive”, in Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1844: Bản thảo 1844 / Manuscrits de 1844, Editions Sociales, 1972.

1844-1881: Tác phẩm II. Kinh tế / Œuvres II. Economie, Gallimard, 1972.

1845: Gia đình thần thánh (viết cùng với Engels) / La Sainte Famille (avec Engels), Editions Sociales, 1972.

1845-1895: Những lá thư viết về bộ Tư bản (viết cùng với Engels) / Lettres sur Le Capital (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1846: Hệ tư tưởng Đức (viết cùng với Engels) / L’idéologie allemande (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1976.

1847: Sự khốn cùng của triết học / Misère de la philosophie, Editions Sociales, 1968.

1847-1893: Tác phẩm I. Kinh tế / Oeuvres I. Economie, 1977.

1848: Tuyên ngôn đảng cộng sản (viết cùng với Engels) / Manifeste du parti communiste (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1848-1849: Nhật báo Neue Rheinische Zeitung / La Nouvelle Gazette Rhénane, t. 3, Editions Sociales, 1963-1971.

1849/1865: Lao động làm thuê và tư bản & Tiền công, giá cả và lợi nhuận / Travail salarié et capital & Salaire, prix et profit, Editions Sociales, 1969.

1850: Đấu tranh giai cấp ở Pháp / Les luttes des classes en France, Editions Sociales, 1970.

1852: Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte / Le 18 Brumaire de Louis Bonaparte, Editions Sociales, 1969.

1857-1858: Bản thảo 1857-1858 / Manuscrits de 1857-1858, Editions Sociales, 1980, 2 t.

1859a: Góp phần phê phán chính trị kinh tế học / Contribution à la critique de l’économie politique, Editions Sociales, 1957.

1859b: Louis Napoleon và Ý / “Louis Napoleon and Italy”, New York Daily Tribune 29.8 1859.

1861-1863: Bản thảo 1861-1863 / Manuscrits de 1861-1863, Editions Sociales, 1980.

1862-1863: Các học thuyết về giá trị thặng dư / Théories sur la plus-value, Editions Sociales, 1974-1976, 3 t.

1862-1895: Những lá thư viết cho Kugelmann (viết cùng với Engels) / Lettres à Kugelmann (avec Engels), Editions Sociales, 1971.

1864: Chương VI, Tư bản, Quyển I. Bản thảo 1863-1867 / Le Chapitre VI, Le Capital, Livre I. Manuscrits 1863-1867, Les Editions Sociales, 2010.

1864-1865: Tư bản, Quyển III / Le Capital, Livre III, Editions Sociales, 1965-1967, 3 t.

1867/1890a: Chương 1 của bộ Tư bản (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ nhất và lần thứ tư) / “Le Chapitre 1 du Capital”, 1e et 4e éditions allemandes, in Paul-Dominique Dognin (ed), Les sentiers escarpés de Karl Marx, Editions du Cerf, 1977, 2 vol.

1870-1878: Tư bản, Quyển II / Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1968, 2 t.

1871: Cuộc nội chiến ở Pháp / La guerre civile en France, Editions Sociales, 1971.

1875: Tư bản, Quyển I (phiên bản tiếng Pháp) / Le Capital, Livre I, édition française, Editions Sociales, 1962, 3 t.

1879-1880: Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolphe Wagner / “Notes marginales sur le Traité d’économie politique d’Adolphe Wagner”, in Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1976, p. 459-484.

1890: Tư bản, Quyển I (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ tư) / Le Capital, Livre I, 4e édition allemande, Editions Sociales, 1983.

Các tác phẩm khác

ABRAHAM-FROIS Gilbert, BERREBI Edmond, Théorie de la valeur, des prix et de l’accumulation, Economica, 1976.

ABRAHAM-FROIS Gilbert, BERREBI Edmond, Rente, rareté, surprofits, Economica, 1980.

AGLIETTA Michel, “L’ambivalence de l’argent”, Revue francaise d’économie, été 1988.

AGLIETTA Michel, FOUET Monique, “Régulation du capitalisme en longue période”, in M. AGLIETTA, C. SAUTTER (ed), Quatre économie dominantes sur longue période, INSEE, 1978.

AGLIETTA Michel, ORLEAN André, La violence de la monnaie, PUF, 1982.

AGLIETTA Michel, ORLEAN André (ed), La monnaie souveraine, Odile Jacob, 1998.

ALTHUSSER Louis, “Avertissement aux lecteurs du Capital”, in K. MARX, Le Capital, Livre I, Garnier-Flammarion, 1969.

ALTHUSSER Louis, “Idéologie et appareils d’Etat”, La Pensée, juin 1970.

ALTHUSSER Louis, Lénine et la philosophie, Maspéro, 1972.

ALTHUSSER Louis, Réponse à John Lewis, Mapéro, 1973.

ALTHUSSER Louis, “Avant-propos”, in G. DUMENIL, Le concept de loi économique dans Le Capital, Maspéro, 1978.

AMIN Samir, VERGOPOULOS Kostas, La question paysanne et le capitalisme, Anthropos, 1974.

ANDRE Christine, DELORME Robert, L’Etat et l’économie. Un essai d’explication de l’évolution des dépenses publiques en France 1870-1980, Seuil, 1983.

ANDREFF Wladimir, Profits et structures du capitalisme mondial, Calmann-Lévy, 1976.

ARENA Richard, FROESCHLE Claude, TORRE Dominique, “Gravitation et reproductibilité”, in C. BIDARD (ed), La gravitation, Université Paris X, Cahiers de la RCP Systèmes de prix de production n˚ 2-3, nov. 1984.

ARTHUR Chris, “Dialectic of the value-form”, in D. ELSON, Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

Auteur collectif, “Valeur, prix et réalisation”, Critique de l’économie politique, janv-mars 1977.

AZOUVI Alain, “Progrès technique et rapports de production: de la théorie à l’enquête”, Critiques de l’economie politique n˚ 10, jan.-mars, 1980.

BACKHAUS Hans Georg, “Dialectique de la forme de la valeur”, Critiques de l’économie politique, oct.-déc. 1974.

BALIBAR Etienne, “Sur les concepts fondamentaux du matérialisme historique”, in ALTHUSSER et al., Lire Le Capital, Maspéro, t. 2. 1969,

BALIBAR Etienne, Cinq études du matérialisme historique, Maspéro, 1972.

BALIBAR Etienne, “A nouveau sur la contradiction”, in CERN, Sur la dialectique, Editions Sociales, 1977.

BALIBAR Etienne, La philosophie de Marx, La Découverte, 1993.

BALIBAR Etienne, LEFEBVRE Jean-Pierre, “Plus-value ou survaleur”, La Pensée n˚ 197, fév. 1978.

BANAJ Jairus, “From commodity to capital: Hegel’s dialectic in Marx’s Capital”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

BARBIER Maurice, La pensée politique de Karl Marx, L’Harmattan, 1992.

BARRERE Christian, KEBABJIAN Gérard, WEINSTEIN Olivier, Lire la crise, PUF, 1983.

BARTHELEMY Denis, “Valeur et travail paysan”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1977.

BARTHELEMY Denis, Propriété foncière et fonds-entreprise. Le cas de l’agriculture, Economica, 1984.

BARTHELEMY Denis, “Entre la proprieté foncière et l’entreprise, l’exploitation agricole”, in J.L. GUIGOU (ed), La propriété foncière, Economica, 1984.

BAUDRILLARD Jean, Pour une critique de l’économie politique du signe, Gallimard, 1972, 1972.

BAUDRILLARD Jean, Le miroir de la production, Casterman, 1973.

BECKER James, Economie politique marxiste, Economica, 1980.

BENETTI Carlo, Valeur et répartition, Maspéro - PUG, 1974.

BENETTI Carlo, “La question de la gravitation du prix de marché dans la Richesse des nations”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

BENETTI Carlo, “Economie monétaire et économie de troc: la question de l’unité de compte commune”, Economie appliquée n˚ 1, 1985.

BENETTI Carlo, “A propos de l’analyse simmelienne de la légitimité monétaire”, in J.M. BALDER, L. GILLARD (ed), Simmel et les normes sociales, L’Harmattan. 1936.

BENETTI Carlo et al., Economie classique, économie vulgaire, Maspéro-PUG, 1975.

BENETTI Carlo, de BRUNHOFF Suzanne, CARTELIER Jean, “Elements pour une critique marxiste de P. Sraffa”, Cahiers de l’économie politique n˚ 6, 1976.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, “Profit et exploitation: le problème de la transformation des valeurs en prix de production”, in BENETTI Carlo et al., Economie classique, économie vulgaire, Maspéro - PUG, 1975.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, Marchands, salariat et capitalistes, Maspéro - PUG, 1980.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, “Mesure invariable des valeurs et théorie ricardienne de la marchandise”, in BENETTI Carlo et al., Marx et l’économie politique, Maspero - PUG, 1977.

BERTHOMIEU Claude, “La théorie de la rente et le système des prix de production”, in LATAPSES, Etudes d’économie classique et ricardienne, PUF, 1982.

BERTHOUD Arnaud, Travail productif et productivité du travail chez Marx, Maspéro, 1974.

BETTELHEIM Charles, “Remarques théoriques’ in EMMANUEL, L’échange inégal, Maspéro, 1969.

BETTELHEIM Charles, Calcul économique et formes de propriété, Maspéro, 1970.

BETTELHEIM Charles, La lutte des classes en URSS, Maspéro - Seuil, t. 1, 1974.

BIDET Jacques, Que faire du Capital?, Klincksieck, 1985.

BIDET Jacques, “Socialisation et abstraction”, Cahiers d’économie politique n˚ 12, 1986.

BIDET Jacques, Théorie de la modernité suivi de Marx et le marché, PUF, 1990.

BIDET Jacques, Théorie générale, PUF, 1999.

BIDET Jacques, KOUVELAKIS Eustache (ed), Dictionnaire Marx contemporain, PUF, 2001.

BIHR Alain, L’économique fétiche, 1979.

BLANC Emmanuel, “Prendre l’outil et la parole”, Cahiers analyse, épistemologie, histoire n˚ 6, 1975.

BLAUG Mark, La pensée économique, Economica, 1981.

Paul Sweezy (1910-2004)

BOHM-BAWERK Eugen von, “Karl Marx and the close of his system”, in P. SWEEZY (ed) Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, et Bohm-Bawerk’s critism of Marx by Rudolf Hilferding, Augustus Kelley, 1949.

BOMPARD J.P., POSTEL VINAY Gilles, “Etat et analyse de classe en agriculture au travers du problème foncier”, ACSES, Sur l’Etat, Contradictions, 1977.

BORELLY Rolande, Les disparités sectorielles des taux de profit, PUG, 1975.

BORTKIEWICZ Ladislaus von, “Value and price in the marxian system”, International Economic Papers n˚ 2, 1952.

BOYER-XAMBEU Marie-Thérèse, DELEPLACE Ghislain, GILLARD Lucien, “Vers une topologie des régimes monétaires”, Cahiers d’économie politique n° 18, 1990.

BROUSTE Pierre, La rente foncière chez Marx, mémoire DEA, Université Paris I, 1976.

BRUNHOFF Suzanne de, La monnaie chez Marx, Editions Sociales, 1973.

BRUNHOFF Suzanne de, La politique monétaire, PUF, 1973.

BRUNHOFF Suzanne de, Etat et capital, Maspéro - PUG, 1976.

BRUNHOFF Suzanne de, Les rapports d’argent, Maspéro - PUG, 1979.

BRUNHOFF, Suzanne de, “Valeur de la force de travail, salaire et intervention de l’Etat”, in B. BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

CARTELIER Jean, “Valeur ou enrichissement: le dilemne de l’économie politique, ACCES n˚ 1, mars 1978.

CARTELIER Jean, “Echange inégal et théorie des prix de production”, Cahier d’analyse économique n˚ 1, 1975.

CARTELIER Jean, “Théorie de la valeur ou hétérodoxie monétaire: les termes d’un choix”, Economie appliquée n˚ 1, 1985.

CARTELIER Lysianne, “Contribution à l’étude des rapports entre Etat et travail salarié”, Revue économique n° 1, janvier 1980.

CASTORIADIS Cornelius, La société bureaucratique, UGE, 1973.

CASTORIADIS Cornelius, Capitalisme moderne et révolution, UGE, 1979.

CASTORIADIS, Cornelius, Les carrefours du labyrinthe, Seuil, 1978.

CAVAILHES Jean, Les réponses des marxistes à la question agraire, INRA, document de recherche n˚ 16, mars 1981.

CENCINI Alvaro, SCHMITT Bernard, La pensée de Karl Marx, Castella, 1976-1977, 2 vol.

CHEVALIER Jean-Marie, L’économie industrielle en question, Calmann-Levy, 1977.

CHIAVELLI Alain, RAINELLI Michel, “Uniformisation des taux de profit et hypothèse sectorielle”, Cahiers d’economie politique n˚ 4, 1977.

COLETTI Lucio, De Rousseau à Lénine, Gordon et Breach, 1974.

COLETTI Lucio, Le marxisme et Hegel, Champ Libre, 1976.

COLETTI Lucio, Politique et philosophie, Galilée, 1975.

CORIAT Benjamin, Science, technique et capital, Seuil, 1976.

COULOMB Pierre, “Propriété foncière et mode de production capitaliste”, Etudes rurales n˚ 51, 1973.

DALLEMAGNE Jean-Luc, L’économie du Capital, Maspéro, 1978.

DELAUNAY Jean-Claude, “La forme valeur de la production”, La Pensée n˚ 183, oct. 1975.

DELEPLACE Ghislain, “Biens à double destination et polarisation des taux de profit: une analyse sectorielle”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

DELEPLACE Ghislain, Théorie du capitalisme: une introduction, Maspéro - PUG, 1979.

DELEPLACE Ghislain, “Marché et concurrence chez Marx”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

DELEPLACE Ghislain, “Sur quelques difficultés de la théorie de la monnaie - marchandise chez Ricardo et Marx”, Economie appliquée n°1, 1985.

DELEPLACE Ghislain, Histoire de la pensée économique, Dunod, 1999.

DELILEZ Jean-Pierre, Les monopoles, Editions Sociales, 1970.

DENIS Henri, L’ “économie” de Marx, PUF, 1980.

DESQUIER-DESJARDIN Denis, “Rente absolue et économie du déséquilibre chez Karl Marx”, communication au colloque sur La rente, Université Paris X, 1983.

DIATKINE Daniel, “La terre existe-t-elle? Le statut de la terre dans la théorie des prix de production de P. Sraffa”, Cahiers d’économie politique n˚ 5, 1979.

DOBB Maurice, Political economy and capitalism, Routledge et Kegan, 1940.

DOBB Maurice, Theory of value and distribution since Adam Smith, Cambridge University Press, 1975.

DOBB Maurice, “The Sraffa system and critique of the Neo-classical theory of distribution”, in E. Hunt, J. SCHWARTZ (ed), A critique of economic theory, Penguin Books, 1972.

DOGNIN Paul Dominique, Les sentiers escarpés de Karl Marx, t. 2, Edition du Cerf, 1977.

DOSTALER Gilles, Valeur et prix, Maspero - PUG, 1978.

DOSTALER Gilles, Marx, la valeur et l’économie politique, Anthropos, 1978.

DRAPER Hal, Karl Marx’s theory of revolution, Monthly Review Press, 1977-1989, 4 t.

DRUGMAN Bernard, “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital, in Jean-Paul GAUDEMAR (éd.), Réexamens de la théorie du salariat, PUL, 1981.

DRUGMAN Bernard, “Le concept du rapport salarial: genèse, enjeu et perspectives”, Cahiers de l’ IREP-Développement n°4, 1983.

DRUGMAN Bernard, “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital”, in B. BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

DUMENIL Gérard, Le concept de loi économique dans le Capital, Maspéro 1978.

DUMENIL Gérard, De la valeur aux prix de production, Economica, 1980.

DUMENIL Gérard, LEVY Dominique, La dynamique du capital. Un siècle d’économie américaine, PUF, 1996.

DUMONT Louis, Homo aequalis, Gallimard, 1985.

ELSON Diane, “The value theory of labour”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

ELSTER Jon, Karl Marx. Une interprétation analytique, PUF, 1989.

EMMANUEL Arghiri, L’échange inégal, Maspéro, 1969.

EMMANUEL Arghiri, La dynamique des inégalités, Anthropos, 1965.

ENGELS Friedrich, Anti-Duhring, Editions Sociales, 1971.

ENGELS Friedrich, L’origine de la famille, de la propiété privée et de l’Etat, Editions sociales, 1972.

ENGELS Friedrich, Préface, in K. MARX, Le Capital, Livre III, t. 1, Editions Sociales, 1965.

ENGELS Friedrich, “La contribution à la critique de l’économie politique de Karl Marx. Deuxième article”, in K. MARX, F. ENGELS, Textes sur le méthode de la science economique, Editions Sociales, 1974.

ENGELS Friedrich, La question paysanne en France et en Allemagne, Editions Sociales, 1956.

ESTABLET Roger, “Présentation du plan du Capital”, in L. ALTHUSSER, et al., Lire Le Capital IV, 1973.

EVRARD Philippe, HASSAN Daniel, VIAU Claude, “Petite agriculture et capitalisme”, Cahiers d’économie politique n˚ 4, 1977.

FACCARELLO Gilbert, Travail, valeur et prix, Anthropos, 1983.

FACCARELLO Gilbert, “Karl Marx et la critique de l’économie politique: Le purgatoire du temps présent” et “Les controverses autour du Capital: les débats autour de la loi de la valeur”, in Alain BERAUD, Gilbert FACCARELLO (ed.), Nouvelle histoire de la pensée économique, t. 2, La Découverte, 2000.

FAURE Claude, Agriculture et capitalisme, Anthropos, 1978.

FAUSTO Ruy, “Althusserisme et anthropologisme”, L’Homme et la société, juil.-déc. 1976.

FAUSTO Ruy, “Abstraction réelle et contradiction: sur le travail abstrait et la valeur”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1978.

FAUSTO Ruy, Recherches sur la formation et la portée de la dialectique dans l’oeuvre de Marx, thèse Université Paris I, 1988.

FAUSTO Ruy, Marx: logique et politique, Publisud, 1986.

FAUSTO Ruy, “La dialectique du Capital et ses implications: éthique et marxisme, communication au colloque Marx, Université Paris X, 1997.

FOWLEY Ducan, “The value of money, the value of labor power, and the marxiann transformation problem”, Review of Radical Political Economics, t. 14, n˚ 2, 1982.

GAREGNANI Pierangelo, “La théorie classique de la répartition et le problème de la transformation chez Marx”, in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

GIANNOTTI José Arthur, Origines de la dialectique du travail, Aubier Montaigne, 1971.

GROSSMAN Henrik, Marx, l’économie classique et le problème de la dynamique, Champ libre, 1975.

GUIBERT Bernard, Genèse et image de la division de la production, thèse Université Paris I, 1977, 2 vol.

GUIBERT Bernard, “Les ravages logiques”, Critiques de l’économie politique n˚ 13, 1980.

GUICHARD Jean-Paul, “L’identité de nature des deux formes de rente différentielle et la difficulté de leur prise en compte dans le modèle néo-ricardien”, in C. BIDARD (ed), La rente, Economica, 1987.

GUICHARD Jean-Paul, “La rente différentielle intensive, expression d’un processus d’intensification des cultures”, in LATAPSES, Etudes d’économie classique et néo-ricardienne, PUF, 1982.

GUIGOU Jean-Louis, La rente foncière, Economica, 1982.

GUTELMAN Michel, Structures et réformes agraires, Maspéro, 1974.

HEGEL Georg W.F., Encyclopédie des sciences philosophiques, I. La science de la logique, Vrin, 1970.

HEGEL Georg W.F., Principes de la philosophie du droit, Vrin, 1975.

HENRY Michel, Marx, Gallimard, 1976, 2 vol.

HILFERDING Rudolf, “Bohm-Bawerk’s criticism of Marx”, in P. SWEEZY (ed), Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, et Bohm-Bawerk’s criticism of Marx by Rudolf Hilferding, Augustus Kelley, 1949.

HILFERDING Rudolf, Le capital financier, Editions de Minuit, 1970.

HILFERDING Rudolf, “Monnaie et marchandise”, Cahiers d’économie politique n°13, 1987.

HIMMELWEIT Susan, MOHUN Simon, “La réalité de la valeur” in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

HOLLOWAY John, PICCIOTO Saul, State and capital: a marxist debate, E. Arnold, 1978.

HOLLOWAY John, PICCIOTO Saul, “Etat et capital: le débat allemand sur la dérivation de l’Etat”, Critiques de l’économie politique n˚ 10, 1980.

HURIOT Jean-Marie, “Rente différentielle et rente absolue. Un réexamen”, in P.H. DERYCKE (ed) La rente fonciere urbaine, Etudes foncières, 1984.

ITOH Makoto, La crise mondiale, EDI, 1987.

JACOT Henri, “Le capital financier comme forme(s) du capital, Issues, 1979, n˚ 3.

JORLAND Gérard, Les paradoxes du capital, Odile Jacob, 1995.

JOSHUA Isaac, La face cachée du Moyen-âge. Les premiers pas du capital, La Brèche, 1988.

KANT Immanuel, Phê phán lý tính thuần túy, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, nxb Văn học, 2004.

KAUTSKY Karl, La question agraire, Giard et Brière, 1900.

KAUTSKY Karl, Le marxisme et son critique Bernstein, Stock, 1900.

KAY Geoffrey, “Why labor is the starting point of Capital”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

KLIMOVSKY Edith, La rente dans la théorie de la valeur et des prix, thèse Université Paris X, 1981.

KORSCH Karl, Karl Marx, Champ libre, 1971.

KOSIK Karel, La dialectique du concret, Maspéro, 1978.

LAURE Vincent, “A propos de la transformation des valeurs en prix de production”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

LAURE Vincent, “Prix de monopole et sur-profits: l’analyse marxiste”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

LATOUCHE Serge, Le projet marxiste, PUF, 1975.

LAUTIER Bruno, “L’objet du rapport salarial”, communication au colloque Formes de mobilisation salariale et théorie du salariat, Université de Picardie, 1985.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, “La force de travail comme marchandise particulière”, in ACSES, Sur l’Etat, Contradictions, 1977.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, Ecole, force de travail et salariat, Maspéro - PUG, 1978.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, “Monnaie, financement et rapport salarial”, Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984.

LEBAS Christian, “Prix de production individuel et prix de production de marché, Cahiers Analyse, Epistémologie, Histoire, n˚ 6, 1975.

LEBAS Christian, C. MERCIER, “La valeur de marché et la théorie de la valeur, Cahiers Analyse, Epistemologie, Histoire, n˚ 6, 1975.

LEFORT Claude, Les formes de l’histoire, 1978.

LENINE Vladimir Illitch, Oeuvres complètes, t. 38, Editions du Progrès, 1971.

LENINE Vladimir Illitch, Karl Marx et sa doctrine, Editions Sociales, 1953.

LENINE Vladimir Illitch, Programme agraire de la social-démocratie dans la première révolution russe de 1905-1907, Editions du Progrès, 1967.

LENINE Vladimir Illitch, “Nouvelles données sur le développement du capitalisme dans l’agriculture”, in Oeuvres complètes, Editions du Progrès, t. 22.

LEONARD Jean, WEINSTEIN Olivier, “Uniformisation - différentiation des taux de profit: éléments pour une réinterprétation”, Cahiers d’économie politique n˚ 4. 1977.

LINHART Robert, Lénine, les paysans, Taylor, Seuil, 1976.

LIPIETZ Alain, Le tribut foncier urbain, Maspéro, 1974.

LIPIETZ Alain, Le capital et son espace, Maspéro, 1977.

LIPIETZ Alain, “Les mystères de la rente absolue. Commentaires sur les incohérences d’un texte de Sraffa”, Cahiers d’économie politique n˚ 5, 1979.

LIPIETZ Alain, Crise et inflation, pourquoi?, Maspéro, 1979.

LIPIETZ Alain, “Retour au problème de la transformation des valeurs en prix de production”, Cahiers d’économie politique n˚ 7, 1982.

LIPIETZ Alain, Le monde enchanté, La Découverte, 1983.

LIPIETZ Alain, “Le débat sur la valeur: bilan partiel et perspectives partiales”, in B. CHAVANCE (ed), Marx en perspective, EHESS, 1985.

LUXEMBURG Rosa, Introduction à l’économie politique, UGE, 1973.

LUXEMBURG Rosa, L’accumulation du capital, Oeuvres IV, Maspéro, 1972.

MACHEREY Pierre, “A propos du processus d’exposition du Capital”, in L. ALtHUSSER et al., Lire Le Capital, IV, Maspéro, 1973.

MAGALINE A. D., Luttes de classes et dévalorisation du capital, Maspéro, 1975.

MALER Henri, Convoiter l’impossible, Albin Michel, 1995.

MANDEL Ernest, Traité d’économie marxiste, Julliard, 1964.

MANDEL Ernest, Le troisième âge du capitalisme, UGE, 1976, 3 vol.

MAROUANI Abraham, “A propos du chapitre premier du Capital. L’importance décisive de la dialectique”, Cahiers du CERM n˚ 153, 1978.

MARSHALL Alfred, Principes d’économie poltique, Gordon et Breach, 1971.

MARTIN Catherine, “Demande et formation des prix dans le théorie classique: le débat entre Ricardo et Malthus”, Cahiers d’économie politique n˚ 7, 1982.

MASSARAT Mohssen, “Crise de l’énergie ou crise du capitalisme”, n˚ 21, juil.-sept. 1975. Critiques de l’économie politique.

MATHIAS Gilberto, SALAMA Pierre, L’Etat surdéveloppé, La Découverte, 1983.

MATTICK Paul, Marx et Keynes, Gallimard, 1969.

MATTICK Paul, “Henryk Grossmann, théoricien de l’accumulation et de la crise”, in H. GROSSMANN, Marx, l’économie politique classique et le problème de la dynamique, Champ libre, 1975.

MAUCOURANT Jerôme, “Polanyi, lecteur de Marx”, Actuel Marx n˚ 9, 2000.

MAUNOURY Jean-Louis, “Théorie marxiste de la valeur et normes sociales de valorisation”, Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984.

MAURISSON Patrick, “Prix d’offre et égalisation des taux de profit: essai sur la formation des prix chez Marx”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

MAURISSON Patrick, “Système des prix normaux, rapport salarial et révision des schémas marxistes de la transformation”, in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Decouverte - PUQ, 1985.

MEEK Ronald, Studies in the labour theory of value, Laurence and Wishart, 1973.

MESTRE Jean-Etienne, “Terre, rente et difficulté de production”, Cahiers d’economie politique n˚ 5, 1979.

MIAILLE Michel, L’Etat du droit, Maspéro - PUG, 1978.

MOLLARD Amédée, Paysans exploités, PUG 1978.

MORISHIMA Michio, Marx’s economics, Cambridge UP, 1973.

MORISHIMA Michio, CATEPHORES G., Valeur, exploitation et croissance, Economica, 1981.

NAPOLEONI Claudio, “Valeur et exploitation: la théorie économique de Marx et au-delà”, Cahiers d’économie politique n˚ 33, 1998.

NASSISI, Anna-Maria, “Marx et Bortkiewicz sur la rente absolue”, in C. BIDARD, La rente, Economica, 1987.

NETTER Maurice, “Critiques de quelques thèses relatives aux concepts économiques de Karl Marx”, in BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

NETTER Maurice, “Valeurs, prix et secteurs de péréquation des taux de profit”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

NIKITINE P., Principes d’économie politique, Editions du Progrès, 1966

O.C.B., L’étude du Capital, O.C.B., 1979.

ORLEAN André, “L’origine de la monnaie”, Revue du MAUS n˚ 14, 1991.

ORLEAN André, “Réflexion sur la notion de légitimité monétaire, l’apport de Simmel”, in J.M. BALDER, L. GILLARD (ed), Simmel et les normes sociales, L’Harmattan, 1996.

PALLOIX Christian, “Le procès de travail: du fordisme au néo-fordisme”, La Pensée n˚ 185, fev. 1976.

PALLOIX Christian, Procès de production et crise du capitalisme, Maspéro - PUG, 1977.

PALLOIX Christian, De la socialisation, Maspéro, 1981.

PARETO Vilfredo, Les systèmes socialistes, Giard et Brière, vol. 2, 1903.

PASUKANIS Evgeny, La théorie générale du droit et le marxisme, EDI, 1970.

PEREZ Manuel, “Valeur et prix: un essai de critique des propositions néo-ricardiennes”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1980.

POLANYI Karl, La grande transformation, Gallimard, 1983.

POLANYI Karl, “Marx on corporativism”, Archiv Karl Polanyi 1934-1946, box 6, Institut Karl Polanyi d’économie politique.

POSTEL-VINAY Gilles, La rente foncière dans la capitalisme agricole, Maspéro, 1974.

POTIER Jean-Pierre, Lectures italiennes de Marx, PUL, 1986.

POUCH Thierry, Les économistes francais et le marxisme. Apogée et déclin d’un discours critique (1950-2000), PUR, 2001.

RANCIERE Jacques, “Le concept de crititique et la critique de l’économie politique des Manuscrits de 1844 au Capital”, in L. ALTHUSSER et al., Lire Le Capital, III, Maspéro, 1973.

REBOUL Claude, “Déterminants sociaux de la fertilité des sols”, Actes de la recherche en sciences sociales n˚ 17-18, nov. 1977.

REGNAULT Henri, La contradiction foncière, thèse Université Paris IX, 1975.

REGNAULT Henri, “Rente foncière et transformation des valeurs en prix”, in P. H. DERYCKE (ed), La rente foncière urbaine, Etudes foncières, 1984.

RENAULT Emmanuel, “Marx et les critiques de l’économie politique”, Marx Actuel n˚ 27, 2000.

REY Pierre-Philippe, Les alliances de classes, Maspéro, 1973.

REY Pierre-Philippe, “Quelques remarques sur l’article de P. Bonte”, La Pensée n˚ 171, oct. 1973.

REY Pierre-Philippe, Colonialisme, néo-colonialisme et transition au capitalisme, Maspéro, 1971.

REY Pierre-Philippe, Le capitalisme négrier, Maspero, 1976.

RICARDO David, Principes de l’économie politique et de l’impôt, Flammarion, 1992.

RICARDO David, “Valeur absolue et valeur d’échange”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

ROBINSON Joan, Essai sur l’économie de Marx, Dunod, 1971.

ROBINSON Joan, “Un réexamen de la théorie de la valeur”, in G. FACCARELLO, P. LAVERGNE (ed), Une nouvelle approche en économie politique? Essai sur Sraffa, Economica, 1977.

ROBINSON Joan, EATWELL John, L’économique moderne, Ediscience - McGraw Hill, 1976.

RONCAGLIA Alessandro, “Production des marchandises par des marchandises, critique et dépassement de la méthode marginaliste”, in G. FACCARELLO, P. LAVERGNE (ed), Une nouvelle approche en économie politique? Essai sur Sraffa, Economica, 1977.

ROLAND Gérard, La valeur d’usage chez Karl Marx, Editions Université de Bruxelles, 1985.

ROSANVALLON Pierre, Le capitalisme utopique, Seuil, 1979.

ROSDOLSKY Roman, La genèse du Capital chez Karl Marx, Maspéro 1976.

ROSENBERG D.I., Giới thiệu quyển I Tư bản của Các Mác, Sự Thật, 1969.

ROSENBERG D.I., Giới thiệu quyển III Tư bản của Các Mác, Sự Thật, 1972.

ROUBINE Isaak, Essais sur la théorie de la valeur, Maspéro, 1978

RUBIN Isaac, “Abstract labour and value in Marx’s system”, Capital and Class n˚ 5, 1978.

SAGNOL Marc, “Des Grundrisse au Capital. Sur la modification du plan du Capital, La Pensée n˚ 228, juil.-aout 1982.

SALAMA Pierre, Sur la valeur, Maspéro, 1975.

SALAMA Pierre, “A nouveau sur la transformation des valeurs en prix de production”, Cahiers d’économie politique n˚ 3, 1976.

SALAMA Pierre, “Valeur, prix de production: une approche différente”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

SALAMA Pierre, “Etat et capital. L’Etat capitaliste comme abstraction réelle”, Critique de l’économie politique n° 7-8, 1979.

SALAMA Pierre, VALIER Jacques, Une introduction à l’économie politique, Maspéro, 1973.

SALAMA Pierre, TRAN Hai Hac, Introduction à l’économie de Marx, La Découverte, 1992.

SAMUELSON Paul, “The ‘transformation’ from marxian ‘values’ to ‘competitive prices’: a process of rejection and replacement”, Proceeding of National Academy of Sciences, LXVII, 1970.

SAMUELSON Paul, Economics: winds of change, McGraw-Hill, 1973.

SAMUELSON Paul, “Reply on marxian matters”, Journal of Economic Literature, 1973.

SCHUMPETER Joseph, Histoire de l’analyse économique, Gallimard, 1983, vol. 2.

SCIALOM Laurence, “Evaluation, échange versus paiement, un commentaire”, in J. M. BALDER, L. GILLARD, Simmel et les normes sociales, L’Harmattan, 1996.

SCOTT Allen, “Land use and commodity production”, Regional Science and Urban Economics, 1976, vol. 6, in J. L. GUIGOU, La rente fonciere, Economica, 1982.

SERVOLIN Claude, “L’absoption de l’agriculture dans le mode de production capitaliste”, in Y. TAVERNIER, M. GERVAIS, C. SERVOLIN (ed), L’univers politique des paysans dans la France contemporaine, A. Colin, 1972.

SEVE Lucien, Structuralisme et dialectique, Editions Sociales, 1984.

SEVE Lucien, Une introduction à la philosophie marxiste, Editions Sociales, 1980.

SIFI, “Internationalisation du capital et processus productif: une approche critique”, Cahiers d’économie politique n˚ 1, 1974.

SIMMEL Georg, Philosophie de l’argent, PUF, 1987.

SRAFFA Piero, Production de marchandises par des marchandises, Dunod, 1977.

STEEDMAN Ian, “Heterogeneous labor, money wages and Marx’s theory”, in B. CHAVANCE, Marx en perspective, EHESS, 1985.

STEEDMAN Ian, “Ricardo, Marx et Sraffa”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

SWEEZY Paul, The theory of capitalist development, Modern Reader, 1968.

SWEEZY Paul, Le capitalisme moderne, Seuil, 1976.

TAKENAGA Susumu, Valeur, formes de la valeur et étapes dans la pensée de Marx, Peter Lang, 1985.

TERRAIL Jean-Pierre, “Fétichisme de la marchandise et idéalisme des besoins”, in J. DECAILLOT et al., Besoins et mode de production, Editions Sociales, 1976.

TERRAIL Jean-Pierre, “La logique du technologique”, La Pensée n˚ 197, fev. 1978.

TEXIER Jean, “Sur la détermination en dernière instance”, in CERM, Sur la dialectique, Editions Sociales, 1977.

THERET Bruno, “Rapports de production et forces productives. La nécessité d’un retour a Marx”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct.-dec. 1977.

THERET Bruno, Régimes économiques de l’ordre politique, PUF, 1992.

THERET Bruno, WIEVIORKA Michel, Critique de la théorie du capitalisme monopoliste d’Etat, Maspéro, 1978.

TOMBAZOS Stavos, Le temps dans l’analyse économique. Les catégories du temps dans Le Capital, Editions Société des saisons, 1994.

TOPALOV Christian, Le profit, la rente et la ville, Economica, 1984.

TORTAJADA Ramon, “Marchandise, valeur et force de travail”, in BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

TRẦN HẢI HẠC, “Etat et capital dans l’exposé du Capital”, in Antoine Artous, Tran Hai Hac, Jose Luis Solis Gonzalez, Pierre Salama, Nature et forme de l’Etat capitaliste, Editions Syllepse et M. Editeur, 2015. Bản tiếng Việt: Nhà nước và tư bản trong trình bày của bộ Tư bản, www.phantichkinhte123.com.

TRẦN HẢI HẠC, “Introduction de 1857, travail abstrait et ‘travail en général’”, Variations, Printemps 2005.

TRONTI Mario, Ouvriers et capital, Christian Bourgois, 1977.

TUTIN Christian, Rente foncière, valeur et formation des espaces urbains, thèse Université Paris I, 1978.

TUTIN Christian, “Rente foncière et gravitation des prix agricoles”, in C. BIDARD (ed), La gravitation, Cahiers de la RCP Systèmes de prix de production n˚ 2-3, Université Paris X, 1984.

TUTIN Christian, “Rente foncière et aménagement spatial: les théories de la rente ont-elles un objet?’, P. H. DERYCKE, La rente foncière urbaine, Etudes foncières, 1984.

TUTIN Christian, “Propriété des villes et propriété des champs”, in J. L. GUIGOU (ed), La propriété foncière, Economica, 1984.

VADEE Michel, Marx, penseur du possible, Méridien - Klincksieck, 1992.

VALIER Jacques, Le parti communiste francais et le capitalisme monopoliste d’Etat, Maspéro, 1976.

VILLE Philippe, VROEY Michel de, “Salaire et marché du travail chez Marx et Keynes: orthodoxie ou hétérodoxie?”, Cahiers d’économie politique n˚ 10-11, 1985.

VINCENT Jean-Marie, “La domination du travail abstrait”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct.-déc. 1977.

VINCENT Jean-Marie, Critique du travail, PUF, 1987.

VINCENT Jean-Marie, Un autre Marx. Après les marxismes, Page Deux, 2001.

VINCQ Jean-Louis, “Valeur, rente et accentuation des rapports marchands en agriculture”, Cahiers d’economie politique n˚ 4, 1977.

VOLKOV M. (ed), Dictionnaire d’économie politique, Editions du Progrès, 1983.

 VROEY Michel de, “Marchandise, société marchande, société capitaliste. Un réexamen de quelques définitions”, Cahiers d’économie politique n° 9, 1984.

VROEY Michel de, “La théorie marxiste de la valeur, version travail abstrait. Un bilan critique”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire. Théorie de la valeur et formation des prix, La Découverte - PUQ,1985.

VROEY Michel de, “La théorie du salaire de Marx. Une critique hétérodoxe”, Revue économique n˚ 3, mai 1985.

WEINSTEIN Olivier, “Egalisation des taux de profit et mobilité du capital”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

WICKSELL K., Lectures on political economy, Roudledge and Kegan, 1934.

WICKSTEED Philip, “Das Kapital: a criticism”, in The common sense of political economy, A.M. Kelley, 1950.

WYGODSKY W.S., Vị trí cuốn ‘Các học thuyết về giá trị thặng dư’ trong di cảo kinh tế của Các Mác, nxb Khoa học xã hội, 1971.

YAFFE David, “Valeur et prix dans Le Capital de Marx”, Critiques de l’économie politique n˚ 20, avril-juin 1975.

* * *

MỤC LỤC

Tập I

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI DẪN NHẬP

Phần thứ nhất: HÀNG HÓA NHƯ LÀ HÌNH THÁI CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG

Chương 1: LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ

Tiết 11: Lao động trừu tượng và lao động cụ thể, lao động xã hội và lao động tư nhân

§ 111: Sự đối lập giữa lao động tư nhân và lao động xã hội

§ 112: Sự che phủ lao động tư nhân - lao động cụ thể, lao động xã hội - lao động trừu tượng

§ 113: Tính xã hội và xã hội hoá các cá nhân

Tiết 12: Lao động trừu tượng - cụ thể, lao động sinh lý và lao động có ích

§ 121: Định nghĩa vật chất - kỹ thuật về lao động cụ thể

§ 122: Định nghĩa thực chứng về lao động trừu tượng

Tiết 13: Lao động trừu tượng, lao động nói chung và sự trừu tượng hóa hiện thực

§ 131: Lao động trừu tượng như là sự thật thực tiễn

§ 132: Lao động trừu tượng như là lao động tha hóa

§ 133: Lao động trừu tượng như là phổ quát cụ thể

Tiết 14: Lao động trừu tượng, lao động xã hội và lao động ngang nhau

§ 141: Lao động trừu tượng như là phạm trù lô-gíc

§ 142: Lao động trừu tượng như là phạm trù siêu hình

§ 143: Bàn về Chương 1, Quyển I bộ Tư bản

Chương 2: HÌNH THÁI GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiết 21: Tính khách thể xã hội và hình thái vật chất của giá trị

mục 211: Giá trị như hình thái khách thể của xã hội

mục 212: Giá trị như hình thái xã hội của khách thể

mục 213: Tính khách thể và tính vật chất

Tiết 22: Giá trị và giá trị sử dụng

mục 221: Sự phân biệt giữa tính hữu dụng và giá trị hữu dụng

mục 222: Sự thống nhất của giá trị và giá trị hữu dụng

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TIỀN TỆ

Chương 3: TÍNH ĐỐI CỰC TIỀN TỆ – HÀNG HÓA

Tiết 31: Lao động trừu tượng và/hay tiền tệ

mục 311: Hình thái của giá trị và tính đối cực hình thái tương đối – hình thái ngang giá

mục 312: Hình thái giá cả và tính đối cực hàng hóa – tiền tệ

mục 313: Các hình thái của tiền tệ và tính đối cực tín dụng – tiền tệ

mục 314: Tiền tệ hay mặt đối lập của hàng hóa

mục 315: Tính hai mặt của tiền tệ

Tiết 32: Giá trị và/hay giá trị trao đổi

mục 321: Từ Góp phần phê phán kinh tế chính trị học đến Tư bản

mục 322: Giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối

mục 323: “1 góc tạ lúa mì = a tạ sắt” đối chiếu với “20 m vải = 1 cái áo”

Tiết 33: Giá trị và/hay giá cả

mục 331: Thước đo nội tại và thước đo bề ngoài của giá trị

mục 332: Sự chuyển hóa giá trị thành giá cả

Chương 4: SỰ SÙNG BÁI HÌNH THÁI GIÁ TRỊ

Tiết 41: Hình thái khách thể và hình thái chủ thể

mục 411: Hình thái khách thể và sùng bái

mục 412: Hình thái hàng hóa của tính cá thể

mục 413: Sùng bái và tha hóa

Tiết 42: Bàn về Phần 1, Quyển I bộ Tư bản

Phần thứ hai: HÀNG HÓA VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ SỨC LAO ĐỘNG

Chương 5: TƯ BẢN NHƯ QUAN HỆ HÀNG HÓA VỀ BÓC LỘT

Tiết 51: Sự phân chia thế giới hàng hóa giữa sản phẩm của tư bản và sức lao động

mục 511: Giá trị như là quan hệ bó buộc lao động thặng dư

mục 512: Sức lao động như là hàng hóa ảo

Tiết 52: Quan hệ trao đổi như là hình thái quan hệ giai cấp

mục 521: Quan hệ hàng hóa và quan hệ tư bản chủ nghĩa

mục 522: Hình thái giá trị và nội hàm giai cấp

Chương 6: TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ SỨC SẢN XUẤT

Tiết 61: Sự vật thể hóa tư bản trong sức sản xuất

mục 611: Thâu gồm hình thức và bó buộc tiền tệ về lao động thặng dư

mục 612: Thâu gồm hiện thực và bó buộc kỹ thuật về lao động thặng dư

Tiết 62: Tính hai mặt của sức sản xuất do tư bản phát triển

mục 621: Phủ định tư bản như là xu thế của tư bản

mục 622: Tính đối kháng và phi đối kháng của mâu thuẫn tư bản

mục 623: Sức lao động, khái niệm đặc thù của người lao động tự do

CHÚ THÍCH

Tập II

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TỶ SUẤT LỢI NHUẬN CHUNG

Chương 7: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ LÀ BƯỚC CHUYỂN PHÂN TÍCH TƯ BẢN TỪ CẤP ĐỘ TRỪU TƯỢNG HÓA NÀY SANG CẤP ĐỘ KHÁC

Tiết 71: Quan hệ giai cấp và quan hệ liên tư bản

mục 711: Sản xuất hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa

mục 712: Tư bản nói chung và tư bản số nhiều

Tiết 72: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận bình quân

mục 721: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá trị thị trường

mục 722: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá cả thị trường

mục 723: Cương vị kép của tỷ suất lợi nhuận chung: hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư và tỷ suất lợi nhuận bình quân

Chương 8: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ BƯỚC PHÁT TRIỂN HÌNH THỨC CỦA GIÁ TRỊ SANG CẤP ĐỘ TƯ BẢN SỐ NHIỀU

Tiết 81: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận không ngang nhau

mục 811: Tỷ suất lợi nhuận chung và những hình thái cạnh tranh

mục 812: Tỷ suất lợi nhuận chung và phân khúc tư bản

Tiết 82: Giá cả sản xuất và quy luật giá trị

mục 821: Phép chuyển hóa và bóc lột

mục 822: Hai đẳng thức của phép chuyển hóa

mục 823: Giá cả sản xuất và lao động xã hội cần thiết

Phần thư ba: HÀNG HÓA VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN CÁ BIỆT

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH

Chương 9: SIÊU LỢI NHUẬN NỘI NGÀNH VÀ LIÊN NGÀNH

Tiết 91: Giá cả sản xuất chung, giá cả sản xuất cá biệt và siêu lợi nhuận cá biệt

mục 911: Giá cả sản xuất và giá cả thị trường

mục 912: Giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt

mục 913: Giá cả sản xuất chung và giá trị thị trường

Tiết 92: Giá cả sản xuất chung, giá cả thị trường và siêu lợi nhuận thị trường

mục 921: Tính chất của lao động xã hội cần thiết

mục 922: Giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất

mục 923: Tỷ suất lợi nhuận chung, siêu lợi nhuận thị trường và siêu lợi nhuận cá biệt

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ CHUYỂN ĐỔI LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH THÀNH ĐỊA TÔ

Chương 10: ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Tiết 101: Sở hữu đất đai và tư bản

mục 1011: Sở hữu đất đai như là quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa

mục 1012: Sự thâu gồm sở hữu đất đai vào tư bản

mục 1013: Địa tô tuyệt đối, sở hữu ruộng đất và giai cấp xã hội

Tiết 102: Vấn đề ruộng đất và quy luật giá trị

mục 1021: Địa tô tư bản chủ nghĩa và khớp nối các phương thức sản xuất

mục 1022: Sự thâu gồm lao động vào tư bản trong nông nghiệp và sự bóc lột lao động nông dân

mục 1023: Đối tượng của Phần 6 Quyển III Tư bản

Chương 11: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH

Tiết 111: Lĩnh vực nông nghiệp và sự xác định giá cả sản xuất

mục 1111: Khả năng về lợi nhuận dưới chuẩn bình quân trong nông nghiệp

mục 1112: Khả năng về địa tô chênh lệch âm

Tiết 112: Đất nông nghiệp và tính màu mỡ

mục 1121: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ kinh tế

mục 1122: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ nhân tạo

mục 1123: Ruộng đất như là hàng hóa ảo và sự chuyển đổi siêu lợi nhuân cá biệt thành địa tô chênh lệch

Chương 12: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ TUYỆT ĐỐI

Tiết 121: Giải pháp lý luận năm 1862

mục 1211: Địa tô trên khoảng đất tồi nhất

mục 1212: Cấu thành hữu cơ của tư bản nông nghiệp và sở hữu ruộng đất

mục 1213: Địa tô tuyệt đối như khoản dư của giá trị trao đổi trên giá cả sản xuất

mục 1214: Tình trạng thị trường và sự hiện thực hóa địa tô

Tiết 122: Đặt lại vấn đề địa tô tuyệt đối

mục 1221: Khoản trừ trên giá trị trao đổi hay khoản dư trên giá cả sản xuất

mục 1222: Địa tô tuyệt đối hay địa tô độc quyền

mục 1223: Địa tô nội sinh hay địa tô ngoại sinh

mục 1224: Tính chất của địa tô tuyệt đối và phương thức xác định nó

LỜI KẾT

CHÚ THÍCH

THƯ MỤC

MỤC LỤC

Nguồn: Tác giả - dịch giả Trần Hải Hạc gởi trực tiếp cho PTKT.

----

Bài đã đăng:

- Lời nói đầu và Lời dẫn nhập

- Phần thứ hai (II): Hàng hóa như là hình thái của sản phẩm lao động.




Chú thích:

LƯU Ý CỦA TÁC GIẢ - DỊCH GIẢ

[1] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 74].

[2] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 15].

[3] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 53].

[4] Hệ tư tưởng Đức [1846, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2014 của nxb Editions Sociales, tr. 195, 197]. Trong các ấn bản trước của nhà xuất bản này, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “subordination” (sự phụ thuộc) [ấn bản 1967, tr. 62].

[5] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571]. Chương VI. Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2010 của nxb Editions Sociales, tr. 30]. Trong ấn bản trước đó của nxb UGE, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “soumission” (sự phục tùng) [ấn bản 1971, tr. 191].

[6] Tư bản, Quyển 1, bản 1875 [1875, t.1, tr. 62].

[7] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 53, bản in 1977 nxb Cerf]. Tư bản, Quyển 1, bản 1890 [1890, tr. 54, bản in 1983 nxb Editions Sociales].

[8] Tư bản, Quyển 1, bản 1890 [1890, tr. xii và 51, bản in 2016 nxb Editions Sociales].


Chương 2: HÌNH THÁI GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

[1] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 462].

[2] Louis Althusser, “Avant Propos”, trong Georges Duménil, Le concept de la loi économique dans Le Capital, nxb Maspéro, 1978, tr. 14.

[3] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 65]; bản 1890 [1890, tr. 58].

[4] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1. tr. 86].

[5] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 70].

[6] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, tr. 85].

[7] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 92].

[8] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 86]. Xem phía sau Tiết 52.

[9] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 101]; Chương 1, Tư bản, bản 1890 [1867/1890a, tr. 221].

[10] Isaak Roubine, Essais sur la théorie de la valeur, nxb Maspéro, 1978, tr. 28.

[11] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 111].

[12] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t. 3, tr. 256].

[13] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 92]. Hay: “Việc đo tiêu phí sức lao động của con người bằng thời gian lao động biểu hiện bằng lượng về giá trị của các sản phẩm lao động”. Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 82].

[14] Bản thảo 1844 [1844, tr. 92-93].

[15] Jacques Rancière, “Le concept de crititique et la critique de l’économie politique des Manuscrits de 1844 au Capital”, trong L. Althusser et al., Lire Le Capital, III, nxb Maspéro, 1973, tr. 18-19.

[16] “Đối tượng là đối tượng hóa của chính chủ thể (…) Nói cách khác, thế giới khách thể tự nhiên cảm nhận được thật ra là chính chủ thể của ta cảm nhận được. Không có ý thức về đối tượng nào mà không phải là ý thức về bản thân”. Lucio Colletti, Le marxisme et Hegel, nxb Champ libre, 1976, tr. 251 và 239.

[17] L. Althusser, sđd., tr. 41.

[18] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 58].

[19] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 85].

[20] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 85]; bản 1890 [1890, tr. 81 và 83].

[21] Chương 1, Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 53]; Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 54].

[22] Carlo Benetti, Jean Cartelier, Marchands, salariat et capitalistes, nxb Maspéro-PUG, 1980, tr. 144-145.

[23] C. Benetti, J. Cartelier, sđd., tr. 13 và 94-95.

[24] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 186].

[25] Xem phía sau Tiết 61.

[26] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 52].

[27] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 66].

[28] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 52].

[29] Cuộc thảo luận về cương vị của giá trị sử dụng sẽ tiếp diễn ở phía sau tại Tiết 22.

[30] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 65].

[31] Xem thêm cách đọc phê phán của Gilbert Faccarello, theo đó các khái niệm về giá trị và về lao động trừu tượng “không hề thể hiện cái gì vật chất, mà quy chiếu đến cái đơn thuần xã hội”. G. Faccarello, Travail, valeur et prix, thèse Université Paris X, 1979, tr. 627.

[32] Chương 1, Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 55]

[33] Ruy Fausto nhận xét rằng phê phán chính trị kinh tế học mà Marx tiến hành bao gồm hai mặt: một mặt, là phê phán tính chất bái vật của nó, tức sự tự nhiên hóa những quan hệ xã hội vật thể hóa; và mặt khác, là phê phán thuyết quy ước (hay phi bái vật) của nó, tức việc quy tính khách thể của xã hội thành ký hiệu tùy tiện (phủ nhận thuyết về vật thể hóa xã hội). R. Fausto, Marx: logique et politique, nxb Publisud, 1986, tr. 205.

[34] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 202].

[35] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 53].

[36] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 96].

[37] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 477].

[38] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 56].

[39] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 231].

[40] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 186].

[41] Chương 1, Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 77]

[42] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 476].

[43] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 231].

[44] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 477].

[45] Roman Rosdolsky, La genèse du Capital chez Karl Marx, nxb Maspéro 1976, tr. 113.

[46] Xem Rudolf Hiferding, “Bohm-Bawerk’s criticism of Marx”, in P. Sweezy (ed), Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, & Bohm-Bawerk’s criticism of Marx by Rudolf Hilferding, nxb Augustus Kelley, 1949, tr. 130. Paul Sweezy, The theory of capitalist development, nxb Modern Reader, 1968, tr. 26.

[47] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 231].

[48] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 375-376 và 138]. Xem thêm tr. 346.

[49] Các học thuyết về giá trị thặng dư cũng nhấn mạnh trên “tầm quan trọng của tính quy định giá trị sử dụng đối với các tính quy định hình thái kinh tế” [1862-1863, t.2, tr. 583].

[50] L. Althusser, “Avertissement aux lecteurs du Capital”, trong K. Marx, Le Capital, Livre I, nxb Garnier-Flammarion, 1969, tr. 21-22.

[51] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 472].

[52] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 189].

[53] Có thể áp dụng cho cách đọc Tư bản của Bohm-Bawerk, lời bình của Marx đối với Karl Knies: “Gã ngốc tưởng rằng, trong phương trình về giá trị, ta muốn ‘quy’ các giá trị sử dụng thành giá trị”. Những lá thư viết về bộ Tư bản [1845-1895, tr. 285]

[54] Xem phía sau Tiết 31.

[55] Jean Baudrillard, Pour une critique de l’économie politique du signe, nxb Gallimard, 1972, tr. 153.

[56] J. Baudrillard, sđd., tr. 154-157 và 160.

[57] Jean Baudrillard, Le miroir de la production, nxb Casterman, 1973, tr. 12.

[58] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 471-472].

[59] Jean-Pierre Terrail, “Fétichisme de la marchandise et idéalisme des besoins”, trong J. Decaillot et al., Besoins et mode de production, nxb Editions Sociales, 1976, tr. 50 và tiếp theo. Xem phía sau Tiết 42.

[60] J. Baudrillard, Pour une critique de l’économie politique du signe, nxb Gallimard, 1972, tr. 154.

[61] J. Baudrillard, sđd., tr. 151 và 164.

[62] J. Baudrillard, sđd., tr. 189, 162, 164 và 167.

[63] J. Baudrillard, Le miroir de la production, nxb Casterman, 1973, tr. 12.

[64] J. Baudrillard, Pour une critique de l’économie politique du signe, nxb Gallimard, 1972, tr. 156-159.

[65] Emmanuel Blanc, “Prendre l’outil et la parole”, Cahiers analyse, épistemologie, histoire n˚ 6, 1975, tr. 93 và tiếp theo.

[66] J. Baudrillard, sđd., tr. 189.

[67] Xem phía sau Tiết 62.

[68] J. Baudrillard, Le miroir de la production, nxb Casterman, 1973, tr. 107.

[69] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 375-376 và 138].

[70] Bảo về luận điểm ấy, còn có Henri Denis: “Khi nhấn mạnh trên tính tự nhiên của giá trị sử dụng, (…) Marx muốn khẳng định rằng giá trị sử dụng không hề mang tính xã hội” (H. Denis, L’ “économie” de Marx, nxb PUF, 1980, tr. 143). Dưới một hình thức khác, phế phán này được Carlo Benetti và Jean Cartelier lặp lại với “giả thuyết về danh pháp” (xem phía sau Tiết 21). Và cả Michel Aglietta và André Orléan: “Cho dù Marx nêu nhiều chỉ dẫn về tính chất tinh thần và lịch sử của các nhu cầu, giá trị sử dụng vẫn là một điều bí hiểm vì không được quan niệm như là quan hề xã hội” (M. Aglietta, A. Orléan, La violence de la monnaie, nxb PUF, 1982, tr. 26).

[71] “Sản xuất tạo ra tiêu dùng: 1) bằng cách tạo ra vật liệu cho tiêu dùng; 2) bằng cách xác định phương thức tiêu dùng; 3) bằng cách làm nảy ra ở người tiêu dùng các nhu cầu mà đối tượng là sản phẩm do sản xuất tạo ra. Vì vậy, sản xuất sản xuất ra đối tượng tiêu dùng, phương thức tiêu dùng và sự kích thích tiêu dùng”. Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 27].

[72] Xem phía sau Tiết 61.

[73] Đó là nhận định của Emmanuel Blanc: “Sở dĩ Marx đồng hóa giá trị sử dụng và tính hữu dụng, đó là vì ông không khảo cứu hệ thống giá trị sử dụng (và những quan hệ xã hội gắn liền với nó) như ông đã khảo cứu hệ thống giá trị trao đổi (với những quan hệ về sản xuất gắn lin nó)” [E. Blanc, sđd., tr 87].

[74] Karl Korsch đã tóm tắt chính xác lập luận của Ricardo trong ba đoạn văn đầu tiên của Những nguyên lý của chính trị kinh tế học và thuế khóa: “Đoạn thứ nhất nhập đề bằng câu dẫn của A. Smith phân biệt giá trị sử dụng với giá trị trao đổi; đoạn thứ hai xác định giá trị sử dụng là tiền đề bắt buộc của giá trị trao đổi; đoạn thứ ba dứt khoát gạt bỏ tiền đề ấy ra khỏi lĩnh trường lý luận”. (K. Korsch, Karl Marx, nxb Champ libre, 1971, tr. 134).

[75] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 138; t. 1, tr. 259].

[76] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 208].

[77] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 208].

[78] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 208].

[79] Henrik Grossman, Marx, l’économie classique et le problème de la dynamique, nxb Champ libre, 1975, tr. 63, 83 và 69.

[80] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 2, tr. 346].

[81] R. Rosdolsky, sđd., 124 và tiếp theo.

[82] Jean Cartelier, Surproduit et reproduction, nxb Maspéro-PUG, 1976, tr. 232-233.

[83] J. Cartelier, sđd., tr. 256.

[84] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 471-471 và 462].

[85] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 472]. Tư bản, Quyển I, bản 1875, t. 1, tr. 56.

[86] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 472].

[87] Carlo Benetti, Jean Cartelier, Marchands, salariat et capitalistes, nxb Maspéro-PUG, 1980, tr. 141.

[88] Đối với Jean Cartelier, việc Marx thiết kế không gian về giá trị đẫn đến “thiếu vắng một lĩnh trường lý luận trong đó có thể đồng thời tư duy giá trị sử dụng và giá trị trao đổi” (J. Cartelier, sđd., tr. 257). Đấy cũng là cách đọc của Henri Denis, theo đó sự đối lập giữa tính “thuần tự nhiên” của giá trị sử dụng và tính “thuần xã hội” của giá trị trao đổi đưa đến sự đoạn tuyệt giữa “hai giá trị” thuộc về “những thế giới khác biệt nhau” (H. Denis, sđd., tr. 142).

[89] Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolph Wagner [1879-1880, tr. 471 và 473].

[90] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 92].

[91] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 94].

[92] Carlo Benetti, Jean Cartelier, “Mesure invariable des valeurs et théorie ricardienne de la marchandise”, trong Carlo Benetti et al., Marx et l’économie politique, nxb Maspero-PUG, 1977, tr. 138-139.

[93] K. Korsch, sđd., tr. 142.

[94] Chương 1, Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 145]

[95] Ramon Tortajada, “Marchandise, valeur et force de travail”, trong B. Boureille et al., Réexamen de la théorie du salariat, nxb PUL, 1981, tr. 31.

[96] Theo Knut Wicksell, “không kể đến tiền tệ là bước tiến quyết định đã đầu tiên tạo nên tính thật sự khoa học của kinh tế học”. (K. Wicksell, Lectures on political economy, nxb A. Kelley, 1950, t. 1, tr. 233).

Print Friendly and PDF