25.4.21

Đọc lại Tư bản (I)

Trần Hải Hạc

ĐỌC LẠI TƯ BẢN (I)

LƯU Ý CỦA TÁC GIẢ - DỊCH GIẢ.

Trần Hải Hạc (1945-)

Năm 2003, công trình nghiên cứu Pháp ngữ Relire Le Capital. Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique của Trần Hải Hạc ra mắt ở nhà xuất bản Page Deux (Lausanne, Thụy Sĩ) và gồm hai tập sách (t.1, 397 trang; t.2, 366 tr.). Từ đầu năm 2021, với nhan đề Đọc lại Tư bản. Marx, phê phán chính trị kinh tế học và đối tượng của phê phán chính trị kinh tế học, bản dịch tiếng Việt do tác giả tự thực hiện sẽ được công bố từng phần trên trang Phân tích kinh tế.

Phần thứ nhất (I) bao gồm các nội dung như sau:

- Lời nói đầu và Lời dẫn nhập [nối kết]

- Lời kết

- Thư mục

- Mục lục

Do không có đầy đủ bản Việt ngữ các trước tác của Marx, dịch giả chọn sử dụng bản Pháp ngữ của các tác phẩm và tự chuyển ngữ. Trong thư mục, các văn bản của Marx được xếp theo thứ tự năm xuất bản tác phẩm gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp theo là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp. Đặt ở phía sau mỗi chương, các chú thích trích dẫn tác phẩm của Marx gồm có tên của văn bản Việt ngữ và quy chiếu đến văn bản Pháp ngữ.

Khi chuyển ngữ một số thuật ngữ của Marx chưa được thông dụng, lần đầu chúng tôi kèm theo từ Pháp ngữ trong dấu ngoặc đơn, đồng thời phía sau đây chúng tôi gom các thuật ngữ đó trong một bảng đối chiếu Việt - Pháp. Khi cần thiết, chúng tôi bổ sung bảng thuật ngữ với những chú giải về chọn lựa cách chuyển ngữ.

THUẬT NGỮ VIỆT - PHÁP

Hình thái giá trị/Hình thái của giá trị (Forme valeur/Forme de la valeur). Trong lý luận về giá trị, Marx phân biệt “hình thái giá trị” (forme valeur) và “hình thái của giá trị” (forme de la valeur). Phạm trù hình thái giá trị chỉ giá trị với tính cách là hình thái xã hội, giá trị như là quan hệ xã hội lịch sử đặc thù. Phạm trù hình thái của giá trị (forme de la valeur) chỉ hình thái biểu hiện của giá trị hay hình thái hiện tượng của nó, tức hình thái tiền tệ của giá trị giá mà Marx còn gọi là “giá trị trao đổi” để phân biệt với “giá trị”. Sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rõ ràng trong các văn bản của Tư bản, như trong ấn bản đầu tiên của Quyển I năm 1867, cho nên trong ấn bản 1875, tức phiên bản tiếng Pháp, Marx đã phải đính chính khi trình bày hình thái của giá trị hay giá trị trao đổi: “Nếu ở đoạn đầu chương này, theo cách nói thông thường, chúng tôi có nói: hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, thì xét theo nghĩa đen từng chữ, nói như vậy là sai. Hàng hóa là giá trị sử dụng hay đối tượng sử dụng, và là giá trị. Hàng hóa chỉ biểu hiện thành một vật hai mặt khi giá trị của nó có một hình thái hình tượng riêng, khác với hình thái tự nhiên của nó, tức hình thái giá trị trao đổi”[1]. Còn trong Bản thảo 1861-1863, để tránh hiểu sai, Marx phải cảnh báo người đọc: “Khi chúng tôi sử dụng từ giá trị mà không có chi tiết gì khác thì bao giờ cũng nên hiểu là giá trị trao đổi”[2].

Ngoài ra, thuật ngữ Đức ngữ “Werthform” mà Marx dùng để trình bày hình thái của giá trị ở Quyển I không được chuyển ngữ một cách thống nhất trong các ấn bản tiếng Pháp của bộ Tư bản. Trong ấn bản tiếng Pháp 1875 do chính tay Marx chỉnh sửa, thuật ngữ được dịch là “forme de la valeur”; còn trong ấn bản sau cùng của nhà xuất bản Editions Sociales năm 1983, nó được được dịch là “forme-valeur” làm cho khó phân biệt phạm trù hình thái giá trị với phạm trù hình thái của giá trị[3].

Thâu gồm (Subsomption) Trong triết học Kant, “thâu gồm” (subsomption) là đưa một đối tượng vào khái niệm của nó, đưa cái cá biệt vào cái phổ quát, theo nghĩa đặt nó vào quy luật của cái phổ quát. Marx vay mượn khái niệm này để phân tích các quan hệ về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông phân tích “sự thâu gồm của những cá nhân vào những giai cấp nhất định”[4]. Bộ Tư bản triển khai lý luận về “sự thâu gồm lao động vào tư bản” theo đó, trong mối quan hệ với tư bản, lao động chỉ tồn ti như là hình thái của tư bản; lao động không tồn tại như là hoạt động thể lực và trí lực mà người lao động tiến hành trong mọi phương thức sản xuất, nó trỏ hoạt động đặc thù của người làm công trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo nên giá trị thặng dư cho chủ tư bản. Theo nghĩa đó tư bản thâu gồm lao động như là hình thái của nó[5].

Trong các bản dịch tiếng Việt của nhà xuất bản Sự Thật, thuật ngữ Đức ngữ “Subsumtion” được chuyển ngữ là: “sự phụ thuộc” của những cá nhân vào những giai cấp nhất định (Hệ tư tưởng Đức), “sự lệ thuộc” của lao động vào tư bản (Tư bản, Quyển I) hay “sự phục tùng” của lao động đối với tư bản (Bản tho kinh tế những năm 1861-1863) - tức chỉ nói lên một khía cạnh của nội dung khái niệm của Marx. Theo Trần Hữu Quang mà chúng tôi có tham khảo ý kiến, muốn diễn tả hết nội dung đó có lẽ cần tạo ra một từ mới như là “sự hàm nhiếp” (hàm: bao hàm; nhiếp: thu lấy) đã xuất hiện trong từ điển Trung Quốc. Tạm thời, chúng tôi sử dụng cách chuyển ngữ đơn giản của Bùi Văn Nam Sơn là “sự thâu gồm” trong bản dịch Phê phán lý tính thuần túy của Kant (nxb Văn học, 2004, tr. 1231).

Cái cụ thể hiện thực: Concret réel

Cái cụ thể trong tư duy: Concret de pensée

Cái phổ quát cụ thể: Universel concret

Cương vị lý luận: Statut théorique

Lãnh trường lý luận: Champ théorique

Người mang (quan hệ xã hội): Porteur (du rapport social)

Phái sinh: Dérivation

(Quan hệ) bó buộc giá trị thặng dư: Contrainte à la survaleur, à la plus-value

Siêu cấu trúc: Métastructure

Thiết định: Poser; position

Tiền giả định: Présupposer; présupposition

(Tính) hai chiều: Ambivalence

(Tính) nhập nhằng: Ambiguité

Tính quy định: Détermination

Vật đỡ (quan hệ xã hội): Support (du rapport social)

* * *

LỜI NÓI ĐẦU

Karl Marx (1818-1883)

Cuốn sách bạn đang đọc tham gia vào trào lưu mở lại cuộc thảo luận về bộ Tư bản, ít nhiều đã gián đoạn từ giữa những năm 1980. Hẳn việc khơi động lại thảo luận hiện nay tiến hành trong điều kiện mới, không còn một học thuyết Marx chính thống, tư bản toàn cầu hóa thắng thế, đồng thời xuất hiện phong trào đấu tranh toàn cầu hóa cách khác, đưa đến những câu hỏi và suy nghĩ mới về chủ nghĩa tư bản đương đại. Trong bối cảnh đó, “đọc lại Tư bản”, trước hết là tiếp nối đề án “phê phán chính trị kinh tế học” của Marx, tức là đặt lại vấn đề của các phạm trù về hàng hóa và tiền tệ, về tư bản và làm công, về lợi nhuận và địa tô. Song, dù tự khẳng định là phê phán chính trị kinh tế học, học thuyết Marx trong một số cuộc tranh luận đã biến thành một chính trị kinh tế học khác, cần phải đồng thời phê phán. Đó là ý nghĩa tiêu đề của quyển sách: “Marx, phê phán chính trị kinh tế học và đối tượng của phê phán chính trị kinh tế học”.

Chính xác hơn, công trình này nhắm mở trở lại cuộc tranh luận về chủ đề giá trị trong bộ Tư bản. Theo một cách đọc thông thường, quy luật gọi là giá trị được hiểu như là quy luật về lao động xã hội cần thiết, một quy luật chung của kinh tế học, độc lập với hành vi con người, thậm chí với các hình thái xã hội. Công trình sau đây sẽ xem xét lại quy luật giá trị đó ở các cấp độ phân tích khác nhau của bộ Tư bản là quan hệ hàng hóa, quan hệ làm công, quan hệ sở hữu đất đai.

Phân tích của Marx về quan hệ hàng hóa đối mặt với những tranh luận liên quan đến các khái niệm về lao động trừu tượng và về tiền tệ. Một bên là những cách đọc chính thống, hiểu lao động trừu tượng qua thuyết “giá trị - lao động” của các nhà kinh tế học cổ điển và dẫn đến khái niệm hóa tiền tệ như là một hàng hóa. Phía bên kia là những cách đọc phi chính thống cho rằng tiền tệ không thể là hàng hóa, từ đó khước từ khái niệm về lao động trừu tượng. Các văn bản của Marx, nếu được đối chiếu và thảo luận rốt ráo, cho phép xác lập rằng lao động trừu tượng (tức thực thể xã hội của giá trị) không thể tách biệt biểu tượng của nó là tiền tệ (tức hình thái xã hội của giá trị). Cho nên quan hệ hàng hóa là một mối quan hệ đối cực giữa hàng hóa và tiền tệ, theo nghĩa tiền tệ không phải là hàng hóa, mà là mặt đối lập của hàng hóa. Cách khái niệm hóa quan hệ hàng hóa này cho phép lý giải nhiều vấn đề tranh luận khác: Phạm trù lao động trừu tượng là một sự trừu tượng hóa có tính lô-gíc, siêu hình hay hiện thực? Mâu thuẫn giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể, giữa giá trị và giá trị sử dụng có ý nghĩa gì? Giá trị trao đổi là tiền đề hay kết quả của quan hệ trao đổi? Thước đo của giá trị là lao động hay tiền tệ? Vì sao giá trị biến mất trong hình thái giả cả? Tính bái vật của tiền tệ phải chăng nối tiếp thuyết về tha hóa của Marx thời trẻ? V.v.. Phần thứ nhất của Đọc lại Tư bản (“Hàng hóa như là hình thái của sản phẩm lao động”) khảo cứu bộ vấn đề nói trên, nó tương ứng với nội dung Phần 1 Quyển I bộ Tư bản (“Hàng hóa và tiền tệ”). Những điều thảo luận ở đây dường như “trừu tượng” và “hình thức” theo nghĩa thông thường: quả như vậy, nhưng theo nghĩa khoa học của các từ này, mà Marx không ngừng lưu ý độc giả. Tác giả Tư bản “thanh minh và báo trước” bạn đọc rằng phương pháp trừu tượng hóa và phân tích hình thái mà ông vận dụng khiến các chương đầu của Phần 1 Quyển I trở nên “khá gay go” và có thể gây “chán nản”. Bởi vì “khoa học không có đường nào bằng phẳng thênh thang cả”, Marx khuyến khích người đọc cố “trèo lên những con đường nhỏ gập gềnh” của phần trình bày về hàng hóa và tiền tệ trước khi đi vào phần trình bày về tư bản.[6]

Phân tích của Marx về quan hệ làm công phải đối diện với những phản biện liên quan đến các khái niệm về sức lao động và về tỷ suất lợi nhuận chung. Những cách đọc truyền thống khẳng định sức lao động là một hàng hóa, nhằm lý giải quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa và tỷ suất giá trị thặng dư; rồi triển khai quan hệ cạnh tranh tư bản chủ nghĩa và tỷ suất lợi nhuận chung, qua lý luận “chuyển hóa giá trị thành giá cả sản xuất” của Quyển III Tư bản. Những vấn đề mà phép chuyển hóa này đặt ra đã phân cực cuộc thảo luận về quy luật giá trị, dẫn đến những cách đọc phản bác lý luận về bóc lột tư bản chủ nghĩa và phạm trù về hàng hóa sức lao động. Đọc lại văn bản của Quyển I và Quyển III, một cách phê phán và nhất quán, dẫn đến một phân tích khác: theo đó, sức lao động không phải hàng hóa, cũng không phải phi-hàng hóa, nó là hàng hóa giả tưởng, hàng hóa ảo, theo nghĩa nó chỉ có hình thức của hàng hóa mà thôi. Giá trị trao đổi của sức lao động (tiền công) không biểu hiện giá trị của một hàng hóa, mà biểu hiện phép chia cắt giá trị tạo ra trong sản xuất hàng hóa, tức tỷ suất giá trị thặng dư, là mối quan hệ giai cấp giữa chủ tư bản và người làm công. Tỷ suất lợi nhuận chung là hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư, khi phân tích quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa từ cấp độ tư bản nói chung (quan hệ giai cấp) chuyển sang cấp độ tư bản cạnh tranh (quan hệ giữa tư bản với nhau). Cách tiếp cn này cho phép lý giải nhiều vấn đề khác có liên quan: Phạm trù lao động xã hội cần thiết trỏ những điều cần thiết gì của xã hội? Sự tồn tại của tỷ suất lợi nhuận chung có tùy thuộc hình thái và cường độ cạnh tranh của tư bản chăng? Quy trình chuyển hóa giá trị thành giá cả sản xuất mang tính lịch đại hay đồng bộ? Quan hệ tư bản chủ nghĩa phát sinh từ quan hệ hàng hóa hay là tiền đề của nó? Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vật thể hóa thế nào trong sức sản xuất mà nó triển khai? Hiểu thế nào hình thái giá trị là quan hệ bó buộc giá trị thặng dư (contrainte à la survaleur) ? V.v.. Phần thứ hai của Đọc lại Tư bản (“Hàng hóa với tính cách là sản phẩm của tư bản”) còn xác lập rằng phủ định tư bản cũng là một xu thế của tư bản, và trong nghĩa nào người làm công, tiềm tàng, cũng là người lao động tự do.

Phân tích của Marx về quan hệ sở hữu đất đai dẫn đến những tranh luận liên quan đến các phạm trù về siêu lợi nhuận và về địa tô tuyệt đối. Những cách đọc truyền thống dựa trên cách đặt vấn đề về chuyển đổi siêu lợi nhuận thành ba loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô độc quyền, địa tô tuyệt đối. Các cách đc phê phán nêu lên những mâu thuẫn về lý luận: quan niệm về địa tô chênh lệch giả định một cách xác lập giá cả nông sản ở mức cận biên, trái với lập luận của quy luật giá trị; quan niệm về địa tô tuyệt đối giả định nông nghiệp là trường hợp ngoại lệ trong sự chuyển hóa giá trị thành giá cả sản xuất, như là nằm ngoài qui luật giá trị. Việc đối chiếu các văn bản của Marx dẫn đến nhận định thật ra chỉ có hai phạm trù về siêu lợi nhuận: siêu lợi nhuận cá biệt trong nội bộ một ngành (chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của hàng hóa và những giá cả sản xuất cá biệt khác nhau), có thể chuyển đổi thành địa tô chênh lệch số dương, hoặc số âm là trường hợp của lợi nhuận dưới chuẩn bình quân (khiến địa tô tuyệt đối phải hạ giảm số lượng tương đương); và siêu lợi nhuận thị trường giữa các ngành với nhau (chênh lệch giữa giá cả thị trường của hàng hóa và giá cả sản xuất chung của nó) mà địa tô độc quyền là một hình thái chuyển đổi. Sự tồn tại của địa tô tuyệt đối không tương ứng với với bất kỳ phạm trù siêu lợi nhuận nào (giữa giá trị của hàng hóa với giá cả sản xuất của nó chỉ là sự khác nhau giữa hai cấp độ trừu tượng hóa tư bản), và đòi hỏi phải đặt lại vấn đề: địa tô tuyệt đối thuộc phạm trù về giá điều tiết thị trường khác hơn giá trị thị trường lẫn giá cả sản xuất; đó là một giá cung ứng hàng hóa có đặc điểm sáp nhập địa tô tuyệt đối, tương t như một khoản thuế do nhà nước thu - ở đây, nó là khoản phí chi cho sở hữu đất đai và trích trên lợi nhuận chung của tư bản. Phần thứ ba của Đọc lại Tư bản (“Hàng hóa với tính cách là sản phẩm của tư bản cá biệt”) còn làm sáng tỏ một số vấn đề tranh cãi khác: Giá cả thị trường xoay quanh trục giá cả sản xuất hay nó là trục từ đó giá cả sản xuất chuyển động? Phải chăng cân bằng cung - cầu trên thị trường xóa bỏ các siêu lợi nhuận? Đất đai phải chăng thuộc phạm trù hàng hóa hay phạm trù tư bản? Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi sự tách biệt hay sự thống nhất giữa tư bản và sở hữu đất đai? Theo nghĩa nào sở hữu nhà nước về đất đai là hình thái lý tưởng của sở hữu đất đai tư bản chủ nghĩa?… Đồng thời, sự thất bại của chương trình nghiên cứu về địa tô tuyệt đối của Marx làm nổi bật hơn chỗ nào hết trạng thái d dang, chưa hoàn tất và những lý luận nhập nhằng, nước đôi của các bản thảo hình thành Quyển III Tư bản.

Công cuộc khảo cứu các quan hệ về hàng hóa, làm công và sở hữu đất đai dẫn đến nhận định rằng, trong bộ Tư bản, giá trị trao đổi của hàng hóa là một phạm trù bất định trên bình diện kinh tế. Quy luật giá trị của Marx phụ thuộc vào những chuẩn mực về tiền tệ, về tiền lương, và về địa tô - các chuẩn mực xã hội này đều mang tính nhà nước và là đối tượng của đấu tranh giai cấp, cho nên quy luật giá trị là một quy luật xã hội - chính trị, theo nghĩa:

-          Trong mối quan hệ về hàng hóa, tương quan mang tính tư nhân và phi tập trung giữa các tác nhân trao đổi hàng hóa với nhau chỉ là một cực của quan hệ; cực kia của mối quan hệ là một tương quan mang tính xã hội và tập trung, đó là tương quan giữa các tác nhân trao đổi hàng hóa với định chế nhà nước phát hành tiền tệ (chế độ và các chính sách tiền tệ biểu hiện những điều kiện đấu tranh giai cấp trong tái sản xuất tư bản).

-          Cũng như không thể quan niệm mối quan hệ về làm công chỉ như là tương quan tư nhân giữa người làm công và chủ tư bản, mà thiếu vắng tương quan đối cực là tương quan của người làm công và chủ tư bản một bên với nhà nước là bên định chế hóa các chuẩn mực xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động (các chuẩn mực này thể hiện những thỏa hiệp xã hội trong từng thời kỳ mà đấu tranh giai cấp dẫn đến).

-          Còn mối quan hệ về sở hữu đất đất, biểu hiện trong địa tô tuyệt đối, không thể tư duy như là tương quan tư nhân giữa tư bản thuê đất và địa chủ, nếu thiếu tương quan đối cực giữa sở hữu tư và sở hữu tối hậu của nhà nước trên đất đai (tương quan lực lượng trên thị trường đất đai chịu sự chi phối của chế độ và các chính sách đất đai nói lên phương thức tích lũy của tư bản).

Có thể nói rằng tiền tệ, sức lao động và địa tô tuyệt đối là những khái niệm đặc thù và là những điểm mạnh trong lý luận của Marx, những đá tảng của phê phán chính trị kinh tế học trong bộ Tư bản. Tuy nhiên, đọc lại các văn bản của Marx cho thấy tiền tệ, sức lao động và địa tô tuyệt đối cũng là những khái niệm mong manh, là những điểm yếu trong trình bày của bộ Tư bản, khiến lý luận của Marx cũng có thể ngã qua chính trị kinh tế học mà ông phê phán. Điều này có nghĩa rằng cách đọc Marx theo hướng “duy kinh tế” cũng có thể tìm thấy cơ sở trong một vài văn bản của bộ Tư bản. Song, điều cơ bản tách biệt cách đọc Marx đề xuất trong công trình chúng tôi với những cách đọc duy kinh tế là các cách đọc này đều khái niệm hóa các quan hệ hàng hóa, làm công và sở hữu đất đai mà không kể đến nhà nước. Đồng thời, những điều nhập nhằng, bất định của quy luật giá trị trong bộ Tư bản, đặc biệt những khó khăn của Marx khi trình bày các khái niệm về tiền tệ, sức lao động và địa tô tuyệt đối, đều có liên quan đến các vấn đề mà ông gặp phải khi khái niệm hóa nhà nước. Cho nên, để kết thúc công trình phân tích quy luật giá trị trong các quan hệ về hàng hóa, làm công và s hữu đất đai, chúng tôi khảo sát giả thuyết về việc khái niệm hóa tư bản cùng lúc với nhà nước hiện đại, theo cùng phương pháp phân tích hình thái ở các cấp độ trừu tượng hóa khác nhau của Marx trong bộ Tư bản.[7]

* * *

LỜI DẪN NHẬP

Lưu ý bạn đọcmuốn tự mình suy nghĩ độc lập”, tác giả bộ Tư bản, trong “Lời tựa” lần xuất bản thứ nhất của Quyển I (1867), nhấn mạnh điều “khó khăn nhất” của các chương mở đầu là phân tích giá trị như là “hình thái”. Theo Marx, mặc dù giá trị là một hình thái “thật đơn giản”, người ta đã tốn công vô ích để tìm hiểu bí mật của nó, trong khi trí óc loài người đã từng phân tích những hình thái “phức tạp hơn và che dấu ý nghĩa sâu sắc hơn”[8].

Friedrich Engels (1820-1895)

Hơn một thế kỷ sau khi Marx xuất bản Quyển I và Engels công bố công trình chuẩn bị Quyển III Tư bản (1894), khó khăn trên hình như vẫn chưa được khắc phục, khái niệm giá trị vẫn là trọng điểm của hầu hết các cuộc tranh luận về bộ Tư bản. Nổi bật nhất là tranh luận về chuyển hóa giá trị thành giá cả sản xuất[9]. Song, vượt lên vấn đề của “phép chuyển hóa”, cơ bản hơn là việc đặt lại vấn đề của lý luận về giá trị trong tất cả các tranh cãi liên quan đến khái niệm về tiền tệ và phân tích quan hệ hàng hóa, khái niệm về sức lao động và phân tích quan hệ làm công hay khái niệm về địa tô tuyệt đối và phân tích quan hệ sở hữu đất đai[10].

Mặt khác, từ giữa thập niên 1980, có thể nhận xét rằng các thảo luận xoay quanh học thuyết Marx cạn dần, các nhà kinh tế học rút lui dần khỏi lãnh vực nghiên cứu này: Làm như là tất cả mọi điều đã được nêu lên trong những tranh luận đã qua và không còn gì phải bàn luận nữa[11]. Khi ngừng suy nghĩ về giá trị trong lý luận của Marx, các nhà kinh tế học thật ra từ bỏ khái niệm đó[12].

Vào đầu thập niên 1990, khi chủ nghĩa xã hội gọi là “hiện thực” tiêu vong, xuất hiện những điều kiện hoàn toàn mới trong thảo luận về học thuyết Marx: người đọc Tư bản được giải phóng khỏi những cách đọc gọi là chính thống, khiến đồng thời những độc giả phi chính thống phải xác định lại chỗ đứng. Từ đó, mở ra khả năng thảo luận về bộ Tư bản một cách bình tâm, không thành kiến[13].

Trong bối cảnh đổi mới này, nhiều vấn đề, như là vấn đề về giá trị, cần đưa ra xem xét lại. Công trình nghiên cứu của chúng tôi thử tiến hành điều đó và nhắm mở lại cuộc thảo luận về chủ đề mà chính trị kinh tế học gọi là “quy luật giá trị” trong lý luận của Marx. Công trình này buộc chúng tôi trước tiên phải đối diện với các văn bản của Tư bản và những cách đọc khác nhau văn bản đó.

I. Đọc Tư bản và phê phán kinh tế chính trị học

1. Đọc bộ Tư bản là đeo đuổi trong văn bản đề án “phê phán chính trị kinh tế học” của Marx. Qua đề án phê phán này, mục đích của tác giả Tư bản, theo chúng tôi, không phải là thay thế chính trị kinh tế học hiện hành bằng một chính trị kinh tế học mới. Về nguyên tắc, nó là sự đoạn tuyệt với mọi chính trị kinh tế học, theo nghĩa vấn đề mà Marx đặt ra là phê phán những giả định ngầm hay tiền giả định, những tiền đề không nói ra của chính trị kinh tế học. Bởi đặc điểm xác định chính trị kinh tế học nói chung, dù trong hình thái “cổ điển” hay “tầm thường”, là xử lý các phạm trù kinh tế như là “dữ kiện tự nhiên”, tức những gì tự nhiên có mà sự tồn tại không cần phải lý giải và chỉ đặt ra vấn đề về đo lường mà thôi. Quan niệm phê phán của Marx là tra hỏi các phạm trù kinh tế và trước tiên nêu lên câu hỏi về sự tồn tại của từng phạm trù[14]. Quan niệm này “khác một cách cơ bản với quan điểm của các nhà kinh tế học, do đắm mình trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, nên chỉ thấy được làm thế nào sản xuất trong quan hệ tư bản chủ nghĩa, mà không thấy những quan hệ này được sản xuất như thế nào, cũng như làm thế nào tạo nên những điều kiện vật chất về sự tiêu vong của quan hệ đó”[15].

Quan niệm về phê phán của Marx không nhắm chứng minh chính trị kinh tế học là sai lầm mà là bái vật giáo: theo nghĩa chính trị kinh tế học biến thành thuộc tính tự nhiên của vật thể, những thuộc tính của nó thật ra chỉ là xã hội, tức là những thuộc tính mà vật thể có chỉ vì nó là biểu tượng của quan hệ xã hội lịch sử nhất định. Ví như quy luật giá trị, bất luận cách trình bày thế nào, là một quy luật tự nhiên trong chính trị kinh tế hc: một mặt, nó là một quy luật chung của nền kinh tế, độc lập với những hình thái xã hội; mặt khác, đó là một quy luật kinh tế khách quan, độc lập với ý chí và hành vi của con người. Trái lại, phê phán chính trị kinh tế học là xác lập rằng qui luật giá trị là đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; rằng những tính qui định nó tùy thuộc đấu tranh của các giai cấp, cho nên đó là một quy luật xã hội - chính trị, chứ không phải đơn thuần kinh tế.

Song, tuy tự khẳng định là phê phán chính trị kinh tế học, học thuyết Marx - đặc biệt dưới hình thức chính quy của nó - có xu hướng biến thành chính trị kinh tế học: như khi giá trị bị quy thành lao động, hàng hóa bị quy thành sản phẩm lao động, tiền tệ bị quy thành hàng hóa, tiền công bị quy thành rổ hàng hóa, tư bản bị quy thành quan hệ cạnh tranh, địa tô tuyệt đối bị quy thành siêu lợi nhuận[16]. Cho nên học thuyết Marx không thể chạy thoát sự phê phán của chính nó, và bộ Tư bản đòi hòi một cách đọc hai mặt: bộ Tư bản như là phê phán chính trị kinh tế học; và bộ Tư bản như là đối tượng phê phán chính trị kinh tế học.

2. Ngoài ra, công trình khảo cứu của chúng tôi sẽ đối chiếu văn bản của Marx với văn bản của những tác giả tham gia, ở cạnh khía này hay cạnh khía khác, vào tranh cãi lý luận về giá trị. Chúng tôi không tìm cách khảo sát toàn bộ tác giả phản biện Marx mà sẽ nhắm các văn bản đã làm nổi bật điều bất định hay nước đôi trong bộ Tư bản. Chúng tôi sẽ dẫn văn bản của Marx một cách có hệ thống, thậm chí đôi khi chi li, để làm rõ những chỗ nhập nhằng trong trình bày của ông và khả năng diễn giải ông theo nhiều hướng khác nhau. Cùng lúc chúng tôi sẽ phản bác cách diễn giải của nhiều tác giả, không phải để phủ định cách đọc của họ không có một phần nào xác đáng hay không có một cơ sở nào chính đáng, mà để xác định rằng những khác biệt về cách diễn giải là ở cách đặt vấn đề.

Cách đặt vấn đề của chúng tôi xuất phát từ chỉ dẫn về phương pháp luận mà tác giả Tư bản nêu trong “Lời tựa” cho lần xuất bản thứ nhất Quyển I: cái khó khăn trong phân tích giá trị và các phạm trù kinh tế của chủ nghĩa tư bản ở chỗ “trừu tượng hóa là sức mạnh duy nhất có thể dùng để phân tích những hình thái kinh tế”[17]. Tư duy các hình thái kinh tế bằng phép trừu tượng hóa, đó là phương pháp của Marx. Cách đặt vấn đề của chúng tôi trong công trình nghiên cứu này sẽ là đọc bộ Tư bản bằng sự triển khai phân tích hình thái theo các cấp độ trừu tượng hóa.

Các cấp độ trừu tượng hóa và phân tích hình thái

1. Phép trừu tượng hóa có liên quan đến hai phương pháp luận khác nhau mà Marx phân biệt trong văn bản “Phương pháp chính trị kinh tế học” ở “Lời nói đầu” năm 1857 của Bản thảo 1857-1858[18]: a) Một mặt, trừu tượng hóa là sự vận động của tư duy tách rời một tương quan, một tính qui định trong biểu tượng một tổng thể nhiều mối tương quan và tính qui định. Nó “quy toàn bộ biểu tượng của một tổng thể thành một quy định trừu tượng”. Đó là phương pháp luận của chính trị kinh tế học khi ra đời. b) Mặt khác, trừu tượng hóa là sự vận động của tư duy sản sinh “cái cụ thể trong tư duy” như là tổng thể nhiều mối tương quan và tính quy định trừu tượng. Bởi “chính những tính quy định trừu tượng dẫn đến tái sinh cái cụ thể bằng con đường của tư duy”. Đó là phương pháp luận “đúng đắn về mặt khoa học”[19].

Cấp độ trừu tượng hóa tương ứng với một lãnh trường lý luận (champ théorique) xác định bởi hành vi đề ra một khái niệm - ở tác giả Tư bản, đó là khái niệm về một quan hệ xã hội, về một hình thái kinh tế. Các quan hệ xã hội khác, tạm thời chưa xét tới, xem như là đứng ngoài lãnh trường lý luận đó[20]. Như Marx nói, “chúng ta chưa kho sát chúng: nên đối với chúng ta chúng không tồn tại (…) ở vào thời điểm này”[21]. Để xác định cấp độ trừu tượng hóa của một khái niệm về quan hệ xã hội, còn có thể dùng ngôn từ của Marx phân biệt quan hệ được đề ra hay “thiết định” (posé) với những quan hệ được ngầm giả định hay “tiền giả định” (présupposé). Nếu đề ra một quan hệ xã hội là xác định một cấp độ trừu tượng hóa thì không kể đến các quan hệ khác không có nghĩa là phủ định chúng, bởi chúng vẫn là tiền đề không nói ra[22]. Là quan hệ ngầm ẩn chứ không phải hoàn toàn vắng mặt, chúng có mặt như thể âm bản vậy[23].

Phương pháp phân tích hình thái theo cấp độ trừu tượng hóa có nghĩa là xây dựng ở từng cấp độ một lãnh trường khái niệm (champ conceptuel) từ sự thiết định một quan hệ xã hội không kể đến những quan hệ khác, rồi khảo sát lãnh trường đó đến tận giới hạn cuối cùng của nó để nêu bật tất cả các mối tương quan lô-gíc. Phân tích chạm đến giới hạn này khi tiến trình xây dựng cái cụ thể trong tư duy vấp vào điều không thể về mặt lô-gíc. Như trong Quyển I Tư bản, khi phân tích quan hệ hàng hóa không thể lý giải sự tồn tại của giá trị thặng dư (Chương 5: “Những mâu thuẫn của công thức chung của tư bản”). Hay, trong Quyển III, khi phân tích giá trị thị trường không thể lý giải sự tồn tại của tỷ suất lợi nhuận chung (Chương 8: “Cấu thành tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau, do đó có sự khác nhau về tỷ suất lợi nhuận”). Từ chỗ đó, xuất hiện sự cần thiết chuyển phân tích hình thái sang một cấp độ trừu tượng hóa khác[24].

Sự biến đổi lãnh trường khái niệm được thực hiện qua việc đề ra và cấu thành một quan hệ xã hội mới (như quan hệ làm công để phân tích giá trị thặng dư ở Quyển I; hay quan hệ cạnh tranh tư bản chủ nghĩa để phân tích tỷ suất lợi nhuận chung ở Quyển III). Bằng cách đó, lãnh trường lý luận được xây dựng dần dần phức tạp hơn, gắn kết từng bước nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Như vậy, chính là sự phân biệt một cách có hệ thống các cấp độ trừu tượng hóa cho phép nắm lấy bằng tư duy sự thống nhất của cái cụ thể, tức “sự thống nhất của cái đa dạng”[25].

Cần lưu ý rằng chuyển đổi từ cấp độ trừu tượng hóa này sang cấp độ khác dẫn đến chuyển hóa các khái niệm và định nghĩa của chúng. Như, trong trình bày của bộ Tư bản, khái niệm giá trị trao đổi được định nghĩa ban đầu rồi định nghĩa trở lại ở những cấp độ trừu tượng hóa khác nhau: cấp độ của quan hệ tiền tệ, của quan hệ làm công, của quan hệ cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, của quan hệ cạnh tranh tư bản trong nội bộ ngành và liên ngành, của quan hệ sở hữu đất đai… Nhiều nhà bình luận bộ Tư bản không hiểu điều này khi họ đối lập những định nghĩa khác nhau của một khái niệm được triển khai ở những cấp độ trừu tượng hóa khác nhau. Thật ra, những “mâu thuẫn lô-gíc” mà người ta tìm thấy trong bộ Tư bản - giữa lý luận về giá trị và lý luận giá trị thặng dư, giữa lý luận về giá trị thặng dư và lý luận lợi nhuận bình quân, giữa lý luận về lợi nhuận bình quân và lý luận siêu lợi nhuận, hay giữa lý luận về siêu lợi nhuận và lý luận địa tô - xuất phát từ “hiểu nhầm” cho rằng “người ta có quyền tìm trong các văn bản của Marx những câu định nghĩa có sẵn, có giá trị vĩnh viễn”[26]. Trong bộ Tư bản, mỗi khái niệm đều tương ứng với một cấp độ trừu tượng hóa, và định nghĩa của nó chỉ xác đáng trong lãnh trường lý luận của nó[27].

2. Chính trị kinh tế học, theo đánh giá của Marx, không những “thiếu khả năng trừu tượng hóa”, dẫn đến sự trừu tượng hóa “không đy đủ”, mang tính “hình thức”, có tính “cưỡng ép”[28]. Nó còn “thiếu vắng khả năng phân tích những khác biệt hình thái của các quan hệ kinh tế”: trong khi, “chỉ có hình thái đó mới là quan trọng để nắm bắt tính đặc thù của một phương thức sản xuất xã hội”[29]. Phê phán chính trị kinh tế học được Marx tiến hành qua phân tích hình thái với tính quy định hai mặt của nó.

Một mặt, hình thái biểu thị sự tồn tại của một quan hệ xã hội: nó là “hình thái tồn tại”, “tính quy định về tồn tại” của một quan hệ xã hội lịch sử nhất định[30]. Các văn bản của Marx nói đến “hình thái xã hội”, “hình thái kinh tế” hay “hình thái lịch sử” để phân biệt với “hình thái t nhiên”, “hình thái vật chất” của sự vật như là của cải chng hạn[31]. Hình thái tự nhiên gắn với “nội dụng vật chất” của của cải, hình thái xã hội biểu thị nội dung xã hội, “thực thể xã hội” của nó[32]. Và chính hình thái xã hội mới mang tính quyết định: “Chính hình thái này có tính quyết định đối với tự thân của cải vật chất”[33].

Mặt khác, hình thái là cái qua đó quan hệ xã hội biểu hiện cụ thể: nó là “phương thức biểu hiện cần thiết”, “hình thái hiện tượng” của quan hệ này[34]. Hình thái biểu hiện của một quan hệ xã hội là một hình thái vật hóa nó trong những vật thể có chức năng làm “vật đỡ” (support) mối quan hệ, và trong những cá nhân có chức năng làm “người mang” (porteur) mối quan hệ[35]. Ở đây, hình thái biểu hiện của một quan hệ uốn nắn nội dung vật chất của nó sao cho thích ứng với nội dung xã hội là làm chức năng vật đỡ và người mang nói trên: trong nghĩa đó, sự thâu gồm (subsomption) các vật thể và cá nhân vào quan hệ xã hội không chỉ mang tính “hình thức” mà còn là “hiện thực”[36].

Ngoài ra, phân tích hình thái của Marx gắn với sự khái niệm hóa “mâu thuẫn” như là thể thống nhất của hai mặt đối lập, nhưng không thể tách biệt, trong mối quan hệ[37]. Chính xác hơn, giữa hai bên A và B của một mối quan hệ xã hội, mâu thuẫn luôn có hai mặt: a) B bị quy thành A: tức A thâu gồm B vào nó, và B chỉ tồn tại như là hình thái biểu hiện của A. b) B không thể quy thành A: tức sự thâu gồm B vào A không khi nào là hoàn toàn và mãi mãi; cho dù chỉ là tiềm tàng, sự tồn tại của B bao giờ cũng vượt quá chức năng làm hình thái biểu hiện cho A[38].

Trong khuôn khổ của dẫn nhập này, những trình bày về phương pháp luận chỉ có thể mang tính chung chung, trừu tượng. Những lời giới thiệu trên đây chỉ sẽ sáng tỏ và mang đầy đủ ý nghĩa trong nghiên cứu và trình bày của chúng tôi về quy luật giá trị trong bộ Tư bản. Trình tự trình bày của chúng tôi đảo ngược trình tự nghiên cứu. Điểm xuất phát nghiên cứu của chúng tôi là những câu hỏi liên quan đến lý luận về địa tô và quan hệ sở hữu đất đai trong Phần 6, Quyển III Tư bản. Những khó khăn để xác định địa tô chênh lệch, và nhất là vấn đề nan giải của khải niệm địa tô tuyệt đối, đã khiến chúng tôi đi ngược lên xem xét cách Marx khái niệm hóa giá cả sản xuất và giá cả thị trường, giá cả sản xuất cá biệt và giá cả sản xuất chung ở Phần 2, Quyển III. Song, những điều nhập nhằng, tối nghĩa trong cách Marx trình bày phép chuyển hóa giá trị thành giá cả sản xuất, cũng như qui trình cạnh tranh tư bản chủ nghĩa trong nội bộ ngành và giữa các ngành, đã đưa chúng tôi đi ngược lên nữa, đến tận các khái niệm cơ bản về giá trị và tư bản của Quyển I, với các cách diễn giải khác nhau.

Karl Kautsky (1854-1938)

Trên nền tảng đó và với phương pháp phân tích theo các cấp độ trừu tượng hóa, chúng tôi đi con đường ngược lại để trình bày qui luật giá trị trong bộ Tư bản với trình tự: quan hệ hàng hóa – quan hệ làm công – quan hệ cạnh tranh tư bản chủ nghĩa – quan hệ sở hữu đất đai. Bạn đọc cũng có thể nhận ra rằng trình tự trình bày ở đây ngược với trình tự ra đời của các văn bản của bộ Tư bản: Quyển I là quyển duy nhất Marx cho xuất bản (1867), rồi biên tập lại cho phiên bản tiếng Pháp (1875) và các lần tái bản tiếng Đức tiếp theo (1873; 1883; 1890). Còn những văn bản về địa tô tuyệt đối trong Quyển III và Tư bản Quyển IV (“Các học thuyết về giá trị thặng dư”), thật ra, là những bản thảo xưa hơn của Marx thuộc các năm 1862 và 1865, do Engels và Kautsky tập hợp lại để xuất bản cho dù chúng còn ở tình trạng bản nháp không nhằm công bố. Với những lời lưu ý nói trên, công trình nghiên cứu của chúng tôi sẽ triển khai qua ba phần:

Phần thứ nhất phân tích hàng hóa như hình thái của sản phẩm lao động: nó đặt vấn đề tồn tại của giá trị và tra hỏi khái niệm về lao động trừu tượng; rồi nêu vấn đề biểu hiện của giá trị và chất vấn khái niệm về tiền tệ.

Phần thứ hai phân tích hàng hóa với tính cách là sản phẩm của tư bản: nó đặt vấn đề tồn tại của giá trị thặng dư và tra hỏi khái niệm vế sức lao động; rồi nêu vấn đề biểu hiện của giá trị thặng dư và chất vấn khái niệm về tỷ suất lợi nhuận chung.

Phần thứ ba phân tích hàng hóa với tính cách là sản phẩm của tư bản cá biệt: nó đặt vấn đề tồn tại của siêu lợi nhuận; rồi xét câu hỏi về chuyển đổi siêu lợi nhuận thành địa tô.

Ba phần trình bày này bao hàm nội dung chủ yếu của quy luật giá trị trong bộ Tư bản, tuy không đề cập tất cả chủ đề có liên quan, như vấn đề của lao động sản xuất và phi sản xuất hay vấn đề về động thái của tích lũy tư bản và của tỷ suất lợi nhuận. Trong khuôn khổ nhất thiết có giới hạn của công trình này, chúng tôi cũng không xem xét chiều kích không gian với vấn đề của thị trường thế giới hay chiều kích thời gian với vấn đề về phân kỳ chủ nghĩa tư bản. Ngược lại, công trình nghiên cứu qui luật giá trị đưa chúng tôi đến phát hiện một vấn đề ẩn ngầm trong các phân tích hình thái kinh tế của chủ nghĩa tư bản: vấn đề của nhà nước hiện đại[39].

Chú thích

Phiên bản ban đầu của công trình nghiên cứu này đã tiếp nhận ý kiến phê phán của Pierre Salama, Ruy Fausto, Isaac Joshua, Bruno Lautier và Olivier Weinstein. Tất nhiên, chỉ tác giả công trình chịu trách nhiêm về các luận điểm trình bày và thiếu sót của chúng.

* * *

LỜI KẾT

Việc phân biệt các cấp độ trừu tượng hóa của bộ Tư bản đã cho phép xác lập nội hàm tổng hợp của mệnh đề theo đó “quy luật giá trị qui định xã hội có thể vận dụng bao nhiêu thời gian lao động của nó vào việc sản xuất mỗi loại hàng hóa”[40]. Cách đọc thông thường mệnh đề này là xem quy luật giá như là:

- một quy luật chung về lao động xã hội cần thiết, với hai mặt của nó là quy luật phân bổ tối ưu lao động xã hội giữa các ngành sản xuất hàng hóa, và quy luật tiết kiệm tối đa lao động xã hội trong mỗi ngành. Đọc như vậy, quy luật giá trị không thể nắm bắt cả hình thái đặc thù lẫn nội dung đặc thù của nó. Bởi đối với Marx, giá trị là một phạm trù xã hội và lịch sử mà mệnh lệnh về hình thái (là hình thái tiền tệ và giá cả) cũng như mệnh lệnh về nội dung của nó (là bó buộc về giá trị thặng dư và sự phân phối của nó trong nội bộ giai cấp tư bản) nói lên yêu cầu tái sản xuất các quan hệ xã hội khác nhau của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - và khả năng của xã hội vượt bỏ phương thức sản xuất này.

- một quy luật điều tiết mang tính tự nhiên, độc lập với ý chí và hành vi của con người cá thể, là quy luật về cạnh tranh qua đó xã hội tự điều tiết một cách vô ý thức, vô tổ chức. Đọc quy luật giá trị như thế không thể nắm lấy tính chất xã hội - chính trị của nó. Bởi, trong bộ Tư bản, giá trị trao đổi là một phạm trù bất định trên bình diện kinh tế và chỉ được xác định trên cơ sở những chuẩn mực về tiền tệ, về tiền công và về địa tô, đều là những chuẩn xã hội mang tính nhà nước và là đối tượng của đấu tranh giai cấp.

Nhn thức quy luật giá trị đòi hỏi phân biệt nhiều cấp độ khác nhau trong quá trình phân tích nó:

- Cấp độ I-1 phân tích quy luật về giá trị như là hình thái xã hội: nó xác lập sự tồn tại của giá trị như là hình thái đặc thù của lao động xã hội trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; đó là lao động trừu tượng - cụ thể biểu hiện trong hình thái giá trị của sản phẩm lao động hay hình thái hàng hóa, và đó vừa là hình thái khách thể của xã hội và hình thái xã hội của khách thể.

- Cấp độ I-2 phân tích quy luật về giá trị như là hình thái hiện tượng: nó xác lập biểu tượng của lao động trừu tượng - cụ thể trong tiền tệ, và biểu hiện của giá trị trong giá cả; hình thái của giá trị hình thành từ mối quan hệ đối cực của thế giới hàng hóa giữa một bên là các hàng hóa và một bên là tiền tệ; nó là một hình thái bái vật gồm một hình thái khách thể (là giá cả của hàng hóa) và một hình thái chủ thể (là cá nhân trao đổi hàng hóa).

- Cấp độ II-1 phân tích nội dung của quy luật về giá trị với tính cách là quan hệ giai cấp tư bản chủ nghĩa; ở cấp độ trừu tượng hóa của tư bản nói chung, giá trị được sản xuất với bó buộc về một tỷ suất giá trị thặng dư nói lên các chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động; là đối tượng của đấu tranh giai cấp, các chuẩn này biểu hin, trong một nước nhất định vào một thời điểm nhất định, trình độ phát triển của sức sản xuất tư bản chủ nghĩa và tương quan lực lượng xã hội giữa người làm công và chủ tư bản.

- Cấp độ II-2 phân tích nội dung của quy luật về giá trị với tính cách là quan hệ giữa chủ tư bản với nhau: ở cấp độ trừu tượng hóa của tư bản số nhiều, giá trị sản xuất ra được phân đoạn theo các ngành và cấu trúc hóa theo chuẩn về tỷ suất lợi nhuận chung, là hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư trong cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.

- Cấp độ III-1 phân tích sự thực hiện của quy luật giá trị trong cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, gồm cạnh tranh trong nội bộ một ngành và giữa các ngành với nhau: ở cấp độ trừu tượng hóa của tư bản cá biệt, đó là sự phân đoạn giá trị trao đổi khi nó sáp nhập siêu lợi nhuận cá biệt và siêu lợi nhuận thị trường.

- Cấp độ III-2 phân tích quy luật giá trị khi nó sáp nhập địa tô: trước tiên là địa tô tuyệt đối khấu trừ vào lợi nhuận, từ đó mới hình thành tỷ suất lợi nhuận chung; mặt khác, siêu lợi nhuận trong nội bộ ngành chuyển đổi thành địa tô chênh lệch, và siêu lợi nhuận giữa các ngành chuyển đổi thành địa tô độc quyền.

David Ricardo (1772-1823)

Tiền tệ, sức lao động và địa tô tuyệt đối là những khái niệm nền tảng, những điểm mạnh trong lý luận của Marx, những đá tảng của phê phán kinh tế chính trị học trong bộ Tư bản. Tuy nhiên cách đọc Marx mà chúng tôi đề xuất ở đây cho thấy rằng đó cũng là những khái niệm mong manh, những điểm yếu trong trình bày của bộ Tư bản, khiến cho lý luận của Marx có thể ngã sang chính trị kinh tế học mà chính ông phê phán. Điều này có nghĩa là một số cách đọc khác - như đọc Marx theo thuyết Ricardo - cũng có thể tìm thấy cơ sở trong bộ Tư bản. Song, có một đường phân cách cơ bản giữa cách đọc chúng tôi đề xuất và các cách đọc khác: đó là những cách đọc này đều đặt nhà nước qua một bên khi khái niệm hóa các quan hệ xã hội khác nhau của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - như là quan hệ hàng hóa, quan hệ làm công, quan hệ sở hữu đất đai. Trong khi có thể suy nghĩ rằng những điểm yếu trong trình bày của bộ Tư bản, đặc biệt những khó khăn khái niệm hóa tiền tệ, sức lao động và địa tô tuyết đối, có liên quan đến những vấn đề mà Marx gặp phải lúc khái niệm hóa nhà nước.

Theo một dàn bài soạn năm 1858, tác giả Tư bản có dự kiến một công trình phê phán chính trị kinh tế học gồm 6 quyển, trong đó có dành một quyển cho nhà nước: 1. Tư bản; 2. Sở hữu đất đai; 3. Lao động làm thuê; 4. Nhà nước; 5. Trao đổi quốc tế; 6. Thị trường thế giới[41]. Tác phẩm về nhà nước chưa hề được Marx biên soạn, cho nên bộ Tư bản không có một trình bày lý luận về vấn đề này.

Georg Hegel (1770-1831)

Hẳn là trước khi bắt tay vào phê phán kinh tế chính trị học, Marx đã có những công trình phê phán chính trị và nhà nước hiện đại, và năm 1845 ông còn cam kết với nhà xuất bản là biên soạn một tác phẩm gồm hai tập, nhan đề là “Phê phán chính trị và chính trị kinh tế học”[42]. Về tập thứ nhất bàn về chính trị, Marx chỉ phác thảo một dàn bài 11 điểm: 1. Sự phát sinh nhà nước hiện đại với Cách mạng Pháp và sự phân đôi xã hội thành con người dân sự và con người chính trị; 2. Tuyên ngôn nhân quyền và hiến pháp nhà nước xác lập tự do và bình đẳng của các cá nhân; 3. Nhà nước và xã hội dân sự tư sản; 4. Nhà nước đại biểu dân chủ và Hiến chương 1830; 5. Sự phân quyền; 6. Quyền lập pháp và các cơ quan lập pháp; 7. Quyền hành pháp và bộ máy hành chính; 8. Quyền tư pháp và pháp luật; 9. Quốc tịch và dân tc; 10. Các đảng chính trị; 11. Quyền bầu cử và cuộc đấu tranh để bãi bỏ nhà nước và xã hội dân sự[43]. Ngoài ra, Marx cũng không có công bố những văn bản chính ông đã biên soạn nhằm phê phán triết học chính trị của Hegel (Phê phán triết học pháp quyền chính trị của Hegel, 1843 - chỉ xuất bản có lời dẫn nhập 1844) và của phái tân Hegel (Hệ tư tưởng Đức, 1845 - biên soạn cùng với Engels)[44].

Mặt khác, song song với các công trình biên soạn bộ Tư bản, Marx quả có công bố nhiều văn bản (Đấu tranh giai cấp ở Pháp, 1850; Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte, 1852; Cuộc nội chiến ở Pháp, 1871; Phê phán cương lĩnh Gotha, 1872) và bài báo (trên Neue Rheinische Zeitung; New York Daily Tribune) luận bàn về lịch sử chính trị đương đại, nhưng không hề lý thuyết hóa nhà nước hiện đại một cách có hệ thống. Từ đó, có nhận định cho rằng các công trình của Marx không hề chứa đựng một lý luận thống nhất về nhà nước, mà chỉ trình bày nhiều lý luận khác nhau về mối tương quan của nhà nước hiện đại với tư bản, và lập trường của ông dường như dao động giữa các lý luận đó trong chừng mực chúng không ăn khớp với nhau. Người ta có thể tìm thấy trong các tác phẩm của Marx chí ít ba cách tiếp cận nhà nước hiện đại:

- Phương pháp tiếp cận của những văn bản triết hc 1843-1844, qua đó Marx tiến hành phê phán quan niệm về nhà nước của Hegel và sự đảo nghịch tương quan quy định giữa nhà nước và xã hội dân sự.

- Phương pháp tiếp cận đi từ Hệ tư tưởng Đức đến các công trình bộ Tư bản, qua đó Marx xác lập tính chất của nhà nước hiện đại là một hình thái đặc thù của nhà nước giai cấp.

- Phương pháp tiếp cận đi từ Hệ tư tưởng Đức đến các văn bản chính trị về chủ nghĩa Bonaparte, qua đó Marx xác lập tính độc lập của nhà nước trong mối tương quan với các giai cấp xã hội.

Song, bởi Marx đã triển khai nghiên cứu các phạm trù về tiền tệ, sức lao động và địa tô sâu hơn ông đã nghiên cứu phạm trù về nhà nước, có thể suy nghĩ rằng nỗ lực khái niệm hóa các quan hệ hàng hóa, làm công và sở hữu đất đai sẽ giúp thúc đẩy khái niệm hóa nhà nước hiện đại, hơn là ngược lại. Và, cũng như quy luật giá trị được trình bày ở các cấp độ trừu tượng hóa khác nhau, trình bày nhà nước hiện đại sẽ phải tiến hành theo các cấp độ phân tích tương liên với giá trị[45].

I. Nhà nước hiện đại và quan hệ hàng hóa

Ludwig Feuerbach (1804-1872)

Trong trình bày của bộ Tư bản, quan hệ tiền tệ – hàng hóa được cấu trúc hóa tương tự như mối quan hệ nhà nước hiện đại – xã hội dân sự. Tính đẳng cấu này có từ những văn bản triết học 1843-1844 trong đó Marx phê phán song song nhà nước hiện đại và tiền tệ với cùng sơ đồ về sự tha hóa tôn giáo của triết học Feuerbach[46]. Trong các văn bản này, Marx phân tích sự tách biệt giữa xã hội dân sự tư sản (phạm vi của các lợi ích riêng) và nhà nước hiện đại (phạm vi của lợi ích chung) như Hegel, nhưng để vạch tính huyn hoặc của học thuyết Hegel khi nó đảo ngược tương quan quy định giữa hai phạm vi và lấy nhà nước hiện đại làm thành chân lý của xã hội dân sự tư sản.

Tuy nhiên, khi phản bác quan niệm duy tâm của Hegel và tiến hành lật đổ nó, Marx dường như bỏ mất điều làm nên tính hiện đại của học thuyết Hegel là tính phổ quát của nhà nước, vượt lên những lợi ích cá biệt, cho nên không thể qui nhà nước vào xã hội dân sự được, tức là vào những quan hệ giữa cá nhân với nhau. Đó chính là điều đối lập Hegel với các lý luận về nhà nước căn cứ trên quyền tự nhiên và khế ước[47]. Người ta có thể tìm thấy lối diễn giải những văn bản của Marx phê phán Hegel như nói trên ở một nhà bình luận như Jacques Bidet khi ông cho rằng: tác giả Tư bản “bị mắc kẹt trong xã hội dận sự” vì quan niệm nhà nước như là biểu hiện của sở hữu tư, là “nhà nước của xã hội dân sự”[48]. Đó cũng là lối diễn giải của Louis Dumont và Pierre Rosanvallon khi họ cho rằng: Marx đã không nắm bắt được “mặt tổng thể” của nhà nước trong học thuyết Hegel, cho nên, khi lật ngược Hegel, Marx không khác nào “trở về với Smith”, tức là với một cách đặt vấn đề “duy cá thể” về xã hội dân sự, tức một xã hội dân sự thành hình từ các cá nhân tự chủ[49].


Thật ra, quan niệm của Marx về mối tương quan giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự không hề đơn giản hóa như thế trong toàn bộ văn bản triết học cùng thời kỳ và gồm có: Phê phán triết học pháp quyền của Hegel, 1843; các bài “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel” và “Về vấn đề Do Thái” (Niên san Đức-Pháp, 1844); thư gửi Arnold Ruge tháng 9 1843 và lời chú phê phán bên lề bài của Arnold Ruge (Vorwarts!, 1844); Gia đình thần thánh, 1844; các “sổ tay đọc sách”, 1845. Từ các văn bản này của Marx, nổi lên hai luận đề hình như không khớp với nhau:

1) Chỉ có sự tha hóa nhà nước mới khiến người ta nghĩ rằng nhà nước quyết định hay chi phối xã hội dân sự, trong khi ngược lại chính xã hội dân sự sản sinh nhà nước: Marx phê phán ở đây việc Hegel đảo ngược mối tương quan, “cái chi phối trở thành cái bị chi phối, cái quyết định trở thành cái được quyết định, cái sản sinh trở thành sản phẩm của sản phẩm của nó”[50].

2) Nhà nước với tính cách là phạm vi của lợi ích chung, và xã hội dân sự với tính cách là phạm vi của các lợi ích riêng, thành hình cùng lúc với nhau, cái này đối lập với cái kia và không tồn tại nếu cái kia không có: theo Marx “sự hình thành của nhà nước chính trị và sự tan rã của xã hội thành những cá nhân độc lập […] được thực hiện trong cùng một hành vi”[51].

Hai luận đề này hẳn nghịch lý: bởi nếu là cùng một hành vi khai sinh đồng thời xã hội dân sự và nhà nước hiện đại thì không thể cho rằng xã hội dân sự tạo sinh nhà nước hay ngược lại. Về vấn đề Do Thái xác định rằng chính cuộc cách mạng chính trị, mà Cách mạng Pháp là điển hình, đã giải phóng con người ra khỏi sự chi phối của nhà nước phong kiến, và cho xã hội tư sản một sự sự tồn tại tự chủ. Đồng thời, nhà nước hiện đại thành hình bằng cách tước hết tính cách chính trị của xã hội dân sự để có thể thể hiện lợi ích chung, và để cho con người của xã hội dân sự có thể chỉ đeo đuổi lợi ích riêng của nó mà thôi: “Chỉ khi nào nó đứng lên trên những phần tử cá biệt, nhà nước mới có thể tự xưng là phổ quát”[52]. Nhà nước hiện đại hoàn thành khi con người cá nhân có hai cuộc sống: đời sống của con người tư nhân, là “cá nhân vị kỷ và độc lập”, và đời sống của con người công dân, là “con người cộng đồng”, “con người tinh thần”[53]. Do sự phân đôi này mà có sự phân biệt giữa một bên là các quyền công dân tức những quyền tự do chính trị gắn với dân chủ, và một bên là các quyền con người theo nghĩa con người tư nhân là những quyền tự do dân sự liên quan đến sở hữu tư - và nhà nước hiện đại, khi tôn trọng các quyền con người này, nói lên sự công nhận xã hội dân sự tách bit nhà nước[54].

Mặt khác, mâu thuẫn giữa lợi ích tư và lợi ích chung không chỉ tách biệt xã hội dân sự và nhà nước hiện đai. Mâu thuẫn này còn hiện diện, như Marx nhấn mạnh, ngay trong phạm vi nhà nước, bởi sự vận hành của nhà nước đòi hỏi một bộ máy, một chế độ quan liêu, có xu hướng lấy lợi ích của bản thân làm thành lợi ích chung mà nó là biểu tượng: theo nghĩa đó, “chế độ quan liêu là nhà nước đã thực tế trở thành xã hội dân sự tư sản”[55].

Như vậy, các văn bản 1843-1844 không chỉ nêu vấn đề phê phán sự tha hóa nhà nước và lật ngược mối tương quan quyết định giữa nhà nược và xã hội dân sự mà Hegel xác lập. Chúng còn phân tích sự phân đôi xã hội hiện đại thành hai phạm vi - chính trị và kinh tế - tách biệt nhau về hình thức, phân tích mối quan hệ đối cực giữa xã hội dân sự và nhà nước hiện đại, với tính hai mặt hoặc nước đôi của nhà nước hiện đại này. Nói cách khác, tách biệt ở đây không hề có nghĩa, như trong chính trị kinh tế học, là bài trừ chính trị ra khỏi phạm vi kinh tế, mà đó là một hình thái hai mặt bài trừ - bao hàm, sự thống nhất đối cực của kinh tế và chính trị[56].

Hơn thế, có thể nói rằng các luận đề 1843-1844 của Marx không ăn khớp với nhau là do ông còn sử dụng, trong văn bản thời trẻ này, triết học về tha hóa của Feuerbach để phê phán Hegel. Hay nói cách khác, là do Marx còn vận dụng một cách đặt vấn đề khởi đi từ “bản chất con người” và “tiền giả định một cá nhân trừu tượng, cô lập” mà về sau Luận cương về Feuerbach của ông sẽ bác bỏ[57] [1846, tr. 3]. Bởi, kể từ năm 1846, với Hệ tư tưởng Đức, Marx xác lập một cách đặt vấn đề mới là xuất phát từ các quan hệ xã hội về sản xuất và các giai cấp xã hội. Từ đó, ông có thể trình bày lại các luận đề thiếu mạch lạc trước đây thành một mệnh đề thống nhất: “Chính do mâu thuẫn đó giữa lợi ích riêng và lợi ích chung mà lợi ích chung, với tính cách là nhà nước, mang một hình thái độc lập, tách rời các lợi ích thực của cá nhân hay của tập thể, và lợi ích chung đó đồng thời mang hình thái của một cộng đồng hão huyền, tuy luôn luôn trên cơ sở hiện thực của các mối liên hệ có trong mỗi tập hợp người […]; đặc biệt là lợi ích của các giai cấp hình thành trên cơ sở của phân công lao động, và sự phân hóa giai cấp này có ở mọi tập hợp người, với một giai cấp có vị trí thống trị tất cả các giai cấp khác[58] [1846, tr. 31]”. Với mệnh đề này, Marx phác họa đặc tính kép của nhà nước tư sản: 1) Là biểu hiện của mâu thuẫn giữa các lợi ích cá biệt và lợi ích chung, nhà nước là một hình thái xã hội độc lập với xã hội dân sự, vừa khác với lợi ích cá thể và tổng của chúng. 2) Trong một xã hội phân chia giai cấp, nhà nước là hình thái qua đó những cá nhân thuộc giai cấp thống trị đưa ra lợi ích cá biệt của họ như là lợi ích chung, khiến lợi ích chung đó trở thành hão huyền.

Phải chăng ở đây có sự nhập nhằng (ambiguité) trong trình bày của Marx, hay đó chỉ là tính hai chiều (ambivalence) của nhà nước hiện đại? Câu hỏi sẽ được bàn ở phía sau khi tiến hành xem xét phạm trù về nhà nước giai cấp. Nhưng phải thừa nhận rằng cách đọc truyền thống Hệ tư tưởng Đức và những văn bản chính trị sau đó (đặc biệt là Tuyên ngôn đảng cộng sảnCuộc nội chiến ở Pháp) đã áp đặt một lối diễn giải đơn giản hóa phạm trù nhà nước như là công cụ của giai cấp thống trị. Trong điều kiện đó, lợi ích chung là “hão huyền” bởi chỉ có lợi ích riêng là “hiện thực”. Tính độc lập của nhà nước hiện đại đối với xã hội dân sự như vậy là một hình thái lừa phỉnh che khuất tính phụ thuộc của nhà nước đối với giai cấp thống trị. Điều người ta mất đi trong lối diễn giải này là tính hai chiều của nhà nước hiện đại gắn với tương quan đối cực của nó với xã hội dân sự. Nói cách khác, điều mà người ta đánh mất là khả năng khái niệm hóa nhà nước hiện đại như là điều kiện tồn tại của tư bản và của sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Bởi, nếu vì tách rời khỏi xã hội dân sự, nhà nước hiện đại không thể có nguyên tắc lý giải nó, thì xã hội dân sự tách biệt nhà nước cũng không thể tự lý giải nó.

Jacques Bidet (1935-)

Có thể nhận xét rằng khái niệm hóa nhà nước hiện đại đặt ra những vấn đề tương tự với vấn đề mà Marx, về sau, gặp phải khi trình bày khái niệm về tiền tệ. Và những sự nhập nhằng của Marx trong các văn bản triết học trình bày mối quan hệ nhà nước hiện đại – xã hội dân sự không thể không tác động đến phân tích của ông về mối quan hệ tiền tệ – hàng hóa trong bộ Tư bản. Jacques Bidet có đề xuất một cách đọc Marx làm rõ vấn đề nhà nước trong Phần 1, Quyển I. Ông phê phán lối diễn giải truyền thống theo đó phạm trù nhà nước chỉ có mặt trong phân tích của Marx về tư bản, tức từ Quyển I, Phần 2, nơi nhà nước xuất hiện như quan hệ thống trị của một giai cấp trên giai cấp khác. Bidet nhận xét chính xác rằng vấn đề nhà nước đúng ra được nêu lên sớm hơn trong trình tự trình bày của bộ Tư bản: ngay từ quan hệ hàng hóa mà Marx không thể tư duy nếu thiếu những quy định nhà nước về tiền tệ và luật pháp. Và đó là nhà nước đại biểu cho xã hội và tách biệt các tác nhân tư, là nhà nước như hiện thân của tính phổ quát đối diện với các lợi ích cá biệt. Tuy nhiên, theo Bidet, do phê phán sự tha hóa nhà nước, Marx từ bỏ quan niệm nhà nước của Hegel, cho nên bộ Tư bản không vạch ra được “cái phổ quát cụ thể” (universel concret) trong phân tích quan hệ hàng hóa, khiến quan hệ này chỉ là một quan hệ giữa những tác nhân tư với nhau. Điều đó giải thích vì sao Marx đã không lý thuyết hóa sự hiện diện của nhà nước ở Phần 1, Quyển I. Và lý thuyết về nhà nước của ông chỉ được xác lập trong phân tích tư bản ở cấp độ quan hệ giai cấp: đó là nhà nước của tư bản, tức là một nhà nước không biểu hiện tính phổ quát mà ch đại biểu cho những lợi ích cá biệt.

Tuy có góp phần làm sáng tỏ vấn đề nhà nước trong trình bày của Quyển I Tư bản, diễn giải của Bidet vấp phải hai nhận xét phản biện. Một mặt, tác giả Tư bản không hề lý thuyết hóa nhà nước trong Quyển I, cho dù là ở Phần 1 bàn về hàng hóa và tiền tệ hay là Phần 2 bàn về tư bản; vả lại, sự hiện hữu của một lý thuyết hoàn tất về nhà nước trong bộ Tư bản là điều đáng ngờ vực. Mặt khác, phân tích về hàng hóa của Phần 1 đưa Marx đến cái phổ quát cụ thể là tiền tệ: đó chính là đối tượng khảo cứu của ông khi phân tích hình thái của giá trị, bất luận những thiếu sót trong trình bày của nó.

Từ các nhận định trên, có thể rút ra hai điều chỉ dẫn nhằm khái niệm hóa nhà nước hiện đại.

1) Với khái niệm về tiền tệ, Marx xác định biểu tượng của lao động xã hội mang tính trừu tượng, là hình thái giá trị. Tương tự, khái niệm hóa nhà nước hiện đại cho phép xác định biểu tượng của cá nhân xã hội mang tính trừu tượng, là hình thái công dân. Ở Phần 1, Quyển I Tư bản, hàng hóa và tiền tệ được định nghĩa ở một cấp độ trừu tượng hóa còn hình thức và cần xác lập cơ sở, ở Phần 2, trong phân tích tư bản với tính cách là quan hệ giai cấp. Cũng tương tự, định nghĩa ban đầu về xã hội dân sự và nhà nước hiện đại cần phải đặt trên cơ sở phân tích quan hệ thống trị giai cấp[59].

2) Marx không định nghĩa tư bản như là quan hệ bóc lột trong đó một giai cấp chiếm hữu lao động thặng dư của giai cấp khác: tư bản là một quan hệ bóc lột đặc thù - bóc lột qua quan hệ hàng hóa -, là sự chiếm hữu sản phẩm thặng dư dưới một hình thái đặc thù, hình thái tiền tệ. Tương tự như thế, Marx không đơn giản hóa định nghĩa nhà nước hiện đại như là nhà nước giai cấp, là sự thống trị chính trị của giai cấp thống trị: đó là một nhà nước giai cấp đặc thù - nhà nước công dân -, là sự thống trị chính trị dưới một hình thái đặc thù, hình thái dân chủ.

Lý thuyết về tư bản của Marx bắt đầu từ phân tích hình thái giá trị với sự tách đôi lao động xã hội thành lao động cụ thể và lao động trừu tượng, và sự phân đôi thế giới hàng hóa giữa các hàng hóa và tiền tệ. Cũng như vậy, một lý thuyết về nhà nước hiện đại phải khởi đi từ sự tách đôi con người xã hội thành cá nhân cụ thể (là con người tư) và cá nhân trừu tượng (là công dân), và sự tách biệt xã hội dân sự và xã hội chính trị, tức là phải bắt đầu với khảo cứu “nhà nước đại biểu dân chủ”. Đó là chỉ dẫn của Marx khi ông phác họa dàn bài của đề án sách về nhà nước năm 1845[60].

II. Nhà nước hiện đại và quan hệ làm công

Jon Elster (1940-)

Kể từ Hệ tư tưởng Đức, người ta tìm thấy trong những văn bản của Marx hai loại phân tích về nhà nước hiện đại mà nhiều nhà bình luận cho là nghịch lý. Theo Maurice Barbier, Marx có một thuyết “lai tạp” về nhà nước: một mặt, nhà nước “công cụ của giai cấp thống trị về kinh tế” và, mặt khác, nhà nước “độc lập với các giai cấp và đứng trên toàn xã hội” - hai quan niệm này, Marx “đặt kề nhau” chứ không quan tâm dung hòa hay làm cho chúng ăn khớp trong một thuyết khái quát về nhà nước[61]. Theo Jon Elster, đó là hai lý thuyết do Marx lần lượt bảo vệ: bước đầu, ông tán đồng quan niệm “công cụ” về nhà nước, rồi từ bỏ nó vào khoảng năm 1850 để phân tích “tính độc lập của nhà nước” trên cơ sở thế cân bằng giữa các giai cấp xã hội - và phân tích này phải được xem là “lý thuyết khái quát về nhà nước hiện đại của Marx”[62]. Chúng ta hãy xét những văn bản quy chiếu.

1. Loại văn bản thứ nhất bàn về tính chất giai cấp của nhà nước hiện đại và đặc điểm hình thức của nó, như mệnh đề kép của Hệ tư tưởng Đức đã dẫn ở trên: sự phân chia giai cấp của xã hội hiện đại giả thiết sự tồn tại của nhà nước như là một hình thái xã hội tách biệt xã hội dân sự và thống trị nó, và là hình thái qua đó giai cấp thống trị áp đặt lợi ích riêng của nó như là một lợi ích chung hão huyền. Người ta còn đọc rằng: “Nhà nước có tồn tại riêng, bên cạnh và bên ngoài xã hội dân sự; nhưng nhà nước ấy không là gì khác hơn là hình thái tổ chức mà những nhà tư sản phải dùng để đảm bảo lẫn nhau sở hữu và lợi ích của họ, ở ngoài cũng như ở trong [giai cấp của họ]”. Marx nói thêm: “Vì nhà nước là hình thái mà các cá nhân thuộc giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ, và là hình thái tóm lược toàn bộ xã hội dân sự của một thời đại, cho nên tất cả các định chế chung đều thông qua nhà nước và mang hình thái chính trị”[63]. Cách thức trình bày nhà nước hiện đại của Marx bao giờ cũng là một mệnh đề kép nhằm xác định bản chất của nó và đặc trưng hình thái của nó. Khi phân tích nhà nước, ông không vận dụng lô-gíc về công cụ mà vận dụng lô-gíc về hình thái. Lý luận về nhà nước hiện đại của Marx chỉ trở nên “duy công cụ” khi người ta quy nó một cách đơn phương vào định nghĩa tính chất giai cấp của nhà nước mà không kể đến hình thái đặc thù của nó là nhà nước công dân, không quan tâm đến hình thái dân chủ của nó[64].

Marx còn nhấn mạnh rằng: Để khẳng định sự thống trị, giai cấp tư sản phải có khả năng biểu hiện lợi ích riêng của nó như là “lợi ích phổ quát”, và biểu hiện tư tưởng của nó như là tư tưởng “duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ quát”[65]. Tính phổ quát này tất nhiên là tưởng tượng, “hão huyền”, nhưng nó là điều kiện về hình thức của nhà nước hiện đại, thiếu nó nhà nước sẽ mất tính chính đáng, không thể là “hình thái tóm lược toàn bộ xã hội dân sự”[66]. Đó là điều Barbier không hiểu khi ông đối lập tính phụ thuộc của nhà nước hiện đại vào giai cấp thống trị với tính độc lập của nó đối với xã hội dân sự: Đã là “nhà nước của một giai cấp cá biệt” thì nhà nước hiện đại “không thể là hiện thân của lợi ích chung trong xã hội”[67]. Rõ ràng lời phản bác này lẫn lộn hai vấn đề, cũng là hai cấp độ phân tích khác nhau: tính chất giai cấp của nhà nước hiện đại và hình thức đặc thù của nó.

2. Người ta còn tìm thấy ở Marx một loại văn bản khác bàn về tính độc lập của nhà nước hiện đại đối với các giai cấp xã hội, đặc biệt là giai cấp thống trị. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông phân tích chế độ quân chủ chuyên chế của Phổ, và khái quát hơn ở những nước chưa có giai cấp tư sản thống trị. “Tính độc lập của nhà nước chỉ tồn tại ngày nay ở những nước trong đó […] không có một bộ phận dân chúng có khả năng thống trị bộ phận còn lại. Và đó là trường hợp đặc biệt của nước Đức”[68]. Sau đó, trong Ngày 18 tháng Sương mù của Louis BonaparteCuộc nội chiến ở Pháp, Marx mở rộng phân tích tính độc lập của nhà nước đối với các giai cấp xã hội đến các chế độ theo chủ nghĩa Bonaparte ở Pháp và Phổ, và khái quát hơn đến các xã hội tư bản phát triển trong đó các giai cấp ở trong thế cân bằng nhau. “Thực ra, đó là hình thái cai trị duy nhất có thể trong thời đại giai cấp tư sản đã mất khả năng cai trị quốc gia và giai cấp công nhân chưa có khả năng này”[69]. Trên báo Neue Rheinische Zeitung, Marx nhận xét “nhà nước tư sản bên ngoài có vẻ ngày càng độc lập hơn đối với xã hội tư sản bởi nó ngày càng khó kiềm chế giai cấp bị bóc lột”[70]. Còn trên báo New York Daily Tribune, Marx và Engels lý giải như sau hiện tượng về chủ nghĩa Bonaparte: “Khi những cuộc nổi dậy 1848 như núi lửa gợi lên, trước những cặp mắt đầy ngạc nhiên của các giai cấp trung lưu theo chủ nghĩa tự do ở Châu Âu, bóng ma khổng lồ của giai cấp công nhân có khí giới và đấu tranh để giải phóng chính trị và xã hội - các giai cấp trung lưu đó cho rằng sở hữu yên ổn tư bản quan trng hơn nắm quyền lực chính trị trực tiếp, nên họ đã hy sinh quyền lực này và các quyền tự do mà họ đã đấu tranh giành lấy, nhằm đảm bảo công cuộc đàn áp cách mạng vô sản. Giai cấp trung lưu tự nhận mình vị thành niên về mặt chính trị, không có khả năng quản lý quốc sự, và họ chấp nhận chế độ chuyên chế quân phiệt và quan liêu”[71].

Tuy nhiên, không thể - như Elster và Barbier - đối lập những văn bản bàn về tính độc lập của nhà nước trong các chế độ theo chủ nghĩa Bonaparte ở trên đây, với các văn bản trước đó của Marx xác định nhà nước hiện đại như hình thái đặc thù của nhà nước giai cấp. Đó là hai cấp độ phân tích nhà nước hiện đại khác nhau mà Elster không nắm được do cách diễn giải Marx của ông. Những văn bản về chủ nghĩa Bonaparte không hề nói về khái niệm chung của nhà nước hiện đại mà chỉ bàn đến một hình thái chế độ chính trị: các văn bản này không thuộc cấp độ phân tích nhà nước hiện đại như là hình thái xã hội (như là quan hệ xã hội đặc thù) mà ở cấp độ phân tích những hình thái của nhà nước hiện đại (tức những hình thái biểu hiện, hình thái hiện tượng của nó).

Đây cũng là điều nhiều nhà bình luận Cuộc nội chiến ở Pháp không nắm bắt được trong văn bản này mà họ thường trích dẫn như minh họa cho quan niệm duy công cụ về nhà nước của Marx[72]. Tác phẩm này trình bày những “chế độ”, những “hình thái cai trị” đã nối tiếp nhau ở Pháp từ Đệ nhất đến Đệ nhị đế chế (quân chủ chính đáng, quân chủ hợp hiến, cộng hòa đại nghị) mà đặc điểm là “chính phủ nằm dưới sự kiểm soát của quốc hội, tức là sự kiểm soát trực tiếp của các giai cấp có của”. Khi đấu tranh giai cấp tăng dần cường độ, quyền lực nhà nước “ngày càng mang tính cách một quyền lực công được tổ chức để áp chế xã hội, một bộ máy thống trị giai cấp”. Sau mỗi cuộc cách mạng (năm 1830, 1848), “tính thuần túy trấn áp của quyền lực nhà nước ngày càng biểu lộ công khai”. Đặc biệt, cuộc cách mạng 1848 lột mặt nạ của nhà nước hiện đại và “tham vọng” của nó là “hiện thân lợi ích chung của xã hội, và đứng lên trên các tranh chấp lợi ích tư”. Nó “vạch trần bí mật của quyền lực nhà nước là làm công cụ chuyên chế giai cấp”. Trước đe dọa nổi dậy của giai cấp vô sản, giai cấp thống trị dùng quyền lực nhà nước “một cách không nể nang và còn phô trương, như là dụng cụ chiến tranh của tư bản chống lại lao động”. Nhà nước trở thành “công cụ công khai của cuộc nội chiến” mà giai cấp tư sản tiến hành. “Một cách trâng tráo và trơ trn, các phe nhóm trong giai cấp thống trị chối bỏ những cam kết công cộng của họ, những điều họ gọi là nguyên tắc”. Và chính nền cộng hòa đại nghị - “một chế độ tự nhận là khủng bố giai cấp” - đã “trao cho hành pháp mỗi ngày một thêm quyền lực đàn áp”, đồng thời “tước quốc hội hết cả phương tiện cưỡng lại hành pháp”, để cuối cùng đưa đến cuộc đảo chính khai sinh Đệ nhị đế chế. Trình bày của Marx mô tả cuộc đấu tranh giai cấp mà giai cấp tư sản Pháp “không giấu giếm đã khai chiến”, và dẫn nó đến những hình thái chế độ chính trị nhạo báng “một cách phô trương” hình thái nhà nước hiện đại cùng tham vọng của nó là biểu tượng tính phổ quát (cho dù chỉ hão huyền) đối chiếu với lợi ích tư. Thay vì nói lên một quan niệm duy công cụ về nhà nước, Cuộc nội chiến ở Pháp trình bày các “hình thức cai trị” qua đó giai cấp tư sản cộng cụ hóa nhà nước, biến nó thành “hình thái trực tiếp về chuyên chế giai cp” - là sự phủ định hình thái chung của nhà nước hiện đại.

Khi biến thành công cụ không hơn không kém của giai cấp tư sản, nhà nước hiện đại mất đi tính chính đáng của nó và lâm vào khủng hoảng. Con đường công cụ hóa nhà nước là một ngõ cụt đối với giai cấp tư sản. Nó đưa đến chủ nghĩa Bonaparte là một hình thái chế độ chính trị trong đó nhà nước không chịu sự kiểm soát trực tiếp của giai cấp thống trị mà được đặt lên trên các giai cấp xã hội. Chủ nghĩa Bonaparte chỉ một hình thái chính trị về thống trị giai cấp trong đó giai cấp thống trị về kinh tế không nắm giữ quyền lực chính trị, nó là hình thái cuối cùng của nhà nước hiện đại: “Đệ nhị đế chế không chỉ là một hình thái chính trị của xã hội tư sản, bên cạnh các hình thái trước đó là các chế độ quân chủ chính đáng, quân chủ hợp hiến và cộng hòa đại nghị; nó cũng là hình thái sa đọa nhất, hoàn bị nhất và cuối cùng”.

Cách diễn giải Marx mà Barbier đề ra cũng không cho phép phân biệt hai cấp độ phân tích “tính độc lập của nhà nước” khác nhau: “tính độc lập của nhà nước đối với xã hội”, tức sự tách biệt giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự, là nét đc trưng thuộc về khái niệm chung về nhà nước tư sản; và “tính độc lập của nhà nước đối với các giai cấp xã hội”, như trong chủ nghĩa Bonaparte, là một hình thái cá biệt về chế độ chính trị trong xã hội tư sản”[73]. Từ đó có ý kiến phản bác Marx khi thì lý giải tính độc lp của nhà nước như “một hiện tượng khái quát”, khi thì giải thích nó bởi “những điều kiện đặc biệt nht thời”[74]. Mới rõ là, khi đọc các văn bản chính trị của Marx, cần phân biệt nhà nước và chế độ chính trị. Hay nói cách khác, phải tránh lẫn lộn việc phân tích nhà nước hiện đại như là hình thái xã hội với việc phân tích những hình thái biểu hiện của nhà nước là các chế độ chính trị. Cũng như, trong trình bày của bộ Tư bản, phải phân biệt việc phân tích giá trị như hình thái xã hội, với việc phân tích giá trị trao đổi như là hình thái biểu hiện của giá trị, tức giá cả hay hình thức hiện tượng của giá trị”[75].

Đọc lại các văn bản triết học và chính trị của Marx bàn về nhà nước cho phép xác lập mối nối kết với những văn bản của bộ Tư bản bàn về quan hệ hàng hóa và quan hệ làm công. Có thể tóm lược tương quan lý luận này qua ba luận đề.

1. Khi phân tích hàng hóa với tính cách là sản phẩm của tư bản, phạm trù giá trị chỉ một hình thái đặc thù của bó buộc lao động thặng dư, là bó buộc giá trị thăng dư. Quan hệ bó buộc này biểu hiện trong sự tồn tại của tỷ suất giá trị thặng dư, một tỷ suất tùy thuộc các chuẩn xã hội về sử dụng sức lao động (thời gian và cường độ của ngày lao động) và tái sản xuất sức lao động (tiền công). Tỷ suất giá trị thặng dư là một tỷ suất có tính chất “chung” và mang tính “quốc gia”. Tính chất “chung” của nó thể hiện sự tồn tại của tư bản “nói chung” - tức tư bản với tính cách là quan hệ giai cấp - và sự hình thành của những chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động như là đối tượng tranh chấp của đấu tranh giai cấp. Tính cách “quốc gia” của tỷ suất giá trị thặng dư có nghĩa là các chuẩn xã hội đó được xác lập trong khuôn khổ của nhà nước quốc gia, và sự định chế hóa những thỏa hiệp xã hội nhất thời mà đấu tranh giai cấp dẫn đến. Marx nhấn mạnh: “Lịch sử của công nghiệp hiện đại chỉ cho chúng ta rằng không thể kiềm chế những đòi hỏi vô độ của tư bản chỉ bằng n lực riêng lẻ của công nhân mà, từ đầu, cuộc đấu tranh phải mang hình thái của một cuộc đấu tranh giai cấp, khiến quyền lực nhà nước phải can thiệp”[76]. Bởi vì tiền công, cũng như thời gian và cường độ của ngày lao động, có những giới hạn “thật co giãn” và “dành cho người ta phạm vi tự do rộng nhất”, đấu tranh giai cấp là “một đấu tranh không ngừng giữa tư bản và lao động”, một mâu thuẫn “quyền lợi đối lập với quyền lợi” tùy thuộc “tương quan lực lượng giữa các bên đấu tranh”, chỉ “sức mạnh”, “bo lực” là quyết định[77]. Cho nên, để vượt qua sự kháng cự và đối lập của người lao động, sự thống trị của giai cấp tư sản phải được lập thành sức mạnh công cộng, bạo lực chính đáng: “Giai cấp thng trị tổ chức sự thống trị tập thể của nó thành sức mạnh công thành nhà nước”[78]. Mặt khác, để ổn định xã hội tranh chấp này, cần “kiềm chế những lợi ích riêng biệt bằng lợi ích phổ quát hão huyền mang hình thức nhà nước[79]”. Hay, theo trình bày của Engels, “nhà nước đại biểu hiện đại là công cụ của tư bản bóc lột lao động làm thuê; nhưng đồng thời, để các giai cấp đối kháng không “thiêu hủy nhau” trong đấu tranh vô tận, cần thiết phải có một nhà nước “bề ngoài đứng trên xã hội, để làm cho cuộc tranh chấp nhạt mờ đi và giữ nó trong những giới hạn của trật tự công[80]”. Đó là bản chất và hình thái của nhà nước hiện đại. Thiếu khái niệm này về nhà nước hiện đại như là hình thái, không thể khái niệm hóa tư bản, và ngược lại. Điều đó có nghĩa là không thể quan niệm tư bản chỉ như khế ước tư nhân giữa chủ tư bản và người lao động, nếu thiếu vắng một cấp xã hội đứng ngoài và đứng trên hai bên, và định chế hóa các chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động. Quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa bao hàm một hình thái nhà nước nối kết hai giai cấp xã hội đối lập trong mối quan hệ. Trong nghĩa đó, có thể nói rằng các khái niệm về tư bản và về nhà nước hiện đại hình thành trong một quan hệ đối cực.

2. Các phân tích về hình thái giá trị và nội dung giai cấp của nó trong bộ Tư bản giúp soi sáng hình thái dân chủ của nhà nước hiện đại và bản chất tư sản của nó. Tương tự như hình thái giá trị che lấp mối quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, hình thái dân chủ che khuất mối quan hệ thống trị chính trị của giai cấp tư sản. Hình thức ở đây hiện thực cũng như nội dung, theo nghĩa thiếu hình thái dân chủ, nhà nước hiện đại không thể tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản không thực hiện được.

Hn là nhà nước hiện đại chỉ là một hình thức hão huyền về tính phổ quát. Hệ tư tương Đức ghi rằng: “Mọi cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà nước, đấu tranh giữa những chính thể dân chủ, quý tộc hay quân chủ, đấu tranh cho quyền bầu cử, v.v., chẳng qua chỉ là những hình thức hão huyền của những cuộc đấu tranh thực sự giữa các giai cấp khác nhau[81]”. Nói rằng những hình thức này hão huyền không có nghĩa chúng không có tính thiết yếu. Trái lại, với việc xác lập phổ thông đầu phiếu, Marx nhn mạnh tầm quan trọng của “các cuộc đấu tranh vì hình thức của nhà nước” và kêu gọi thiết lập “hình thức nhà nước tốt nhất […] là hình thức trong đó các mâu thuẫn xã hội không bị làm mờ đi, không bị sức mạnh ngăn chận […], hình thức trong đó những mâu thuẫn đi vào đấu tranh công khai và tìm ra giải pháp[82]”. Như vậy, hình thức lý tưởng của nhà nước hiện đại là nền cộng hòa dân chủ, là chế độ cho người lao động – ch không chỉ cho chủ tư bản - các quyền tự do chính trị cần thiết đ tiến hành đấu tranh giai cấp[83]”.

Đồng thời, Marx cũng lưu ý rằng phổ thông đầu phiếu thuộc về dân chủ hình thức và đã biểu lộ như là “bộ máy hữu hiệu nhất trên thế giới để thiết lập một chế độ chuyên chế[84]”. Ngày 18 tháng Sương mù của Louis BonaparteCuộc nội chiến ở Pháp luôn nhắc nhở rằng chế độ Bonaparte đã được xác lập với “dấu thị thực của phổ thông đầu phiếu[85]”. Điều này xác nhận rằng một chế độ chính trị chuyên chính hoàn toàn có thể lồng vào hình thái dân chủ của nhà nước hiện đại.

Mặt khác, Hệ tư tưởng Đức còn nhấn mạnh rằng yêu sách dân chủ, hay nói cách khác, tuyên bố quyền tự do và bình đẳng hình thức, là điều gắn kết những người lao động làm thuê trước các chủ tư bản và hợp nhất họ thành giai cấp. “Trên thực tế, những người vô sản chỉ đạt đến sự thống nhất đó qua một tiến trình dài trong đó yêu sách đòi quyền giữ vai trò nhất định. Đòi hỏi quyền chính là phương tiện để họ trở thành ‘họ’, một quần chúng cách mạng đoàn kết[86]”. Bởi vì cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động làm thuê tiến hành qua hình thái dân chủ của nhà nước hiện đại, các quyền tự do và thiết chế chính trị hợp thành - với các chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động - đối tượng của đấu tranh giai cấp[87]”.

3. Phân tích sức lao động như là khái niệm đặc thù của người lao động tự do đã làm rõ cương vị của người làm công là, về hình thức, tự do và bình đẳng với người nắm đồng tiền: một mặt, đó là sự tự do và bình đẳng về bán hàng của người làm công với tính cách là người bán sức lao động; mặt khác, đó còn là sự tự do và bình đẳng về chính trị của người làm công với tính cách là công dân trong nhà nước hiện đại. Hơn nữa, cương vị bán hàng của người làm công lại tùy thuộc vào cương vị chính trị công dân của nó. Trong Tiền công, giá cả và lợi nhuận, Marx nhấn mạnh rằng bán sức lao động đòi hỏi ở những người làm công vượt qua “những thỏa thuận tư nhân” và có “một hành động chính trị chung”, bởi “trong đấu tranh thuần kinh tế, tư bản bao giờ cũng mạnh hơn[88]”. Trong Tư bản, ông còn chỉ rằng: Để chống cự với tư bản, những người làm công “phải tập hợp thành một đội quân duy nhất và giành lấy với tính cách là giai cấp một đạo luật nhà nước”, tức là người bán sức lao động phải “dựng lên một chướng ngại xã hội cấm không cho họ tự bán họ cho tư bản qua thương lượng khế ước tự do[89]”.

Bởi vì người làm công vừa là chủ thể quyền dân sự và quyền chính trị, không thể quy sự tồn tại của nó vào cương vị người mang sức lao động. Vì cương vị của người lao động làm thuê không chỉ là bán hàng mà còn là công dân, không thể thủ tiêu sự kháng cự của nó đối với giai cấp tư bản và phần tự chủ của nó trong mối quan hệ làm công, bất luận phương thức tư bản thâu gồm lao động như thế nào. Cương vị công dân của người làm công, như vậy, là nguồn gốc của khả năng người lao động phủ định tư bản và của viễn cảnh nó vượt bỏ phương thức sản xuất này. Do đó mà hình thái nhà nước hiện đại có hai mặt. Một mặt, nó là một phạm trù bái vật, một hình thái hão huyền của tính phổ quát, có hiệu ứng che lấp mối quan hệ chuyên chế và bất bình đẳng của xã hội tư sản; với ý nghĩa đó, nhà nước hiện đại góp phần tái sản xuất tư bản. Nhưng mặt khác, bởi vì nội dung không bao giờ thâu gồm hình thức một cách hoàn toàn và mãi mãi, tự do và bình đẳng hình thức mà nhà nước hiện đại xác lập giữa các công dân cũng là cái qua đó người lao động phủ định xã hội giai cấp tư bản chủ nghĩa và vượt bỏ nhà nước hiện đại như là nhà nước giai cấp[90]”.

III. Nhà nước hiện đại và quan hệ sở hữu đất đai

Các phân tích về địa tô tư bản chủ nghĩa cho phép phát hiện đim yếu kém nhất trong trình bày của bộ Tư bản, hay chính xác hơn trong Bản thảo 1864-1865 mà Engels lấy làm nội dụng cho Tư bản Quyển III. Cách đặt vấn đề về chuyển đổi siêu lợi nhuận thành địa tô là khuôn khổ lý luận thích ứng để phân tích địa tô chênh lệch (siêu lợi nhuận trong nội bộ ngành) và địa tô độc quyền (siêu lợi nhuận thị trường). Trái lại, không thể lồng phạm trù địa tô tuyệt đối vào lý luận về siêu lợi nhuận tư bản chủ nghĩa, mà phải xem xét nó như là khoản khu trừ trên lợi nhuận, mang tính cách cống nộp như là thuế má. Đó không phải là giải pháp mà Marx chọn, song nó là chọn lựa xác đáng duy nhất bởi tất cả các giải pháp khác mà các bản thảo 1864-1865 phác họa đều đưa lý luận vào thế bí. Giải pháp lý luận mà công trình nghiên cứu này đề xuất đưa đến phân tích quan hệ sở hữu đất đai tư bản chủ nghĩa như là mối tương quan đối cực giữa sở hữu tư về đất đai và sở hữu tối hậu của nhà nước trên lãnh thổ.

Luận đề trình bày ở đây không dựa vào văn bản của Marx về sở hữu đất đai “châu Á”, như “Những hình thái có trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” thuộc Bản thảo 1857-1858. Theo văn bản này, trong phương thức sản xuất châu Á, các nhà sản xuất và cộng đồng sản xuất không đối diện với những địa chủ cá biệt mà với nhà nước là “chủ sở hữu tối cao hay chủ sở hữu duy nhất” của đất đai, trong khi các cộng đồng sản xuất chỉ “nắm giữ quyền sử dụng và thừa kế” đất đai đó[91]. Nói đến xã hội châu Á tiền tư bản chủ nghĩa, Quyển III Tư bản còn nhận xét: “Ở đây, nhà nước là địa chủ tối thượng và chủ quyền ở đây chỉ là sự tập trung sở hữu ruộng đất ở quy mô quốc gia”. Cho nên không có quyền sở hữu tư nhân về đất đai, mặc dụ tư nhân hoặc tập thể được quyền nắm giữ ruộng đất và hưởng lợi”. Trong điu kiện đó, “địa tô đồng nhất với thuế má[92]”. Phân tích địa tô tư bản chủ nghĩa cũng không thể quy chiếu đến văn bản về sở hữu “cổ đại”, đặc biệt là hình thái La Mã với “sở hữu đất đai có song song hai hình thức, nhà nước và tư nhân, trong đó sở hữu thứ nhất thiết định sở hữu thứ hai[93]”. Chính xác hơn, đặc điểm của phương thức sản xuất cổ đại là các cá nhân công dân, một mặt được quyền sử dụng công thổ, mặt khác được quyền sở hữu mảnh đất tư, và quyền tư hữu này phụ thuộc tính cách thành viên sở hữu công của họ, “thành viên của một nhà nước” mà công dân là những chủ sở hữu “tự do và bình đẳng[94]”.

Cần phân biệt các hình thái sở hữu đất đai nói trên với sở hữu đất đai của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và nhà nước hiện đại. Văn bản “Những hình thái có trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” chỉ rõ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khác các hình thái tiền tư bản chủ nghĩa ở chỗ nó “biến khối người dân của một nước thành những người lao động làm thuê tiềm tàng tự do – tức là những cá nhân buộc phải lao động và bán lao động chỉ vì họ không có sở hữu”. Hình thái người lao động tự do này là kết quả lịch sử của quá trình “giải thể mối quan hệ lệ thuộc cột người lao động vào ruộng đất”, là những quan hệ sở hữu đất đai khiến người lao động là chủ sở hữu tư hay là thành viên của sở hữu công. Thật vậy, các hình thái sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa giả định “một cộng đồng mà những thành viên, dù có khác nhau trong hình thức, đều là chủ sở hữu”. Còn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì tiền giả định một “quá trình lịch sử giải thể các hình thức trong đó người lao động là chủ sở hữu hay chủ sở hữu là người lao động. Tức là trước hết giải thể mối tương quan của con người với đất đai với tính cách là ruộng đất, đất đai như là điều kiện tự nhiên của sản xuất[95]”. Sự giải thể này được thực hiện qua một quá trình chuyển hóa thành hàng hóa gồm hai mặt: sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa và sự chuyển hóa đất đai thành hàng hóa. Và cũng như với sức lao động, quá trình biến đất đai thành hàng hóa giả tưởng cần những hình thái định chế, những chuẩn xã hội về chiếm hữu và sử dụng đất đai mà chế độ đất đai quy tắc hóa: đó là chiều kích nhà nước - chiều thẳng đứng và tập trung - của quan hệ sở hữu đất đai.

Mặt khác, với sự hình thành của người lao động tự do, và sự giải thể mối tương quan hợp nhất người lao động với đất đai trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cộng đồng xã hội không còn được thiết lập qua mối quan hệ của con người cá nhân với đất đai hiểu như là “ruộng đất” (terroir). Trong nhà nước hiện đại, điều xác định người công dân là nó thuộc về một đất đai không phải “cụ thể” mà “trừu tượng”, đất đai hiểu theo nghĩa “lãnh thổ” (territoire), đó là lãnh thổ quốc gia. “Tính công dân gắn với lãnh thổ” này tương liên với với đặc tính về lãnh thổ hóa của nhà nước hiện đại[96]. Và cũng như xã hội dân sự và nhà nước hiện đại tách biệt nhau, có sự tách biệt giữa sở hữu tư nhân trên đất đai và chủ quyền của nhà nước trên lãnh thổ. Có thể nói rằng chủ quyền về lãnh thổ của nhà nước độc lập với sở hữu về đất đai của tư nhân, và cả với sở hữu tối cao về đất đai của nhà nước[97].

Vả lại, sở hữu tối cao về đất đai của nhà nước hiện đại[98] có hai mặt tùy theo xét đất đai với tính cách là ruộng đất hay với tính cách là lãnh thổ, tức là tùy theo xét mối quan hệ tư bản chủ nghĩa về sở hữu đất đai hay mối quan hệ công dân về sở hữu đất đai:

1. Trong quan hệ tư bản chủ nghĩa về sở hữu đất đai, nhà nước hiện đại đối diện với sở hữu tư, và khẳng định sở hữu tối cáo của nó khi sở hữu tư mâu thuẫn với phương thức khai thác đất đai như là “sở hữu vĩnh viễn của tập thể”, đất đai như là “điều kiện không thể chuyển nhượng của sự tồn tại và tái sản xuất một chuỗi thế hệ kế tiếp nhau” trong xã hội. Do đó và như đã nhận xét, “lợi ích chung” có thể đưa giai cấp tư sản đến chỗ quốc hữu hóa một số đất đai và, trong trường hợp này, sở hữu nhà nước về đất đai góp phần tái sản xuất phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa[99]”.

2. Trong mối quan hệ công dân về sở hữu đất đai, việc lãnh thổ hóa nhà nước hiện đại xác định các công dân đều phụ thuộc vào một không gian trong đó họ tự do và bình đẳng thực hiện các quyền chính trị, độc lập với những quan hệ kinh tế nối kết họ. Quyền sở hữu tối thượng của nhà nước trên lãnh thổ cho phép người lao động tự do của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - không chỉ là người làm công mà còn là công dân - có thể tiềm tàng thoát ra quan hệ thống trị của tư bản và đặt lại vấn đề tồn tại của nó[100].

Với ý nghĩa đó, thâu gồm nhà nước hiện đại vào tư bản không bao giờ có thể hoàn toàn: với tính cách là hình thái, nhà nước hiện đại không thể quy thành chỉ nội dung giai cấp của nó. Trong hình thái nhà nước hiện đại, có thể tìm thấy tính hai mặt, đối kháng và phi đối kháng, của mâu thuẫn tư bản: nhà nước là hình thái qua đó tư bản tái sản xuất ách thống trị của nó; nhưng nhà nước hiện đại cũng là hình thái nhờ đó ách thống trị này bị phủ định.

Trên đây chỉ là những hướng khảo cứu lý luận về nhà nước hiện đại có thể vạch ra từ công trình nghiên cứu quy luật giá trị ở các cấp độ trừu tượng hóa tư bản tương ứng với các quan hệ hàng hóa, làm công và sở hữu đất đai. Chí ít, đó là một giả thuyết để tiếp tục đọc Marx vượt ra ngoài Marx.

* * *

THƯ MỤC

Tác phẩm của Marx

(xếp theo thứ tự năm xuất bản văn bản gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp đến là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp được sử dụng trong công trình nghiên cứu này)

1835-1874: Thư từ trao đổi Marx - Engels / Correspondance Marx – Engels, Editions Sociales, 1971-1989, 12 t.

1841-1861: Tác phẩm III. Triết học / Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1843a: Phê phán triết học pháp quyền của Hegel / Critique du droit politique hégelien, Editions Sociales, 1975.

1843b: Về vấn đề Do Thái / “A propos de la Question juive”, in Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1844: Bản thảo 1844 / Manuscrits de 1844, Editions Sociales, 1972.

1844-1881: Tác phẩm I. Kinh tế / Œuvres I. Economie, Gallimard, 1965.

1845: Gia đình thần thánh (viết cùng với Engels) / La Sainte Famille (avec Engels), Editions Sociales, 1972.

1845-1895: Những lá thư viết về bộ Tư bản (viết cùng với Engels) / Lettres sur Le Capital (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1846: Hệ tư tưởng Đức (viết cùng với Engels) / L’idéologie allemande (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1976.

1847: Sự khốn cùng của triết học / Misère de la philosophie, Editions Sociales, 1968.

1847-1880: Tác phẩm II. Kinh tế / Oeuvres II. Economie, 1972.

1848: Tuyên ngôn đảng cộng sản (viết cùng với Engels) / Manifeste du parti communiste (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1848-1849: Nhật báo Neue Rheinische Zeitung / La Nouvelle Gazette Rhénane, t. 3, Editions Sociales, 1963-1971.

1849/1865: Lao động làm thuê và tư bản & Tiền công, giá cả và lợi nhuận / Travail salarié et capital & Salaire, prix et profit, Editions Sociales, 1969.

1850: Đấu tranh giai cấp ở Pháp / Les luttes des classes en France, Editions Sociales, 1970.

1852: Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte / Le 18 Brumaire de Louis Bonaparte, Editions Sociales, 1969.

1857-1858: Bản thảo 1857-1858 / Manuscrits de 1857-1858, Editions Sociales, 1980, 2 t.

1859a: Góp phần phê phán chính trị kinh tế học / Contribution à la critique de l’économie politique, Editions Sociales, 1957.

1859b: Louis Napoleon và Ý / “Louis Napoleon and Italy”, New York Daily Tribune 29.8 1859.

1861-1863: Bản thảo 1861-1863 / Manuscrits de 1861-1863, Editions Sociales, 1980.

1862-1863: Các học thuyết về giá trị thặng dư / Théories sur la plus-value, Editions Sociales, 1974-1976, 3 t.

1862-1895: Những lá thư viết cho Kugelmann (viết cùng với Engels) / Lettres à Kugelmann (avec Engels), Editions Sociales, 1971.

1864: Chương VI, Tư bản, Quyển I. Bản thảo 1863-1867 / Le Chapitre VI, Le Capital, Livre I. Manuscrits 1863-1867, Les Editions Sociales, 2010.

1864-1865: Tư bản, Quyển III / Le Capital, Livre III, Editions Sociales, 1965-1967, 3 t.

1867/1890a: Chương 1 của bộ Tư bản (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ nhất và lần thứ tư) / “Le Chapitre 1 du Capital”, 1e et 4e éditions allemandes, in Paul-Dominique Dognin (ed), Les sentiers escarpés de Karl Marx, Editions du Cerf, 1977, 2 vol.

1870-1878: Tư bản, Quyển II / Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1968, 2 t.

1871: Cuộc nội chiến ở Pháp / La guerre civile en France, Editions Sociales, 1971.

1875: Tư bản, Quyển I (phiên bản tiếng Pháp) / Le Capital, Livre I, édition française, Editions Sociales, 1962, 3 t.

1879-1880: Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolphe Wagner / “Notes marginales sur le Traité d’économie politique d’Adolphe Wagner”, in Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1976, p. 459-484.

1890: Tư bản, Quyển I (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ tư) / Le Capital, Livre I, 4e édition allemande, Editions Sociales, 1983.

Các tác phẩm khác

ABRAHAM-FROIS Gilbert, BERREBI Edmond, Théorie de la valeur, des prix et de l’accumulation, Economica, 1976.

ABRAHAM-FROIS Gilbert, BERREBI Edmond, Rente, rareté, surprofits, Economica, 1980.

AGLIETTA Michel, “L’ambivalence de l’argent”, Revue francaise d’économie, été 1988.

AGLIETTA Michel, FOUET Monique, “Régulation du capitalisme en longue période”, in M. AGLIETTA, C. SAUTTER (ed), Quatre économie dominantes sur longue période, INSEE, 1978.

AGLIETTA Michel, ORLEAN André, La violence de la monnaie, PUF, 1982.

AGLIETTA Michel, ORLEAN André (ed), La monnaie souveraine, Odile Jacob, 1998.

ALTHUSSER Louis, “Avertissement aux lecteurs du Capital”, in K. MARX, Le Capital, Livre I, Garnier-Flammarion, 1969.

ALTHUSSER Louis, “Idéologie et appareils d’Etat”, La Pensée, juin 1970.

ALTHUSSER Louis, Lénine et la philosophie, Maspéro, 1972.

ALTHUSSER Louis, Réponse à John Lewis, Maspéro, 1973.

ALTHUSSER Louis, “Avant-propos”, in G. DUMENIL, Le concept de loi économique dans Le Capital, Maspéro, 1978.

AMIN Samir, VERGOPOULOS Kostas, La question paysanne et le capitalisme, Anthropos, 1974.

ANDRE Christine, DELORME Robert, L’Etat et l’économie. Un essai d’explication de l’évolution des dépenses publiques en France 1870-1980, Seuil, 1983.

ANDREFF Wladimir, Profits et structures du capitalisme mondial, Calmann-Lévy, 1976.

ARENA Richard, FROESCHLE Claude, TORRE Dominique, “Gravitation et reproductibilité”, in C. BIDARD (ed), La gravitation, Université Paris X, Cahiers de la RCP Systèmes de prix de production n˚ 2-3, nov. 1984.

ARTHUR Chris, “Dialectic of the value-form”, in D. ELSON, Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

Auteur collectif, “Valeur, prix et réalisation”, Critique de l’économie politique, janv-mars 1977.

AZOUVI Alain, “Progrès technique et rapports de production: de la théorie à l’enquête”, Critiques de l’economie politique n˚ 10, jan.-mars, 1980.

BACKHAUS Hans Georg, “Dialectique de la forme de la valeur”, Critiques de l’économie politique, oct.-déc. 1974.

BALIBAR Etienne, “Sur les concepts fondamentaux du matérialisme historique”, in ALTHUSSER et al., Lire Le Capital, Maspéro, t. 2. 1969,

BALIBAR Etienne, Cinq études du matérialisme historique, Maspéro, 1972.

BALIBAR Etienne, “A nouveau sur la contradiction”, in CERN, Sur la dialectique, Editions Sociales, 1977.

BALIBAR Etienne, La philosophie de Marx, La Découverte, 1993.

BALIBAR Etienne, LEFEBVRE Jean-Pierre, “Plus-value ou survaleur”, La Pensée n˚ 197, fév. 1978.

BANAJ Jairus, “From commodity to capital: Hegel’s dialectic in Marx’s Capital”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

BARBIER Maurice, La pensée politique de Karl Marx, L’Harmattan, 1992.

BARRERE Christian, KEBABJIAN Gérard, WEINSTEIN Olivier, Lire la crise, PUF, 1983.

BARTHELEMY Denis, “Valeur et travail paysan”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1977.

BARTHELEMY Denis, Propriété foncière et fonds-entreprise. Le cas de l’agriculture, Economica, 1984.

BARTHELEMY Denis, “Entre la proprieté foncière et l’entreprise, l’exploitation agricole”, in J.L. GUIGOU (ed), La propriété foncière, Economica, 1984.

BAUDRILLARD Jean, Pour une critique de l’économie politique du signe, Gallimard, 1972, 1972.

BAUDRILLARD Jean, Le miroir de la production, Casterman, 1973.

BECKER James, Economie politique marxiste, Economica, 1980.

BENETTI Carlo, Valeur et répartition, Maspéro - PUG, 1974.

BENETTI Carlo, “La question de la gravitation du prix de marché dans la Richesse des nations”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

BENETTI Carlo, “Economie monétaire et économie de troc: la question de l’unité de compte commune”, Economie appliquée n˚ 1, 1985.

BENETTI Carlo, “A propos de l’analyse simmelienne de la légitimité monétaire”, in J.M. BALDER, L. GILLARD (ed), Simmel et les normes sociales, L’Harmattan. 1936.

BENETTI Carlo et al., Economie classique, économie vulgaire, Maspéro-PUG, 1975.

BENETTI Carlo, de BRUNHOFF Suzanne, CARTELIER Jean, “Elements pour une critique marxiste de P. Sraffa”, Cahiers de l’économie politique n˚ 6, 1976.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, “Profit et exploitation : le problème de la transformation des valeurs en prix de production”, in BENETTI Carlo et al., Economie classique, économie vulgaire, Maspéro - PUG, 1975.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, Marchands, salariat et capitalistes, Maspéro - PUG, 1980.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, “Mesure invariable des valeurs et théorie ricardienne de la marchandise”, in BENETTI Carlo et al., Marx et l’économie politique, Maspero - PUG, 1977.

BERTHOMIEU Claude, “La théorie de la rente et le système des prix de production”, in LATAPSES, Etudes d’économie classique et ricardienne, PUF, 1982.

BERTHOUD Arnaud, Travail productif et productivité du travail chez Marx, Maspéro, 1974.

BETTELHEIM Charles, “Remarques théoriques’ in EMMANUEL, L’échange inégal, Maspéro, 1969.

BETTELHEIM Charles, Calcul économique et formes de propriété, Maspéro, 1970.

BETTELHEIM Charles, La lutte des classes en URSS, Maspéro - Seuil, t. 1, 1974.

BIDET Jacques, Que faire du Capital?, Klincksieck, 1985.

BIDET Jacques, “Socialisation et abstraction”, Cahiers d’économie politique n˚ 12, 1986.

BIDET Jacques, Théorie de la modernité suivi de Marx et le marché, PUF, 1990.

BIDET Jacques, Théorie générale, PUF, 1999.

BIDET Jacques, KOUVELAKIS Eustache (ed), Dictionnaire Marx contemporain, PUF, 2001.

BIHR Alain, L’économique fétiche, 1979.

BLANC Emmanuel, “Prendre l’outil et la parole”, Cahiers analyse, épistemologie, histoire n˚ 6, 1975.

BLAUG Mark, La pensée économique, Economica, 1981.

BOHM-BAWERK Eugen von, “Karl Marx and the close of his system”, in P. SWEEZY (ed) Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, et Bohm-Bawerk’s critism of Marx by Rudolf Hilferding, Augustus Kelley, 1949.

BOMPARD J.P., POSTEL VINAY Gilles, “Etat et analyse de classe en agriculture au travers du problème foncier”, ACSES, Sur l’Etat, Contradictions, 1977.

BORELLY Rolande, Les disparités sectorielles des taux de profit, PUG, 1975.

BORTKIEWICZ Ladislaus von, “Value and price in the marxian system”, International Economic Papers n˚ 2, 1952.

BOYER-XAMBEU Marie-Thérèse, DELEPLACE Ghislain, GILLARD Lucien, “Vers une topologie des régimes monétaires”, Cahiers d’économie politique n° 18, 1990.

BROUSTE Pierre, La rente foncière chez Marx, mémoire DEA, Université Paris I, 1976.

BRUNHOFF Suzanne de, La monnaie chez Marx, Editions Sociales, 1973.

BRUNHOFF Suzanne de, La politique monétaire, PUF, 1973.

BRUNHOFF Suzanne de, Etat et capital, Maspéro - PUG, 1976.

BRUNHOFF Suzanne de, Les rapports d’argent, Maspéro - PUG, 1979.

BRUNHOFF, Suzanne de, “Valeur de la force de travail, salaire et intervention de l’Etat”, in B. BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

CARTELIER Jean, “Valeur ou enrichissement: le dilemne de l’économie politique, ACCES n˚ 1, mars 1978.

CARTELIER Jean, “Echange inégal et théorie des prix de production”, Cahier d’analyse économique n˚ 1, 1975.

CARTELIER Jean, “Théorie de la valeur ou hétérodoxie monétaire: les termes d’un choix”, Economie appliquée n˚ 1, 1985.

CARTELIER Lysianne, “Contribution à l’étude des rapports entre Etat et travail salarié”, Revue économique n° 1, janvier 1980.

CASTORIADIS Cornelius, La société bureaucratique, UGE, 1973.

CASTORIADIS Cornelius, Capitalisme moderne et révolution, UGE, 1979.

CASTORIADIS, Cornelius, Les carrefours du labyrinthe, Seuil, 1978.

CAVAILHES Jean, Les réponses des marxistes à la question agraire, INRA, document de recherche n˚ 16, mars 1981.

CENCINI Alvaro, SCHMITT Bernard, La pensée de Karl Marx, Castella, 1976-1977, 2 vol.

CHEVALIER Jean-Marie, L’économie industrielle en question, Calmann-Levy, 1977.

CHIAVELLI Alain, RAINELLI Michel, “Uniformisation des taux de profit et hypothèse sectorielle”, Cahiers d’economie politique n˚ 4, 1977.

COLETTI Lucio, De Rousseau à Lénine, Gordon et Breach, 1974.

COLETTI Lucio, Le marxisme et Hegel, Champ Libre, 1976.

COLETTI Lucio, Politique et philosophie, Galilée, 1975.

CORIAT Benjamin, Science, technique et capital, Seuil, 1976.

COULOMB Pierre, “Propriété foncière et mode de production capitaliste”, Etudes rurales n˚ 51, 1973.

DALLEMAGNE Jean-Luc, L’économie du Capital, Maspéro, 1978.

DELAUNAY Jean-Claude, “La forme valeur de la production”, La Pensée n˚ 183, oct. 1975.

DELEPLACE Ghislain, “Biens à double destination et polarisation des taux de profit: une analyse sectorielle”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

DELEPLACE Ghislain, Théorie du capitalisme: une introduction, Maspéro - PUG, 1979.

DELEPLACE Ghislain, “Marché et concurrence chez Marx”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

DELEPLACE Ghislain, “Sur quelques difficultés de la théorie de la monnaie - marchandise chez Ricardo et Marx”, Economie appliquée n°1, 1985.

DELEPLACE Ghislain, Histoire de la pensée économique, Dunod, 1999.

DELILEZ Jean-Pierre, Les monopoles, Editions Sociales, 1970.

DENIS Henri, L’ “économie” de Marx, PUF, 1980.

DESQUIER-DESJARDIN Denis, “Rente absolue et économie du déséquilibre chez Karl Marx”, communication au colloque sur La rente, Université Paris X, 1983.

DIATKINE Daniel, “La terre existe-t-elle? Le statut de la terre dans la théorie des prix de production de P. Sraffa”, Cahiers d’économie politique n˚ 5, 1979.

DOBB Maurice, Political economy and capitalism, Routledge et Kegan, 1940.

DOBB Maurice, Theory of value and distribution since Adam Smith, Cambridge University Press, 1975.

DOBB Maurice, “The Sraffa system and critique of the Neo-classical theory of distribution”, in E. Hunt, J. SCHWARTZ (ed), A critique of economic theory, Penguin Books, 1972.

DOGNIN Paul Dominique, Les sentiers escarpés de Karl Marx, t. 2, Edition du Cerf, 1977.

DOSTALER Gilles, Valeur et prix, Maspero - PUG, 1978.

DOSTALER Gilles, Marx, la valeur et l’économie politique, Anthropos, 1978.

DRAPER Hal, Karl Marx’s theory of revolution, Monthly Review Press, 1977-1989, 4 t.

DRUGMAN Bernard, “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital, in Jean-Paul GAUDEMAR (éd.), Réexamens de la théorie du salariat, PUL, 1981.

DRUGMAN Bernard, “Le concept du rapport salarial: genèse, enjeu et perspectives”, Cahiers de l’ IREP-Développement n°4, 1983.

DRUGMAN Bernard, “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital”, in B. BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

DUMENIL Gérard, Le concept de loi économique dans le Capital, Maspéro 1978.

DUMENIL Gérard, De la valeur aux prix de production, Economica, 1980.

DUMENIL Gérard, LEVY Dominique, La dynamique du capital. Un siècle d’économie américaine, PUF, 1996.

DUMONT Louis, Homo aequalis, Gallimard, 1985.

ELSON Diane, “The value theory of labour”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

ELSTER Jon, Karl Marx. Une interprétation analytique, PUF, 1989.

EMMANUEL Arghiri, L’échange inégal, Maspéro, 1969.

EMMANUEL Arghiri, La dynamique des inégalités, Anthropos, 1965.

ENGELS Friedrich, Anti-Duhring, Editions Sociales, 1971.

ENGELS Friedrich, L’origine de la famille, de la propiété privée et de l’Etat, Editions sociales, 1972.

ENGELS Friedrich, Préface, in K. MARX, Le Capital, Livre III, t. 1, Editions Sociales, 1965.

ENGELS Friedrich, “La contribution à la critique de l’économie politique de Karl Marx. Deuxième article”, in K. MARX, F. ENGELS, Textes sur le méthode de la science economique, Editions Sociales, 1974.

ENGELS Friedrich, La question paysanne en France et en Allemagne, Editions Sociales, 1956.

ESTABLET Roger, “Présentation du plan du Capital”, in L. ALTHUSSER, et al., Lire Le Capital IV, 1973.

EVRARD Philippe, HASSAN Daniel, VIAU Claude, “Petite agriculture et capitalisme”, Cahiers d’économie politique n˚ 4, 1977.

FACCARELLO Gilbert, Travail, valeur et prix, Anthropos, 1983.

FACCARELLO Gilbert, “Karl Marx et la critique de l’économie politique: Le purgatoire du temps présent” et “Les controverses autour du Capital: les débats autour de la loi de la valeur”, in Alain BERAUD, Gilbert FACCARELLO (ed.), Nouvelle histoire de la pensée économique, t. 2, La Découverte, 2000.

FAURE Claude, Agriculture et capitalisme, Anthropos, 1978.

FAUSTO Ruy, “Althusserisme et anthropologisme”, L’Homme et la société, juil.-déc. 1976.

FAUSTO Ruy, “Abstraction réelle et contradiction: sur le travail abstrait et la valeur”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1978.

FAUSTO Ruy, Recherches sur la formation et la portée de la dialectique dans l’oeuvre de Marx, thèse Université Paris I, 1988.

FAUSTO Ruy, Marx: logique et politique, Publisud, 1986.

FAUSTO Ruy, “La dialectique du Capital et ses implications: éthique et marxisme, communication au colloque Marx, Université Paris X, 1997.

FOWLEY Ducan, “The value of money, the value of labor power, and the marxiann transformation problem”, Review of Radical Political Economics, t. 14, n˚ 2, 1982.

GAREGNANI Pierangelo, “La théorie classique de la répartition et le problème de la transformation chez Marx”, in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

GIANNOTTI José Arthur, Origines de la dialectique du travail, Aubier Montaigne, 1971.

GROSSMAN Henrik, Marx, l’économie classique et le problème de la dynamique, Champ libre, 1975.

GUIBERT Bernard, Genèse et image de la division de la production, thèse Université Paris I, 1977, 2 vol.

GUIBERT Bernard, “Les ravages logiques”, Critiques de l’économie politique n˚ 13, 1980.

GUICHARD Jean-Paul, “L’identité de nature des deux formes de rente différentielle et la difficulté de leur prise en compte dans le modèle néo-ricardien”, in C. BIDARD (ed), La rente, Economica, 1987.

GUICHARD Jean-Paul, “La rente différentielle intensive, expression d’un processus d’intensification des cultures”, in LATAPSES, Etudes d’économie classique et néo-ricardienne, PUF, 1982.

GUIGOU Jean-Louis, La rente foncière, Economica, 1982.

GUTELMAN Michel, Structures et réformes agraires, Maspéro, 1974.

HEGEL Georg W.F., Encyclopédie des sciences philosophiques, I. La science de la logique, Vrin, 1970.

HEGEL Georg W.F., Principes de la philosophie du droit, Vrin, 1975.

HENRY Michel, Marx, Gallimard, 1976, 2 vol.

HILFERDING Rudolf, “Bohm-Bawerk’s criticism of Marx”, in P. SWEEZY (ed), Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, et Bohm-Bawerk’s criticism of Marx by Rudolf Hilferding, Augustus Kelley, 1949.

HILFERDING Rudolf, Le capital financier, Editions de Minuit, 1970.

HILFERDING Rudolf, “Monnaie et marchandise”, Cahiers d’économie politique n°13, 1987.

HIMMELWEIT Susan, MOHUN Simon, “La réalité de la valeur” in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

HOLLOWAY John, PICCIOTO Saul, State and capital: a marxist debate, E. Arnold, 1978.

HOLLOWAY John, PICCIOTO Saul, “Etat et capital: le débat allemand sur la dérivation de l’Etat”, Critiques de l’économie politique n˚ 10, 1980.

HURIOT Jean-Marie, “Rente différentielle et rente absolue. Un réexamen”, in P.H. DERYCKE (ed) La rente fonciere urbaine, Etudes foncières, 1984.

ITOH Makoto, La crise mondiale, EDI, 1987.

JACOT Henri, “Le capital financier comme forme(s) du capital, Issues, 1979, n˚ 3.

JORLAND Gérard, Les paradoxes du capital, Odile Jacob, 1995.

JOSHUA Isaac, La face cachée du Moyen-âge. Les premiers pas du capital, La Brèche, 1988.

KANT Immanuel, Phê phán lý tính thuần túy, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, nxb Văn học, 2004.

KAUTSKY Karl, La question agraire, Giard et Brière, 1900.

KAUTSKY Karl, Le marxisme et son critique Bernstein, Stock, 1900.

KAY Geoffrey, “Why labor is the starting point of Capital”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

KLIMOVSKY Edith, La rente dans la théorie de la valeur et des prix, thèse Université Paris X, 1981.

KORSCH Karl, Karl Marx, Champ libre, 1971.

KOSIK Karel, La dialectique du concret, Maspéro, 1978.

LAURE Vincent, “A propos de la transformation des valeurs en prix de production”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

LAURE Vincent, “Prix de monopole et sur-profits: l’analyse marxiste”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

LATOUCHE Serge, Le projet marxiste, PUF, 1975.

LAUTIER Bruno, “L’objet du rapport salarial”, communication au colloque Formes de mobilisation salariale et théorie du salariat, Université de Picardie, 1985.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, “La force de travail comme marchandise particulière”, in ACSES, Sur l’Etat, Contradictions, 1977.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, Ecole, force de travail et salariat, Maspéro - PUG, 1978.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, “Monnaie, financement et rapport salarial”, Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984.

LEBAS Christian, “Prix de production individuel et prix de production de marché, Cahiers Analyse, Epistémologie, Histoire, n˚ 6, 1975.

LEBAS Christian, C. MERCIER, “La valeur de marché et la théorie de la valeur, Cahiers Analyse, Epistemologie, Histoire, n˚ 6, 1975.

LEFORT Claude, Les formes de l’histoire, 1978.

LENINE Vladimir Illitch, Oeuvres complètes, t. 38, Editions du Progrès, 1971.

LENINE Vladimir Illitch, Karl Marx et sa doctrine, Editions Sociales, 1953.

LENINE Vladimir Illitch, Programme agraire de la social-démocratie dans la première révolution russe de 1905-1907, Editions du Progrès, 1967.

LENINE Vladimir Illitch, “Nouvelles données sur le développement du capitalisme dans l’agriculture”, in Oeuvres complètes, Editions du Progrès, t. 22.

LEONARD Jean, WEINSTEIN Olivier, “Uniformisation - différentiation des taux de profit: éléments pour une réinterprétation”, Cahiers d’économie politique n˚ 4. 1977.

LINHART Robert, Lénine, les paysans, Taylor, Seuil, 1976.

LIPIETZ Alain, Le tribut foncier urbain, Maspéro, 1974.

LIPIETZ Alain, Le capital et son espace, Maspéro, 1977.

LIPIETZ Alain, “Les mystères de la rente absolue. Commentaires sur les incohérences d’un texte de Sraffa”, Cahiers d’économie politique n˚ 5, 1979.

LIPIETZ Alain, Crise et inflation, pourquoi?, Maspéro, 1979.

LIPIETZ Alain, “Retour au problème de la transformation des valeurs en prix de production”, Cahiers d’économie politique n˚ 7, 1982.

LIPIETZ Alain, Le monde enchanté, La Découverte, 1983.

LIPIETZ Alain, “Le débat sur la valeur: bilan partiel et perspectives partiales”, in B. CHAVANCE (ed), Marx en perspective, EHESS, 1985.

LUXEMBURG Rosa, Introduction à l’économie politique, UGE, 1973.

LUXEMBURG Rosa, L’accumulation du capital, Oeuvres IV, Maspéro, 1972.

MACHEREY Pierre, “A propos du processus d’exposition du Capital”, in L. ALtHUSSER et al., Lire Le Capital, IV, Maspéro, 1973.

MAGALINE A. D., Luttes de classes et dévalorisation du capital, Maspéro, 1975.

MALER Henri, Convoiter l’impossible, Albin Michel, 1995.

MANDEL Ernest, Traité d’économie marxiste, Julliard, 1964.

MANDEL Ernest, Le troisième âge du capitalisme, UGE, 1976, 3 vol.

MAROUANI Abraham, “A propos du chapitre premier du Capital. L’importance décisive de la dialectique”, Cahiers du CERM n˚ 153, 1978.

MARSHALL Alfred, Principes d’économie poltique, Gordon et Breach, 1971.

MARTIN Catherine, “Demande et formation des prix dans le théorie classique: le débat entre Ricardo et Malthus”, Cahiers d’économie politique n˚ 7, 1982.

MASSARAT Mohssen, “Crise de l’énergie ou crise du capitalisme”, n˚ 21, juil.-sept. 1975. Critiques de l’économie politique.

MATHIAS Gilberto, SALAMA Pierre, L’Etat surdéveloppé, La Découverte, 1983.

MATTICK Paul, Marx et Keynes, Gallimard, 1969.

MATTICK Paul, “Henryck Grossmann, théoricien de l’accumulation et de la crise”, in H. GROSSMANN, Marx, l’économie politique classique et le problème de la dynamique, Champ libre, 1975.

MAUCOURANT Jerôme, “Polanyi, lecteur de Marx”, Actuel Marx n˚ 9, 2000.

MAUNOURY Jean-Louis, “Théorie marxiste de la valeur et normes sociales de valorisation”, Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984.

MAURISSON Patrick, “Prix d’offre et égalisation des taux de profit: essai sur la formation des prix chez Marx”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

MAURISSON Patrick, “Système des prix normaux, rapport salarial et révision des schémas marxistes de la transformation”, in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Decouverte - PUQ, 1985.

MEEK Ronald, Studies in the labour theory of value, Laurence and Wishart, 1973.

MESTRE Jean-Etienne, “Terre, rente et difficulté de production”, Cahiers d’economie politique n˚ 5, 1979.

MIAILLE Michel, L’Etat du droit, Maspéro - PUG, 1978.

MOLLARD Amédée, Paysans exploités, PUG 1978.

MORISHIMA Michio, Marx’s economics, Cambridge UP, 1973.

MORISHIMA Michio, CATEPHORES G., Valeur, exploitation et croissance, Economica, 1981.

NAPOLEONI Claudio, “Valeur et exploitation: la théorie économique de Marx et au-delà”, Cahiers d’économie politique n˚ 33, 1998.

NASSISI, Anna-Maria, “Marx et Bortkiewicz sur la rente absolue”, in C. BIDARD, La rente, Economica, 1987.

NETTER Maurice, “Critiques de quelques thèses relatives aux concepts économiques de Karl Marx”, in BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

NETTER Maurice, “Valeurs, prix et secteurs de péréquation des taux de profit”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

NIKITINE P., Principes d’économie politique, Editions du Progrès, 1966

O.C.B., L’étude du Capital, O.C.B., 1979.

ORLEAN André, “L’origine de la monnaie”, Revue du MAUS n˚ 14, 1991.

ORLEAN André, “Réflexion sur la notion de légitimité monétaire, l’apport de Simmel”, in J.M. BALDER, L. GILLARD (ed), Simmel et les normes sociales, L’Harmattan, 1996.

PALLOIX Christian, “Le procès de travail: du fordisme au néo-fordisme”, La Pensée n˚ 185, fev. 1976.

PALLOIX Christian, Procès de production et crise du capitalisme, Maspéro - PUG, 1977.

PALLOIX Christian, De la socialisation, Maspéro, 1981.

PARETO Vilfredo, Les systèmes socialistes, Giard et Brière, vol. 2, 1903.

PASUKANIS Evgeny, La théorie générale du droit et le marxisme, EDI, 1970.

PEREZ Manuel, “Valeur et prix: un essai de critique des propositions néo-ricardiennes”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1980.

POLANYI Karl, La grande transformation, Gallimard, 1983.

POLANYI Karl, “Marx on corporativism”, Archiv Karl Polanyi 1934-1946, box 6, Institut Karl Polanyi d’économie politique.

POSTEL-VINAY Gilles, La rente foncière dans la capitalisme agricole, Maspéro, 1974.

POTIER Jean-Pierre, Lectures italiennes de Marx, PUL, 1986.

POUCH Thierry, Les économistes francais et le marxisme. Apogée et déclin d’un discours critique (1950-2000), PUR, 2001.

RANCIERE Jacques, “Le concept de crititique et la critique de l’économie politique des Manuscrits de 1844 au Capital”, in L. ALTHUSSER et al., Lire Le Capital, III, Maspéro, 1973.

REBOUL Claude, “Déterminants sociaux de la fertilité des sols”, Actes de la recherche en sciences sociales n˚ 17-18, nov. 1977.

REGNAULT Henri, La contradiction foncière, thèse Université Paris IX, 1975.

REGNAULT Henri, “Rente foncière et transformation des valeurs en prix”, in P. H. DERYCKE (ed), La rente foncière urbaine, Etudes foncières, 1984.

RENAULT Emmanuel, “Marx et les critiques de l’économie politique”, Marx Actuel n˚ 27, 2000.

REY Pierre-Philippe, Les alliances de classes, Maspéro, 1973.

REY Pierre-Philippe, “Quelques remarques sur l’article de P. Bonte”, La Pensée n˚ 171, oct. 1973.

REY Pierre-Philippe, Colonialisme, néo-colonialisme et transition au capitalisme, Maspéro, 1971.

REY Pierre-Philippe, Le capitalisme négrier, Maspero, 1976.

RICARDO David, Principes de l’économie politique et de l’impôt, Flammarion, 1992.

RICARDO David, “Valeur absolue et valeur d’échange”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

ROBINSON Joan, Essai sur l’économie de Marx, Dunod, 1971.

ROBINSON Joan, “Un réexamen de la théorie de la valeur”, in G. FACCARELLO, P. LAVERGNE (ed), Une nouvelle approche en économie politique? Essai sur Sraffa, Economica, 1977.

ROBINSON Joan, EATWELL John, L’économique moderne, Ediscience - McGraw Hill, 1976.

RONCAGLIA Alessandro, “Production des marchandises par des marchandises, critique et dépassement de la méthode marginaliste”, in G. FACCARELLO, P. LAVERGNE (ed), Une nouvelle approche en économie politique? Essai sur Sraffa, Economica, 1977.

ROLAND Gérard, La valeur d’usage chez Karl Marx, Editions Université de Bruxelles, 1985.

ROSANVALLON Pierre, Le capitalisme utopique, Seuil, 1979.

ROSDOLSKY Roman, La genèse du Capital chez Karl Marx, Maspéro 1976.

ROSENBERG D.I., Giới thiệu quyển I Tư bản của Các Mác, Sự Thật, 1969.

ROSENBERG D.I., Giới thiệu quyển III Tư bản của Các Mác, Sự Thật, 1972.

ROUBINE Isaak, Essais sur la théorie de la valeur, Maspéro, 1978

RUBIN Isaac, “Abstract labour and value in Marx’s system”, Capital and Class n˚ 5, 1978.

SAGNOL Marc, “Des Grundrisse au Capital. Sur la modification du plan du Capital, La Pensée n˚ 228, juil.-aout 1982.

SALAMA Pierre, Sur la valeur, Maspéro, 1975.

SALAMA Pierre, “A nouveau sur la transformation des valeurs en prix de production”, Cahiers d’économie politique n˚ 3, 1976.

SALAMA Pierre, “Valeur, prix de production: une approche différente”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

SALAMA Pierre, “Etat et capital. L’Etat capitaliste comme abstraction réelle”, Critique de l’économie politique n° 7-8, 1979.

SALAMA Pierre, VALIER Jacques, Une introduction à l’économie politique, Maspéro, 1973.

SALAMA Pierre, TRAN Hai Hac, Introduction à l’économie de Marx, La Découverte, 1992.

SAMUELSON Paul, “The ‘transformation’ from marxian ‘values’ to ‘competitive prices’: a process of rejection and replacement”, Proceeding of National Academy of Sciences, LXVII, 1970.

SAMUELSON Paul, Economics: winds of change, McGraw-Hill, 1973.

SAMUELSON Paul, “Reply on marxian matters”, Journal of Economic Literature, 1973.

SCHUMPETER Joseph, Histoire de l’analyse économique, Gallimard, 1983, vol. 2.

SCIALOM Laurence, “Evaluation, échange versus paiement, un commentaire”, in J. M. BALDER, L. GILLARD, Simmel et les normes sociales, L’Harmattan, 1996.

SCOTT Allen, “Land use and commodity production”, Regional Science and Urban Economics, 1976, vol. 6, in J. L. GUIGOU, La rente fonciere, Economica, 1982.

SERVOLIN Claude, “L’absoption de l’agriculture dans le mode de production capitaliste”, in Y. TAVERNIER, M. GERVAIS, C. SERVOLIN (ed), L’univers politique des paysans dans la France contemporaine, A. Colin, 1972.

SEVE Lucien, Structuralisme et dialectique, Editions Sociales, 1984.

SEVE Lucien, Une introduction à la philosophie marxiste, Editions Sociales, 1980.

SIFI, “Internationalisation du capital et processus productif: une approche critique”, Cahiers d’économie politique n˚ 1, 1974.

SIMMEL Georg, Philosophie de l’argent, PUF, 1987.

SRAFFA Piero, Production de marchandises par des marchandises, Dunod, 1977.

STEEDMAN Ian, “Heterogeneous labor, money wages and Marx’s theory”, in B. CHAVANCE, Marx en perspective, EHESS, 1985.

STEEDMAN Ian, “Ricardo, Marx et Sraffa”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

SWEEZY Paul, The theory of capitalist development, Modern Reader, 1968.

SWEEZY Paul, Le capitalisme moderne, Seuil, 1976.

TAKENAGA Susumu, Valeur, formes de la valeur et étapes dans la pensée de Marx, Peter Lang, 1985.

TERRAIL Jean-Pierre, “Fétichisme de la marchandise et idéalisme des besoins”, in J. DECAILLOT et al., Besoins et mode de production, Editions Sociales, 1976.

TERRAIL Jean-Pierre, “La logique du technologique”, La Pensée n˚ 197, fev. 1978.

TEXIER Jean, “Sur la détermination en dernière instance”, in CERM, Sur la dialectique, Editions Sociales, 1977.

THERET Bruno, “Rapports de production et forces productives. La nécessité d’un retour a Marx”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct.-dec. 1977.

THERET Bruno, Régimes économiques de l’ordre politique, PUF, 1992.

THERET Bruno, WIEVIORKA Michel, Critique de la théorie du capitalisme monopoliste d’Etat, Maspéro, 1978.

TOMBAZOS Stavos, Le temps dans l’analyse économique. Les catégories du temps dans Le Capital, Editions Société des saisons, 1994.

TOPALOV Christian, Le profit, la rente et la ville, Economica, 1984.

TORTAJADA Ramon, “Marchandise, valeur et force de travail”, in BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

TRẦN HẢI HẠC, “Etat et capital dans l’exposé du Capital”, in Antoine Artous, Tran Hai Hac, Jose Luis Solis Gonzalez, Pierre Salama, Nature et forme de l’Etat capitaliste, Editions Syllepse et M. Editeur, 2015. Bản tiếng Việt: Nhà nước và tư bản trong trình bày của bộ Tư bản, www.phantichkinhte123.com

TRONTI Mario, Ouvriers et capital, Christian Bourgois, 1977.

TUTIN Christian, Rente foncière, valeur et formation des espaces urbains, thèse Université Paris I, 1978.

TUTIN Christian, “Rente foncière et gravitation des prix agricoles”, in C. BIDARD (ed), La gravitation, Cahiers de la RCP Systèmes de prix de production n˚ 2-3, Université Paris X, 1984.

TUTIN Christian, “Rente foncière et aménagement spatial: les théories de la rente ont-elles un objet?’, P. H. DERYCKE, La rente foncière urbaine, Etudes foncières, 1984.

TUTIN Christian, “Propriété des villes et propriété des champs”, in J. L. GUIGOU (ed), La propriété foncière, Economica, 1984.

VADEE Michel, Marx, penseur du possible, Méridien - Klincksieck, 1992.

VALIER Jacques, Le parti communiste francais et le capitalisme monopoliste d’Etat, Maspéro, 1976.

VILLE Philippe, VROEY Michel de, “Salaire et marché du travail chez Marx et Keynes: orthodoxie ou hétérodoxie?”, Cahiers d’économie politique n˚ 10-11, 1985.

VINCENT Jean-Marie, “La domination du travail abstrait”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct.-déc. 1977.

VINCENT Jean-Marie, Critique du travail, PUF, 1987.

VINCENT Jean-Marie, Un autre Marx. Après les marxismes, Page Deux, 2001.

VINCQ Jean-Louis, “Valeur, rente et accentuation des rapports marchands en agriculture”, Cahiers d’economie politique n˚ 4, 1977.

VOLKOV M. (ed), Dictionnaire d’économie politique, Editions du Progrès, 1983.

 VROEY Michel de, “Marchandise, société marchande, société capitaliste. Un réexamen de quelques définitions”, Cahiers d’économie politique n° 9, 1984.

VROEY Michel de, “La théorie marxiste de la valeur, version travail abstrait. Un bilan critique”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire. Théorie de la valeur et formation des prix, La Découverte - PUQ,1985.

VROEY Michel de, “La théorie du salaire de Marx. Une critique hétérodoxe”, Revue économique n˚ 3, mai 1985.

WEINSTEIN Olivier, “Egalisation des taux de profit et mobilité du capital”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

WICKSELL K., Lectures on political economy, Roudledge and Kegan, 1934.

WICKSTEED Philip, “Das Kapital: a criticism”, in The common sense of political economy, A.M. Kelley, 1950.

WYGODSKY W.S., Vị trí cuốn ‘Các học thuyết về giá trị thặng dư’ trong di cảo kinh tế của Các Mác, nxb Khoa học xã hội, 1971.

YAFFE David, “Valeur et prix dans Le Capital de Marx”, Critiques de l’économie politique n˚ 20, avril-juin 1975.

* * *

MỤC LỤC

Tập I

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI DẪN NHẬP

Phần thứ nhất: HÀNG HÓA NHƯ LÀ HÌNH THÁI CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG

Chương 1: LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ

Tiết 11: Lao động trừu tượng và lao động cụ thể, lao động xã hội và lao động tư nhân

§ 111: Sự đối lập giữa lao động tư nhân và lao động xã hội

§ 112: Sự che phủ lao động tư nhân - lao động cụ thể, lao động xã hội - lao động trừu tượng

§ 113: Tính xã hội và xã hội hoá các cá nhân

Tiết 12: Lao động trừu tượng - cụ thể, lao động sinh lý và lao động có ích

§ 121: Định nghĩa vật chất - kỹ thuật về lao động cụ thể

§ 122: Định nghĩa thực chứng về lao động trừu tượng

Tiết 13: Lao động trừu tượng, lao động nói chung và sự trừu tượng hóa hiện thực

§ 131: Lao động trừu tượng như là sự thật thực tiễn

§ 132: Lao động trừu tượng như là lao động tha hóa

§ 133: Lao động trừu tượng như là phổ quát cụ thể

Tiết 14: Lao động trừu tượng, lao động xã hội và lao động ngang nhau

§ 141: Lao động trừu tượng như là phạm trù lô-gíc

§ 142: Lao động trừu tượng như là phạm trù siêu hình

§ 143: Bàn về Chương 1, Quyển I bộ Tư bản

Chương 2: HÌNH THÁI GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiết 21: Tính khách thể xã hội và hình thái vật chất của giá trị

mục 211: Giá trị như hình thái khách thể của xã hội

mục 212: Giá trị như hình thái xã hội của khách thể

mục 213: Tính khách thể và tính vật chất

Tiết 22: Giá trị và giá trị sử dụng

mục 221: Sự phân biệt giữa tính hữu dụng và giá trị hữu dụng

mục 222: Sự thống nhất của giá trị và giá trị hữu dụng

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TIỀN TỆ

Chương 3: TÍNH ĐỐI CỰC TIỀN TỆ – HÀNG HÓA

Tiết 31: Lao động trừu tượng và/hay tiền tệ

mục 311: Hình thái của giá trị và tính đối cực hình thái tương đối – hình thái ngang giá

mục 312: Hình thái giá cả và tính đối cực hàng hóa – tiền tệ

mục 313: Các hình thái của tiền tệ và tính đối cực tín dụng – tiền tệ

mục 314: Tiền tệ hay mặt đối lập của hàng hóa

mục 315: Tính hai mặt của tiền tệ

Tiết 32: Giá trị và/hay giá trị trao đổi

mục 321: Từ Góp phần phê phán kinh tế chính trị học đến Tư bản

mục 322: Giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối

mục 323: “1 góc tạ lúa mì = a tạ sắt” đối chiếu với “20 m vải = 1 cái áo”

Tiết 33: Giá trị và/hay giá cả

mục 331: Thước đo nội tại và thước đo bề ngoài của giá trị

mục 332: Sự chuyển hóa giá trị thành giá cả

Chương 4: SỰ SÙNG BÁI HÌNH THÁI GIÁ TRỊ

Tiết 41: Hình thái khách thể và hình thái chủ thể

mục 411: Hình thái khách thể và sùng bái

mục 412: Hình thái hàng hóa của tính cá thể

mục 413: Sùng bái và tha hóa

Tiết 42: Bàn về Phần 1, Quyển I bộ Tư bản

Phần thứ hai: HÀNG HÓA VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ SỨC LAO ĐỘNG

Chương 5: TƯ BẢN NHƯ QUAN HỆ HÀNG HÓA VỀ BÓC LỘT

Tiết 51: Sự phân chia thế giới hàng hóa giữa sản phẩm của tư bản và sức lao động

mục 511: Giá trị như là quan hệ bó buộc lao động thặng dư

mục 512: Sức lao động như là hàng hóa ảo

Tiết 52: Quan hệ trao đổi như là hình thái quan hệ giai cấp

mục 521: Quan hệ hàng hóa và quan hệ tư bản chủ nghĩa

mục 522: Hình thái giá trị và nội hàm giai cấp

Chương 6: TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ SỨC SẢN XUẤT

Tiết 61: Sự vật thể hóa tư bản trong sức sản xuất

mục 611: Thâu gồm hình thức và bó buộc tiền tệ về lao động thặng dư

mục 612: Thâu gồm hiện thực và bó buộc kỹ thuật về lao động thặng dư

Tiết 62: Tính hai mặt của sức sản xuất do tư bản phát triển

mục 621: Phủ định tư bản như là xu thế của tư bản

mục 622: Tính đối kháng và phi đối kháng của mâu thuẫn tư bản

mục 623: Sức lao động, khái niệm đặc thù của người lao động tự do

CHÚ THÍCH

Tập II

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TỶ SUẤT LỢI NHUẬN CHUNG

Chương 7: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ LÀ BƯỚC CHUYỂN PHÂN TÍCH TƯ BẢN TỪ CẤP ĐỘ TRỪU TƯỢNG HÓA NÀY SANG CẤP ĐỘ KHÁC

Tiết 71: Quan hệ giai cấp và quan hệ liên tư bản

mục 711: Sản xuất hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa

mục 712: Tư bản nói chung và tư bản số nhiều

Tiết 72: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận bình quân

mục 721: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá trị thị trường

mục 722: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá cả thị trường

mục 723: Cương vị kép của tỷ suất lợi nhuận chung: hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư và tỷ suất lợi nhuận bình quân

Chương 8: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ BƯỚC PHÁT TRIỂN HÌNH THỨC CỦA GIÁ TRỊ SANG CẤP ĐỘ TƯ BẢN SỐ NHIỀU

Tiết 81: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận không ngang nhau

mục 811: Tỷ suất lợi nhuận chung và những hình thái cạnh tranh

mục 812: Tỷ suất lợi nhuận chung và phân khúc tư bản

Tiết 82: Giá cả sản xuất và quy luật giá trị

mục 821: Phép chuyển hóa và bóc lột

mục 822: Hai đẳng thức của phép chuyển hóa

mục 823: Giá cả sản xuất và lao động xã hội cần thiết

Phần thư ba: HÀNG HÓA VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN CÁ BIỆT

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH

Chương 9: SIÊU LỢI NHUẬN NỘI NGÀNH VÀ LIÊN NGÀNH

Tiết 91: Giá cả sản xuất chung, giá cả sản xuất cá biệt và siêu lợi nhuận cá biệt

mục 911: Giá cả sản xuất và giá cả thị trường

mục 912: Giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt

mục 913: Giá cả sản xuất chung và giá trị thị trường

Tiết 92: Giá cả sản xuất chung, giá cả thị trường và siêu lợi nhuận thị trường

mục 921: Tính chất của lao động xã hội cần thiết

mục 922: Giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất

mục 923: Tỷ suất lợi nhuận chung, siêu lợi nhuận thị trường và siêu lợi nhuận cá biệt

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ CHUYỂN ĐỔI LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH THÀNH ĐỊA TÔ

Chương 10: ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Tiết 101: Sở hữu đất đai và tư bản

mục 1011: Sở hữu đất đai như là quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa

mục 1012: Sự thâu gồm sở hữu đất đai vào tư bản

mục 1013: Địa tô tuyệt đối, sở hữu ruộng đất và giai cấp xã hội

Tiết 102: Vấn đề ruộng đất và quy luật giá trị

mục 1021: Địa tô tư bản chủ nghĩa và khớp nối các phương thức sản xuất

mục 1022: Sự thâu gồm lao động vào tư bản trong nông nghiệp và sự bóc lột lao động nông dân

mục 1023: Đối tượng của Phần 6 Quyển III Tư bản

Chương 11: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH

Tiết 111: Lĩnh vực nông nghiệp và sự xác định giá cả sản xuất

mục 1111: Khả năng về lợi nhuận dưới chuẩn bình quân trong nông nghiệp

mục 1112: Khả năng về địa tô chênh lệch âm

Tiết 112: Đất nông nghiệp và tính màu mỡ

mục 1121: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ kinh tế

mục 1122: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ nhân tạo

mục 1123: Ruộng đất như là hàng hóa ảo và sự chuyển đổi siêu lợi nhuân cá biệt thành địa tô chênh lch

Chương 12: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ TUYỆT ĐỐI

Tiết 121: Giải pháp lý luận năm 1862

mục 1211: Địa tô trên khoảng đất tồi nhất

mục 1212: Cấu thành hữu cơ của tư bản nông nghiệp và sở hữu ruộng đất

mục 1213: Địa tô tuyệt đối như khoản dư của giá trị trao đổi trên giá cả sản xuất

mục 1214: Tình trạng thị trường và sự hiện thực hóa địa tô

Tiết 122: Đặt lại vấn đề địa tô tuyệt đối

mục 1221: Khoản trừ trên giá trị trao đổi hay khoản dư trên giá cả sản xuất

mục 1222: Địa tô tuyệt đối hay địa tô độc quyền

mục 1223: Địa tô nội sinh hay địa tô ngoại sinh

mục 1224: Tính chất của địa tô tuyệt đối và phương thức xác định nó

LỜI KẾT

CHÚ THÍCH

THƯ MỤC

MỤC LỤC

Nguồn: Tác giả Trần Hải Hạc gởi trực tiếp cho PTKT.




Chú thích:

[1] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 74].

[2] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 15].

[3] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 53].

[4] Hệ tư tưởng Đức [1846, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2014 của nxb Editions Sociales, tr. 195, 197]. Trong các ấn bản trước của nhà xuất bản này, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “subordination” (sự phụ thuộc) [ấn bản 1967, tr. 62].

[5] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571]. Chương VI. Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2010 của nxb Editions Sociales, tr. 30]. Trong ấn bản trước đó của nxb UGE, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “soumission” (sự phục tùng) [ấn bản 1971, tr. 191].

[6] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 19]

[7] Xem Trần Hải Hạc, Nhà nước và tư bản trong trình bày của bộ Tư bản. Nguyên bản tiếng Pháp: “Etat et capital dans l’exposé du Capital”, in Antoine Artous, Tran Hai Hac, Jose Luis Solis Gonzalez, Pierre Salama, Nature et forme de l’Etat capitaliste, Editions Syllepse et M. Editeur, 2015.

[8] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 17-18]; bản 1890 [1890, tr. 3-4].

[9] Tác phẩm tổng kết sau cùng là của Gérard Jorland, Les paradoxes du capital, nxb Odile Jacob, 1995 (phần đầu). Xem thêm: Gilles Dostaler, Valeur et prix, nxb Maspéro – PUG – PUQ, 1978. Pierre Salama, Sur la valeur, nxb Maspéro – PUG, 1975.

[10] Có thể dẫn ở đây các tác giả đọc Marx một cách phi chính thống như Carlo Benetti và Jean Cartelier, Bruno Lautier và Ramon Tortajada hay Michel de Vroey. Xem: C. Benetti, J. Cartelier, Marchands, salariat et capitalistes, nxb Maspéro, 1980. B. Lautier, R. Tortajada, Ecole, force de travail et salariat, nxb Maspéro – PUG. M. de Vroey, “Marchandise, société marchande, societé capitaliste”, Cahiers d’économie politique no 9, 1984. Xem thêm: Gilbert Faccarello, “Marx et la critique de l’économie politique” và “Les controverses autour du Capital: les débats autour de la loi de la valeur”, in A. Béraud, G. Faccarello (chủ biên), Nouvelle histoire de la pensée économique, nxb La Découverte, 2000, t. 2.

[11] Chỉ xét những văn bản Pháp ngữ và nếu phải chọn một thời điểm thì đó là năm 1985 xuất bản tác phẩm: Un échiquier centenaire. Théorie de la valeur et formation des prix do Gilles Dostaler chủ biên (nxb La Découverte – PUQ). Tác phẩm này tập hợp các quan điểm khác nhau trong cuộc tranh luận về vấn đề giá trị nhằm đánh dấu một trăm năm Engels đề xuất thảo luận về chủ đề này trong lời mở đầu của Quyển II Tư bản. Thật ra, tác phẩm của Dostaler lại đánh dấu sự kết thúc của cuộc thảo luận về giá trị trong học thuyết Marx. Đúng ra, đã có những chỉ dấu báo trước điều này: việc ngừng xuất bản năm 1981 của tủ sách Intervention critique en économie politique (nxb Maspéro – PUG) do Carlo Benetti, Claude Berthomieu, Jean Cartelier và Christian Palloix chủ biên; việc ngừng xuất bản năm 1983 của tủ sách Economie et socialisme (nxb Maspéro – La Découverte) do Charles Bettelheim chủ biên; việc ngừng xuất bản tạp chí Critique de l’économie politique (nxb Maspéro – La Découvrte) do Pierre Salama, Jacques Valier và Alain Azouvi thành lập.

[12] Viết về lịch sử mối quan hệ của các nhà kinh tế học với chủ nghĩa Marx trong các trường đại học Pháp từ 1950, Thierry Pouch nhận xét rằng chủ nghĩa Marx suy đồi kể từ những năm 1980, khi các nhà kinh tế học thuộc dòng phê phán chính trị kinh tế học từ bỏ lý luận mácxít về giá trị. Theo Pouch, điển hình sự cắt đứt quan hệ lý luận này có những tác giả như Henri Denis (L’économie de Marx: histoire d’un échec, nxb PUF, 1980), C. Benetti và J. Cartelier (Marchands, salariat et capitalistes, nxb Maspéro, 1980) hay Michel Aglietta (La violence de la monnaie, nxb PUF 1982). Xem: T. Pouch, Les économistes francais et le marxisme. Apogée et déclin d’un discours critique, 1950-2000 (nxb PUR, 2001, ch. 5).

[13] Nói về môi trường đổi mới này, có thể kể hội thảo Congrès Marx International và tủ sách Marx Acrtuel. Xem: Jacques Bidet, Eustache Kouvelakis (chủ biên), Dictionnaire Marx contemporain, nxb PUF, 2001.

[14] Từ khởi điểm của nó, công trình nghiên cứu của chúng tôi đi vào tranh luận. Xem xét các ý nghĩa khác nhau của phê phán chính trị kinh tế học, Emmanuel Renault phản bác quan niệm của chúng tôi (trình bày trong Pierre Salama, Trần Hải Hạc, Introduction à l’économie de Marx, nxb La Découverte, 1992, tr. 5-6), và bảo vệ quan điểm phê phán chính trị kinh tế học “như là phê phán những lý luận đặc biệt chứ không phải phê phán chính trị kinh tế học tự nó”. Theo ông, đối với Marx, phê phán chính trị kinh tế học là “giải quyết những vấn đế” của lý luận cổ điển với phương tiện của chính trị kinh tế học: “sự phê phán ở đây đồng nghĩa với lý luận về những vấn đề mà chính trị kinh tế học cổ điển đã tránh né hay không khắc phục được” (E. Renault, “Marx et les critiques de l’économie politique, Marx Actuel no 27, 2000, tr. 162-164).

[15] Chương 6, Bản thảo 1863-1867 [1864, tr. 251]

[16] Jean-Marie Vincent tìm thấy ở Marx “một sự cám dỗ duy kinh tế và duy khoa học” hướng tác giá bộ Tư bản đến việc xây dựng một thuyết kinh tế học thực chứng và ưu việt – nhờ tính khoa học của nó – so với chính trị kinh tế học cổ điển (J.M. Vincent, Critique du travail, nxb PUF, 1987, tr. 98). Nhưng mặt khác, Vincent nhận xét rằng Marx luôn luôn kháng cự lại cám dỗ đó và phê phán các quy luật của chính trị kinh tế học, “đối lập hoạt động tự động của phát triển khoa học với tính bất khả quy của những gì khoa học tưởng có thể quy được” (tr. 72).

[17] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t.1, tr. 18].

[18] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 34-36].

[19] Phải nói rằng, trước khi bắt tay vào biên soạn bộ Tư bản, Marx đã có thời kỳ phê phán phép trừu tượng hóa một cách có hệ thống, xem nó là một phép lừa phình: từ Phê phán triết học pháp quyền của Hegel (1843) đến Sự khốn cùng của triết học (1847) – đặc biêt là Gia đình thần thánh (1845) với chương “Bí mật kết cấu tư biện” -, những văn bản của Marx đều phản bác sự trừu tượng hóa với tính cách là phương pháp tư duy, cho rằng nó chỉ tạo “giả dối trong sự hiểu biết hiện thực” [1843a, tr. 45]. Nhân danh tính cụ thể của hiện thực, ông phê phán chính trị kinh tế học cổ điển là trừu tượng hóa quá đáng khi xác lập những “quy luật” và lập luận theo tính “bình quân” [Ghi chú đọc sách 1844, xem: 1844-1881, tr. 16 và 35]. Như vậy Lời dẫn nhập 1857, trình bày phép trừu tượng hóa như là phương pháp luận tư duy, đánh dấu một cách đặt vấn đề mới căn cứ trên sự phân biệt giữa “cái cụ thể hiện thực” và “cái cụ thể trong tư duy”.

[20] Xem Gérard Duménil, Le concept de loi économique dans Le Capital, nxb Maspéro, 1978 (tr. 375-379; 385-386) với lời nói đầu của Louis Althusser (tr. 18-20).

[21] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t.1, tr. 228; 295]

[22] Xem thêm Bản thảo 1857-1858: “Trong phần thứ nhất này, bàn về giá trị trao đổi, tiền tệ và giá cả, các hàng hóa bao giờ cũng hiện diện. Với tính quy định về hình thái đơn giản. Người ta biết rằng hàng hóa biểu hiện những tính quy định của một nền sản xuất xã hội, những nền sản xuất này là tiền giả định. Chứ không thiết định” [1857-1858, t. 1, tr. 166].

[23] Ruy Fausto đã triển khai cách đặt vấn đề thiết định / tiền giả định trong: R. Fausto, Recherche sur la formation et la portée de la dialectique dans l’oeuvre de Marx, luận án Université Paris 1; La dialectique du Capital et ses implications: éthique et marxisme, tham luận hội thảo “Marx”, Université Paris X, 1997, tr. 4 và tiếp.

[24] Xem Isac Rubin, Essais sur la théorie de la valeur, nxb Maspéro, 1978, tr. 324-326

[25] “Lời dẫn nhập 1857”, Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 35]

[26] Engels, “Lời nói đầu” viết cho Quyển III Tư bản [1864-1865, t. 1, tr.17]. Engels nói tiếp theo: “Các khái niệm của bộ Tư bản không bị đóng khung trong một định nghĩa cứng nhắc, mà sẽ được phát triển theo qui trình lịch sử hay qui trình lô-gíc của sự hình thành của chúng”. Mối tương quan mà Engels thiết lập giữa qui trình lịch sử và qui trình lô-gíc là một vấn đề tranh luận sẽ bàn về sau.

[27] Xem thêm trong Quyển II Tư bản: “Vấn đề ở đây không phải là những định nghĩa mà căn cứ vào đó người ta có thể phân loại các vật. Vấn đề ở đây là những chức năng nhất định biểu thị bằng những phạm trù nhất định” [1970-1878, t. 1, tr. 209]

[28] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 2, tr. 214; 112; 523]

[29] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, tr. 91; 338]

[30] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, 41]

[31] Tư bản, Quyển III [1864-1865, tr. 194-197]; Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 3, tr. 589].

[32] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 40, 43].

[33] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, tr. 338].

[34] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 41].

[35] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t. 3, tr. 197].

[36] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571].

[37] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571].

[38] Lucien Sève nhận xét “một chứng mù dai dẳng trong giới tác giả mácxít” đối với phân tích hình thái của Marx trong bộ Tư bản. Ông liên hệ điều này với việc không nhận thức tính hai mặt – đối kháng và phi đối kháng – của mâu thuẫn trong các phân tích của Marx (L. Sève, Structuralisme et dialectique, nxb Editions Sociales, 1984, tr. 235-236).

[39] Phiên bản ban đầu của công trình nghiên cứu này đã tiếp nhận ý kiến phê phán của Pierre Salama, Ruy Fausto, Isaac Joshua, Bruno Lautier và Olivier Weinstein. Tất nhiên, chỉ tác giả công trình chịu trách nhiêm về các luận điểm trình bày và thiếu sót của chúng.

[40] Tư bản, Quyển I [1875, t. 2, tr. 45].

[41] Thư về bộ Tư bản: Các thư của Marx gửi Lassalle ngày 22.2.1858, gửi Engels ngày 2.4.1858, gửi Weydemeyer ngày 1.2.1859 [1845-1895, tr. 86, 95 và 105]. “Lời tựa 1859” cho Góp phần phê phán kinh tế chính trị học [1859a, tr. 3].

[42] Toàn tập III [1841-1861, tr. 1039].

[43] “Tiến đến bãi bỏ nhà nước và xã hội dân sự”, Tác phẩm III. Triết học [1841-1861, tr. 1027-1028].

[44] Trong “Lời tựa 1859” cho Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 4], Marx tóm lượt phê phán triết học pháp quyền của Hegel như sau: “Những nghiên cứu của tôi đã dẫn đến kết quá là: không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển của tinh thần con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguôn từ những điều kiện tồn tại vật chất mà toàn bộ đã được Hegel, theo cách của người Anh và người Pháp thế kỷ XVIII, gọi gọp chung là ‘xã hội dân sự’, và việc giải phẩu xã hội dân sự phải tìm ở trong kinh tế chính tri học”.

[45] Cách chúng tôi tiếp cận khái niệm nhà nước hiện đại dường như có nhiều điểm tương đồng với lý thuyết “phái sinh” (dérivation), theo đó nhà nước phái sinh từ khái niệm tư bản của Marx. Thật ra, những điểm khác nhau là thiết yếu.
– Hai cách tiếp cận nhà nước đều đặt trọng tâm vào phân tích hình thái của nhà nước tư bản chủ nghĩa, tức là xoáy vào vấn đề tương quan giữa hình thức và nội dung của nhà nước hiện đại. Cả hai đều khái niệm hóa nhà nước với phương pháp luận về các cấp độ trừu tượng hóa của bộ Tư bản và gắn kết nó với phê phán chính trị kinh tế học. Xem trình bày về thuyết phái sinh trong John Holloway và Saul Piccioto (chủ biên), State and capital: a marxist debate, nxb Arnold, 1978; đặc biệt lời dẫn nhập của hai tác giả: “Etat et capital: le débat allemand sur la dérivation de l’Etat”, tạp chí Critique de l’économie politique n˚10, 1980 [tr. 33, 35, 52].
– Thuyết phái sinh nêu lên ba khái niệm về nhà nước phái sinh khác nhau tùy theo cấp độ phân tích tư bản (tiền tệ, tư bản nói chung, tư bản số nhiều), nhưng nó lại đặt vấn đề chọn lựa như thể các khái niệm đó đối lập nhau [J. Holloway, S. Piccioto, sđd, tr. 35 và tiếp theo]. Ngược lại, cách chúng tôi đặt vấn đề là có mối tương quan đồng thời lô-gíc giữa các cấp độ trừu tượng hóa tư bản khác nhau (quan hệ hàng hóa, quan hệ làm công, quan hệ cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, quan hệ sở hữu đất đai). Và có mối quan hệ đối cực giữa khái niệm tư bản phân tích ở các cấp độ khác nhau đó với khái niệm nhà nước xuất phát từ sự tách biệt xã hội hiện đại thành xã hội dân sự và xã hội chính trị. Chẳng hạn, cấp độ phân tích hình thái tiền tệ xác lập tính đối cực giữa các tác nhân trao đổi hàng hóa và nhà nước hiện đại, cho nên không thể có quan hệ hàng hóa mà không có nhà nước. Còn cấp độ phân tích tư bản nói chung thì xác lập tính đối cực giữa các giai cấp xã hội và nhà nước hiện đại, khiến quan hệ làm công không thể tồn tại nếu thiếu vắng nhà nước. Và tất nhiên, ở cấp độ phân tích tư bản số nhiều, có thể xác lập tương quan đối cực tương tự với nhà nước khi khảo sát những hình thái cạnh tranh tư bản chủ nghĩa và động thái của tỷ suất lợi nhuận chung – đề tài nằm ngoài đối tượng nghiên cứu của công trình chúng tôi.

[46] Riêng về phê phán phạm trù tiền tệ, xem “Ghi chú đọc sách” 1844 đã phân tích ở trên § 132.

[47] Georg Hegel, Principes de la philosophie du droit, nxb Vrin, 1975.

[48] Jacques Bidet, Théorie de la modernité, nxb PUF, 1990, tr. 290-291.

[49] Louis Dumont, Homo aequalis, nxb Gallimard, 1985, tr. 148. Pierre Rosanvallon, Le capitalisme utopique, nxb Seuil, 1979, tr. 183. Luận điểm về một phương pháp luận “duy cá thể” trong tác phẩm của Marx quy chiếu đến Bản thảo 1844, dựa vào đó L. Dumont (sđd, tr. 183) rút ra mệnh đề kép: 1. Con người cá nhân có trước so với xã hội; 2. Tương quan của con người với tự nhiên (lao động) có trước tương quan giữa những con người với nhau (sở hữu tư). Mặt khác, Dumont thừa nhận trong bộ Tư bản có một quan điểm “duy tổng thể” đi ngược lại phương pháp luận duy cá thể, nhưng ông cho rằng cách đặt vấn đề duy cá thể thống trị toàn bộ tác phẩm của Marx (sđd, tr. 206-207). Có thể phản biện cách Dumont đọc Marx ở ba điểm.
1) Cách đặt vấn đề của Marx thời trẻ trong Bản thảo 1844, như đã xem xét ở trên (§132 và §413), không hề khẳng định tính ưu việt của con người trên xã hội, hay tính ưu việt của tương quan con người với tự nhiên trên tương quan con người với nhau – mà điều nó xác định là tính trùng hợp giữa con người với xã hội, là tính đồng nhất giữa quan hệ con người – tự nhiên với quan hệ người – người. 2) Khi bắt đầu công trình bộ Tư bản, cách đặt vấn đề của Marx thay đổi và thể hiện qua mối tương quan “thâu gồm”: quan hệ xã hội thâu gồm con người cá nhân, quan hệ sản xuất thâu gồm sức sản xuất. 3) Nhưng dù có trở nên hiện thực, quan hệ thâu gồm không bao giờ hoàn toàn và mãi mãi, cho nên luôn luôn có mâu thuẫn do tính bất khả quy của con người cá nhân (không thể quy vào quan hệ xã hội), và của sức sản xuất (không thể quy vào quan hệ sản xuất). Đó là điều mà chủ nghĩa tổng thể hay chủ nghĩa cấu trúc không nhận thức được.

[50] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 40]. Xem thêm Gia đình thần thánh [1845, tr. 147]: “Ngày nay, chỉ có sự mê tín về chính trị mới còn cho rằng sự cố kết của xã hội dân sự là do nhà nước tạo nên, trong khi thực ra thì trái lại chính sự cố kết của nhà nước là do xã hội dân sự duy trì”.

[51] “Về vấn đề Do Thái”, Tác phẩm III. Triết học [1841-1861, tr. 372]. Người ta còn có thể đọc trong “Lời chú phê phán” bên lề bài của Arnold Ruge [sđd, tr. 408-409]: “Nhà nước hiện đại tồn tại chỉ vì đối lập với đời sống tư”. Nền tảng của nó là “mâu thuẫn giữa đời sống công và đời sống tư, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng”. Và trong “Tiến đến bãi bỏ nhà nước và xã hội dân sự” [sđd, tr. 1027]: Nhà nước hiện đại phát sinh từ “sự phân đôi mọi con người thành con người dân sự và con người chính trị”.

[52] “Về vấn đề Do Thái”, Tác phẩm III. Triết học [sđd, tr. 356].

[53] “Về vấn đề Do Thái” [sđd, tr. 356 và 373].

[54] Theo Marx, việc tôn trọng các quyền con người là nền tảng của nhà nước hiện đại và, trong Gia đình thần thánh, ông nêu rõ “sai lầm bi kịch”, “ảo tưởng khổng lồ” của những Robespierre, Saint Just khi họ tìm cách xây dựng nhà nước hiện đại trên cơ sở của sự khủng bố cách mạng, là một quan niệm “cổ đại” về đời sống chính trị [1845, tr. 148].

[55] Phê phán triết học pháp quyền của Hegel [1843a, tr. 91].

[56] Trong The Great Transformatiom, Karl Polanyi đưa ra luận đề: “ Nếu tách biệt phạm vi chính trị, không nền kinh tế thị trường nào có thể tồn tại; thế mà quan niệm về một nền kinh tế thị trường tách biệt pham vi chính trị lại là nền tảng của kinh tế học cổ điển từ thời David Ricardo, và không thể nào hiểu các khái niệm và giả thuyết của ông ngoài quan niệm này” [K. Polanyi, La grande transformatiom, nxb Gallimard, 1983, tr. 259]. Polanyi cũng tìm thấy quan niệm đó ở tác giả bộ Tư bản: “Chính Marx đã theo bước Ricardo khi định nghĩa giai cấp trên bình diện kinh tế”; và điều này lý giải, theo Polanyi, những điểm tương đồng giữa chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa tự do kinh tế (sđd, tr. 204).
Song, khi chú giải Phê phán triết học pháp quyền của Hegel, Polanyi ca ngợi Marx đã có công nắm lấy vấn đề tách biệt giữa chính trị và kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. “Tôi cho rằng Marx đã thể hiện một sự sáng suốt hầu như là tiên tri. Trước ông, không có ai, và sau ông, trong một thời gian dài, cũng không có ai nhận ra tầm quan trọng của sự tách biệt có tính định chế giữa phạm vi chính trị và phạm vi kinh tế trong xã hội hiện đại (…). Về sau, khi Marx theo chủ nghĩa xã hội, ông nhận thức rằng chỉ dân chủ chính trị là không đủ, mà phải có dân chủ trong toàn thể xã hội, kể cả trong kinh tế” [K. Polanyi, “Marx corporativism”, Archives Karl Polanyi 1934-1946. Box 6, Institut Karl Polanyi d’économie politique. Xem Jérôme Maucourant, “Polanyi, lecteur de Marx”, tạp chí Actuel Marx n˚27, 2000, tr. 136].
Lý luận của tác giả The Great Transformation có lẽ gần với tác giả bộ Tư bản hơn là ông tưởng, đặc biệt khi Polanyi phân tích sự tách biệt có tính định chế giữa kinh tế và chính trị như một “quá trình hai mặt” mở rộng – giới hạn: một quá trình không ngừng mở rộng các quan hệ thị trường, và một quá trình ngược của nhà nước giới hạn hành động của thị trường trong các lãnh vực như tiền tệ, sức lao động và đất đai [La grande transformation, tr. 112; 179 và tiếp theo].

[57] Luận cương về Feuerbach [1846, tr. 3].

[58] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 31].

[59] Xác định nội dung giai cấp của nhà nước hiện đại đưa đến xác định lại tính chất của tiền tệ: đó là cái phổ quát cụ thể có tính tưởng tượng, hão huyền. Dưới vỏ bề ngoài của lợi ích chung, tiền tề che khuất sự thống trị của một số lợi ích tư trên các lợi ích khác. Chế độ và chính sách tiền tệ là sự định chế hóa những điều kiện đấu tranh giai cấp trong tái sản xuất tư bản.

[60] Mặc dù những khác biệt trong cách đọc Marx, cách chúng tôi đặt vấn đề nhà nước hiện đại có điểm tương đồng với Jacques Bidet trong Théorie générale [nxb PUF, 1999] khi ông phân biệt trong bộ Tư bản hai cấp độ trừu tượng hóa nhà nước mà ông gọi là “siêu cấu trúc” và “cấu trúc”: “Nhà nước siêu cấu trúc” là nhà nước dân chủ, tương ứng với phân tích quan hệ hàng hóa của Phần 1, Quyển I; còn “nhà nước cấu trúc” là nhà nước giai cấp, tương ứng với phân tích quan hệ làm công mà Quyển I triển khai từ Phần 2. Với khái niệm “siêu cấu trúc” (métastructure), tác giả tiền giả định một quan hệ khế ước gồm hai mặt đối cực, “khế ước liên cá nhân” của người bán hàng và “khế ước tập trung” của dân chủ. Khái niệm khế ước trỏ “tuyên bố về quan hệ tự do và bình đẳng giữa những con người” [sđd, tr. 46]. Siêu cấu trúc khế ước này chỉ tồn tại trong cấu trúc giai cấp tư bản chủ nghĩa và do nó thiết định. Sự chuyển hóa siêu cấu trúc thành cấu trúc được Bidet khái niệm hóa – như Marx trong bộ Tư bản – là sự “đảo ngược” khế ước bán hàng và dân chủ thành quan hệ bóc lột và thống trị giai cấp, tuy vẫn tôn trọng hình thái siêu cấu trúc, cho nên cấu trúc tư bản chủ nghĩa là một “mâu thuẫn giữa cái nó là và cái nó tuyên bố nó là, với khả năng nó trở thành cái khác nó”, tức khả năng nó tự phủ định nó [sđd, tr. 169].
Vượt ra ngoài bộ Tư bản, Bidet chủ trương khảo sát siêu cấu trúc về khế ước trên cở sở của lý luận về “hợp tác diễn ngôn” (coopération discursive) – kết hợp thuyết “hành động truyền thông” của Habermas và “nguyên lý khác biệt” của Rawls – mà chúng tôi không bàn đến ở đây.

[61] Maurice Barbier, La pensée politique de Karl Marx, nxb L’Harmattan, 1992, tr. 90, 175 và 328.

[62] Jon Elster, Karl Marx, une interprétation analytique, nxb PUF, 1989, tr. 541, 549 và 566.

[63] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 73-74].

[64] Quan niệm nhà nước duy công cụ không căn cứ trên Hệ tư tưởng Đức mà trên những công thức phiến diện nhưng đã trở thành kinh điển của Tuyên ngôn đảng cộng sản [1848, tr. 32-33]: “Chính quyền nhà nước hiện đại chỉ là một uỷ ban quản lý những công việc chung của toàn thể giai cấp tư sản”. Hay trong Cuộc nội chiến ở Pháp [1871, tr. 60]: “Chính phủ, do nghị viện kiểm soát, nghĩa là do các giai cấp hữu sản trực tiếp kiểm soát”. Trong cả hai trường hợp, không mấy ai thử hỏi xem những công thức này nói đến hình thái chung của nhà nước hiện đại hay bàn về một chính thể đặc biệt, một hình thức cai trị cá biệt. Chúng tôi sẽ làm rõ điều này ở phía sau.
Quan niệm nhà nước duy công cụ thường trích dẫn lý luận lịch sử của Engels về nhà nước giai cấp, như trong Chống Duhring [1978, tr. 317]: “Trước nay do vận động trong đối lập giai cấp, xã hội cần đến nhà nước, tức là một tổ chức của giai cấp bóc lột để duy trì những điều kiện bên ngoài của nền sản xuất, trước hết là để duy trì bằng bạo lực giai cấp bị bóc lột trong những điều kiện áp bức nhất định của phương thức sản xuất hiện hành (chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ lao động làm thuê)”. Hay trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1884, tr. 180]: “Dó đó mà nhà nước cổ đại là của chủ nô, dùng để đàn áp nô lệ; nhà nước phong kiến là cơ quan của quí tộc, dùng để đàn áp nông nô và nông dân bị lệ thuộc; còn nhà nước đại nghị hiện đại là công cụ của tư bản để bóc lột lao động làm thuê”. Điều cần lưu ý là Engels, trong các văn bản này, không xác lập đặc tính của nhà nước hiện đại, mà khái quát hóa định nghĩa của nhà nước giai cấp trong các phương thức sản xuất khác nhau, và do đó ông để qua một bên tính đặc thù của nhà nước tư bản chủ nghĩa: hình thái công dân và dân chủ của nó.

[65] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 31 và 46].

[66] Trên điểm này, Engels triển khai lập luận một cách sắc sảo trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1884, tr. 178]: Nhà nước không phải là một quyền lực áp đặt từ bên ngoài vào xã hội. (…) Đúng ra, nó là sản phẩm của một xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định, nó là sự thú nhận rằng xã hội này đã rơi vào mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết được; bởi xã hội đã chia tách thành những mặt đối lập không thể dung hòa với nhau, mà cũng không trừ bỏ được. Nhưng để các mặt đối kháng ấy, các giai cấp có lợi ích kinh tế đối chọi nhau đó, không triệt tiêu lẫn nhau, và hủy diệt cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô bổ, thì phải có một quyền lực, bề ngoài như đứng trên xã hội, làm cho xung đột mờ nhạt và giữ nó trong vòng ‘trật tự’. Và quyền lực đó, nảy sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội, và ngày càng xa lạ với xã hội, chính là nhà nước”.

[67] Maurice Barbier, sđd, tr. 92. Xem thêm, ở tr. 298, câu hỏi mà tác giả đặt ra: “Làm sao nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị, lại có thể độc lập với xã hội?”

[68] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 74]. Xem thêm nhận xét tr. 187: “Nhà nước tự tổ chức thành một lực lượng có vẻ như độc lập; và cho đến nay, nó vẫn giữ vị thế như vậy tại nước Đức, trong khi ở những nước khác tình trạng ấy chỉ là tạm thời, chỉ là quá độ”.

[69] Cuộc nội chiến ở Pháp [1871, tr. 62]. Chính Engels là người đã phân tích tính độc lập của nhà nước trong tình thế cân bằng giữa các giai cấp xã hội: “Có ngoại lệ, khi các giai cấp đấu tranh với nhau đạt tới một thế cân bằng nhất định; khiến cho nhà nước tạm thời độc lập ở một mức độ nào đó đối với cả hai bên, như là một kẻ trung gian hòa giải giả bộ. Đó là chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỉ XVII và XVIII, đã giữ thế thăng bằng giữa giai cấp quí tộc và giai cấp tư sản. Là chủ nghĩa Bonaparte của Đế chế thứ nhất và đặc biệt là Đế chế thứ hai ở Pháp, đã đẩy giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, rồi lại đẩy giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản. Thành tựu mới nhất về mặt này, trong đó kẻ thống trị cũng như người bị trị đều đóng vai hài, là trường hợp tân Đế chế Đức của quốc gia thủ tướng Bismarck; nó đã tạo thế cân bằng giữa chủ tư bản và công nhân đang đối lập với nhau, và lừa đảo cả hai giai cấp này, để cho bọn suy thoái Junker nước Phổ được hưởng lợi” (Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1884, tr. 180]).

[70] Nhật báo Neue Rheinische Zeitung [La Nouvelle Gazette Rhénane, 4.5 1850].

[71] New New York Daily Tibune, 23.12 1858. Xem Hal Draper, Karl Marx’s theory of revolution, nxb Monthly Review Press, 1977, t. 1, tr. 408. Trong bức thư ngày 13.5 1866 gửi Marx, Engels viết: “Chủ nghĩa Bonaparte là tôn giáo thật sự của giai cấp tư sản hiện đại. Ngày càng rõ ra rằng (…) một chế độ bán độc tài trở thành một hình thái bình thường; nó đảm bảo thắng lợi của những lợi ích vật chất lớn của giai cấp tư sản, kể cả chống lại chính giai cấp tư sản này mà nó không dành cho một phần chính quyền nào cả. Mặt khác, chính chế độ độc tài đó đã buộc phải nhận lấy, dù là bất đắc dĩ, lợi ích vật chất của giai cấp tư sản làm lợi ích của nó” (Thư từ trao đổi Marx – Engels [1835-1874, t. 8, tr. 261-262]).

[72] Xem văn bản này ở những trang 39-41 của Cuộc nội chiến ở Pháp, lần xuất bản mới có bổ sung công trình chuẩn bị, đặc biệt bản thảo lần thứ hai [1871, tr. 270-273].

[73] Bảng nhất lãm về “tính độc lập của nhà nước theo Marx và theo Hegel” do Barbier thiết lập [sđd, tr. 190] không hề phân biệt tính độc lập đối với xã hội dân sự và tính độc lập đối với các giai cấp.

[74] M. Barbier, sđd, tr. 197-198. Xem thêm tr. 174 và 194. Trên vấn đề này, lý luận của Engels trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước thật rõ ràng, như hai mệnh đề trích dẫn ở các chú thích trên cho thấy.
– Mệnh đề thứ nhất ở chú thích 27 (“Và quyền lực đó, nảy sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội, và ngày càng xa lạ với xã hội…”) nói về quy tắc chung về tính độc lập của nhà nước đối với xã hội dân sự.
– Mệnh đề thứ hai ở chú thích 30 (“Có ngoại lệ, khi các giai cấp đấu tranh với nhau đạt tới một thế cân bằng nhất định; khiến cho nhà nước tạm thời độc lập ở một mức độ nào đó đối với cả hai bên, như là một kẻ trung gian hòa giải giả bộ…”) nói đến trường hợp ngoại lệ và tạm thời về tính độc lập của nhà nước đối với các giai cấp khi chúng ở thế cân bằng.

[75] Pierre Salama đã vạch rõ sự cần thiết phân biệt nhà nước và những chế độ chính trị, cũng như trong phân tích của Marx phải phân biệt giá trị và những hình thái hiện tượng của nó [P. Salama, “Etat et capital. Nhà nước tư bản chủ nghĩa với tính cách là trừu tượng hóa hiện thực”, Critiques de l’économie politique n˚ 7-8, 1979, tr. 243 và tiếp. Gilberto Mathias, P. Salama, L’Etat surdéveloppé, nxb La Découverte, 1983, tr. 13-14]. Theo cách tiếp cận về nhà nước phái sinh từ khái niệm tư bản, P. Salama phân biệt một tính độc lập tương đối của nhà nước đối với riêng tư bản, hiểu như đối với giai cấp thống trị; và một tính độc lập tương đối của chế độ chính trị ở cấp độ của tương quan giữa tư bản và lao động, tức là đối với các giai cấp xã hội [P. Salama, sđd, tr. 246].
Trong cách tiếp cận của chúng tôi về nhà nước hiện đại như là hình thái, tính độc lập hình thức của nhà nước hiện đại được định nghĩa đối với xã hội dân sự, và tính độc lập hình thức của chế độ chính trị được định nghĩa đối với các giai cấp xã hội.

[76] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 189].

[77] Tư bản, Quyển I [1890, tr. 259 và 261-262]. Tiền công, giá cả và lợi nhuận [1849/1865, tr. 107].

[78] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 355].

[79] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 32].

[80] Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1884, tr. 178 và 180]. Trong lý luận của Engels, chúng tôi giữ lại phân tích liên quan đến nhà nước hiện đại, và không bàn đến sự khái quát hóa phân tích đó đến những hình thái nhà nước tiền tư bản chủ nghĩa. Như thường khi, phép ngoại suy lịch sử của Engels gây nhiều tranh cãi.

[81] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 31].

[82] “Cuộc cách mạng tháng 6”, nhật báo Neue Rheinische Zeitung, 26.6 1848 [1848-1849, t. 3, tr. 184].

[83] Trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1884, tr. 180-181], Engels đưa ra nhận định: “Hình thức cao nhất của nhà nước, là chế độ cộng hòa dân chủ, đang ngày càng trở thành một tất yếu không thể tránh khỏi trong điều kiện của xã hội chúng ta ngày nay, và nó là hình thái nhà nước duy nhất trong đó cuộc đấu tranh quyết định giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản có thể diễn ra tới cùng; chế độ ấy không còn chính thức thừa nhận những chênh lệch về tài sản nữa. Của cải biểu hiện quyền lực của nó một cách gián tiếp, nhưng lại chắc chắn hơn. Một mặt, là bằng cách mua chuộc thẳng các công chức (…); mặt khác, là thông qua hình thức liên minh giữa chính phủ với Sở giao dịch chứng khoán”.

[84] New York Daily Tribune, 29.8. 1859.

[85] Cuộc nội chiến ở Pháp [1871, tr. 61]. Xem thêm Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte [1852, tr. 134-135]. Trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1884, tr. 181], Engels nhận định: “Phổ thông đầu phiếu là cái thước đo mức độ trưởng thành của giai cấp công nhân. Nó không thể và không bao giờ hơn thế với nhà nước hiện nay; nhưng như vậy cũng đủ”.

[86] Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 320].

[87] Sau khi Đệ tam cộng hòa được thiết lập ở Pháp, Marx, vào năm 1880, nhận định rằng giai cấp công nhân có thể nắm quyền bằng con đường dân chủ của phổ thông đầu phiếu, và như vậy chuyển hóa một công cụ trước nay sử dụng để lừa gạt thành một công cụ giải phóng (“Nhận định của cương lĩnh đảng công nhân Pháp”, Tác phẩm I. Kinh tế [1847-1880, tr. 1538]. Ở Anh, nơi giai cấp công nhân có những định chế dân chủ cho phép diễn biến chính trị hòa bình thay vì cách mạng chính trị bạo động, Marx cho rằng: “Nếu cuộc diễn biến tất yếu biến thành cách mạng thì lỗi không chỉ là của các giai cấp thống trị mà của cả giai cấp công nhân”, vì chứng tỏ nó “không biết vận dụng sức lực và các quyền tự do nó thật sự có” (Thư gửi ngày 8.12 1880 của Marx gửi H.M. Hyndman, Tác phẩm I. Kinh tế [sđd, tr. CLXX]).

[88] Tiền công, giá cả và lợi nhuận [1849/1865, tr. 108]. Tư bản, Quyển I [1890, tr. 338].

[89] Tiền công, giá cả và lợi nhuận [1849/1865, tr. 108]. Tư bản, Quyển I [1890, tr. 338].

[90] Đó là điều Engels vạch rõ trong Chống Duhring [1878, tr. 134-135]: “Giai cấp vô sản cứ bằng vào lời nói của giai cấp tư sản mà nêu yêu sách: quyền bình đẳng không thể chỉ xác lập bề ngoài, chỉ có trong lĩnh vực nhà nước, nó phải có thực sự, cả trong lĩnh vực kinh tế và xã hội. (…) Nội dung thực sự của yêu sách bình đẳng vô sản là yêu cầu xoá bỏ các giai cấp”.

[91] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 412].

[92] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t. 3, tr. 172].

[93] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 422].

[94] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 414-415]. Xem thêm tr. 427. Marx còn nhận xét rằng, trong xã hội cổ đại La Mã, quyền sử dụng công thổ thuộc về thành phần quý tộc, rồi được người quý tộc phân phát lại cho lê dân của họ, cho nên quyền sở hữu được chuyển giao tận đến người bình dân [sđd, tr. 417].

[95] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 440, 434-435 và 411].

[96] Bruno Théret, Régimes économiques de l’ordre politique, nxb PUF, 1992, tr.110.

[97] Marx nhấn mạnh điều này trong Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 73-74] khi ông cho rằng: Sở hữu tư nhân tương ứng với nhà nước hiện đại là “sở hữu tư nhân thuần túy, đã trút bỏ mọi vẻ bề ngoài về tính cộng đồng và loại trừ mọi tác động của nhà nước đối với sự phát triển của sở hữu. Tương ứng với sở hữu tư nhân đó là nhà nước hiện đại”. Thật ra, Marx nói rõ thêm: “Do chỗ sở hữu tư nhân được giải phóng khỏi cộng đồng nên nhà nước đã tồn tại riêng biệt bên cạnh và bên ngoài xã hội dân sự”. Nói cách khác, việc loại trừ nhà nước khỏi sở hữu tư nhân chỉ sự tách biết giữa nó với sở hữu tư, mối quan hệ đối cực của nó với sở hữu tư. Marx nói tiếp theo: “Giai cấp tư sản bắt buộc phải tự tổ chức không chỉ ở phạm vi địa phương mà cả ở phạm vi quốc gia và phải cho những lợi ích chung của nó một hình thức phổ quát. (…) Nhưng thực ra nhà nước ấy không phải gì khác hơn là hình thức tổ chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để bảo đảm lẫn cho nhau sở hữu và lợi ích của họ đối với bên trong cũng như bên ngoài”.

[98] Sở hữu tối cao của nhà nước trên đất đai không phải bao giờ cũng được pháp lý công nhận. Bởi khi nhà nước tuyên bố quyền sở hữu tối cao của nó, có nghĩa là quyền sở hữu của tư nhân chỉ là hàng thứ nhì: tức thất thế cho quyền tư hữu, là quyền “bất khả xâm phạm, thiêng liêng” của Tuyên ngôn quyền con người và công dân 1789 (Michel Miaille, L’Etat du droit, nxb Maspéro-PUG, 1978, tr. 183).
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 2, tr. 42, đã trích đẫn một phần ở § 1013], Marx giải thích thực chất của chủ trương nhà nước hóa sở hữu đất đai: “Trên bình diễn lý luận, nhà tư sản cấp tiến đi tới chỗ phủ nhận quyền tư hữu đất đai mà nó muốn biến thành sở hữu chung của giai cấp tư sản, của tư bản, dưới hình thái sở hữu nhà nước. Nhưng trong thực tiễn, nó không đủ can đảm, bởi phản bác một hình thái sở hữu – hình thái sở hữu tư về điều kiện lao động -, sẽ rất nguy hiểm đối với hình thái sở hữu khác”.

[99] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t. 3, tr. 191; 10]. Như những Học thuyết về giá trị thặng dư nhắc nhở, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ đòi hỏi là “đất đai không phải là sở hữu của chung, là đất đai đối diện với giai cấp công nhân như là điều kiện sản xuất mà nó không sở hữu, và phương thức sản xuất đó đạt mục tiêu này khi đất đai trở thành sở hữu nhà nước, tức là khi nhà nước là người thu địa tô [1862-1863, t. 2, tr.42].

[100] Cách đặt vấn đề thâu gồm nhà nước hiện đại vào tư bản cho phép lý giải lập luận của Marx trong những Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 221, đã trích dẫn một phần ở § 1013]: “Như vậy, sở hữu đất đai bị phủ định từ hai phía. Từ phía tư bản, sự phủ định chỉ là một sự thay đổi hình thái nhằm thiết lập ưu thế của tư bản (địa tô trở thành tô tức nộp cho nhà nước, thuế nhà nước và tuy xã hội tư sản tái sản xuất hệ thống trung cổ theo một phương thức khác, nhưng là phủ định nó hoàn toàn). Từ phía lao động làm thuê, phủ định sở hữu đất đai chỉ là một sự phủ định tư bản được che lấp, tức là sự phủ định chính lao động làm thuê. Cho nên bây giờ phải xem lao động làm thuê trong tính độc lập của nó đối với tư bản. (…) Qua sự phủ định sở hữu đất đai bởi lao động làm thuê, chính là tư bản bị phủ định. Đó là lao động làm thuê muốn tự thiết định như hiện thực độc lập”.

Print Friendly and PDF