7.9.15

Nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội


NÔNG DÂN TRONG CẤU TRÚC PHÂN TẦNG XÃ HỘI[1]

Peasantry In Configuration Of Social Stratification
TÓM TẮT

Ở Việt Nam, vấn đề nông dân luôn là vấn đề trung tâm suốt chiều dài lịch sử và đến tận hôm nay. Sau khi nắm được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nỗ lực giải quyết “vấn đề nông dân” bằng chinh sách công hữu hóa ruộng đất, áp dụng rộng rãi mô hình hợp tác xã nông nghiệp, đặt trong bối cảnh toàn bộ nền kinh tế được công hữu hóa và vận hành theo kế hoạch mệnh lệnh hành chính. Giải pháp mang tính cách mạng ấy tạo nên cấu trúc xã hội mới chưa từng có trong lịch sử nông dân-nông thôn. Do giải pháp này không thành công, chính sách “Đổi Mới” đã được áp dụng, kiến tạo nên một cấu trúc xã hội khác trước. Người nông dân chiếm vị thế như thế nào trong cấu trúc phân tầng xã hội hiện nay? Bài viết bắt đầu với việc nêu lên tỷ trọng của nông dân trong cấu trúc nghề nghiệp-xã hội trên cả nước trong khoảng thời gian 2008-2014 và Đông Nam Bộ 2010. Tiếp theo, bài viết đề cập đến ba nguồn lực chủ yếu mà nông dân thụ đắc (kinh tế, tri thức, và quyền lực), so sánh với các nhóm xã hội-nghề nghiệp khác, dựa trên số liệu khảo sát ở Đông Nam Bộ. Sau đó, đề cập đến di động xã hội của nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội. Cuối cùng, bài viết nêu nhận xét về tương lai của nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội 2020, thời điểm đã xác định là cột mốc quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, Việt Nam về căn bản trở thành nước công nghiệp.

Peasantry has always been the central issue in Vietnam’s history up to now. After having seized power, the Communist Party of Vietnam attempted to solve the “peasantry question” by implementing the nationalization of land and the collectivization of agriculture, in the context of the whole country underwent the nationalization of all basic means of production and the administrative management of all economic and labor resources. This revolutionary solution brought about a major transformation in social stratification never before seen in the history of peasantry and rural areas. Because these policies were unsuccessful, the policy “Đổi Mới” has been implemented, which has constructed a different configuration of social stratification. What status in the current social stratification has the Vietnamese peasantry been placed? The paper begins with the rate of the peasantry in the occupational structure in the whole country in the period 2008-2014 and in the Southeast Region of Vietnam in 2010. Next, three main resources (income, knowledge and power) attached to the peasantry are examined in comparison to other occupational categories, based on survey data collected in the Southeast Region of Vietnam. Then, the social mobility of the peasantry is mentioned. Finally, the paper discusses the future of peasantry in 2020 and beyond, which was determined to be the important milestone in Vietnam’s industrialization and modernization process where Vietnam basically becomes an industrialized country.

1. “VẤN ĐỀ NÔNG DÂN” – TỪ THẾ GIỚI ĐẾN VIỆT NAM, TỪ LỊCH SỬ ĐẾN HIỆN TẠI

Bùi Thế Cường
Cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu có vẻ như không gặp phải kháng cự đáng kể của nông dân. Lịch sử chủ yếu ghi nhận những cuộc nổi dậy của công nhân. Phản kháng của công nhân luôn trở thành điểm nóng trong chương trình nghị sự chính trị ở Tây Âu thế kỷ XIX, khiến công luận gọi tên là “vấn đề xã hội” hay “vấn đề công nhân”. Giai cấp cầm quyền triển khai chiến lược đa diện để đương đầu thách thức này, trong đó một giải pháp khá toàn diện và cơ bản là hình thành hệ thống chính sách xã hội (Bùi Thế Cường, 2001; Trần Hữu Quang, 2009).
Khi chủ nghĩa tư bản bành trướng sang thuộc địa, tình hình rất khác Tây Âu. Chủ nghĩa thực dân bắt gặp ở đây phản kháng mạnh mẽ của các phong trào nông dân (dù dưới sự lãnh đạo của tầng lớp tinh hoa truyền thống, tư sản hay của các tổ chức cộng sản). Nhiều nguyên nhân cho hiện tượng này. Nhưng ít nhất cần nhớ rằng, lịch sử của nhiều vùng không phải phương Tây trước khi xuất hiện chủ nghĩa thực dân đã đầy rẫy những nổi dậy nông dân. Có thể nói ở các nước thuộc địa, vấn đề xã hội chủ yếu là “vấn đề nông dân”. 

Giống nhiều vùng đất và quốc gia khác, ở Việt Nam, vấn đề nông dân và phong trào nông dân (chống ngoại xâm hay chống giai cấp cầm quyền) luôn là trung tâm suốt chiều dài lịch sử. Việt Nam thế kỷ XX cũng không phải ngoại lệ. Điều trớ trêu là ngày hôm nay vấn đề nông dân lại vẫn một lần nữa nổi lên như là một vấn đề chính trị-xã hội hàng đầu. Sau khi nắm được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hai lần tìm cách giải quyết “vấn đề nông dân” bằng chính sách công hữu hóa ruộng đất, phân bố lại dân cư nông thôn và khai hoang, thủy lợi hóa quy mô lớn và đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, áp dụng rộng rãi mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong khuôn khổ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh hành chính[2]. Những giải pháp mang tính cách mạng ấy đã tạo nên cấu trúc xã hội mới chưa từng có trong lịch sử nông dân-nông thôn. Hầu như ở mọi vùng nông thôn, giai cấp nông dân tập thể chiếm đại đa số, bên cạnh một số lượng nhỏ cán bộ nhân viên hành chính Đảng-Nhà nước toàn phần hoặc bán phần (biên chế). 

Nhưng như ta đã chứng kiến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở bất cứ đâu trên thế giới đã từng áp dụng chính sách cộng sản chính thống trên toàn bộ nền kinh tế và trong nông nghiệp, giải pháp này không có cách nào đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách căn bản và bền vững, thậm chí còn dẫn đến trì trệ, tích tụ xung đột và khủng hoảng. Vì thế, ở Việt Nam khi không còn hiện diện những điều kiện chính trị-kinh tế thuận lợi hỗ trợ cho mô hình này tồn tại được vài thập niên (chiến tranh chấm dứt và viện trợ bên ngoài không còn nữa), chính sách này đã phải thay đổi căn bản. Giai cấp nông dân tập thể không còn tồn tại, trở lại thành khối nông dân cá thể khổng lồ, kiếm sống trong và đối diện với môi trường thị trường tự do. Một lần nữa, nông dân lại bị nhào nặn trong một cấu trúc phân tầng xã hội khác.[3]

Trong môi trường “mới” của chủ nghĩa tư bản Nhà nước và tư nhân tự do, người nông dân chiếm vị thế như thế nào trong cấu trúc phân tầng xã hội “mới”? Bài viết đề cập câu hỏi này dựa trên một số bằng chứng thực nghiệm định lượng mà các nhà nghiên cứu (trong đó có tác giả bài viết) thu thập và phân tích trong thời gian qua. 

Bài viết bắt đầu với việc nêu lên tỷ trọng của nông dân trong cấu trúc nghề nghiệp-xã hội trên cả nước và Đông Nam Bộ, thời điểm xung quanh năm 2010. Tiếp theo, bài viết đề cập đến ba nguồn lực chủ yếu mà nông dân thụ đắc (kinh tế, tri thức, và quyền lực), so sánh với các nhóm xã hội-nghề nghiệp khác, dựa trên số liệu khảo sát ở Đông Nam Bộ. Sau đó, đề cập đến di động xã hội của nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội. Cuối cùng, bài viết nêu nhận xét về tương lai của nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội 2020, thời điểm đã xác định là cột mốc quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, Việt Nam về căn bản trở thành nước công nghiệp.

Cần đề cập ngắn gọn đến hai thuật ngữ chính ở bài viết này. Thứ nhất, khi nói đến “giai cấp/ nhóm/ tầng lớp” nông dân, tôi ngụ ý đến nông dân lao động trực tiếp.[4] Họ gồm hai nhóm. Một, người có ruộng và tự làm. Hai, người không hoặc ít ruộng đi làm thuê trong nông nghiệp. Theo tôi, giới có nhiều ruộng và chuyên thuê mướn lao động đến một lượng nhất định cần xếp vào nhóm tư bản nông nghiệp. 

Thứ hai, thuật ngữ “cấu trúc phân tầng xã hội”. Đây là một khái niệm phức hợp trong xã hội học. Bài viết chỉ đề cập một vài khía cạnh giản đơn mang tính định lượng của khái niệm. Đó là phân bố mang tính định lượng của các nhóm xã hội-nghề nghiệp trong một cấu trúc xã hội, ba chỉ báo định lượng phản ánh những nguồn lực chủ yếu mà các nhóm xã hội thụ đắc, và mức độ định lượng của di động xã hội ở nông dân.

2. NÔNG DÂN TRONG CẤU TRÚC PHÂN TẦNG XÃ HỘI: CẢ NƯỚC VÀ ĐÔNG NAM BỘ
Đỗ Thiên Kính đưa ra bức tranh phân bố của dân số lao động Việt Nam trong các nghề nghiệp-xã hội vào năm 2008, dựa trên số liệu khảo sát VHLSS (Đỗ Thiên Kính, 2012, trang 55). Theo đó, nông dân chiếm tỷ trọng lớn nhất, 48,4%. Cùng với nhóm lao động giản đơn, nông dân hợp thành tầng xã hội thấp, bao gồm 56,6%. Trong phân tích gần đây chưa công bố chính thức, Đỗ Thiên Kính đưa ra con số tỷ lệ nông dân là 50,4% vào năm 2008 và 47% vào năm 2012 (Đỗ Thiên Kính, 2015). Sự khác nhau có thể do thay đổi tiêu chí tính toán. Theo Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2014, trong cơ cấu lao động có việc làm cả nước theo khu vực kinh tế, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 45,3% (Tổng cục Thống kê, 2014, trang 7). Trạng thái phân bố như vậy khiến cấu trúc phân tầng xã hội theo nghề nghiệp ở Việt Nam mang dạng kim tự tháp. Tỷ trọng này thực ra đã thay đổi đáng kể so với 20 năm trước (đầu thập niên 1990).
Đông Nam Bộ có bối cảnh lịch sử và xã hội khác biệt so với những vùng khác. Điều này cũng thể hiện trong cấu trúc phân tầng xã hội. Để tạm so sánh với bức tranh cả nước ở trên, tôi sử dụng số liệu của các khảo sát về chủ đề này do Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ thực hiện năm 2010. 

Theo quy định chính thức, vùng Đông Nam Bộ gồm sáu tỉnh trong đó có TPHCM. Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm một khảo sát định lượng tại TPHCM và một khảo sát khác cho các tỉnh còn lại của vùng. Mỗi khảo sát có cỡ mẫu 1.080 hộ gia đình sinh sống ở 30 phường/ trị trấn/ xã (Xem mô tả cách chọn mẫu: Trần Đan Tâm, 2010). Do có hai cuộc khảo sát trên, nên trong bài viết này tôi sử dụng cụm từ “Đông Nam Bộ hẹp” để chỉ vùng Đông Nam Bộ gồm năm tỉnh, không có TPHCM. 

Bảng 1 trình bày kết quả phân tích của hai khảo sát trên về phân bố của các nhóm xã hội-nghề nghiệp và tầng xã hội. Có 10 nhóm xã hội-nghề nghiệp, gộp thành ba tầng xã hội (Xem thêm: Bùi Thế Cường và Lê Thanh Sang, 2010). Liên quan đến chủ đề của ta ở đây, nông dân phân thành ba tiểu nhóm: nông dân lớp trên, lớp giữa và lớp dưới. Và như trên đã nói, tôi gộp hai tiểu nhóm dưới thành nhóm nông dân lao động.[5]

Theo Bảng 1, nông dân lao động chiếm 35,5% trong cơ cấu xã hội-nghề nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ hẹp[6] và 4,1% ở TPHCM. Xét riêng vùng nông thôn, nông dân lao động chiếm 45,8% ở vùng Đông Nam Bộ hẹp và 14,4% ở TPHCM. Tỷ lệ nông dân lao động trong khu vực nông thôn vùng Đông Nam Bộ hẹp xấp xỉ tỷ lệ này trên cả nước.

3. BA NGUỒN LỰC Ở NÔNG DÂN: TRƯỜNG HỢP ĐÔNG NAM BỘ

Các nhóm xã hội có những đặc điểm xã hội mà nếu ta đưa vào bảng hỏi nghiên cứu để thu thập dữ liệu, ta sẽ thấy ra những khác biệt xã hội giữa các nhóm. Nhiều đặc điểm xã hội có thể nhìn như là những nguồn lực (tài nguyên) mà các nhóm thụ đắc. Khác biệt giữa các nhóm về nguồn lực là chỉ báo tuyệt hảo để đo bất bình đẳng xã hội. Nó cũng góp phần phản ánh vị thế xã hội của mỗi nhóm trong cấu trúc xã hội. 

Khoa học xã hội thế giới đã chế ra nhiều biến số để đo lường các nguồn lực. Trong phần này, tôi sử dụng ba biến số để đo ba kiểu nguồn lực tiêu biểu nơi các nhóm xã hội. Đó là “thu nhập bình quân đầu người năm” để phản ánh nguồn lực kinh tế, “số năm đi học” để phản ánh nguồn lực tri thức, và “là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam” để phản ánh nguồn lực quyền lực.[7] Phân tích dựa trên dữ liệu hai cuộc khảo sát ở Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM đã đề cập ở trên.

3.1. Nguồn lực kinh tế ở nông dân thể hiện qua biến số “thu nhập bình quân đầu người năm”

Bảng 2 trình bày thu nhập đầu người năm theo nhóm nghề nghiệp-xã hội, tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân ở hai vùng. Nhóm nông dân lao động (nông dân lớp giữa và lớp dưới) cùng với nhóm lao động giản đơn thuộc hàng thu nhập thấp nhất trong bảng phân tầng xã hội. Mức thu nhập của nông dân lớp dưới là 12,2 triệu đồng ở vùng Đông Nam Bộ hẹp và 14,5 triệu đồng ở TPHCM, bằng 66,6% và 53,2% mức trung bình của mỗi vùng. Thu nhập đầu người năm của nông dân lớp trên vùng Đông Nam Bộ hẹp gấp khoảng ba lần của nông dân lao động. Thu nhập này ở nhóm quản lý công ty trong khu vực tư nhâp gấp 5,3 lần của nông dân lao động. Biến số thu nhập đầu người năm phản ánh phần nào mức chênh lệch về nguồn lực kinh tế của nông dân lao động so với các nhóm xã hội-nghề nghiệp khác.

3.2. Nguồn lực tri thức ở nông dân thể hiện qua biến số “số năm đi học”

Bảng 3 trình bày số năm đi học theo nhóm nghề nghiệp-xã hội, tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân ở hai vùng. Số năm học trung bình ở Đông Nam Bộ hẹp là 6,88, ở TPHCM cao hơn hẳn, là 9,39. Ở Đông Nam Bộ hẹp, nhóm nông dân lớp giữa có số năm đi học trung bình 5,68. Con số này ở nông dân lớp dưới là 6,21. Ở TPHCM, nông dân lớp dưới có số năm đi học trung bình 6,19. Số năm đi học như vậy mới trên mức tiểu học khoảng hơn một năm (trong thang phổ thông 12 năm, tiểu học chiếm 5 năm, trung học cơ sở chiếm 4 năm và trung học phổ thông chiếm 3 năm). Biến số về số năm đi học phản ánh phần nào mức chênh lệch về nguồn lực tri thức (chính thức) của nông dân lao động so với các nhóm xã hội-nghề nghiệp khác. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với thanh thiếu niên nông dân trong thăng tiến xã hội.

3.3. Nguồn lực quyền lực ở nông dân thể hiện qua biến số “là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”

Bảng 4 trình bày tỷ lệ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong dân cư ở Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM. Khối giữa của Bảng 4 mô tả tỷ lệ đảng viên của các nhóm so với tổng số đảng viên trong mẫu khảo sát. Ở Đông Nam Bộ hẹp, phần lớn các nhóm xã hội-nghề nghiệp có lượng đảng viên chiếm từ 6 đến 9% tổng số đảng viên. Nhưng đảng viên thuộc nhóm nông dân lớp giữa và nhóm công nhân/ thợ thủ công lành nghề mỗi nhóm chỉ chiếm 3% tổng số đảng viên. Nhóm “Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp trong khu vực Đảng, Nhà nước” và “Chuyên viên kỹ thuật bậc trung, bậc cao”, mỗi nhóm có số đảng viên chiếm 27,3%, tổng cộng là 54,6%, trong tổng số đảng viên. Đảng viên trong nhóm nông dân lao động chỉ chiếm 9,1% tổng số đảng viên. Nhóm “Nông dân lớp trên” có con số tương đương (9,1%). 

Ở TPHCM cũng tương tự, nhưng số đảng viên trong nhóm “Nhân viên thương mại, dịch vụ” chiếm tới 19,4% và trong nhóm “Quản lý công ty trong khu vực tư nhân” chiếm tới 22,2%. Khuôn mẫu phân bố trong cấu trúc phân tầng xã hội theo tầng và nhóm ngũ vị phân cũng tương tự. Càng thuộc nhóm cao hơn trong tháp phân tầng thì tỷ lệ đảng viên càng cao hơn. 

Khối bên phải của Bảng 4 trình bày tỷ lệ đảng viên trong nội bộ mỗi nhóm. Ba nhóm đầu trong tháp phân tầng theo xã hội-nghề nghiệp (cũng là thành viên của tầng xã hội trên) có tỷ lệ đảng viên trong mỗi nhóm cao nhất. Chẳng hạn, nhóm “Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp trong khu vực Đảng, Nhà nước” có tỷ lệ đảng viên lên tới 40,9% ở Đông Nam Bộ hẹp và 38,9% ở TPHCM. Ngay cả nhóm “Quản lý công ty trong khu vực tư nhân” cũng có tỷ lệ đảng viên lên tới 36,4% ở TPHCM. Chỉ có gần 2% nhóm nông dân lao động là đảng viên ở vùng Đông Nam Bộ hẹp. Khuôn mẫu phân bố này cũng thể hiện trong cấu trúc theo tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân thu nhập: nhóm cao hơn trong thang phân tầng xã hội có tỷ lệ đảng viên trong nhóm cao hơn.

Vì số đảng viên trong mẫu khảo sát là nhỏ (tỷ lệ này trên quy mô cả nước so với toàn thể dân cư cũng vậy), nên tôi bổ sung số liệu từ vài khảo sát khác, và trích dẫn một tài liệu của tỉnh Quảng Ninh.

Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ tiến hành một khảo sát ở Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2008 (Lê Thanh Sang, 2011). Kết quả cho thấy phân bố đảng viên trong các nhóm xã hội-nghề nghiệp và tầng xã hội cũng có khuôn mẫu tương tự như ở Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM. Theo đó, hai nhóm có tỷ lệ đảng viên cao nhất trong nội bộ nhóm là “Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp” (26,9%) và “Chuyên viên kỹ thuật” (15,4%). Con số này ở nhóm “Nông dân lớp trên” là 5,5%, nhóm “Nông dân lớp giữa” là 3%, và nhóm “Nông dân lớp dưới” là 1,4%.

Năm 2010, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ tiến hành một khảo sát ở tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Khảo sát cho thấy tỷ lệ đảng viên ở tầng thấp chỉ là 0,3%, ở tầng giữa là 3,8%, ở tầng cao lên đến 29,4% (Bùi Thế Cường, 2012). Nói cách khác, khuôn mẫu phân bố đảng viên trong các tầng xã hội ở tỉnh Vĩnh Long tương tự như ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.

Một bài báo mới đây trong tờ VietnamNet cho biết tỷ lệ đảng viên trong cán bộ viên chức thuộc hệ thống chính trị tỉnh Quảng Ninh là 76% (Phương Nguyên, 2015).

4. NÔNG DÂN VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI

Tính “đóng hay mở” hoặc “cứng nhắc hay linh hoạt” của một cấu trúc phân tầng xã hội thể hiện tính “trì trệ hay tiến bộ” của xã hội ấy. Tính đóng-mở hoặc cứng nhắc-linh hoạt của cấu trúc xã hội có thể đo bằng nhiều khái niệm, trong đó có “di động xã hội”, đặc biệt là di động xã hội dọc trong một thế hệ hay liên thế hệ.

Về mặt này, nghiên cứu di động xã hội trong thế hệ ở Việt Nam thập niên 2000, Đỗ Thiên Kính nhận thấy “tỷ lệ di động thuần luôn cao hơn tỷ lệ di động cấu trúc đối với cả nước … và xét riêng từng khu vực nông thôn (hoặc đô thị)” và “tầng lớp nông dân có hệ số mở nhỏ nhất và thể hiện xu hướng giảm dần theo thời gian” (Đỗ Thiên Kính, 2012, trang 96 và 97).[8] Từ đó và cùng một số phân tích khác, ông kết luận, thứ nhất, di động xã hội trong cả nước để hình thành các tầng lớp của xã hội hiện đại còn chậm chạp. Thay đổi của cơ cấu kinh tế chưa đóng vai trò chủ yếu trong di động xã hội. Thứ hai, xu hướng di động trong hệ thống phân tầng của cả nước là mở, nhưng tầng lớp nông dân có xu hướng khép kín. “… Khi xem xét hệ số mở trong mỗi tầng lớp xã hội ta thấy rằng tầng lớp nông dân có hệ số mở nhỏ nhất và chúng thể hiện xu hướng giảm dần theo thời gian từ năm 2004 đến 2008. Điều này có nghĩa rằng, tầng lớp nông dân đang ở trong trạng thái khép kín nhiều hơn những tầng lớp xã hội khác (các nước công nghiệp trên thế giới cũng như vậy). Tức là, nó thể hiện sự di động ra khỏi tầng lớp nông dân còn chậm nhất và ngày càng khó khăn, hoặc là tỉ lệ giảm bớt tầng lớp nông dân ngày càng chậm dần” (sách đã dẫn, trang 133-134).

5. TƯƠNG LAI NÔNG DÂN TRONG CẤU TRÚC PHÂN TẦNG XÃ HỘI 2020 VÀ XA HƠN

Từ những phân tích định lượng trên ta thấy, cho đến nay nông dân vẫn là nhóm xã hội-nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất trên cả nước. Nhưng ở Nam Bộ nói chung, nhất là ở TPHCM và phần nào ở Đông Nam Bộ, tỷ lệ nông dân thấp hơn đáng kể. Điều này khiến cho hình dạng tháp phân tầng xã hội-nghề nghiệp của cả nước và của Đông Nam Bộ khá khác nhau. Cấu trúc này tỏ ra sẽ không thay đổi căn bản cho đến 2020 trên cả nước cũng như ở Đông Nam Bộ.

Bài viết phân tích nguồn lực ở nông dân bằng phương pháp đơn giản thông qua ba biến số phản ánh nguồn lực kinh tế, tri thức và quyền lực. Phân tích cho thấy phân bố của ba nguồn lực khác biệt lớn giữa các nhóm xã hội, và mang tính phân tầng rõ rệt. Trong đó, nông dân lao động luôn cùng với nhóm lao động giản đơn đứng chót bảng phân tầng ở ba biến số phản ánh nguồn lực. 

Nông dân lao động cũng là nhóm khó khăn nhất trong dịch chuyển lên những tầng lớp cao hơn trên tháp phân tầng. Đối với họ, “cấu trúc xã hội” dường như đã “an bài”, khó có khả năng thay đổi vị thế của mình, hay như người đời thường nói, thay đổi “thân phận”.

Hoàn cảnh và vị thế của nông dân không thể tách rời bối cảnh cấu trúc xã hội chung. Về mặt này, tôi đã cố gắng đưa ra một tổng kết về “sự dàn xếp cấu trúc xã hội đã và đang an bài” trong thập niên 1990-2000 trong cuốn sách xuất bản năm 2010, dựa trên kết quả Đề tài KX.02.10 (2001-2005). Xin trích lại một đoạn khá dài như sau:

“Kết cấu xã hội hay cấu trúc giai tầng ở Việt Nam hiện nay đã định hình tương đối rõ ràng. Nhìn chung, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cải cách, mọi khối dân cư đều được hưởng lợi từ Đổi Mới. Song, mức độ hưởng lợi là khác nhau ở mức đáng kể, và sự khác nhau này có xu hướng ngày càng tăng. 

Đến giữa và cuối những năm 1990 bối cảnh xã hội của Việt Nam đã thay đổi sâu sắc. Vào thời điểm này, Đổi Mới đã tiến hành khoảng hơn 10 năm, giải quyết được cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm 1970-1980, nhưng cũng làm thay đổi mạnh mẽ kết cấu xã hội. Đã hoàn thành một giai đoạn quá độ cho nền kinh tế: những cơ sở của kinh tế thị trường ngày càng được xác lập, những cơ chế của nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp trở nên yếu đi nhiều. Điều này tạo nên một cơ sở kinh tế khác cho kết cấu xã hội.

Thập niên những năm 2000, sự biến đổi còn sâu sắc hơn nữa, những kết cấu xã hội thì ngày càng trở nên “đã an bài” hơn: người giàu ngày càng trở nên giàu có với những cơ hội làm giàu chưa từng thấy thậm chí ngay cả so sánh với những nước phát triển[9], tầng lớp trung lưu và nghèo ngày càng khó thay đổi “thân phận” hơn. Phân bố thu nhập theo ngành nghề trở nên rất khác nhau: xuất hiện những ngành nghề đặc quyền đặc lợi. 

Những giai tầng và nhóm được lợi nhiều nhất trong Đổi Mới và chuyển đổi bao gồm doanh nhân và quản lý kinh doanh (cả nhà nước lẫn tư nhân); giới thực lợi (có thu nhập từ tài sản: nhà cho thuê, lợi tức); công chức (lĩnh vực đảng, ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, đoàn thể xã hội); các ngành dịch vụ xã hội (khoa học, giáo dục và y tế); công nhân viên có kỹ thuật trong các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tiên tiến. 

Những giai tầng và nhóm được hưởng lợi ít hơn bao gồm: nông dân ít đất và không kinh doanh; người dân tộc; người già không có bảo đảm xã hội; thanh niên và lao động trẻ có thu nhập thấp hoặc không kiếm được việc làm tốt; người tàn tật và không có sức lao động; công nhân viên kỹ năng thấp trong các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ thu nhập thấp; người ngoài lề xã hội.

Mức chênh lệch xã hội chưa phải là quá lớn, song sự chênh lệch này không thể hiện rõ tính chức năng và hỗ trợ cho phát triển. Điều đáng báo động là sự hưởng lợi mang tính trục lợi là phổ biến và ở mức độ cao[10]” (Bùi Thế Cường, 2010, trang 142-143).

“Ngày nay, sau gần 25 năm Đổi Mới đã ngày càng thấy rõ một "dàn xếp xã hội" mới (social arrangement): giới cán bộ công chức, giới quản lý kinh tế (nhà nước hay tư nhân), trí thức, tiểu chủ, công nhân, nông dân, những người ngoài lề” (Bùi Thế Cường, 2010, trang 146). 

Trong “cấu trúc xã hội thời chiến tranh và cách mạng xã hội chủ nghĩa”, người nông dân (cá nhân cũng như làng của họ) vụt lớn dậy như Phù Đổng (mượn ý nhà văn Nguyễn Khải), trở thành nhân vật trung tâm mang tầm vóc lịch sử. Họ là nhân vật chính trong chiến tranh (những tướng lĩnh, sĩ quan và người lính ra đi từ làng quê) và trong thời xây dựng chủ nghĩa xã hội (giai cấp nông dân tập thể khổng lồ). 

Hơn hai mươi năm qua, “cấu trúc xã hội kiểu thị trường Nhà nước và thị trường tự do” đã thay đổi (thậm chí đảo ngược) vị thế của nông dân lao động. Về nhiều mặt, họ vẫn là nguồn đóng góp lớn vào GDP và cán cân xuất khẩu, đem đến sự nhảy vọt của quốc gia. Nhưng mặt khác, họ cùng con cháu của mình đang bị “cấu trúc hóa” vào một hệ thống phân tầng xã hội “mới”, ở đó họ có nhiều nguồn lực hơn so với chính mình trước kia, nhưng nếu so với các giai tầng xã hội khác họ trở nên có ít nguồn lực nhất. Cái bánh thu nhập quốc dân ngày càng lớn, miếng bánh cho nông dân lao động to hơn trước, nhưng xét về tỷ lệ tương đối, phần của họ ngày càng nhỏ, những kẻ khác ngồi cùng mâm ngày càng ngoạm phần “khủng” hơn.

Là một nỗ lực khôi phục tinh thần truyền thống cách mạng trước kia, lấy cảm hứng từ các mô hình nước ngoài thành công (chẳng hạn, Chương trình xây dựng nông thôn mới của Hàn Quốc), và một phần dưới áp lực nguy cơ mất ổn định xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 ra đời năm 2010. Một trong những sứ mệnh quan trọng của nó là góp phần đảo ngược quá trình “cấu trúc hóa” nói trên. Nhưng Chương trình này giờ đã đi nửa quãng đường của mình[11]. Vào năm 2020, Chương trình có thể tổng kết như thế nào với vấn đề “nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội”? 

Năm 2012, Đỗ Thiên Kính đưa ra dự đoán khá bi quan nghiêng nhiều về giả thuyết ít có khả năng thay đổi căn bản tháp phân tầng cho đến thời điểm 2020 (Đỗ Thiên Kính, 2012, trang 129-131). Tính toán của Đỗ Thiên Kính cho thấy, trong khoảng 20 năm (1992-2012), tỷ lệ nông dân trong cấu trúc xã hội-nghề nghiệp giảm trung bình 1%/năm (Đỗ Thiên Kính, 2015). 

Năm 2014, trong bài Rào cản đối với tầng lớp nông dân trong hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Đỗ Thiên Kính nhấn mạnh đến những rào cản lớn đối với nông dân trong cái cấu trúc xã hội đang tỏ ra ngày càng rắn chắc hơn và kém mở hơn. Ông viết: “Tầng lớp trung lưu nhỏ bé như là cái nút thắt đã kìm hãm sự di động đi lên của tầng lớp nông dân ở Việt Nam hiện nay. Đó chính là cản trở căn bản đối với người nông dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầng lớp nông dân đang ở trong trạng thái khép kín nhiều hơn những tầng lớp xã hội khác. Tức là, sự di động ra khỏi tầng lớp của họ là chậm nhất và ngày càng khó khăn, mặc dù mong muốn của họ là thoát khỏi nghề nông” (Đỗ Thiên Kính, 2014, trang 9).

Quá trình này đang được phản ánh đầy kịch tính trong nghiên cứu khoa học xã hội, văn học nghệ thuật, báo chí và truyền thông xã hội.

Cũng trong cuốn sách trích dẫn ở trên, tôi nêu luận điểm về mối quan hệ quan trọng giữa “cấu trúc xã hội” và “cam kết chính trị”.[12] Trên cơ sở này, nêu nhận xét: “Lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào hệ thống kinh tế-xã hội ngày càng trở nên khác biệt và xung đột nhau, sự bất bình đẳng tăng lên và ngày càng trở nên khó đảo ngược, nếu không có những cam kết chính trị đủ mạnh” (Bùi Thế Cường, 2010, trang 143). Từ đó, nêu khuyến nghị: “sớm hoạch định một chiến lược nhằm điều chỉnh mạnh mẽ kết cấu xã hội hiện nay. Muốn thế, như kinh nghiệm và nghiên cứu quốc tế đã chỉ rõ, điều kiện trước tiên là có một cam kết chính trị thực sự ở cấp cao, kết hợp với việc triển khai một hệ thống công cụ chính sách kinh tế và chính sách xã hội đồng bộ” (Bùi Thế Cường, 2010, trang 147).

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 là một thể hiện của cam kết chính trị đối với biến đổi xã hội nông thôn toàn diện, trong đó có biến đổi cấu trúc phân tầng xã hội thông qua những giải pháp nâng cao điều kiện sống và vị thế xã hội của nông dân. Nhưng nhiều số liệu và nghiên cứu cho đến nay hàm ý rằng mục tiêu phát triển cơ bản đầy tham vọng từng đặt ra cho cột mốc 2020 sẽ khó có thể đạt được. Trong những nghiên cứu về vấn đề này, xin trích lại lập luận của Đỗ Thiên Kính năm 2012: “… khi xem xét dưới góc nhìn các thành phần của cấu trúc xã hội thì nước ta khó có thể đạt được mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Bởi vì, khi trở thành một nước công nghiệp thì các tầng lớp đặc trưng cho xã hội hiện đại phải thể hiện rõ và chiếm tỉ lệ đông đảo, còn các tầng lớp của xã hội truyền thống (đặc biệt là nông dân) chỉ còn tỉ lệ nhỏ bé” (Đỗ Thiên Kính, 2012, trang 129-130). Và: “… khi xem xét một cách rất cơ bản dưới góc nhìn bản chất về cấu trúc xã hội Việt Nam thì nước ta khó có thể đạt được mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Bởi vì, hệ thống phân tầng xã hội của một nước công nghiệp là phải có hình dạng ‘Quả trám’” (Đỗ Thiên Kính, 2012, trang 131).

Còn thiếu số liệu cập nhật gần đây để có thể phân tích tình hình mới nhất hiện nay. Mặc dù vậy, quan sát bối cảnh chính trị và chính sách ở Việt Nam hiện nay khiến tôi nghiêng theo dự đoán rằng đến thời điểm 2020 (và xa hơn trong 10 năm tới) điều kiện sống của một bộ phận nông dân lao động và nông thôn Việt Nam sẽ tiếp tục có những cải thiện nhất định, nhưng “vị thế của nông dân lao động trong cấu trúc phân tầng xã hội” sẽ ít thay đổi.

Tuy nhiên, triết học và khoa học xã hội về hành động xã hội cũng gợi ý rằng nỗ lực và hiệu lực của hành động chính trị và chính sách trong thực tiễn có thể bác bỏ những tiên đoán trước đó về xu thế diễn biến xã hội cho dù chúng có căn cứ khoa học (do dựa trên phân tích thực chứng về hiện trạng).[13] Vì thực tế lịch sử và sự khái quát của lý thuyết hành động xã hội cho thấy, ở cấp độ vi mô lẫn vĩ mô, con người có khả năng tạo ra bước ngoặt hoặc đảo ngược những cái được xem là tất định, không thể tránh khỏi hoặc không thể thay đổi. Vấn đề quy lại là cam kết chính trị đủ mạnh mẽ và hành động chính trị đủ kiên quyết và thông minh.[14]
Bùi Thế Cường
Giáo sư Nghiên cứu viên cao cấp Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ; Giáo sư thỉnh giảng Universiti Brunei Darussalam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ban Chỉ đạo trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. 2015. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 (Tài liệu phục vụ cuộc họp tổng kết năm 2014 với các địa phương). Số 03/BC-BCĐTW-VPĐP. Ngày 20/1/2015.

Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Thủ tướng chú trì Hội nghị tổng kết Chương trình xây dựng nông thôn mới. Ngày 22/1/2015.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 Cổng Thông tin điện tử. 2015. Tài liệu Hội nghị trực tuyến toàn quốc Chương trình nông thôn mới (20/01/ 2015). Ngày 20/1/2015.

Bùi Thế Cường. 2010. Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.

Bùi Thế Cường. 2012. Điều tra cơ bản về cơ cấu xã hội, văn hóa và phúc lợi con người ở tỉnh Vĩnh Long. Báo cáo khoa học Đề tài Khoa học xã hội cấp tỉnh. Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Long và Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.

Bùi Thế Cường và Lê Thanh Sang. 2010. Một số vấn đề về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội ở Tây Nam Bộ: Kết quả từ cuộc khảo sát định lượng năm 2008. Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM). Số 3(139). Trang 35-47.

Đỗ Thiên Kính. 2012. Hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay (Qua những cuộc điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002-2004-2006-2008). Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.
 
Đỗ Thiên Kính. 2014. Rào cản đối với tầng lớp nông dân trong hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Xã hội học. Số 2(126)/2014. Trang 4-14.

Đỗ Thiên Kính. 2015. Xu hướng biến đổi cấu trúc các tầng lớp xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong thời kỳ đổi mới. Bài viết trong Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Chuyển dịch cơ cấu xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020”. Mã số KX.02.20/11-15. (Sắp xuất bản).

Kerbo, Harold. 2011. Social Stratification and Inequality. Class Conflict in Historical, Comparative, and Global Perspective. 8th Edition. McGrow-Hill Higher Education.

Lê Thanh Sang. 2010. Nghiên cứu phân tầng xã hội: Từ lý thuyết đến đo lường thực nghiệm. Trong: Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM). Số 2(138). Trang 31-40. 

Lê Thanh Sang. 2011. Cơ cấu xã hội, văn hóa và phúc lợi xã hội vùng Tây Nam Bộ. Báo cáo khoa học Đề tài cấp Bộ. Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.

Lục Học Nghệ (Chủ biên). 2004. Báo cáo nghiên cứu giai tầng xã hội Trung Quốc đương đại. Hà Nội: Viện nghiên cứu Trung Quốc. Bản dịch tiếng Việt.

Phương Nguyên. 2015. Hợp nhất cơ quan đảng, chính quyền: Chúng tôi từng tranh luận nảy lửa. VietnamNet. 16/3/2015. Phỏng vấn bà Đỗ Thị Hoàng, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Quảng Ninh.
Tổng cục Thống kê. 2014. Báo cáo Điều tra lao động việc làm Quý 4 năm 2014. Hà Nội. 

Trần Đan Tâm. 2010. Chọn mẫu cho 3 cuộc khảo sát “Cơ cấu xã hội, văn hóa và phúc lợi xã hội” tại vùng Nam Bộ. Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM). Số 7(143). Trang 83-91.

Trần Hữu Quang. 2009. Phúc lợi xã hội trên thế giới: Quan niệm và phân loại. Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM). Số 4(128)/2009. Trang 12-31.

VOV.VN Đài Tiếng nói Việt Nam. 2015. Số người Việt siêu giàu tăng nhanh nhất thế giới. Ngày 14/3/2015.


PHỤ LỤC

Bảng 1. Phân bố phần trăm hộ gia đình theo nhóm xã hội-nghề nghiệp và tầng xã hội theo đô thị-nông thôn ở vùng Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM, 2010




TT

Nhóm xã hội-nghề nghiệp và tầng xã hội
Đô thị
Nông thôn
Chung
Đông Nam Bộ hẹp
TP
HCM
Đông Nam Bộ hẹp
TP
HCM
Đông Nam Bộ hẹp
TP
HCM
A
Nhóm xã hội-nghề nghiệp






1
Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp trong khu vực Đảng, Nhà nước
5,2
2,6
1,4
3,1
2,5
2,7
2
Quản lý công ty trong khu vực tư nhân
0,0
4,0
0,0
1,3
3,3
3
Chuyên viên kỹ thuật bậc trung, bậc cao
7,6
11,0
2,1
1,9
3,7
8,8
4
Chủ cơ sở kinh doanh tư nhân phi nông nghiệp
6,4
20,0
1,6
9,4
3,0
17,4
5
Nông dân lớp trên
0,8
0,0
14,4
0,0
10,5
-
6
Công nhân, thợ thủ công lành nghề
18,3
16,6
10,0
25,0
12,4
18,6
7
Nhân viên thương mại dịch vụ
16,3
36,5
9,3
29,4
11,3
34,8
8
Nông dân lớp giữa
8,0
0,0
26,2
0,0
20,9
-
9
Nông dân lớp dưới
12,7
0,8
19,6
14,4
17,6
4,1
10
Lao động giản đơn
24,7
8,6
15,4
15,6
18,1
10,3
B
Tầng xã hội






1
Trên (A1+A2+A3+A4+A5)
20,0
38,6
19,5
15,7
19,7
32,2
2
Giữa (A6+A7+A8)
42,6
53,1
45,5
54,4
44,6
53,4
3
Thấp (A9+A10)
37,4
9,4
35,0
30,0
35,7
14,4

Tổng
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

N (hộ gia đình)
251
501
623
160
874
661

Nguồn: Bộ số liệu của Chương trình nghiên cứu cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản của sự phát triển bền vững vùng Nam Bộ giai đoạn 2011-2020 thực hiện năm 2009-2010 do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tài trợ (Chủ nhiệm Chương trình: Bùi Thế Cường). Bộ số liệu của Đề tài nghiên cứu Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi của cư dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thực hiện năm 2009-2010 do Sở Khoa học và công nghệ TPHCM tài trợ (Chủ nhiệm Đề tài: Bùi Thế Cường). Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.

Bảng 2. Thu nhập đầu người năm theo nhóm xã hội-nghề nghiệp, tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân thu nhập ở vùng Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM, 2010





TT

Nhóm xã hội-nghề nghiệp,
tầng xã hội và
nhóm ngũ vị phân thu nhập
Thu nhập đầu người năm (1.000 VN Đồng)
So với nhóm thu nhập thấp nhất (Nhóm thu nhập thấp nhất = 1,0)
Đông Nam Bộ hẹp
TPHCM
Đông Nam Bộ hẹp
TPHCM
A
Nhóm xã hội-nghề nghiệp




1
Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp trong khu vực Đảng, Nhà nước
21,9
32,7
1,8
2,3
2
Quản lý công ty trong khu vực tư nhân
-
77,3
-
5,3
3
Chuyên viên kỹ thuật bậc trung, bậc cao
23,0
38,8
1,9
2,7
4
Chủ cơ sở kinh doanh tư nhân phi nông nghiệp
29,7
40,1
2,4
2,8
5
Nông dân lớp trên
36,1
-
3,0
-
6
Công nhân, thợ thủ công lành nghề
18,1
21,9
1,5
1,5
7
Nhân viên thương mại dịch vụ
22,3
22,8
1,8
1,6
8
Nông dân lớp giữa
14,6
-
1,2
-
9
Nông dân lớp dưới
12,2
14,5
1,0
1,0
10
Lao động giản đơn
12,3
14,9
1,0
1,0

Trung bình
18,3
28,0
1,5
1,9

N (hộ gia đình)
874
661


B
Tầng xã hội




1
Trên (A1+A2+A3+A4+A5)
30,9
43,0
2,5
2,9
2
Giữa (A6+A7+A8)
16,0
22,4
1,3
1,5
3
Thấp (A9+A10)
12,3
14,8
1,0
1,0

Trung bình
18,3
28,0
1,5
1,9

N (hộ gia đình)
874
661


C
Nhóm ngũ vị phân thu nhập




1
Giàu
46,3
96,6
10.1
14,2
2
Khá giả
19,2
26,7
4,2
3,9
3
Trung bình
13,0
17,8
2,8
2,6
4
Cận nghèo
8,8
12,3
1,9
1,8
5
Nghèo
4,6
6,8
1,0
1,0

Trung bình
18,4
32,0
4,0
4,7

N (hộ gia đình)
1.080
1.080



Nguồn: Bộ số liệu của Chương trình nghiên cứu cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản của sự phát triển bền vững vùng Nam Bộ giai đoạn 2011-2020 thực hiện năm 2009-2010 do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tài trợ (Chủ nhiệm Chương trình: Bùi Thế Cường). Bộ số liệu của Đề tài nghiên cứu Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi của cư dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thực hiện năm 2009-2010 do Sở Khoa học và công nghệ TPHCM tài trợ (Chủ nhiệm Đề tài: Bùi Thế Cường). Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. Chú thích: 1, 00 US$ tương đương 21.000,00 VN Đồng (2010).

Bảng 3. Số năm đi học theo nhóm xã hội-nghề nghiệp, tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân thu nhập ở vùng Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM, 2010

TT
Nhóm xã hội-nghề nghiệp, tầng xã hội
và nhóm ngũ vị phân thu nhập
Đông Nam Bộ hẹp
TPHCM
A
Nhóm xã hội-nghề nghiệp


1
Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp trong khu vực Đảng, Nhà nước
10,14
13,83
2
Quản lý công ty trong khu vực tư nhân
-
14,95
3
Chuyên viên kỹ thuật bậc trung, bậc cao
14,00
15,05
4
Chủ cơ sở kinh doanh tư nhân phi nông nghiệp
10,08
9,14
5
Nông dân lớp trên
6,39
-
6
Công nhân, thợ thủ công lành nghề
8,02
8,33
7
Nhân viên thương mại dịch vụ
7,62
9,05
8
Nông dân lớp giữa
5,68
-
9
Nông dân lớp dưới
6,21
6,19
10
Lao động giản đơn
5,55
6,32

Trung bình
6,88
9,39

N (hộ gia đình)
872
659
B
Tầng xã hội


1
Trên (A1+A2+A3+A4+A5)
8,84
11,76
2
Giữa (A6+A7+A8)
6,65
8,80
3
Thấp (A9+A10)
5,55
6,28

Trung bình
6,88
9,39

N (hộ gia đình)
872
659
C
Nhóm ngũ vị phân thu nhập


1
Giàu
9,07
11,99
2
Khá giả
7,58
10,49
3
Trung bình
7,54
8,77
4
Cận nghèo
5,93
7,21
5
Nghèo
4,61
6,89

Trung bình
6,95
9,76

N (hộ gia đình)
1.078
1.077

Nguồn: Bộ số liệu của Chương trình nghiên cứu cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản của sự phát triển bền vững vùng Nam Bộ giai đoạn 2011-2020 thực hiện năm 2009-2010 do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tài trợ (Chủ nhiệm Chương trình: Bùi Thế Cường). Bộ số liệu của Đề tài nghiên cứu Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi của cư dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thực hiện năm 2009-2010 do Sở Khoa học và công nghệ TPHCM tài trợ (Chủ nhiệm Đề tài: Bùi Thế Cường). Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.

Bảng 4. Tỷ lệ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam theo nhóm xã hội-nghề nghiệp, tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân thu nhập ở vùng Đông Nam Bộ hẹp và TPHCM, 2010



TT


Nhóm xã hội-nghề nghiệp, tầng xã hội và nhóm ngũ vị phân thu nhập
% đảng viên
so với tổng số đảng viên trong mẫu khảo sát

% đảng viên trong mỗi nhóm xã hội
Đông Nam Bộ hẹp
TP
HCM
Đông Nam Bộ hẹp
TP
HCM
Tổng
A
Nhóm xã hội-nghề nghiệp





1
Lãnh đạo, quản lý Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan sự nghiệp trong khu vực Đảng, Nhà nước
27,3
19,4
40,9
38,9
100,0
2
Quản lý công ty trong khu vực tư nhân
-
22,2
-
36,4
100,0
3
Chuyên viên kỹ thuật bậc trung, bậc cao
27,3
27,8
28,1
17,2
100,0
4
Chủ cơ sở kinh doanh tư nhân phi nông nghiệp
6,1
2,8
7,7
0,9
100,0
5
Nông dân lớp trên
9,1
-
3,3
-
100,0
6
Công nhân, thợ thủ công lành nghề
3,0
8,3
0,9
2,4
100,0
7
Nhân viên thương mại dịch vụ
9,1
19,4
3,0
3,0
100,0
8
Nông dân lớp giữa
3,0
-
0,5
-
100,0
9
Nông dân lớp dưới
6,1
0,0
1,3
0,0
100,0
10
Lao động giản đơn
9,1
0,0
1,9
0,0
100,0

Tổng
100,0
100,0




n (đảng viên)
33
36
33
36


N (hộ gia đình)
874
661
874
661

B
Tầng xã hội





1
Trên (A1+A2+A3+A4+A5)
69,7
72,2
13,4
12,2
100,0
2
Giữa (A6+A7+A8)
21,2
27,8
1,3
2,8
100,0
3
Thấp (A9+A10)
9,1
0,0
1,9
0,0
100,0

Tổng
100,0
100,0




n (đảng viên)
33
36
33
36


N (hộ gia đình)
874
661
874
661

C
Nhóm ngũ vị phân thu nhập





1
Giàu
39,1
54,2
8,3
14,8
100,0
2
Khá giả
32,6
13,6
6,9
3,7
100,0
3
Trung bình
17,4
22,0
3,7
6,0
100.0
4
Cận nghèo
6,5
6,8
1,4
1,9
100,0
5
Nghèo
4,4
3,4
0,9
0,9
100,0

Tổng
100,0
100,0




n (đảng viên)
46
59
46
59


N (hộ gia đình)
1.069
1.080
1.069
1.080


Nguồn: Bộ số liệu của Chương trình nghiên cứu cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản của sự phát triển bền vững vùng Nam Bộ giai đoạn 2011-2020 thực hiện năm 2009-2010 do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tài trợ (Chủ nhiệm Chương trình: Bùi Thế Cường). Bộ số liệu của Đề tài nghiên cứu Cơ cấu xã hội, lối sống và phúc lợi của cư dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thực hiện năm 2009-2010 do Sở Khoa học và công nghệ TPHCM tài trợ (Chủ nhiệm Đề tài: Bùi Thế Cường). Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. Chú thích: Số lượng đảng viên trong mẫu nhỏ. Do đó, tỷ lệ phần trăm trong bảng này chỉ mang tính tham khảo.





[1] Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Chuyển dịch cơ cấu xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020”, Mã số KX.02.20/11-15. Đã in trong: Tạp chí Xã hội học. Số 2(130)/2015. Trang 20-31. Hà Nội: Viện Xã hội học Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Bản gốc và bản in trong Tạp chí có khác nhau một vài điểm nhỏ.

[2] Lần thứ nhất ở miền Bắc sau năm 1954 và lần thứ hai ở miền Nam sau năm 1975.

[3] Rất nhiều tác giả nói về hiện thực này như một cái gì đó “mới”, nhưng thực ra chỉ là trở lại một phiên bản “cũ”. Đây là một chủ đề nhận thức luận quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nhận thức học thuật và chính sách. Tuy nhiên, bài viết không bàn chủ đề này.

[4] Bài viết không bàn về việc nông dân lao động là một giai cấp, giai tầng, tầng lớp, hay nhóm xã hội. Vì vậy, ở đây tôi thường dùng “nhóm xã hội” hay “nhóm xã hội-nghề nghiệp” như là thuật ngữ làm việc tạm thời. Ngoài ra, tùy chỗ tôi cũng sử dụng bốn từ đó thay thế nhau.

[5] Cần lưu ý phạm trù “nông dân” trong phân tích của Đỗ Thiên Kính, ở đó ông không phân thành ba tiểu nhóm nông dân như cách phân tích của nhóm nghiên cứu Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.

[6] Theo Tổng cục Thống kê, trong cơ cấu lao động có việc làm ở vùng Đông Nam Bộ hẹp (không bao gồm TPHCM) theo khu vực kinh tế, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 30,9% (Tổng cục Thống kê, 2014, trang 7).

[7] Phương pháp cơ bản này tương đối phổ biến trong nghiên cứu phân tầng xã hội trên thế giới, mặc dù nhiều phiên bản khác nhau (Xem: Lê Thanh Sang, 2010; Đỗ Thiên Kính, 2012 và 2015; Harold Kerbo, 2011). Hai nguồn lực sau, Lục Học Nghệ gọi là nguồn lực văn hóa và nguồn lực tổ chức (2004). Lê Thanh Sang cũng sử dụng hai thuật ngữ đó để phân tích (Lê Thanh Sang, 2011). Trong bài viết này, tôi gọi hai nguồn lực đó là tri thức và quyền lực. Lập luận biến số “là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam” phản ánh nguồn lực quyền lực dựa trên Điều 4 Hiến pháp 2013, theo đó, “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

[8] Lưu ý, đây là nhận định về thập niên 2000 (dựa trên số liệu đến 2008). Trong chừng mực tôi biết, chưa có phân tích về những quá trình từ sau 2010 đến nay.

[9] Tình hình này đã và đang đạt tới mức độ cao hơn nữa trong thập niên 2010. Chẳng hạn, xem: VOV.VN Đài Tiếng nói Việt Nam. 2015. Số người Việt siêu giàu tăng nhanh nhất thế giới. Ngày 14/3/2015.

[10] Giờ đây tôi muốn thêm một cụm từ nữa ở chỗ này: “đặc quyền đặc lợi (được thể chế hóa)”.

[11] Xem số liệu sơ kết 3 năm và tổng kết 2014 của Chương trình xây dựng nông thôn mới tại: Báo Điện tử Chính phủ, 2015; Ban Chỉ đạo trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, 2015; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 Cổng Thông tin điện tử, 2015.

[12] Luận điểm này dựa trên luận đề được cộng đồng xã hội học quốc tế chia sẻ: Cấu trúc xã hội, một mặt, là cái gì đó “tất yếu, khách quan”, nhưng mặt khác, hành động xã hội có thể biến đổi cấu trúc xã hội. Do đó, cấu trúc xã hội cũng là sản phẩm của con người, do con người tạo ra và chịu sự biến đổi bởi con người.

[13] Bản thân một tiên đoán hay một tư tưởng, khi đưa ra công luận, sẽ trở thành một phần của hiện thực, có tác dụng như một ‘lực lượng vật chất’. Do vậy, một tiên đoán (nhất là tiên đoán về tình trạng xấu hơn) khi được đưa ra có thể kích hoạt những phản ứng tích cực nhằm “sửa chữa, cải thiện tình hình”, khiến tiên đoán bị thực tiễn bác bỏ, mặc dù tiên đoán ấy hoàn toàn có căn cứ. Điều này cũng đúng với những “tiên đoán lạc quan”. Tiên đoán lạc quan có thể khiến các lực lượng xã hội, nhất là giới lãnh đạo, sinh chủ quan, tự mãn. Kết quả, làm suy yếu ý chí, dẫn đến tê liệt hành động. Hoặc ngược lại, tiên đoán lạc quan có thể khiến giới lãnh đạo hưng phấn thái quá, đi đến hành động phiêu lưu. Và kết cục y chang: tiên đoán bị thực tiễn bác bỏ, mặc dù tiên đoán ấy tuy lạc quan song hoàn toàn có căn cứ. Nếu là tín đồ của môn “túc cầu”, sử dụng lý luận trên, bạn có thể giải thích được khá nhiều trận bóng đá có kết quả bất ngờ khác với dự đoán của các chuyên gia. Đứng trước loại “định luật” như thế, huấn luyện viên và cầu thủ bóng đá đang được đào tạo ngày càng tốt hơn để đối phó, trong khi đó các nhà chính trị còn phải học hỏi nhiều.

[14] Dĩ nhiên, sử học và khoa học xã hội còn chỉ ra một vài yếu tố nữa, chẳng hạn bối cảnh và sự may mắn lịch sử.

Print Friendly and PDF