21.2.16

Nhà nước và tư bản trong trình bày của bộ Tư bản


Nhà nước và tư bản trong trình bày của bộ Tư bản[1]

Trần Hải Hạc
Nhận xét ngày nay trở thành khá thông thường là Marx không hề có một phân tích về nhà nước tương ứng với phân tích của ông về tư bản, là người ta không thể tìm thấy trong toàn bộ tác phẩm của Marx lý thuyết về nhà nước tư bản chủ nghĩa mà nhiều người gán cho ông.[2] Trong một dàn bài năm 1858, tác giả của bộ Tư bản có dự kiến một quyển thứ tư tựa đề là “Về nhà nước”, song ông không hề soạn thảo nó [1845-1895, tr. 86].[3] Marx cũng không đưa nội dung dự kiến cho quyển này vào Quyển I của bộ Tư bản: ông nói rõ điểm này trong một bức thư năm 1862 và nhấn mạnh rằng đề tài duy nhất mà nội dung Quyển I của bộ Tư bản không cho phép xử lý, chính là “mối tương quan giữa các hình thái khác nhau của nhà nước và các cấu trúc kinh tế khác nhau của xã hội” [1862-1874, tr. 30].
Trái lại, điều ít người làm là nhận xét hệ quả của sự thiếu vắng phân tích tương quan giữa tư bản và nhà nước trong nội dung của bộ Tư bản. Làm như là vấn đề này không mấy gì quan trọng hoặc không ảnh hưởng đến công trình lý thuyết hóa tư bản của Marx ở các cấp độ phân tích khác nhau, đó là: quan hệ hàng hóa và khái niệm về tiền tệ, quan hệ làm công và khái niệm về sức lao động hay quan hệ đất đai và khái niệm về địa tô tuyệt đối. Như người ta đều biết, đây là những phân tích và khái niệm đặc thù của Marx, là nền tảng từ đó ông tiến hành phê phán kinh tế chính trị học. Nhưng mặt khác, những cuộc thảo luận về cách đọc bộ Tư bản cho thấy các khái niệm này có phần bất định, hay chí ít là các phân tích đó có phần nào nhập nhằng, khiến lý thuyết của Marx có nguy cơ ngả theo kinh tế chính trị học mà chính ông phê phán.
Giả thuyết thứ nhất mà bài viết của chúng tôi khảo sát, trong phần I - Hình thái tư bản và nhà nước, là: sự bất định và nhập nhằng của các phạm trù tiền tệ và sức lao động trong trình bày của bộ Tư bản bắt nguồn từ chỗ Marx dường như không kể đến nhà nước khi ông khái niệm hóa quan hệ hàng hóa và quan hệ làm công.[4]
Karl Marx (1818-1883)
Hẳn là trước khi tiến hành phê phán kinh tế chính trị học, Marx đã dành nhiều văn bản các năm 1843-1846 để phân tích mối tương quan của nhà nước hiện đại với xã hội dân sự tư sản và, trên nền tảng đó, đã phê phán triết học chính trị của Hegel (Phê phán triết học pháp quyền của Hegel) và phái tân Hegel (Về vấn đề Do Thái, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức). Đây quả là những văn bản mang tính qui chiếu, nhưng được Marx soạn thảo trước khi ông nêu lên trong bản thảo của bộ Tư bản – và dưới một dạng còn chung chung cách đặt vấn đề nhà nước tư bản chủ nghĩa: ”Hình thái kinh tế đặc thù” của quan hệ bóc lột trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định “hình thái chính trị đặc thù” của quan hệ chủ quyền và phụ thuộc trong nhà nước tư bản chủ nghĩa, và hình thái nhà nước này “tác động trở lại một cách quyết định” trên hình thái tư bản [1864-1865, t. 3, tr.172].










Ngoài ra và song song với công trình về Tư bản, Marx đã công bố nhiều tập sách (Tuyên ngôn đảng cộng sản, Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850, Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte, Cuộc nội chiến ở Pháp 1871, Phê phán cương lĩnh Gotha) và bài báo (trên Neue Rheinische Zeitung, New York Daily Tribune) luận bàn về lịch sử chính trị đương đại, đặc biệt về những chế độ chính trị khác nhau mà giai cấp tư sản đã thiết lập ở châu Âu và châu Mỹ. Đây là những văn bản trong đó Marx nêu lên nhận xét của ông về nhiều hình thái của nhà nước tư bản chủ nghĩa, trong khi tính chất của nhà nước này chưa được ông lý thuyết hóa một cách có hệ thống. Từ đó mà có nhận định tương đối phổ biến cho rằng các công trình của Marx không hề chứa đựng một lý luận thống nhất về nhà nước, mà chỉ trình bày nhiều lý luận khác nhau về mối tương quan của nhà nước với giai cấp tư sản, và lập trường của tác giả của bộ Tư bản thì dường như dao động giữa các lý luận đó.
Vượt lên tính tản mạn và tạp nham của những văn bản bàn về nhà nước tư sản trong các tác phẩm của Marx, bài viết của chúng tôi sẽ khảo sát, trong phần II - Hình thái nhà nước và tư bản, một giả thuyết thứ hai, theo đó: tư bản và nhà nước được khái niệm hóa cùng lúc, bởi không thể quan niệm tư bản mà không có nhà nước. Về mặt khái niệm, tư bản và nhà nước hình thành trong một mối quan hệ đối cực. Tương tự lý thuyết của Marx về tư bản, được ông trình bày theo các cấp độ trừu tượng hóa khác nhau –  đi từ quan hệ hàng hóa đến quan hệ làm công –, lý thuyết về nhà nước tư bản chủ nghĩa phát triển theo một trình tự cấp độ trừu tượng hóa tương ứng; và cũng như việc lý thuyết hóa tư bản đòi hỏi Marx tiến hành một phân tích về hình thái phân biệt hình thái giá trị với các hình thái của giá trị, việc lý thuyết hóa nhà nước tư bản chủ nghĩa cũng cần phân biệt giữa hình thái nhà nước – đặc thù của xã hội tư sản so với các xã hội tiền tư sản – với các hình thái của nhà nước – đặc trưng cho các chế độ chính trị khác nhau của xã hội tư sản.[5]

I

Hình thái tư bản và nhà nước

Marx không đơn giản định nghĩa tư bản như là quan hệ bóc lột qua đó một giai cấp xã hội chiếm hữu lao động thặng dư của một giai cấp khác. Tư bản, đối với ông, chỉ định một hình thái bóc lột đặc thù trong đó một giai cấp chiếm hữu lao động thặng dư của một giai cấp khác không thông qua những quan hệ phụ thuộc trực tiếp, như trong các hình thái bóc lột tiền tư bản chủ nghĩa, mà thông qua những quan hệ trao đổi hàng hóa hay, nói cách khác, dưới hình thái tiền tệ. Chính vì quan hệ hàng hóa, với khái niệm tiền tệ, thể hiện đặc trưng của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa mà, đối với tác giả của bộ Tư bản, nó là khởi điểm của việc phân tích tư bản như là hình thái đặc thù và là đối tượng nghiên cứu của Phần thứ nhất, Quyển I (“Hàng hóa và tiền tệ”). Trong trình bày của bộ Tư bản, quan hệ hàng hóa là cấp độ trừu tượng hóa thứ nhất của hình thái tư bản, một cấp độ không kể đến quan hệ làm công, quan hệ này chỉ “giả định có trước” (présupposé) chứ chưa có “đề ra” (posé) [1857-1858, t. 1, tr. 166].[6]

Tính đối cực giữa hàng hóa và tiền tệ

Lý thuyết của Marx về hàng hóa và tiền tệ là đối tượng tranh luận giữa hai cách diễn giải đối lập nhau: một bên là các cách đọc truyền thống cho rằng tiền tệ là hàng hóa, và suy diễn khái niệm tiền tệ như là sự phát triển tự thân của khái niệm hàng hóa; bên kia là các cách đọc phi chính thống theo đó tiền tệ không phải là hàng hóa mà tồn tại trước nó, theo nghĩa hàng hóa giả định tiền tệ có trước nó không chỉ về mặt lịch sử mà cả về mặt lô-gích.
Đọc chăm chú các văn bản về hình thái của giá trị – tức hình thái biểu hiện giá trị hay giá trị trao đổi – ở Chương 1 (“Hàng hóa”) và Chương 2 (“Bàn về trao đổi”) Quyển I của bộ Tư bản, cho phép vạch ra một lời giải khác, thay thế song đề nói trên[7]. Theo phân tích của Marx, hình thái của giá trị là một tương quan “đối cực” giữa hình thái tương đối của giá trị và hình thái ngang giá, là “hai mặt tương can, không tách rời nhau” đồng thời là “những thái cực đối lập, loại trừ lẫn nhau”, tức là “những cực của cùng một biểu hiện giá trị” [1867/1890a, tr. 115 và 159; 1872-1875, t.1, tr. 63]. Chính tính đối cực này giữa hai mặt vừa đối lập với nhau, vừa làm tiền đề cho nhau là quan hệ mà Marx xác lập giữa hàng hóa và tiền tệ. Mối quan hệ này dẫn đến một quá trình tuyển chọn - loại trừ: hình thái biểu hiện giá trị đòi hỏi thế giới hàng hóa phải “đề ra”, phải tuyển chọn trong nội bộ thế giới này một hàng hóa làm vật ngang giá. Bị “loại trừ” ra khỏi hàng ngũ các hàng hóa, tiền tệ trở thành hình thái đối cực của hàng hóa và “chỉ tồn tại trong sự đối lập đó” [1890, tr. 98-99].
David Ricardo (1772-1823)
Đối với trào lưu phê phán phi chính thống – do Carlo Benetti và Jean Cartelier [1980; 1998] khởi xưởng –, sự ra đời của tiền tệ, như nó được trình bày trong phân tích hình thái của giá trị, là một sự thất bại lô-gích: bởi nếu tiền tệ quả là hàng hóa thì không một hàng hóa nào có thể tồn tại.[8] Phê phán này chỉ đúng trong trường hợp tiền tệ được Marx sát nhập vào lý luận về giá trị như thể nó là hàng hóa.[9] Hay nói cách khác, phê phán phi chính thống là xác đáng nếu Marx, theo chân của Ricardo, xây dựng mối quan hệ hàng hóa – tiền tệ một cách đơn giản như là quan hệ hàng hóa – hàng hóa, tức là một sự đổi chác, trao đổi trực tiếp sản phẩm với nhau[10]. Nhưng đó không phải là lý luận của Marx bởi, trong phân tích hình thái của giá trị, ông định nghĩa tiền tệ “một cách đối lập” với hàng hóa, như là đối lập của hàng hóa [1867/1890a, tr. 85].
Điều không sai là trình bày của bộ Tư bản đôi khi gây lẫn lộn giữa vàng-hàng hóa và vàng-tiền tệ. Lô-gích của phân tích hình thái giá trị là phân biệt rõ rệt hai phạm trù này: vàng là hàng hóa nhưng không còn là hàng hóa khi trở thành tiền tệ, bởi tiền tệ được xác định như là cái đối lập với hàng hóa. Thật vậy, kể từ khi nó được tuyển chọn làm vật ngang giá, vàng từ bỏ cương vị hàng hóa của nó: vàng để qua một bên giá trị của nó, vì nó không có gì phải trị giá nữa; vàng cũng để qua một bên giá trị sử dụng riêng của nó như là kim loại, để đảm nhận chức năng xã hội là độc quyền đại biểu giá trị của hàng hóa (ngược lại, khi nó từ bỏ chức năng xã hội này, vàng trở vào hàng ngũ của hàng hóa với giá trị và giá trị sử dụng riêng của nó).[11]
Karl Polanyi (1886-1964)
Trong chừng mực vàng bị loại khỏi hình thái tương đối của giá trị, nó không có giá cả. Và trong chừng mực vàng được dùng làm vật biểu hiện giá trị của hàng hóa, nó không có giá trị phải biểu hiện: cái gọi là “giá trị của tiền tệ” thật ra là giá trị mà tiền tệ đại biểu. Vì nó không có giá cả lẫn giá trị, tiền tệ không thể là hàng hóa, cho dù là một hàng hóa ”ảo” theo nghĩa của Karl Polanyi[12]. Có thể nói rằng tiền tệ không phải là hàng hóa, cũng không phải là “phi hàng hóa”[13] mà là “phản hàng hóa” theo nghĩa tiền tệ là cực đối lập của thế giới hàng hóa [1867/1890a, tr. 81]. Tiền tệ và hàng hóa là hai phạm trù đối cực của quan hệ hàng hóa, cái này không thể tồn tại mà không có cái kia, cho nên đó là hai phạm trù có tính cùng thời về mặt lô-gích[14].

Nhà nước cấu thành quan hệ hàng hóa

Trào lưu phê phán phi chính thống cho thấy một sự bất định trong trình bày của Marx về các hình thái của giá trị. Đặc biệt là hình thái chung của giá trị (Hình thái III): nó hình thành không phải bằng cách đảo ngược hình thái phát triển của giá trị (Hình thái II), mà đòi hỏi một ”quá trình xã hội”, bởi – theo lời của Marx – chỉ có một “hành vi xã hội” mới có thể bầu chọn một hàng hóa nào đó vào cương vị vật ngang giá chung và đồng thời loại trừ những hàng hóa khác [1890, tr. 98-99]. Tuy nhiên, các chương 1 và 2 của Quyển I không hề nói rõ tính chất của quá trình xã hội này. Cho nên người đọc có thể lầm tưởng rằng tiền tệ là kết quả tự nhiên của quá trình phát triển trao đổi hàng hóa, trong khi quan hệ hàng hóa chỉ có thể là quan hệ tiền tệ, một quan hệ tức khắc có tính chất tiền tệ[15]: đó là điều Marx phê phán kinh tế chính trị học vì nó tìm cách suy diễn tiền tệ từ sự phát triển của quan hệ đổi chác, quan hệ trao đổi trực tiếp giữa những sản phẩm lao động với nhau[16].
Phải đến Chương 3 (“Tiền tệ hay lưu thông hàng hóa”) thì thuyết trình của Marx về những hình thái và chức năng của tiền tệ – đơn vị kế toán, phương tiện lưu thông, phương tiện dự trữ, phương tiện thanh toán – mới cho phép xác định rằng “hành vi xã hội”, qua đó một hàng hóa nắm lấy độc quyền đại biểu giá trị trong xã hội, chỉ có thể là hành vi của nhà nước với tư cách là đại diện của xã hội.[17] Chủ quyền chính trị cấu thành chủ quyền tiền tệ qua “việc qui định bản vị của tiền tệ” và “việc đúc tiền”, hai nhiệm vụ mà nhà nước đảm nhận [1890, tr. 113 và 141]: vàng đúc thành tiền “chỉ được công nhận là tiền tệ khi ở phía sau nó có quyền lực của nhà nước” [1859, tr. 193-194]. Theo hướng diễn giải này, chúng ta có thể triển khai một số nhận xét bổ sung.
Trước hết, trong chế độ tiền tệ bản vị vàng, việc ấn định tỷ giá chính thức của vàng là thủ tục qua đó một sản phẩm lao động tư nhân – vàng – được công nhận có tính xã hội bằng một quyết định của nhà nước, và từ đó được chấp nhận là vật ngang giá chung.[18] Cần làm rõ lập luận tĩnh lược của Marx khi ông nói đến lao động cụ thể sản xuất vật ngang giá chung: ví dụ, khi ông viết rằng lao động sản xuất vàng trở thành lao động mang tính “trực tiếp” xã hội, và biểu hiện “trực tiếp” trong một sản phẩm được xã hội công nhận và khả dĩ trao đổi với mọi hàng hóa [1867/1890a, tr. 85-87]. Từ “trực tiếp” ở đây có nghĩa: không qua trung gian của thị trường, không thông qua thủ tục trao đổi sản phẩm lao động. Thật vậy, lao động sản xuất ra vàng trở thành lao động xã hội theo quyết định của xã hội và nhà nước của nó: chính là thông qua thủ tục qui định bản vị của tiền tệ và đúc tiền mà vàng-hàng hóa trở thành vàng-tiền tệ, tức là sản phẩm mà khả năng trao đổi trực tiếp được thể chế hóa. Để nhấn mạnh thêm, có thể nói rằng qui trình tiền tệ hóa vàng không phải là một hành vi trao đổi: người mang vàng-kim loại đến ngân hàng nhà nước không phải bán vàng mà chuyển đổi nó ra vàng đúc thành tiền. Trong trường hp của tiền tín dụng thì đó là qui trình tiền tệ hóa những trái quyền tư nhân thông qua thủ tục chiết khấu của các ngân hàng thương mại và thủ tục tái chiết khấu ở cấp sau cùng của ngân hàng trung ương, “mấu chốt” của toàn bộ hệ thống tín dụng [1864-1865, t. 2, tr. 232].
Như vậy, không thể qui quan hệ hàng hóa vào mối tương quan trao đổi giữa các tác nhân tư nhân với nhau: mối tương quan này chỉ cấu thành một trong hai cực của quan hệ hàng hóa; cực thứ hai thành hình do mối tương quan giữa tác nhân tư nhân và nhà nước. Tính đối cực này lại phản tư vào trong chính tiền tệ với mối tương quan giữa tiền tệ nhà nước và tiền tệ tạo ra với tư cách tư nhân là tín dụng. Dùng phép ẩn dụ, Marx nói về mối tương quan giữa tiền tín dụng “theo đạo Tin lành” và tiền tệ nhà nước “theo đạo Công giáo”, trong đó “hệ thống tín dụng vẫn chưa thoát khỏi được cái cơ sở của hệ thống tiền tệ, cũng như đạo Tin lành vẫn chưa thoát khỏi được những nền tảng của đạo Công giáo” [1864-1865, t. 2, tr. 252]. Có thể nói rằng thế giới hàng hóa là một cấu trúc đối cực gồm: quan hệ chiều ngang và phi tập trung của các tác nhân trao đổi giữa họ với nhau; và quan hệ chiều dọc và tập trung của nhà nước với các tác nhân trao đổi, thể hiện qua chế độ tiền tệ và chính sách tín dụng. Theo nghĩa đó, không thể tư duy quan hệ hàng hóa nếu không có nhà nước. Do đó, người ta không thể không ngạc nhiên rằng: tuy đã vạch ra tính đối cực hàng hóa – tiền tệ, và hình thái phái sinh của nó là tính đối cực tín dụng – tiền tệ, tác giả bộ Tư bản lại không khái niệm hóa tính đối cực giữa tác nhân trao đổi với nhà nước cấu vốn thành quan hệ hàng hóa.
Tính đối cực của quan hệ hàng hóa – tiền tệ không chỉ buộc phía các hàng hóa phải thể hiện giá trị của chúng trong một vật ngang giá được thể chế hóa. Nó còn đòi phía tiền tệ phải có tính chính đáng để đại biểu giá trị của hàng hóa, tức sự tin tưởng từ các tác nhân trao đổi rằng định chế phát hành tiền tệ có năng lực đảm bảo sự ổn định của tiền tệ: tính chính đáng này, Marx gọi – nhưng không triển khai nó – là “tín nhiệm quốc gia” hay “tín nhiệm nhà nước” [1864-1865, t. 2, tr. 68 và 185]. Như vậy, tiền tệ chỉ một thực tại hai mặt và đối cực: một bên là quyền lực của chủ quyền chính trị nhờ đó nhà nước áp đặt tiền tệ đối với các tác nhân tư nhân; và một bên là sự tin tưởng của các tác nhân trao đổi tạo nên tính chính đáng của tiền tệ do nhà nước phát hành. Với ý nghĩa đó, tiền tệ, về cơ bản, có tính chất hai chiều, vừa có tính xã hội, vừa mang tính tư nhân, vừa có tính tập trung vừa mang tính phi tập trung, vừa có tính nhà nước, vừa mang tính hàng hóa.[19] Cũng có thể nói rằng tính nhập nhằng (ambiguïté) trong cách trình bày phạm trù tiền tệ của bộ Tư bản là sự biểu hiển của tính hai chiều (ambivalence) đó khi nó chưa được khái niệm hóa thật thỏa đáng.
Cách đọc bộ Tư bản đề xuất ở đây có những điểm tương đồng với cách đọc phi chính thống, nhưng khác biệt về một điểm cơ bản: đó là tính đối cực giữa tiền tệ và hàng hóa. Với quan niệm về tiền tệ duy danh, trào lưu phi chính thống loại bỏ mọi giải thích về tiền tệ xuất phát từ hàng hóa và lấy nhà nước làm nền tảng duy nhất cho tiền tệ. Trong quan điểm này, tiền tệ là một quan hệ xã hội tách rời khỏi hàng hóa, nhà nước là một thực thể nằm ở ngoài quan hệ hàng hóa. Với cách tiếp cận đó, không thể nào hiểu được rằng tiền tệ chính là cực khác của quan hệ hàng hóa, rằng nhà nước vừa gắn liền với xã hội hàng hóa, vừa đối lập với nó. Cách diễn giải phi chính thống như dựa vào sự ngụy biện: xuất phát từ nhận xét rằng tiền tệ là một vật thể được xã hội công nhận không thông qua thủ tục thị trường – một điều chính xác –, nó suy diễn rằng tiền tệ nhất thiết tồn tại trước hàng hóa – một điều không đúng. Vận dụng phép loại suy về nhà vua và thần dân mà Marx dùng để trình bày tính đối cực tiền tệ – hàng hóa, người ta có thể nói rằng: nhà vua không thể tồn tại mà không có thần dân, cũng như thần dân không thể tồn tại mà không có nhà vua [1890, tr. 65]. Tương tự như vậy, tiền tệ và hàng hóa làm tiền đề cho nhau: không cái nào tồn tại trước cái nào.[20]
Cách diễn giải truyền thống, với quan niệm về tiền tệ duy kim loại (métallisme), cũng dựa vào một sự ngụy biện, theo đó: vàng-tiền tệ nhất thiết phải có giá trị và nó trùng hp với giá trị của vàng-kim loại, nếu không thì tiền tệ không thể có quan hệ với hàng hóa.[21] Trong cách tiếp cận này, không thể hiểu rằng quan hệ đối cực giữa tiền tệ và hàng hóa có nghĩa là tiền tệ không thể có giá trị. Nếu nó hoàn chỉnh thì lý thuyết tiền tệ của Marx phải đề ra một khái niệm phi duy kim loại (non métalliste) về tiền tệ kim loại. Thật vậy, trong chế độ bản vị vàng, không phải vàng-kim loại mà vàng đúc thành tiền mới là tiền tệ. Nói cách khác, điều xác định chế độ tiền tệ kim loại không phải là thể nền vật chất của nó, mà là thủ tục đúc tiền chuyển đổi kim loại thành đồng tiền lưu thông hợp pháp.[22] Nói khái quát hơn, điều phân biệt những chế độ tiền tệ khác nhau không phải là sự phi vật chất hóa tiền tệ – như người ta thường nói – mà là phương thức đúc tiền đặc thù của mỗi chế độ, tức là một quan hệ xã hội: mối quan hệ nối kết những tác nhân trao đổi với định chế nhà nước phát hành tiền tệ.[23] 

Sức lao động, một hàng hóa giả tưởng

Với sự chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản trình bày trong Phần thứ hai Quyển I của bộ Tư bản, Marx đề cập cấp độ thứ hai trong phân tích hình thái tư bản, cấp độ của “tư bản nói chung”, tức là tư bản như là quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê hay quan hệ làm công – không kể đến quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau.[24] Bước phát triển lý thuyết này đã được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, vấn đề tranh luận là mối tương quan giữa quan hệ làm công với quan hệ hàng hóa có trước nó trong trình tự của bộ Tư bản. Một bên là những cách đọc truyền thống cho rằng quan hệ làm công là sự khái quát hóa quan hệ hàng hóa: họ quan niệm sức lao động là hàng hóa và xác định giá trị của nó như là giá trị của một rổ hàng hóa. Ngược lại, những cách đọc phi chính thống phê phán lập luận qui quan hệ làm công vào quan hệ hàng hóa: họ phủ nhận sức lao động là hàng hóa và xác lập quan hệ làm công như là một quan hệ phụ thuộc có tính chất chính trị.
Trước hết, có thể nhận xét rằng cách đọc truyền thống gạt qua một bên tất cả các chỉ dẫn của Marx về những gì phân biệt sức lao động với hàng hóa thực sự.[25] Chẳng hạn, rằng việc tái sản xuất sức lao động tiêu hao hàng hóa, nhưng không sản xuất ra hàng hóa. Rằng, khác với hàng hóa, sức lao động không phải là sản phẩm của một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, việc tái sản xuất nó không tạo ra giá trị thặng dư mà người lao động phải chiếm hữu với tư cách là chủ sức lao động.[26] Nói một cách khái quát hơn, việc tái sản xuất sức lao động không hề tạo ra một giá trị mới cộng thêm vào giá trị của các hàng hóa do tư bản sản xuất ra. Vả chăng, Marx không hề nói rằng sức lao động là hàng hóa vì nó là kết quả của một quá trình sản xuất hàng hóa. Điều mà ông viết rất khác: “Sức lao động xuất hiện như hàng hóa trên thị trường chỉ trong chừng mực và chỉ vì người sở hữu nó mang nó ra bán như là hàng hóa” [1890, tr. 188]. Qua sự trao đổi với tiền tệ, sức lao động có một hình thái giá cả, tức là một giá trị trao đổi, mặc dù không hề có cái gọi là giá trị của sức lao động: đó là một thứ “giá cả không thể qui thành giá trị” [1864, tr. 284].
Cách đọc thay thế, được nêu lên ở đây, là sức lao động thuộc một phạm trù mà Marx đề ra ở Phần thứ nhất Quyển I của bộ Tư bản, song không đích danh áp dụng cho sức lao động: đó là những vật mà đứng về hình thức có thể có giá cả, nhưng không có giá trị”. Đó là phạm trù về những vật mà, ”nói đúng ra, không phải là hàng hóa”, như đất đai, song được người sở hữu nó mang ra đổi lấy tiền, và qua giá cả mà người ta định cho nó, có được “hình thái hàng hóa”. Nói cách khác, sức lao động không phải là hàng hóa, nó chỉ có “hình thái hàng hóa” [1890, tr. 116]. Tuy nhiên, cũng không thể nói rằng sức lao động là phi hàng hóa[27], bởi nó có cùng chung với các hàng hóa “hình thái giá cả”. Chỉ có điều là, trong trường hợp của sức lao động, giá cả hay giá trị trao đổi không phải là một hình thái biểu hiện giá trị, hình thái hiện tượng của giá trị, như Bruno Lautier và Raymond Tortajada có phân tích.[28] Marx gọi đó là một hình thái “giả tưởng” [1864, tr. 284]: có thể nói rằng sức lao động là một hàng hóa giả tưởng hay hàng hóa ảo[29], một thứ giả hàng hóa. Nếu cách đọc này đích đáng thì một số mệnh đề trong bộ Tư bản cần được diễn đạt lại.
Điều mà Marx gọi là sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa không hề biến sức lao động thành một hàng hóa thực sự: nó chỉ khoác cho sức lao động “hình thái hàng hóa”. Thật thế, quan hệ trao đổi hàng hóa giữa người có sức lao động và người nắm đồng tiền mang một tính chất rất đặc biệt: người lao động mang bán sức lao động của mình chỉ vì họ không có hàng hóa để bán. Đây là một quan hệ giữa hai giai cấp xã hội: giai cấp của người nắm tiền tệ và do đó sở hữu toàn bộ hàng hóa; và giai cấp của người không có hàng hóa nên, để có được tiền, phải biến sức lao động của họ thành một giả hàng hóa. Nói cách khác, hình thái hàng hóa của sức lao động là phương cách gia nhập quan hệ hàng hóa của những người không có hàng hóa để bán.
Cụm từ “giá trị của sức lao động” mà Marx thường dùng phải được hiểu như là chỉ “giá trị trao đổi” hay “giá cả” của nó. Nói đến giá trị trao đổi của sức lao động trong khi nó không phải là giá trị, có nghĩa là hình thái giá cả “che giấu” ở đây “một quan hệ giá trị” khác hơn là quan hệ trao đổi hàng hóa [1890, tr. 116]. Trong văn bản Lao động làm thuê và tư bản, Marx nhận xét rằng, ”tóm lại, tiền công được qui định không chỉ bởi lượng hàng hóa mà [người lao động] nhận trong trao đổi”. Cả tiền lương danh nghĩa lẫn tiền lương thực tế đều không nói lên hết các mối quan hệ chứa đựng trong giá trị trao đổi của sức lao động: điều qui định “trước hết” giá trị trao đổi của sức lao động là tương quan của nó với giá trị thặng dư. Theo nghĩa đó, tiền công mang tính chất “tương đối” và nói lên sự chia cắt giá trị mới mà sức lao động tạo nên giữa hai giai cấp tư bản và lao động làm thuê [1849/1865, tr. 33]. Cho nên, giá trị trao đổi của sức lao động trỏ sự phân chia giá trị gia tăng dưới tác động của đấu tranh giai cấp – tức là tỷ suất giá trị thặng dư, tỷ suất bóc lột tư bản chủ nghĩa – trước khi nó chỉ giá trị trao đổi của rổ hàng tiêu dùng mà người làm công mua.[30]

Các chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động

Hệ quả là, khác với kinh tế chính trị học, Marx không quan niệm một cơ chế kinh tế xác định giá trị trao đổi của sức lao động: tiền lương chỉ có những “giới hạn” kinh tế khi nó giảm hay tăng, vượt những giới hạn này thì tư bản không thể tái sản xuất được nữa [1890, tr. 695]. Bên trong những giới hạn đó, “có chỗ cho một khoảng biến thiên bao la”, như văn bản Tiền công, giá cả và lợi nhuận nhấn mạnh. Trong những điều kiện đó, mức lương cũng như mức giá trị thặng dư “chỉ do cuộc đấu tranh không ngừng giữa tư bản và lao động quyết định”: cho nên “sự việc qui vào vấn đề tương quan lực lượng đấu tranh”. Điều này không có nghĩa là việc xác định giá trị trao đổi của sức lao động không hề có điểm qui chiếu nào cả: trong một nước nhất định, vào một thời điểm nhất định, vẫn có một chuẩn xã hội về tái sản xuất sức lao động mà sự hình thành mang tính lịch sử: đó là “mức sống truyền thống”, kết quả của sự phát triển sức sản xuất và của đấu tranh giai cấp trong quá khứ. Nhưng bao giờ tương quan lực lượng xã hội ở một thời điểm cũng quyết định mức giá trị trao đổi của sức lao động, tức là việc duy trì hay thay đổi mức sống của người lao động. [1849/1865, tr. 106-107] Người ta có thể nhận rõ điều này trong lý luận về giá trị thặng dư tương đối, chí ít nếu ta không diễn giải nó theo kiểu Ricardo, tức nếu ta không biến nó thành một mối tương quan máy móc và nghịch biến giữa giá trị trao đổi của sức lao động và năng suất lao động xã hội. Tht vậy, chỉ sự gia tăng năng suất lao động mà thôi thì không đủ để tạo nên giá trị thăng dư tương đối. Cùng lúc, phải có một tương quan lực lượng giữa người làm công và nhà tư bản cho phép giai cấp tư bản ngăn chặn tiền lương thực tế gia tăng tương đương với mức gia tăng năng suất lao động xã hội. Tỷ lệ theo đó sự gia tăng năng suất lao động chuyển thành giá tr thặng dư tương đối hay tăng lương thực tế tùy thuộc vào tình hình đấu tranh giai cấp: nó “tùy thuộc vào trọng lượng tương đối mà sức ép của tư bản một bên, và sự kháng cự của công nhân một bên, ném vào cán cân” [1890, tr. 585].[31]
Qui trình xác định các chuẩn xã hội về sử dụng sức lao động, tức thời gian và cường độ của ngày lao động, cũng mang tính chất tương tự. Marx nhắc rằng ngày lao động là “cái có thể qui định được, nhưng bản thân nó thì bất định”: các giới hạn thể chất và xã hội của ngày lao động đều “rất co dãn và để cho con người ta phạm vi tự do rộng nhất” [1890a, tr. 258-259]. Chính là “tính chất của sự trao đổi hàng hóa” giữa chủ tư bản và chủ sức lao động không cho phép ấn định một chuẩn mực cho ngày lao động và, do đó, cho giá trị thặng dư: nhà tư bản được quyền đòi hỏi mức tối đa của sức lao động mà họ đã mua, còn người làm công cũng có quyền hạn chế giá trị thặng dư ở mức tối thiểu. Trong xung đột “quyền đối lập với quyền” thì sức mạnh là quyết định [1890, tr. 261-262].
Khi Marx phân tích sự thâu gồm (subsomption) lao động vào tư bản[32] – và phân biệt sự thâu gồm hình thức trong sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối với sự thâu gồm thực sự trong sản xuất giá trị thăng dư tương đối [1890, tr. 571-572; 1862-1863, t.1, tr. 455-456; 1864, tr. 196] –, ông xác lập rằng, trong hành vi mua bán sức lao động, điều mà người lao động bán cho nhà tư bản không phải là một hàng hóa mà là sự phục tùng chủ tư bản của người làm công trong quá trình lao động; cũng như điều mà nhà tư bản mua của người lao động không phải là một hàng hóa mà là quyền chỉ huy người làm công trong suốt ngày lao động. Trong những điều kiện đó, quan hệ làm công chỉ có thể là một quan hệ xung đột và sự phục tùng chủ tư bản của người làm công chỉ thực hiện được thông qua những thỏa hiệp xã hội thừa nhận trạng thái nhất thời của tương quan lực lượng giữa hai giai cấp. Các thỏa hiệp này liên quan đến những chuẩn xã hội chi phối tỷ suất bóc lột tư bản chủ nghĩa: chuẩn về sử dụng sức lao động là thời gian và cường độ của ngày lao động, và chuẩn về tái sản xuất sức lao động là giá trị trao đổi của sức lao động.
Tỷ suất bóc lột này vừa là một tỷ suất “chung”, vừa là một tỷ suất “quốc gia” [1890, tr. 628]. Tính cách chung của nó thể hiện sự tồn tại của tư bản nói chung như là quan hệ giai cấp, và sự hình thành của các chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động như là đối tượng tranh chấp của đấu tranh giai cấp. Tính cách quốc gia của tỷ suất bóc lột có nghĩa là các chuẩn xã hội đó được xác lập ở trong khuôn khổ của nhà nước quốc gia, và những thỏa hiệp xã hội có tính chu kỳ trong đấu tranh giai cấp được thể chế hóa bởi luật lao động và qui ước lao động tập thể. Marx nhấn mạnh: “Lịch sử công nghiệp hiện đại dạy cho chúng ta rằng, chỉ với nỗ lực riêng, một công nhân không thể kìm hãm những đòi hỏi vô độ của tư bản, mà cuộc đấu tranh từ đầu phải mang hình thái đấu tranh giai cấp, khiến quyền lực nhà nước phải can thiệp” [1861-1863, tr. 189].

Nhà nước cấu thành quan hệ làm công

Nếu có gì nghch lý trong lý luận về quan hệ làm công và sức lao động của bộ Tư bản thì đó là chỗ đứng nó dành cho đấu tranh giai cấp và sự điều tiết của nhà nước. Trong một số văn bản trình bày giá trị trao đổi của sức lao động, đấu tranh giai cấp hầu như hoàn toàn vắng mặt – đó là trường hợp của những văn bản qui chiếu như “Mua và bán sức lao động” hay “Khái niệm giá trị thặng dư tương đối” ở Quyển I. Trong những văn bản khác, như Tiền công, giá cả và lợi nhuận, tuy có mặt nhưng đấu tranh giai cấp không có tính quyết định, tác động của nó chỉ là đưa tiền công trở lại mức của giá trị trao đổi sức lao động, sau khi tư bản đã hạ tiền công dưới mức này, hoặc sau khi người làm công đã đẩy tiền công vượt lên mức đó. Chí ít, đây là một cách đọc truyền thống đã khơi nguồn cho quan niệm duy kinh tế về quan hệ làm công và sức lao động. Tuy nhiên, với một quan niệm đặt đấu tranh giai cấp trong ngoặc đơn thì không thể xác định tỷ suất bóc lột tư bản chủ nghĩa được nữa, bởi giá trị thặng dư tương đối, như ta đã thấy ở trên, trở nên bất định.
Trong trình bày của bộ Tư bản, tính chất chính trị và thể chế của qui trình xác định ngày lao động và giá trị thặng dư tuyệt đối càng làm lộ ra nghịch lý của một qui trình xác định giá trị trao đổi sức lao động và giá trị thặng dư tương đối có vẻ như mang tính thuần túy kinh tế và hoàn toàn hàng hóa. Mặt khác, tác giả bộ Tư bản không mấy rõ ràng khi nói về vai trò của nhà nước trong sự xác định tiền công. Đề cập đến “luật về tiền công”, Marx hình như cho rằng sự điều tiết tiền công bởi nhà nước chỉ cần thiết cho tư bản trong giai đoạn tích lũy ban đầu mà thôi; còn khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xác lập thì yêu cầu duy trì tiền lương ở mức tư bản đòi hỏi được thực hiện qua “sự cưỡng bức câm lặng của những quan hệ kinh tế” [1890, tr. 829]. Thật ra, nếu đọc kỹ văn bản này của Quyển I thì nó trình bày những thay đổi về thể chế đã tác động lên chuẩn về giá trị trao đổi sức lao động ở Anh từ thế kỷ 15 cho đến thời điểm xuất bản của bộ Tư bản. Và thay vì cho thấy nhà nước không còn điều tiết chuẩn về tiền công trong phương thức sản xuất đặc thù tư bản chủ nghĩa, Marx nhấn mạnh vai trò của nhà nước liên tục can thiệp vào quan hệ làm công, như quyết định hủy bỏ lương hợp pháp tối đa, bãi bỏ luật cấm những hành động tập thể của công nhân hay, ngược lại, thừa nhận chính thức các công đoàn [1890, tr. 832-833].
Trong một văn bản khác viết về “luật công xưởng”, Marx nhận xét rằng việc đại công nghiệp sử dụng lao động phụ nữ và trẻ em, nhằm giảm tiền công và sản xuất giá trị thặng dư tương đối, đã khiến cho nhà nước Anh can thiệp vào chế độ công xưởng, đảo lộn quan hệ pháp lý giữa kẻ mua và người bán sức lao động “đến nỗi toàn bộ giao dịch giữa họ mất cả bộ mặt của một hợp đồng giữa những người tự do”. Khái quát hơn nữa, Marx nhận định: không có gì đặc trưng cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hơn là “sự cưỡng bức nhân danh nhà nước của những đạo luật” dùng để áp đặt các chuẩn về sử dụng và tái sản xuất sức lao động. [1890, tr. 446; 541] Cho nên, muốn chống lại tư bản, những người làm công “phải tập hợp thành một đội quân duy nhất và, với tinh cách là giai cấp, giành lấy một đạo luật nhà nước” – tức là người lao động phải dựng lên “một chướng ngại xã hội ngăn cản họ tự bán mình cho tư bản bằng một hợp đồng tự do” [1890, tr. 338]. Các chủ tư bản cũng thông qua nhà nước và pháp luật mà khẳng định lợi ích của họ với tính cách là giai cấp đối với các bộ phận tư bản có những lợi ích khác nhau.
Theo hướng lý giải này, nhà nước biểu lộ ra là một quan hệ xã hội cấu thành quan hệ làm công, mà cấu trúc gồm một tương quan hàng ngang của các giai cấp xã hội với nhau và một tương quan hàng dọc của các giai cấp với nhà nước, biểu hiện trong chế độ làm công và chính sách xã hội. Như vậy, không thể thu tóm quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong những xung đột và đấu tranh giữa chủ tư bản và người làm công: nó còn bao gồm nhà nước qua đó các giai cấp này thể chế hóa những thỏa hiệp của họ về các chuẩn sử dụng và tái sản xuất sức lao động. Nói cách khác, không thể quan niệm mối quan hệ làm công chỉ đơn giản là tương quan song phương người làm công – chủ tư bản mà không có mặt của nhà nước là tương quan nối kết hai giai cấp đối lập trong tương quan song phương. Theo nghĩa đó, không thể tư duy tư bản nếu không có nhà nước.
Điều này đi ngược lại một truyền thống mác-xít định nghĩa nhà nước và hoạt động chính trị nói chung như là kiến trúc thượng tầng, nằm ngoài quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Từ đó, đã thành hình quan niệm duy kinh tế về quan hệ làm công, và không có gì cơ bản phân biệt nó với kinh tế chính trị học mà Marx phê phán. Phản ứng lại chủ nghĩa duy kinh tế này, đã hình thành quan niệm duy chính trị về quan hệ làm công, loại bỏ những phân tích về hình thái hàng hóa của sức lao động và chỉ giữ lại phân tích về hình thái thể chế của nó.[33] Song, hai cách đọc Marx đối lập nhau này lại gặp nhau ở tính đơn phương của chúng, khiến cho cả hai chỉ có thể quan niệm mâu thuẫn giữa quan hệ hàng hóa và quan hệ làm công theo thế đôi ngả: đồng nhất hoặc loại trừ. Tuy nhiên, trong phương pháp luận phân tích hình thái của Marx, cần tránh cả cạm bẫy của sự đồng nhất đơn thuần, tức sự lẫn lộn mà không có tính phân biệt; lẫn cạm bẫy của sự loại trừ đơn thuần, tức sự đối lập mà không có tính bao hàm. Theo cách đặt vấn đề của Marx, quan hệ làm công và quan hệ hàng hóa phải được tư duy trong mâu thuẫn của chúng, tức vừa đối lập nhau, vừa thống nhất nhau: quan hệ hàng hóa và quan hệ làm công không tồn tại ngoài mâu thuẫn đó.

II

Hình thái nhà nước và tư bản

Khi xét tất cả các khía cạnh của nó, lý luận về quan hệ làm công của Marx để lộ ra một sự bất định hay nhập nhằng giống như lý luận về quan hệ hàng hóa trước đó: trình bày của bộ Tư bản, ít hay nhiều, có xu hướng nắm lấy cả hai mối quan hệ xã hội này như là những quan hệ hàng ngang và phi tập trung của các tác nhân trao đổi với nhau, mà không kể đến quan hệ hàng dọc và tập trung của các tác nhân này với nhà nước. Từ đó, có thể nghĩ rằng những khó khăn của Marx khi xây dựng các khái niệm về tiền tệ và về sức lao động, ít hay nhiều, gắn liền với những vấn đề mà ông gặp phải khi khái niệm hóa nhà nước tư bản chủ nghĩa. Vấn đề có liên quan trước tiên là lý luận về nhà nước hiện đại và tương quan của nó với xã hội dân sự tư sản, do Marx đề ra trong những tác phẩm triết học các năm 1843-1846, từ Phê phán triết học pháp quyền của Hegel cho đến Hệ tư tưởng Đức: có thể đối chiếu những khó khăn trình bày trong các tác phẩm này với khó khăn trình bày khái niệm tiền tệ và quan hệ hàng hóa trong bộ Tư bản. Vấn đề có liên quan sau đó là lý luận về nhà nước tư bản chủ nghĩa và tương quan của nó với các giai cấp xã hội, do Marx nêu ra trong những văn bản đi từ Hệ tư tưởng Đức đến các tác phẩm chính trị bàn về chủ nghĩa Bonaparte: có thể liên hệ những bất định trong cách lý giải các văn bản này với sự bất định của lý luận về quan hệ làm công và khái niệm sức lao động trong bộ Tư bản.

Tính đối cực giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự tư sản

Ludwig Feuerbach (1804-1872)
Mối quan hệ của nhà nước hiện đại với xã hội dân sự tư sản được Marx cấu trúc hóa tương tự như mối quan hệ của tiền tệ với hàng hóa. Tính đẳng cấu này có từ những văn bản của “Marx thời trẻ” các năm 1843-1844, khi ông còn vận dụng sơ đồ triết học của Feuerbach về sự tha hóa tôn giáo để phê phán song song tiền tệ [1844-1881, tr. 17-18; 28] và nhà nước hiện đại. Trong Phê phán triết học pháp quyền của Hegel, phân tích mối quan hệ giữa xã hội dân sự - lĩnh vực của các lợi ích riêng, và nhà nước - lĩnh vực của lợi ích chung, Marx vạch ra tính huyễn hoặc của học thuyết Hegel khi nó đảo ngược tương quan quyết định giữa hai vế này và lấy nhà nước hiện đại làm thành chân lý của xã hội dân sự tư sản.
Tuy nhiên, khi phê phán quan niệm duy tâm của Hegel và tiến hành lật đổ nó, Marx dường như bỏ mất điều làm nên tính chất hiện đại của học thuyết Hegel là sự phổ quát của nhà nước, vượt lên những lợi ích cá biệt, làm cho không thể qui nhà nước vào xã hội dân sự được – đó là điều đối lập Hegel với những lý luận về nhà nước căn cứ vào quyền tự nhiên và khế ước. Người ta có thể tìm thấy cách tiếp cận văn bản của Marx theo hướng này ở những nhà bình luận bộ Tư bản như Jacques Bidet, khi ông này cho rằng tác giả bộ Tư bản “bị mắc kẹt trong xã hội dân sự” vì quan niệm nhà nước như là biểu hiện của sở hữu tư, như là “nhà nước của xã hội dân sự”, đại biểu cho các lợi ích riêng[34]. Đó cũng là cách diễn giải của Louis Dumont và Pierre Rosanvallon khi họ cho rằng Marx đã không nắm bắt được “khía cạnh tổng thể” của nhà nước trong học thuyết Hegel, cho nên, khi lật ngược Hegel, Marx không khác nào “trở về với Smith”, tức là với một phương pháp luận cá thể về xã hội dân sự tư sản, thành hình từ những cá nhân tự chủ[35].
Thật ra, nếu xét toàn bộ các văn bản của Marx cùng thời kỳ, lập luận của ông phức tạp hơn nhiều, chứ không hề đơn giản như vậy: đặc biệt, trong Phê phán triết học pháp quyền của Hegel và trong Về vấn đề Do thái, Marx đưa ra hai luận điểm khác nhau. Một mặt, chỉ có sự tha hóa nhà nước mới làm cho người ta tưởng rằng nhà nước quyết định, chi phối xã hội dân sự, trong khi ngược lại chính xã hội dân sự sinh ra, tạo nên nhà nước: Marx phê phán ở đây việc Hegel đảo ngược các mối tương quan, “cái chi phối trở thành điều bị chi phối, cái quyết định thành điều được quyết định, cái tạo sinh trở thành cái sản phẩm” [1843a, tr. 40]. Mặt khác, nhà nước hiện đại và xã hội dân sự tư sản thành hình cùng lúc với nhau, cái này đối lập với cái kia, và không tồn tại nếu cái kia không có: theo Marx, “s hình thành của nhà nước chính trị và sự tan rã của xã hội dân sự thành những cá nhân độc lập (…) được thực hiện trong cùng một hành vi” [1843b, tr. 372]. Hai luận điểm này hẳn không ăn khớp với nhau, bởi nếu là cùng một hành vi khai sinh đồng thời xã hội dân sự tư sản và nhà nước hiện đại, thì không thể cho rằng xã hội dân sự tạo sinh nhà nước hoặc ngược lại. Marx nói đến “sự phân đôi” xã hội hiện đại thành một xã hội dân sự và một xã hội chính trị [1843b, tr. 358]. Hoặc: “mối tương quan thật” giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự là sự chia cách, “sự tách biệt của chúng” [1843a, tr. 129]. Nói rõ hơn, ông cho rằng chính cuộc cách mạng chính trị, mà Cách mạng Pháp 1789 là điển hình, đã tước hết tính cách chính trị của xã hội dân sự, và biểu hiện lợi ích chung của xã hội trong một nhà nước tách biệt ra khỏi xã hội dân sự. Cuộc cách mạng chính trị đã đồng thời giải phóng xã hội dân sự, cho nó một sự tồn tại tự chủ, và trong xã hội đó con người tư nhân có thể theo đuổi lợi ích riêng của mình mà thôi. Marx cho rằng nhà nước hiện đại hoàn thành khi con người cá nhân có hai cuộc sống, đời sống của con người tư nhân và đời sống của con người công dân. Do sự phân đôi này mà có sự phân biệt giữa một bên là các quyền con người theo nghĩa con người tư nhân, tức là những quyền tự do dân sự liên quan đến sở hữu tư; và một bên là các quyền công dân, tức là những quyền tự do dân chủ liên quan đến nhà nước.
Mặt khác, mâu thuẫn giữa lợi ích tư và lợi ích chung không chỉ chia cách xã hội dân sự và nhà nước hiện đại. Nó còn có mặt – như Marx nhấn mạnh – ngay trong nhà nước mà sự vận hành đòi hỏi một bộ máy nhà nước, một chế độ quan liêu có xu hướng lấy lợi ích của bản thân nó làm thành lợi ích chung mà nhà nước đại diện: “Lợi ích của nhà nước trở thành một mục đích tư đặc biệt bên cạnh các mục đích tư khác”. Theo nghĩa đó “chế độ quan liêu là nhà nước đã thực tế trở thành xã hội dân sự tư sản”. Chế độ quan liêu, theo Marx, là nhà nước “duy hình thức”. Cho nên trong nhà nước hiện đại, tất cả đều có “hai nghĩa”, một nghĩa thực sự và một nghĩa quan liêu. [1843a, tr. 91-93] Trong xã hội tư sản, không những có tính đối cực giữa xã hội dân sự và nhà nước hiện đại, mà nhà nước còn mang tính hai chiều.
Như vậy, các văn bản 1843-1844 không chỉ nêu vấn đề phê phán sự tha hóa nhà nước và lật ngược mối tương quan giữa nhà nước với xã hội dân sự mà Hegel xác lập. Chúng còn phân tích hình thái nhà nước như là mối quan hệ thống trị chính trị đặc thù của xã hội hiện đại. Marx nhấn mạnh điều phân biệt xã hội hiện đại với các xã hội thời trước, đặc biệt là xã hội phong kiến mà đặc trưng là “tính đồng nhất” giữa xã hội dân sự và xã hội chính trị [1843a, tr. 124]. “Xã hội thời trước có một tính chất chính trị trực tiếp, tức là những yếu tố cấu thành đời sống dân sự, như là sở hữu, gia đình hay phương thức lao động, được đưa lên thành yếu tố của nhà nước, dưới hình thái của lãnh địa, đẳng cấp và phường hội [1843b, tr. 370]”. Cho nên, “mỗi lĩnh vực tư đều có tính chính trị hay, nói cách khác, là một lĩnh vực chính trị”. Khái niệm về nhà nước thuần chính trị, tách khỏi xã hội dân sự, do đó, là một “sản phẩm hiện đại”, cũng như khái niệm về một xã hội dân sự thuần tư nhân: “Nhà nước với tư cách như thế, s trừu xuất đó, chỉ thuộc về thời hiện đại, bởi vì cuộc sống tư, sự trừu xuất này, chỉ thuộc về thời hiện đại” [1843a, tr. 71; 1841-1861, tr. 1001]. Tương t như vậy, khái niệm về con người vị kỷ, thành viên của xã hội dân sự cũng như khái niệm con người công dân, thành viên của nhà nước chính trị đều là những sự trừu xuất thuộc về thời kỳ hiện đại. Khác với những xã hội thời trước, hình thành từ những hệ thống đẳng cấp xã hội - chính trị có tôn ti thứ bậc, xã hội chính trị hiện đại thành hình với hệ thống bầu cử và đại biểu mang tính dân chủ: Chính là qua “quyền bầu cử cũng như quyền ứng cử không có hạn chế” mà nhà nước hiện đại khẳng định nó là cộng đồng của những công dân chính thức tự do và bình đẳng. Marx nói rằng phổ thông đầu phiếu là “mối tương quan trực tiếp, không chỉ trong tưởng tượng mà tồn tại thực”, của xã hội dân sự với nhà nước chính trị. Cho nên chế độ đại biểu dân chủ vừa biểu hiện sự tách biệt, chia cách giữa nhà nước chính trị và xã hội dân sự, vừa nói lên “sự thống nhất chỉ có thể là lưỡng thể của chúng”. [1843a, tr. 183-184; 1841-1861, tr. 1010]

Nhà nước hiện đại, bản chất giai cấp và hình thức dân chủ

Có thể cho rằng những luận điểm 1843-1844 của Marx không ăn khớp với nhau là do ông sử dụng, trong những văn bản thời trẻ, triết học về tha hóa của Feuerbach để phê phán Hegel. Hay nói cách khác, là do Marx còn vận dụng một cách đặt vấn đề xuất phát từ “bản chất con người” và “giả định trước một con người cá nhân trừu tượng, cô lập”, mà về sau Luận cương về Feuerbach của ông phê phán [1846, tr. 3]. Bởi, đến Hệ tư tưởng Đức năm 1846, Marx thiết lập cách đặt vấn đề mới và đặc thù của ông, là khởi đi từ các quan hệ xã hội về sản xuất và các giai cấp xã hội. Từ đó, Marx có thể trình bày lại các luận điểm thiếu mạch lạc trước đây thành một luận đề thống nhất: “Chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá biệt và lợi ích chung đã khiến cho lợi ích chung – với tư cách là nhà nước – mang một hình thái độc lập, tách biệt khỏi những lợi ích thực, cá thể hay tập thể, và lợi ích chung đó đồng thời đóng vai trò của một cộng đồng hão huyền (…); cũng từ đó mà mọi giai cấp mong muốn trở thành thống trị phải chiếm lấy trước tiên quyền lực chính trị để, đến lượt nó, biểu thị lợi ích của bản thân như là lợi ích phổ quát” [1846, tr. 31; 1841-1861, tr. 1064]. Luận đề này phác họa đặc tính kép của nhà nước tư sản. Một mặt, là biểu hiện của mâu thuẫn lợi ích riêng - lợi ích chung, nhà nước chỉ một hình thái xã hội tách biệt xã hội dân sự, khác với các lợi ích cá thể và tổng của chúng. Mặt khác, trong một xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước là hình thái qua đó những cá nhân thuộc giai cấp thống trị đưa ra lợi ích cá biệt của họ như là lợi ích chung, khiến lợi ích chung đó trở thành hão huyền.
Đặc tính thứ nhất nối kết Hệ tư tưởng Đức với những phân tích nhà nước hiện đại như là hình thái đặc thù trong Phê phán triết học pháp quyền của Hegel. Đặc tính thứ hai khơi mào cho những phân tích về bản chất giai cấp của nhà nước mà Marx triển khai trong các văn bản chính trị mà ông viết sau tác phẩm 1846, nhưng không dựa vào phân tích hình thái nhà nước hiện đại của các văn bản triết học 1843-1844. Theo nghĩa đó, Hệ tư tưởng Đức có một chỗ đứng bản lề, với những nhập nhằng của nó. Song, các văn bản chính trị viết sau đó đã áp đặt một cách tiếp cận Hệ tư tưởng Đức có xu hướng bỏ qua sự phân tích hình thái nhà nước hiện đại và chỉ giữ lại hướng lý giải một chiều về nhà nước như là công cụ của giai cấp thống trị. Như vậy, lợi ích chung là “hão huyền” bởi vì chỉ có những lợi ích cá biệt mới là thực. Tính độc lập của nhà nước đối với xã hội dân sự chỉ là một hình thức huyễn hoặc che đậy quan hệ phụ thuộc của nhà nước đối với giai cấp thống trị. Điều biến mất trong cách lý giải này chính là quan hệ tách biệt nhà nước chính trị và xã hội dân sự và, do đó, là khả năng phân tích hình thái nhà nước hiện đại như là điều kiện tồn tại của tư bản và của sự phân chia xã hội tư bản thành giai cấp.[36]
Jacques Bidet (1935-)
Có thể nhận xét rằng việc khái niệm hóa nhà nước hiện đại nêu lên những vấn đề cùng loại với vấn đế chúng ta đã gặp khi xem xét khái niệm tiền t. Bởi những sự nhập nhằng khi khái niệm hóa mối quan hệ giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự tư sản trong các văn bản triết học của Marx không thể không ảnh hưởng đến phân tích của ông về mối quan hệ giữa tiền tệ và hàng hóa trong trình bày của bộ Tư bản. Jacques Bidet có đề xuất một cách đọc vạch rõ vấn đề nhà nước trong Phần thứ nhất Quyển I. Nhà bình luận này phê phán cách diễn giải mác-xít truyền thống theo đó phạm trù nhà nước chỉ có mặt trong phân tích về tư bản, tức chỉ ở Phần thứ hai Quyển I, nơi nhà nước xuất hiện như là quan hệ thống trị của một giai cấp. Ông nhận xét chính xác rằng vấn đề nhà nước được nêu lên sớm hơn trong trình tự của bộ Tư bản, ngay từ quan hệ hàng hóa mà Marx không thể tư duy nếu không có nhà nước qui định tiền tệ và pháp luật.  Đây là nhà nước với tư cách là đại diện xã hội và tách biệt với các tác nhân tư, nhà nước như hiện thân của cái phổ quát đối diện với các lợi ích cá biệt. Nhưng, theo Bidet, việc Marx phê phán sự tha hóa về nhà nước khiến cho ông không thừa nhận quan niệm về nhà nước của Hegel, cho nên tác giả bộ Tư bản không thể vạch ra được “cái phổ quát cụ thể” (universel concret) trong việc phân tích quan hệ hàng hóa, khiến quan hệ này chỉ đơn giản là mối quan hệ giữa các tác nhân tư với nhau. Điều đó cũng giải thích vì sao lý thuyết mác-xít về nhà nước chỉ hình thành khi phân tích mối quan hệ giữa các giai cấp và như là nhà nước của tư bản, tức là một nhà nước không biểu hiện sự phổ quát mà chỉ đại biểu cho những lợi ích cá biệt.[37]
Tuy góp phần làm sáng tỏ vấn đề của nhà nước trong trình bày của Quyển I của bộ Tư bản, cách diễn giải của Bidet vấp phải hai nhận xét phê phán. Một mặt, Marx không hề lý thuyết hóa nhà nước cả trong Phần thứ nhất bàn về các phạm trù hàng hóa và tiền tệ lẫn trong các phần sau bàn về phạm trù tư bản: vả lại, sự tồn tại của một lý thuyết về nhà nước trong bộ Tư bản là điều đáng ngờ vực. Mặt khác, phân tích của Marx về hàng hóa và tiền tệ trong Phần thứ nhất Quyển I đưa đến cái phổ quát cụ thể là tiền tệ: đó chính là đối tượng của trình bày về hình thái của giá trị, bất luận những thiếu sót của nó. Từ những nhận xét này, có thể rút ra hai điều liên quan đến việc khái niệm hóa nhà nước hiện đại.
Khi khái niệm hóa tiền tệ trong bộ Tư bản, Marx xác lập hình thức biểu hiện tính trừu tượng của lao động xã hội, là hình thái giá trị. Cùng lúc, ông làm sáng tỏ đối tượng của việc khái niệm hóa nhà nước hiện đại là xác lập hình thức biểu hiện tính trừu tượng của con người xã hội, là hình thái công dân. Ở Phần thứ nhất Quyển I, định nghĩa về hàng hóa và tiền tệ còn mang tính hình thức, nó tương ứng với một cấp độ trừu tượng hóa vốn còn phải căn cứ vào việc phân tích tư bản xét như là quan hệ giai cấp. Tương tự như vậy, định nghĩa về xã hội dân sự và nhà nước hiện đại còn phải đặt trên cơ sở phân tích quan hệ thống trị của giai cấp tư sản.[38]
Marx không định nghĩa tư bản như là quan hệ bóc lột trong đó một giai cấp chiếm hữu sản phẩm thặng dư của một giai cấp khác, mà như là một quan hệ bóc lột đặc thù – bóc lột qua quan hệ hàng hóa –, như là sự chiếm hữu sản phẩm thặng dư dưới hình thái đặc thù, hình thái tiền tệ. Tương tự như vậy, Marx không đơn giản định nghĩa nhà nước hiện đại như là một nhà nước giai cấp, là sự thống trị chính trị của giai cấp thống trị: nó là một nhà nước giai cấp đặc thù – nhà nước công dân –, là sự thống trị chính trị dưới hình thái đặc thù, hình thái dân chủ. Lý thuyết về tư bản bắt đầu từ phân tích hình thái giá trị với sự tách đôi lao động xã hội thành lao động cụ thể và lao động trừu tượng, và việc tách biệt hàng hóa và tiền tệ. Cũng như vậy, một lý thuyết về nhà nước hiện đại phải khởi đi từ sự tách đôi con người xã hội thành cá nhân cụ thể (con người tư) và cá nhân trừu tượng (công dân), và việc tách biệt xã hội dân sự và xã hội chính trị, tức là phải đi từ sự phân tích “nhà nước đại biểu dân chủ”. Đó là chỉ dẫn của Marx khi ông phác họa dàn bài của đề án quyển sách về nhà nước năm 1845.[39]

Hình thái nhà nước và những hình thái của nhà nước

Jon Elster (1940-)
Bắt đầu từ Hệ tư tưởng Đức, người ta tìm thấy trong những văn bản của Marx hai loại phân tích về nhà nước mà nhiều nhà bình luận cho là tương phản. Theo Maurice Barbier, Marx có một lý thuyết “lai tạp” về nhà nước với, một mặt, là nhà nước “công cụ của giai cấp thống trị về mặt kinh tế” và, mặt khác, là nhà nước “độc lập với các giai cấp và đứng trên toàn thể xã hội”: hai quan niệm này, Marx “đặt kề nhau” mà không quan tâm dung hòa hay làm cho chúng ăn khớp trong một lý thuyết khái quát về nhà nước.[40] Đối với Jon Elster, đó là hai lý thuyết nối tiếp nhau: Marx đầu tiên tán thành quan niệm “công cụ” về nhà nước, nhưng từ bỏ nó vào khoảng năm 1850 để phân tích “tính độc lập của nhà nước” trên cơ sở của thế cân bằng giữa các giai cấp xã hội, và phân tích này phải được xem là “lý thuyết khái quát về nhà nước hiện đại của Marx”.[41] Chúng ta hãy xem xét những văn bản qui chiếu.
Từ Phê phán triết học pháp quyền của Hegel cho đến Hệ tư tưởng Đức, nhà nước hiện đại được Marx trình bày theo một mệnh đề kép nhằm xác định bản chất của nó và đặc trưng hình thái của nó. Bản chất của nhà nước hiện đại là một nhà nước giai cấp, đó là quan hệ xã hội qua đó giai cấp tư sản xác lập sự thống trị của nó. Hình thái của nhà nước hiện đại là một nhà nước của công dân tự do và bình đẳng, đó là hình thái dân chủ. Khi phân tích nhà nước, Marx không vận dụng lô-gích công cụ mà một lô-gích hình thái. Sự lý thuyết hóa nhà nước của ông chỉ trở thành “duy công cụ” khi người ta qui nó một cách đơn phương vào định nghĩa bản chất của nhà nước giai cấp, không kể đến hình thái đặc thù của nó là nhà nước công dân, không quan tâm đến hình thái dân chủ của nó.
Ắt không thể chỉ nhận xét rằng nhà nước hiện đại có nội dung giai cấp như thế này và hình thức dân chủ như thế kia, mà còn phải giải thích vì sao nội dung này mang hình thức đó. Marx lý giải điều này khi làm rõ những điều kiện xã hội trong đó xảy ra sự tách biệt giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự. Như chúng ta đã thấy ở trên, đó là sự giải thể của những xã hội mang tính chất cộng đồng mà quan hệ sản xuất có tính “trực tiếp” chính trị, ở đây quan hệ bóc lột đồng hóa với quan hệ thống trị chính trị. Chỉ khi nào quan hệ sở hữu được giải phóng khỏi những ràng buộc cộng đồng thì “nhà nước mới tồn tại riêng biệt bên cạnh xã hội dân sự và ở ngoài nó”. [1846, tr. 73] Cùng lúc, đó là sự tan rã của xã hội đẳng cấp đưa đến hình thành những con người cá nhân độc lập, chính thức tự do và bình đẳng, mà hình thái đại diện chính trị chỉ có thể là hình thức dân chủ. Như vậy, tính đại diện dân chủ “là một sản phẩm hoàn toàn đặc thù của xã hội tư sản hiện đại, và không thể tách nó ra khỏi xã hội này, cũng như không thể tách con người cá nhân đơn độc hiện đại ra khỏi xã hội đó”. [1846, tr. 192]
Mặt khác, để khẳng định sự thống trị của mình, giai cấp tư sản phải có khả năng biểu hiện lợi ích riêng của nó như là “lợi ích phổ quát” và biểu hiện tư tưởng của nó như là tư tưởng “duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ quát”. Tính chất phổ quát này tất nhiên là tưởng tượng, nhưng đó là điều kiện về hình thức của nhà nước hiện đại, theo nghĩa không có hình thức dân chủ thì nhà nước hiện đại không thể tồn tại và sự thống trị chính trị của giai cấp tư sản không thể thực hiện. Đó là điều mà Barbier không hiểu khi ông đối lập sự phụ thuộc của nhà nước hiện đại vào giai cấp thống trị và sự độc lập của nó đối với xã hội dân sự: đã là “nhà nước của một giai cấp cá biệt”, nhà nước hiện đại “không thể cho rằng nó là hiện thân của lợi ích chung của xã hội”.[42] Rõ ràng, có sự nhầm lẫn giữa hai vấn đề cũng là hai cấp độ phân tích nhà nước hiện đại: nội dung giai cấp của nó và hình thức đặc thù của nó.
Người ta còn tìm thấy ở Marx một loạt văn bản khác bàn về sự độc lập của nhà nước hiện đại đối với các giai cấp xã hội, đặc biệt đối với giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng Đức phân tích chế độ quân chủ chuyên chế của Phổ và, khái quát hơn, trường hợp của các nước chưa có giai cấp tư sản thống trị: “Sự độc lập của nhà nước chỉ tồn tại ngày hôm nay ở các nước trong đó (…) không có thành phần dân chúng nào có khả năng thống trị thành phần kia” [1846, tr. 74]. Sau đó, Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte Cuộc nội chiến ở Pháp 1871 mở rộng phân tích về sự độc lập của nhà nước đối với các giai cấp đến các chế độ theo chủ nghĩa Bonaparte ở Pháp và Phổ, và khái quát hơn đến các xã hội tư bản phát triển trong đó các giai cấp ở trong thế cân bằng: “Thực ra, đó là hình thái cai trị duy nhất có thể có trong thời kỳ giai cấp tư sản đã mất – nhưng giai cấp công nhân chưa có được – khả năng cai trị quốc gia”. [1871, tr. 62]. Tuy nhiên, không thể – như là Elster –  đối lập các văn bản về tính độc lập của nhà nước trong các chế độ theo chủ nghĩa Bonaparte này với các văn bản xác định nhà nước hiện đại như hình thái đặc thù của nhà nước giai cấp, bởi đó là hai cấp độ phân tích nhà nước hiện đại khác nhau. Những văn bản về chủ nghĩa Bonaparte không nói đến khái niệm chung của nhà nước hiện đại mà bàn về một hình thái đặc biệt về chế độ chính trị: các văn bản này không thuộc phạm vi phân tích hình thái nhà nước hiện đại như là quan hệ xã hội, mà thuộc phm vi phân tích những hình thái của nhà nước hiện đại như là hình thái hiện tượng.
Đó là điều mà nhiều nhà bình luận Cuộc nội chiến ở Pháp 1871 đã không nắm bắt được trong văn bản này mà họ thường trích dẫn như là minh họa cho quan niệm “duy công cụ” về nhà nước của Marx. Tác phẩm này trình bày những “chế độ”, những “hình thái cai trị” đã tiếp nối ở Pháp từ Đệ nhất đến Đệ nhị đế chế (quân chủ chính đáng, quân chủ hợp hiến, cộng hòa đại nghị). Nó cho thấy nhà nước tư sản có thể biểu hiện trong nhiều chế độ chính trị khác nhau, tùy theo tương quan lực lượng xã hội và sự tranh đua giữa những phe nhóm nắm quyền. Trong tình trạng cường độ đấu tranh giai cấp gia tăng, và đối mặt với nguy cơ giai cấp vô sản nổi dậy, giai cấp tư sản vận dụng chủ nghĩa Bonaparte như là “hình thái cuối cùng” của chế độ chính trị tư sản, trong đó nhà nước không còn chịu sự kiểm soát trực tiếp của giai cấp tư sản mà dường như là đặt ở ngoài và ở trên các giai cấp xã hội [1871, tr. 60-62]. Có thể nói rằng luận điểm về “sự độc lập của nhà nước”, cũng như luận điểm về nhà nước “duy công cụ”, lẫn lộn bản chất của nhà nước hiện đại với chế độ chính trị là hình thái biểu hiện của nó.
Cách diễn giải Marx mà Barbier đề ra cũng không phân biệt được trong lý luận của Marx hai cấp độ phân tích “tính độc lập của nhà nước” khác nhau: “sự độc lập của nhà nước đối với xã hội”, tức sự tách biệt giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự, là nét đặc trưng thuộc về khái niệm chung của nhà nước tư sản; và “sự độc lập của nhà nước đối với các giai cấp xã hội”, như trong chủ nghĩa Bonaparte, là một hình thái cá biệt về chế độ chính trị trong xã hội tư sản. Từ đó mà có ý kiến phê phán Marx khi thì lý giải tính độc lập của nhà nước như “một hiện tượng khái quát”, khi thì giải thích nó bởi “những điều kiện đặc biệt và nhất thời”.[43] Mới rõ là, khi đọc các văn bản chính trị của Marx, cần phân biệt nhà nước và chế độ chính trị. Hay nói cách khác, phải tránh lẫn lộn sự phân tích nhà nước hiện đại, như là hình thái xã hội, với sự phân tích những hình thái tồn tại của nhà nước là các chế độ chính trị – cũng như trong trình bày của bộ Tư bản, phải phân biệt việc phân tích giá trị như là hình thái xã hội, với việc phân tích giá trị trao đổi như là hình thái hiện tượng của giá trị, tức là giá cả với các hình thái chuyển hóa của nó.[44]
Những phân tích hình thái giá trị và nội dung giai cấp của nó, mà Marx triển khai từ Phần thứ hai Quyển I của bộ bộ Tư bản, giúp soi sáng hình thái dân chủ của nhà nước hiện đại và bản chất tư sản của nó. Cũng như hình thái giá trị che lấp quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, hình thái dân chủ che khuất quan hệ thống trị chính trị của giai cấp tư sản. Nói rằng các hình thái này là hão huyền không có nghĩa rằng chúng không có tính thiết yếu. Hình thức ở đây hiện thực như là nội dung, theo nghĩa dân chủ là hình thái tồn tại của nhà nước hiện đại. Từ đó có thể lý giải vì sao Marx, một mặt, cảnh báo người lao động về tính “hão huyền” của những cuộc đấu tranh thuần chính trị ở bên trong nhà nước tư sản [1846, tr. 36]; đồng thời ông khẳng định tầm quan trọng của “những đấu tranh vì hình thái của nhà nước” và kêu gọi thiết lập “hình thái về nhà nước tốt nhất (…), hình thái trong đó các mâu thuẫn xã hội không bị làm mờ nhạt đi, không bị sức mạnh ngăn chặn (…), hình thái trong đó các mâu thuẫn đi vào đấu tranh công khai và tìm ra giải pháp” [1848-1849, t. 3, tr. 184]. Vả chăng, Hệ tư tưởng Đức nhận xét rằng chính yêu sách dân chủ, tức việc khẳng định sự tự do và bình đẳng trên hình thức, là điều “thống nhất” những người lao động đối mặt với giai cấp tư sản và kết hợp họ thành giai cấp xã hội. [1846, tr. 320]
Đồng thời, Marx cũng nhận xét rằng phổ thông đầu phiếu thuộc phạm trù về dân chủ hình thức và, trong xã hội tư sản, nó đã biểu lộ như là “bộ máy hữu hiệu nhất trên thế giới để thiết lập một chế độ chuyên chế” [1859b]. Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte Cuộc nội chiến ở Pháp 1871 luôn nhắc nhở rằng chế độ Bonaparte đã được xác lập với “dấu thị thực của phổ thông đầu phiếu”. [1871, tr. 61] Điều này xác nhận rằng chế độ chuyên chế chính trị hoàn toàn có thể lồng vào hình thái dân chủ của nhà nước hiện đại.

Qui chế hai mặt của người lao động tự do

Lý luận về hình thái của Marx đưa đến định nghĩa tư bản như là một hình thái đặc thù về bóc lột, là quan hệ tước đoạt lao động thặng dư dưới hình thái giá trị, tức hình thái tiền tệ. Vấn đề cơ bản đặt ra cho lý thuyết về tư bản là vì sao sự tước đoạt lao động thặng dư này không hiện ra trực tiếp như nó là, mà cần biểu hiện dưới hình thái của một quan hệ hàng hóa. Lý luận về hình thái cũng đưa đến định nghĩa nhà nước tư bản chủ nghĩa như là một hình thái đặc thù về sự thống trị chính trị, là quan hệ chủ quyền và phụ thuộc mang hình thái công dân. Vấn đề cơ bản đặt ra cho lý thuyết về nhà nước tư bản chủ nghĩa là vì sao sự thống trị chính trị này không hiện ra trực tiếp như nó là, mà phải biểu hiện dưới hình thái nhà nước của công dân. Trong Quyển III của bộ Tư bản, Marx kết nối hai vấn đề nói trên: “Hình thái kinh tế đặc thù qua đó lao động thặng dư của người sản xuất trực tiếp bị tước đoạt, quyết định (…) hình thái chính trị trong đó quan hệ chủ quyền và phụ thuộc biểu hiện” [1864-1865, t.3, tr. 72]. Nói cách khác, vấn đề thứ nhì dẫn người đọc trở lại vấn đề thứ nhất mà câu trả lời nằm trong Quyển I: đó là sự tồn tại của sức lao động như là một phạm trù đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.[45]
Khái niệm về sức lao động xuất hiện trong trình bày của bộ Tư bản với sự hình thành nhân vật “người lao động tự do”, khác với nhân vật người nô lệ. Người lao động làm thuê có đặc tính tự do theo hai nghĩa khác nhau: một mặt, họ có quyền quyết định trên bản thân, cho nên là chủ sở hữu sức lao động của mình và, với tư cách đó, trong quan hệ làm công, họ là con người tự do và bình đẳng về pháp lý với người nắm đồng tiền; mặt khác, người lao động làm thuê bị tách ra khỏi những điều kiện lao động, nên không thể làm ra hàng hóa để bán và, để có được tiền tệ, phải chuyển hóa sức lao động của mình thành một giả hàng hóa. Đó là tính hai mặt xác định nội dung và hình thức của lao động làm thuê mà, trong Bản thảo 1857-1858, Marx còn gọi là “lao động tự do”. Hai mặt đối lập đó không tách rời nhau được, bởi sự cưỡng bức lao động làm thuê không hề bãi bỏ tính tự do và bình đẳng về hình thức của người làm công. Sự tự do và bình đẳng này nằm trong khuôn khổ của quan hệ trao đổi giữa sức lao động và tiền tệ: “Hệ thống tiền tệ thực ra là hệ thống của bình đẳng và tự do” [1857-1858, t. 1, tr. 188]. Marx nói rõ là tự do và bình đẳng của quan hệ hàng hóa “hoàn toàn đối lập với tự do và bình đẳng thời cổ đại mà cơ sở không phải là giá trị trao đổi đã phát triển; trái lại, chính sự phát triển của giá trị trao đổi này đã tống khứ tự do và bình đẳng của thời cổ đại”. Đó là vì nền tảng của phương thức sản xuất cổ đại không phải là lao động tự do mà là “lao động cưỡng bức”. [1857-1858, t. 1, tr. 185]
Tất nhiên, hành vi mua bán sức lao động chỉ mua bán một giả hàng hóa: người lao động cho thuê sức lao động của mình thực ra bán cho chủ tư bản sự phục tùng của cá nhân mình trong quá trình lao động, cho nên tính bình đẳng và tự do của quan hệ hàng hóa che khuất bản chất của quan hệ làm công là “bất bình đẳng và phi tự do”. [1857-1858, t. 1, tr. 189] Tuy vậy, người làm công vẫn hành xử “với tư cách là chủ thể”, “như một người độc lập” đối với chủ tư bản. [1857-1858, t. 1, tr. 403-404] Theo Marx, người ta thường quên rằng người làm công “được xác định chính thức là một con người, rằng ở ngoài hoạt động lao động [người làm công] còn là một cái gì đó vì mình”. Khi họ chi xài tiền lương, tức là trong quá trình tái sản xuất bản thân, người lao động làm thuê “có nhiều khả năng chọn lựa tùy ý và như vậy có được tự do hình thức”, đặc biệt khi người làm công “dự phần vào hoạt động văn hóa, là điều phân biệt họ với người nô lệ”. [1857-1858, t. 1, tr. 230; 228]. Từ đó mà người lao động làm thuê – như Marx nhấn mạnh –  “có thể có một hành động lịch sử khác hẳn” người nô lệ. [1844-1881, tr. 377]
Phân tích sự tách biệt xã hội dân sự với nhà nước hiện đại cho phép xác định tính hai mặt của khái niệm người lao động tự do: đó không chỉ là sự tự do và bình đẳng trong quan hệ hàng hóa của người làm công với tư cách là người bán sức lao động, mà còn là sự tự do và bình đẳng chính trị của người làm công với tư cách là công dân. Và bởi vì trong đấu tranh thuần kinh tế, tư bản bao giờ cũng “mạnh hơn”, quan hệ làm công đòi hỏi người lao động làm thuê phải hành động “từ bên ngoài”, tức là với tư cách là công dân, họ phải có “một hành động chính trị chung” lên nhà nước và các thiết chế của nó [1849-1865, tr. 108]. Những phân tích của bộ Tư bản cho thấy qui chế bán hàng của người lao động làm thuê tùy thuộc vào qui chế công dân của mình, và chỉ có cuộc đấu tranh nhằm mở rộng các quyền chính trị (quyền bỏ phiếu, quyền lập hội, quyền đình công …) mới cho phép hạn chế tính chuyên chế của tư bản trong quan hệ làm công (thời gian lao động hợp pháp, tiêu chuẩn vệ sinh và đào tạo, tiền công tối thiểu …). Khái quát hơn, thực hành quyền tự do hợp đồng đòi hỏi người làm công có những quyền tự do công dân, cho nên việc xác định những chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động bao giờ cũng dựa trên một tương quan đối cực giữa hợp đồng và luật pháp.
Chính vì cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động làm thuê được tiến hành thông qua hình thái dân chủ của nhà nước hiện đại, qua “tư cách công dân tích cực”, mà các quyền tự do và thiết chế chính trị hợp thành, với những chuẩn xã hội về sử dụng và tái sản xuất sức lao động, đối tượng của đấu tranh giai cấp. Do đó mà, ngược lại với những ý kiến cho rằng “những người vô sản thờ ơ với tư cách công dân”, Marx nhấn mạnh: “Các công nhân coi trọng tư cách công dân, tức tư cách công dân tích cực, cho nên ở những nơi công nhân có tư cách đó như tại Mỹ họ giương cao nó, và ở những nơi công nhân không có tư cách công dân đó thì họ muốn giành được nó” [1846, tr. 211].
Marx nắm bắt tính đặc thù của chủ nghĩa tư bản như là xã hội giai cấp qua hai đặc điểm của nó: một mặt, quan hệ bóc lột người lao động làm thuê mang hình thái hàng hóa và, mặt khác, quan hệ thống trị chính trị của giai cấp tư sản mang hình thái công dân. Song, nếu Marx gắn hai hình thái hàng hóa và công dân một cách hữu cơ, ông không rút ra hết hệ lụy của mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau giữa hai hình thái đó khi ông phân tích lao động làm thuê. Hệ quả là một khái niệm về tư bản trong đó các yếu tố hàng hóa và công dân xem ra như là thuần túy hình thức, tức như là một điều gì hời hợt, thậm chí mất dần. Đó là trường hợp của các phân tích quan hệ tư bản chủ nghĩa chỉ quan tâm nắm bắt nội dung mà bỏ qua hình thức của nó. Người lao động khi đó bị đồng nhất hóa với sức lao động của mình, và việc tái sản xuất sức lao động này bị đồng nhất hóa với tái sản xuất một rổ hàng hóa. Tương tự như tư liệu lao động, người lao động trở thành “sở hữu của tư bản”, và tái sản xuất sức lao động trở thành “một momen của sự tái sản xuất tư bản”. Cũng như người nô lệ, người làm công “bị trói buộc vô chủ của mình”, không phải là một nhà tư bản cá biệt mà là giai cấp tư bản. Do đó, người làm công thuộc về tư bản trước khi họ bán sức lao động cho một chủ tư bản nào đó, và chỉ có “ảo tính  pháp lý của hợp đồng” mới tạo ra “vẻ bề ngoài là họ độc lập”. [1872-1875, t. 3, tr. 16; 1890, tr. 644]
Đối với Marx, những văn bản phân tích tái sản xuất tư bản ở trên cho thấy rằng có sự đảo ngược nội dung tư bản trong hình thái hàng hóa, rằng quan hệ hàng hóa che khuất quan hệ giai cấp. Song không có nghĩa là nội dung xóa bỏ hình thức, là có thể nắm lấy quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa độc lập với hình thái hàng hóa của nó; cũng như điều đó không có nghĩa rằng có thể nắm bắt nhà nước tư sản độc lập với hình thái dân chủ của nó, rằng hình thái dân chủ này chỉ là một thứ ảo ảnh quang học. Lối đọc Marx một chiều này đánh mất tính đặc thù của người làm công so với người nô lệ hay người nông nô, tức là đặc tính người lao động tự do. Người ta quên rằng điều phân biệt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với các hình thái xã hội có trước nó là “người công nhân không thuộc về những điều kiện sản xuất khách quan nữa”, là “tư bản không chiếm hữu người lao động” [1864, tr. 77; 1857-1858, t. 1, tr. 436].  
Bởi vì người làm công vừa là chủ thể quyền dân sự và quyền chính trị, họ không chỉ tồn tại như là người sở hữu sức lao động. Bởi vì người làm công không chỉ có qui chế bán hàng mà còn có qui chế công dân, sức kháng cự của họ đối với giai cấp tư bản – và phần tự chủ của họ trong quan hệ làm công – không thể thủ tiêu được, bất luận thể thức thâu gồm lao động vào tư bản. Do đó mà hình thái nhà nước hiện đại có một nội dung kép. Một mặt, nó là một phạm trù sùng bái hóa, hình thái hão huyền của cái phổ quát, có hiệu ứng che lấp các quan hệ bất bình đẳng và sự chuyên chế của xã hội tư sản và, với ý nghĩa đó, nhà nước hiện đại tham gia vào quá trình tái sản xuất của tư bản. Nhưng mặt khác, bởi vì nội dung không bao giờ thâu gồm hình thức một cách hoàn toàn và mãi mãi, tự do và bình đẳng hình thức mà nhà nước hiện đại xác lập giữa các công dân cũng là cái qua đó người lao động tự do – dù chỉ là “tiềm tàng” [1857-1858, t. 1, tr. 439-440] – phủ định tư bản và vượt lên nhà nước giai cấp của nó.

Thư mục

Tác phẩm của Marx

(theo thứ tự của năm xuất bản văn bản gốc hoặc của năm viết bản thảo)
1841-1861: Œuvres III.  Philosophie, Gallimard, 1982 / Tác phẩm III. Triết học.
1843a: Critique du droit politique hégelien, Editions sociales, 1975 / Phê phán triết học pháp quyền của Hegel.
1843b: “A propos de la Question juive”, in Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982 / Về vấn đề Do Thái.
1844-1881: Œuvres II. Economie, Gallimard 1968 / Tác phẩm II. Kinh tế.
1845-1995: Lettres sur Le Capital (avec Friedrich Engels), Editions sociales, 1972 / Những lá thư viết về bộ Tư bản.
1846: L’idéologie allemande (avec Friedrich Engels), Editions sociales, 1976 / Hệ tư tưởng Đức.
1848: Manifeste du parti communiste (avec Friedrich Engels), Editions sociales, 1972 / Tuyên ngôn đảng cộng sản.
1848-1849: La Nouvelle Gazette Rhénane, vol. 3, Editions sociales, 1971 / Nhật báo Neue Rheinische Zeitung.
1849/1865: Travail salarié et capital suivi de Salaire, prix et profit, Editions sociales, 1969 / Lao đng làm thuê và tư bản Tiền lương, giá cả và lợi nhuận.
1852: Le 18 Brumaire de Louis Bonaparte, Editions sociales, 1969 / Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte.
1857-1858: Manuscrits de 1857-1858, Editions sociales, 1980 / Bản thảo 1857-1858.
1859a: Contribution à la critique de l’économie politique, Editions sociales, 1957 / Góp phần phê phán kinh tế chính trị học.
1859b: “Louis Napoleon and Italy”, New York Daily Tribune 29.8 1859 / Louis Napoleon và Ý.
1861-1863: Manuscrits de 1861-1863, Editions sociales, 1980 / Bản thảo 1861-1863.
1862-1863: Théories sur la plus-value, Editions sociales, 1974-1976 / Các học thuyết về giá trị thặng dư.
1862-1895: Lettres à Kugelmann, Editions sociales, 1971 / Những lá thư viết cho Kugelmann.
1864: Un chapitre inédit du Capital, UGE, 1971 / Một chương chưa xuất bản của bộ Tư bản.
1864-1865: Le Capital, Livre III, Editions sociales, 1965-1967 / Tư bản, Quyển III.
1867/1890a: “Le Chapitre 1 du Capital”, 1e et 4e éditions allemandes, in Paul-Dominique Dognin (ed), Les sentiers escarpés de Karl Marx, t. 1, Editions du Cerf, 1977 / Chương 1 của bộ Tư bản (các bản tiếng Đức xuất bản lần thứ nhất và lần thứ tư).
1870-1878: Le Capital, Livre II, Editions sociales, 1968 / Tư bản, Quyển II.
1871: La guerre civile en France 1871, Editions sociales 1971 / Cuộc nội chiến ở Pháp 1871.
1875: Le Capital, Livre I, édition française, Editions sociales, 1962 / Tư bản, Quyển I (phiên bản tiếng Pháp).
1890: Le Capital, Livre I, 4e édition allemande, Editions sociales, 1983 / Tư bản, Quyển I (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ tư).

Các tác phẩm khác

AGLIETTA, Michel và  André ORLEAN [1982], La violence de la monnaie, PUF.
AGLIETTA, Michel và André ORLEAN [2002], La monnaie entre violence et confiance, Odile Jacob.
ARTOUS, Antoine [1999], Marx, l’Etat et la politique, Syllepse.
BARBIER, Maurice [1992], La pensée politique de Karl Marx, L’Harmattan.
BENETTI, Carlo và Jean CARTELIER [1980], Marchands, salariat et capitalistes, Maspéro - PUG.
BENETTI, Carlo và Jean CARTELIER [1988] “Money, Form and Determination of Value”, in Riccardo BELLAFIORE (ed.), Marxian Economics. A Reappraisal, vol. 1, MacMillan.
BIDET, Jacques [1990], Théorie de la modernité suivi de Marx et le marché, PUF.
BOYER-XAMBEU, Marie-Thérèse, Ghislain DELEPLACE và Lucien GILLARD [1990], “Vers une topologie des régimes monétaires”, Cahiers d’économie politique n° 18.
BRUNHOFF, Suzanne de [1973], La monnaie chez Marx, Editions sociales.
BRUNHOFF, Suzanne de [1976], Etat et capital, Maspéro - PUG.
BRUNHOFF, Suzanne de [1979], Les rapports d’argent, Maspéro - PUG.
CARTELIER, Lysianne [1980], “Contribution à l’étude des rapports entre Etat et travail salarié”, Revue économique n° 1, janvier.
CASTORIADIS, Cornelius [1979], Capitalisme moderne et révolution, UGE.
DELEPLACE, Ghislain [1985], “Sur quelques difficultés de la théorie de la monnaie - marchandise chez Ricardo et Marx”, Economie appliquée n°1.
DELEPLACE, Ghislain [1999], Histoire de la pensée économique, Dunod.
DENIS, Henri [1980], L’ “économie” de Marx, PUF.
DRUGMAN, Bernard [1981], “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital, in Jean-Paul GAUDEMAR (éd.), Réexamens de la théorie du salariat, PUL.
DRUGMAN, Bernard [1983], “Le concept du rapport salarial: genèse, enjeu et perspectives”, Cahiers de l’ IREP-Développement n°4.
DUMONT, Louis [1985], Homo aequalis, Gallimard.
ELSTER, Jon [1989], Karl Marx. Une interprétation analytique, PUF.
ENGELS, Friedrich [1891], L’origine de la famille, de la propiété privée et de l’Etat, Editions sociales, 1972.
FACCARELLO, Gilbert [2000], “Karl Marx et la critique de l’économie politique: Le purgatoire du temps présent”, in Alain BERAUD et Gilbert FACCARELLO (ed.), Nouvelle histoire de la pensée économique, vol. 2, La Découverte.
HILFERDING, Rudolf [1970], Le capital financier, Editions de Minuit.
HILFERDING, Rudolf [1987], “Monnaie et marchandise”, Cahiers d’économie politique n°13.
LAUTIER, Bruno [1985], “L’objet du rapport salarial”, communication au colloque Formes de mobilisation salariale et théorie du salariat, Université de Picardie.
LAUTIER, Bruno và Ramon TORTAJADA [1978], Ecole, force de travail et salariat, Maspéro - PUG.
LENINE, Vladimir Illitch [1917], L’Etat et la révolution, Editions en langues étrangères, 1967.
MATHIAS, Gilberto và Pierre SALAMA [1983], L’Etat surdéveloppé, La Découverte.
POLANYI, Karl [1983], La grande transformation, Gallimard.
ROSANVALLON, Pierre [1979], Le capitalisme utopique, Seuil.
SALAMA,  Pierre [1975], Sur la valeur, Maspéro.
SALAMA, Pierre [1979], “Etat et capital. L’Etat capitaliste comme abstraction réelle”, Critique de l’économie politique n° 7-8.
TRẦN Hải Hạc [2003], Relire Le Capital. Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique, Page Deux.
TRẦN Hải Hạc [2005], “Marx et le marché: la question de l’Etat dans les analyses de la monnaie et de la force de travail, in Guy BENSIMON (ed.), Histoire des représentations du marché, Michel Houdiard.
TRẦN Hải Hạc [2014], “Marx et le concept de la force de travail”, Contre Temps n° 21.
VROEY, Michel de [1984], “Marchandise, société marchande, société capitaliste. Un réexamen de quelques définitions”, Cahiers d’économie politique n°9.




[1] Bài viết sau đây là bản dịch văn bản tiếng Pháp tựa đề “Etat et capital dans l’exposé du Capital”, xuất bản năm 2015 trong tác phẩm nhiều tác giả (Antoine Artous, José Luis Solis Gonzalez, Pierre Salama, Trần Hải Hạc) Nature et forme de l’Etat capitaliste, nxb Syllepse (Paris) và nxb M. Editeur (Québec). Tác giả tự chuyển ngữ và có bổ sung một số chú thích đặc biệt cho phiên bản Việt Nam. Cám ơn Trần Hữu Quang đã đọc lại và cải thiện bản dịch tiếng Việt.

[2] Những tác giả cho rằng Marx có lý thuyết về nhà nước tư bản chủ nghĩa thường gán cho ông lý thuyết về nhà nước của Engels. Đó là trường hợp của Lénine trong Nhà nước và cách mạng khi ông trình bày “học thuyết về nhà nước của Marx” nhưng chỉ trích dẫn văn bản của Engels, đặc biệt là Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [Lénine, 1917, chương 1: Xã hội giai cấp và nhà nước]. Họ không thấy rằng tác phẩm năm 1891 này của Engels đề ra một lý thuyết về nhà nước nói chung, nhà nước xét như là thiết chế phát sinh từ xã hội giai cấp tiền tư bản chủ nghĩa. Trong khi vấn đề mà Marx đặt ra trong bộ Tư bản là lý thuyết hóa hình thái đặc thù của nhà nước tư bản chủ nghĩa, tức là sự khác biệt của nó với các hình thái tổ chức quyền lực chính trị của những xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Xem chú thích 36.

[3] Trong bài viết này, các văn bản của Marx được dẫn từ bản dịch tiếng Pháp. Trong thân bài, những chú dẫn không nêu tên tác phẩm mà chỉ ghi năm xuất bản văn bản gốc hoặc năm viết bản thảo, và số trang trong văn bản dịch. Xem chú dẫn đầy đủ trong thư mục: Tác phẩm của Marx.

[4] Vấn đề đặt ra bởi quan hệ đất đai và địa tô tuyệt đối sẽ không được xem xét trong khuôn khổ của bài viết này. Xem Trần Hải Hạc [2003, t.2, phần III].

[5] Bài viết này triển khai một bài thuyết trình tiếng Pháp tại Hội thảo lần thứ 10 của Hội Charles Gide về tư tưởng kinh tế (Grenoble, Pháp, 2003), có tựa đề là “Marx và thị trường: vấn đề nhà nước trong những phân tích về tiền tệ và sức lao động”. Xem Trần Hải Hạc [2005].

[6] Khi Marx xuất phát từ phạm trù hàng hóa để nghiên cứu tư bản thì đó là hàng hóa với tính cách là phạm trù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa – như ông nói rõ trong mệnh đề mở đầu Phần thứ nhất Quyển I của bộ Tư Bản –, chứ không phải hàng hóa như là phạm trù tiền tư bản chủ nghĩa. Theo Marx, phải giả định trước sự tồn tại của tư bản thì các phạm trù hàng hóa và tiền tệ mới hiện ra như là điểm xuất phát của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Trong hệ thống tư sản đã hoàn tất, mỗi quan hệ kinh tế giả định trước sự tồn tại của quan hệ khác dưới hình thái kinh tế tư sản của nó và (…) mỗi từ được đề ra (posé), đồng thời, là giả định có trước (présupposition) của một từ khác” [1857-1858, 1, tr. 219]. Theo nghĩa đó, có thể nói rằng cả ba từ hàng hóa, tiền tệ và tư bản đều có tính cùng thời.

[7] Khuôn khổ của bài viết này không cho phép đề cập vấn đề lao động trừu tượng tuy rằng không thể tách biệt nó với vấn đề tiền tệ. Có thể nói rằng chúng ta chỉ hiểu thấu các phạm trù lao động trừu tượng và lao động cụ thể của Marx khi chúng cho phép ta thấu hiểu khái niệm tiền tệ. Rằng phân tích hình thái của giá trị, với trình tự các Hình thái I - II - III - IV, chỉ là phân tích những mô-men lý luận của sự hình thành tiền tệ như là biểu tượng cụ thể của lao động trừu tượng. Cần nhắc lại rằng Marx xác định lý luận của ông tách biệt kinh tế chính trị học cổ điển, và lý luận về giá trị - lao động của nó, ở điểm nào: “Khi ta nói đến hàng hóa như là vật chất hóa lao động hàm chứa trong nó – theo nghĩa của giá trị trao đổi –, chúng ta chỉ quan niệm một sự tồn tại tưởng tượng của hàng hóa mà thôi, không liên quan gì hết với hiện thực vật chất của nó cả: ta phải hình dung nó như một lượng lao động xã hội hay một lượng tiền tệ” [1862-1863, t. 1, tr. 184-185].

[8] Sự phê phán mà C. Benetti và J. Cartelier khởi xướng được hai tác giả tiến hành trên cơ sở xây dựng lại hình thái đơn giản của giá trị (Hình thái I) như là một “trao đổi thực thụ” (échange effectif) và một “quan hệ phản xạ” (relation réflexive) trong nghĩa toán học. Đó là một cách diễn giải phản nghĩa đối với Marx. Một mặt, hình thái của giá trị không hề chỉ một trao đổi thực thụ, nó là “hình thái của tính có thể trao đổi” (forme de l’échangéabilité) của hàng hóa, hình thái qua đó một hàng hóa có thể trao đổi được với các hàng hóa khác [1867/1890a, tr. 125 và 133]. Có sự nhầm lẫn giữa hai cấp độ mà Marx đã phân biệt rõ rệt là “sự chuyển hóa có tính ý niệm” (transformation idéelle) của hàng hóa thành tiền tệ trong hình thái tiền tệ của giá trị, và “sự chuyển hóa thực sự” (transformation réelle) của hàng hóa thành tiền tệ trong quan hệ trao đổi H – T [1857-1858, t. 1, tr. 125].
Mặt khác, hình thái của giá trị không hề chỉ một quan hệ phản xạ, nó là một hình thái đối cực, “một quan hệ qua đó hai mặt đối lập, là giá trị sử dụng và giá trị của một hàng hóa, được phân ra trên hai mặt hàng như thể là hai cực” [1867/1890a, tr. 145]. Có sự nhầm lẫn, ở đây, giữa quan hệ tương đương (équivalence) có thuộc tính phản xạ trong lô-gích hình thức với phạm trù tương đương hay ngang giá (équivalence) của Marx, hiểu theo ý nghĩa đặc thù: “Ngang giá thật ra là giá trị của một hàng hóa biểu hiện trong giá trị sử dụng của một hàng hóa khác” [1859, tr. 17; 1867/1890a, tr. 127]. Tác giả của bộ Tư bản còn vạch rõ rằng hình thái của giá trị là một mối quan hệ có tính chất phi phản xạ [1867/1890a, tr. 129], phi đối xứng [tr.119], phi bắc cầu [tr. 79-81].

[9] Đó là cách đọc của Ghislain Deleplace [1999, tr. 132] khi trình bày các hình thái của giá trị mà bỏ qua vấn đề biểu hiện của giá trị: đối với một hàng hóa, hình thái của giá trị được tác giả định nghĩa như là lượng hàng hóa khác mà hàng hóa nói trên “trao đổi” được, còn vật ngang giá chung thì được ông định nghĩa là “đơn vị đo lường chung” của các hàng hóa.

[10] Đó là cách đọc của Gilbert Facarello [2000, t.1, tr. 126] khi tác giả cho rằng lô-gích phân tích hình thái của giá trị là đi “từ đổi chác đến đối lập của đổi chác”, tức trao đổi phi tiền tệ đến trao đổi có tính tiền tệ: thật vậy, trong Hình thái I, “sự trao đổi đầu tiên không theo thể thức H – T mà là H – H’”. Cần nhắc lại rằng, đối với Marx, “hàng hóa không trao đổi với hàng hóa, trong chừng mực nó trao đổi với tiền tệ”. Đổi chác “chính là bỏ qua sự khác biệt đặc thù giữa hàng hóa và tiền tệ”: đó là quan điểm của kinh tế chính trị học bởi đối với nó “không có khác biệt giữa tiền tệ và hàng hóa” [1857-1858, t.1, tr. 125].

[11] Những điểm nhập nhằng, nước đôi trong trình bày của bộ Tư bản phải được nêu lên và giải tỏa. Chẳng hạn, trong Góp phần phê phán kinh tế chính trị học, người ta đọc rằng tiền tệ có “hai” giá trị sử dụng: “Ngoài giá trị sử dụng riêng của nó với tính cách là hàng hóa, nó có một giá trị sử dụng chung”; trong khi đó, chính Marx là người viết rằng giá trị sử dụng của tiền tệ “chỉ tồn tại như là thể nền của giá trị trao đổi và như vậy đó là một giá trị sử dụng mang tính hình thức, không liên quan đến một nhu cầu cá nhân thực tế nào cả” [1859, tr. 25 và 60]. Hoặc trong Quyển I của bộ Tư bản, người ta đọc rằng, “với tính cách là hàng hóa”, tiền tệ có một giá trị: “giá trị của nó do thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra nó quyết định, và biểu hiện trong lượng hàng hóa khác hàm chứa cùng lượng lao động”; trong khi đó chính Marx là người nhấn mạnh rằng “hình thái ngang giá của một hàng hóa không chứa đựng một qui định định lượng về giá trị nào cả” [1890, tr. 14 và 64].

[12] Trong phân tích của K. Polanyi, tiền tệ là một “hàng hóa ảo”, theo nghĩa tiền tệ khác các hàng hóa thực sự ở điểm nó không được sản xuất ra để đem bán trên thị trường. Nhưng, do tác giả của The Great Transformation không nắm bắt được mối quan hệ đối cực giữa hàng hóa và tiền tệ, nên ông hiểu sai nghĩa lý luận của Marx về hình thái của giá trị và sự sùng bái nó: “Nhận định của Marx về sự sùng bái giá trị của hàng hóa liên quan đến giá trị trao đổi của các hàng hóa thực sự, và không dính dáng với các hàng hóa ảo” [Polanyi, 1983, tr. 107-106]. Sự hiểu lầm này bắt nguồn từ chỗ Polanyi gán cho Marx quan niệm tiền tệ của kinh tế chính trị học cổ điển, đặc biệt là quan niệm của Ricardo: “Das Kapital bao hàm thuyết của Ricardo về tiền tệ như là hàng hóa” [sách đã dẫn, tr. 48].

[13] Trong sự phân loại của Michel de Vroey [1984, tr. 116-118], tiền tệ thuộc phạm trù “phi hàng hóa”, theo nghĩa tiền tệ khác hàng hóa ở chỗ nó không phải thực hiện cái mà Marx gọi là bước “nhảy lộn nhào” của hàng hóa, tức là không phải bán được nó trên thị trường thì xã hội mới công nhận nó, bởi tiền tệ có tính xã hội trực tiếp do quyết định của nhà nước sản xuất nó ra. Theo De Vroey, tính phi hàng hóa của tiền tệ chính là điều kiện để hàng hóa tồn tại, nhưng ông không khái niệm hóa mối tương quan đối cực này.

[14] Đó là tính cùng thời trên bình diện lô-gích, chứ không phải trên bình diện lịch sử. Về mặt lịch sử, hàng hóa không hề biểu hiện giá trị của nó tuần tự theo những Hình thái I, II, III, IV của sự phát sinh tiền tệ về mặt lý thuyết trong Chương 1, Quyển I của bộ Tư bản. Ở Chương 2, người ta có thể đọc rằng, ngay khi sản phẩm lao động chuyển hóa thành hàng hóa thì tức khắc hình thái qua đó hàng hóa biểu hiện giá trị của nó là “hình thái ngang giá chung hay hình thái ngang giá của xã hội” [1890, tr. 101]. Vả lại, Marx viết rằng sự hình thành của tiền tệ về mặt lịch sử không thuộc về sự phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: chủ nghĩa tư bản “thừa kế” tiền tệ bằng vàng hay bằng bạc từ những phương thức sản xuất có trước nó; cho nên “câu hỏi vì sao là vàng hay bạc, chứ không phải một hàng hóa khác, được dùng làm chất liệu cho tiền tệ, câu hỏi đó không đặt ra trong khuôn khổ của hệ thống tư sản” [1859, tr. 204]. Ở Chương 3, Marx còn ghi nhận rằng trong các phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, sự tồn tại của tiền tệ không hề gắn liền với phạm trù hàng hóa; và tiền tệ, với tính cách là phương tiện thanh toán, tồn tại “độc lập với lưu thông hàng hóa” [1890, tr. 153].

[15] Mặc dù vậy, lập luận cho rằng tiền tệ là kết quả tự nhiên của quá trình phát triển trao đổi hàng hóa vẫn được Rudolf Hilferding [1970, tr. 71] hay Suzanne de Brunhoff [1973, tr. 61] chấp nhận, có lẽ vì trong bộ Tư bản họ có thể đọc rằng: “Tiền tệ là một sản phẩm xã hội tự sinh ra từ những quan hệ do các cá nhân thiết lập trong lưu thông” [1869, tr. 236].

[16] Pierre Salama [1975, tr. 216] và S. de Brunhoff [1979, tr. 61] đã nhấn mạnh điều đó.

[17] S. de Brunhoff [1976, tr. 31] quan niệm tiền tệ gắn với nhà nước, nhưng do không nắm bắt chỗ đứng của nhà nước trong sự hình thành của tiền tệ như là vật ngang giá chung, bà chỉ nêu vai trò của nhà nước trong quản lý tiền tệ. R. Hilferding [1970, tr. 72] cũng có một quan niệm hạn chế tương tự.

[18] Trong một văn bản viết sau Tư bản tài chính, R. Hilferding [1987, tr. 179] nhận xét rằng điều trọng yếu trong việc đúc tiền không phải là chế tạo đồng tiền mà là nhà nước “ấn định đồng tiền vàng như là một trọng lượng vàng nhất định, và ngân hàng nhà nước chấp nhận mua tất cả vàng theo ‘giá vàng’ cố định đó”.

[19] Như Michel Aglietta và André Orléan [1982, tr. 46; 2002] đã vạch ra.

[20] Một hình thức khác của sự ngụy biện này (Deleplace [1985, tr. 129]): xuất phát từ chỗ tiền tệ không phải là hàng hóa – là điều chính xác –, người ta kết luận rằng không hề có hàng hóa trở thành tiền tệ – là điều không đúng. Nói rằng nhà vua không phải là thần dân không có nghĩa là không hề có thần dân trở thành nhà vua.

[21] Một phiên bản khác của sự ngụy biện đó (Karl Kautsky – được S. de Brunhoff [1979, tr. 43-44] trích dẫn và tán thành): nếu tiền tệ thoát khỏi qui luật giá trị của các hàng hóa, qui luật này sẽ mất tính phổ quát của nó. Cần nhắc lại rằng, trong phân tích hình thái của giá trị, loại trừ vật ngang giá chung ra khỏi hàng ngũ của các hàng hóa chính là điều kiện để giá trị của hàng hóa đạt đến hình thái phổ quát của nó.

[22] Boyer-Xambeu, Deleplace, Gillard [1990, tr. 37]

[23] Theo một đoạn văn của Góp phần phê phán kinh tế chính trị học [1869, tr. 75-76], đúc tiền là một “thao tác thuần kỹ thuật” và “sự khác biệt giữa vàng thoi và vàng đúc thành tiền chỉ là sự khác biệt giữa tên của tiền đúc và trọng lượng vàng của nó mà thôi”. Chương 3 Quyển I của bộ Tư bản [1890, tr. 141] không lập lại đoạn văn này mà còn chú thích rằng “lợi ích tài chính của quyền đúc tiền” khiến tiền đúc bao giờ cũng đại biểu cho một lượng giá trị cao hơn vàng thoi cùng trong lượng.

[24] “Tư bản nói chung” là một phạm trù của Marx chỉ bản chất chung của tư bản, là một quan hệ xã hội bóc lột lao động làm thuê. Xét tư bản nói chung là xét nó trong mối quan hệ của “một giai cấp đối lập với một giai cấp khác”, tức là tư bản trong tương quan đối lập của nó với lao động làm thuê hay với tư hữu đất đai [1867-1868, t. 1, tr. 286; t. 2, tr. 345]. Nói cách khác, đó là cấp độ phân tích tư bản mà không kể đến tư bản “như là số nhiều”, tức là không kể đến những tư bản cá biệt hóa và khác biệt nhau trong cạnh tranh. Marx nhấn mạnh sự cần thiết của cấp độ “trừu tượng hóa” này mà việc phân tích phải được tiến hành trước khi phân tích sự cạnh tranh giữa tư bản với nhau: “Tương quan của các tư bản như là số nhiều sẽ được lý giải sau khi xem xét điều mà chúng có cùng chung: bản thể tư bản” [1867-1868, t. 1, tr. 388; t. 2, tr. 143 và 10].

[25] Trong một vài văn bản, cách diễn đạt của Marx có thể gây lầm tưởng rằng ông đã triển khai lý luận xác định giá trị của hàng hóa cho sức lao động – như Cornelius Castoriadis [1979, tr. 85] hay Henri Denis [1980, tr. 182], chẳng hạn, đã khẳng định. Thật ra, giá trị trao đổi của sức lao động không hề được xác định, như giá trị của mọi hàng hóa, bởi lao động xã hội cần thiết để sản xuất nó: “Sức lao động có vừa đúng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người vận dụng sức lao động” [1875, tr. 174]. Về mặt này, sự tái sản xuất sức lao động của con người hoàn toàn có thể so sánh được với việc sản xuất gia súc: “Trong lao động cần thiết để sản xuất gia súc người ta không hề tính đến lao động mà chúng hao tổn trong hành vi ăn, uống, hấp thụ thức ăn. Đối với sức lao động cũng vậy” [1862-1863, t. 3, tr. 376]. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt cơ bản giữa sản xuất thú nuôi, vốn là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, với tái sản xuất sức lao động, vốn là một quá trình không hề sản xuất ra giá trị thặng dư.

[26] Marx bác bỏ mọi phân tích đồng hóa sức lao động với tư bản, và người lao động làm thuê với chủ tư bản. [1864-1865, t. 1, tr. 191; t. 2, tr. 91] Ông nhấn mạnh sự khác biệt về chỗ đứng của chủ tư bản và của người lao động làm thuê trong lưu thông, tức là vị trí của họ đối với tiền tệ: “Về phía nhà tư bản là sự vận động T – H – T (…). Trái lại, người công nhân đại biểu cho lưu thông H – T – H”. Đối với chủ tư bản, tiền tệ vận hành như là tư bản, còn trong tay của người làm công nó vận hành như là thu nhập. [1862-1863, t. 1, tr. 373]

[27] Theo cách phân loại sản phẩm “phi hàng hóa” của M. de Vroey [1984, tr. 109 và tiếp theo].

[28] B. Lautier và R. Tortajada [1978, tr. 98]. Trong một bài viết sau đó, Lautier [1985] nêu lên một quan điểm triệt để hơn, theo đó sức lao động không phải là một hàng hóa mà đặc điểm là có giá cả tuy không có giá trị: “Nó hoàn toàn không phải là hàng hóa”.

[29] Marx nhận xét rằng “tiền lương tương đối” đó có thể giảm trong lúc cả tiền lương danh nghĩa lẫn tiền lương thực tế đều tăng, nếu tỷ lệ tăng lương danh nghĩa và lương thực tế thấp hơn tỷ lệ tăng của giá trị thặng dư. [1849/1865, tr. 36]. Xem Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 497]: “Vị trí của các giai cấp do tiền lương tương đối hơn là tiền lương tuyệt đối quyết định”.

[30] Marx nhận xét rằng “tiền lương tương đối” đó có thể giảm trong lúc cả tiền lương danh nghĩa lẫn tiền lương thực tế đều tăng, nếu tỷ lệ tăng lương danh nghĩa và lương thực tế thấp hơn tỷ lệ tăng của giá trị thặng dư. [1849/1865, tr. 36]. Xem Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, 497]: “Vị trí của các giai cấp do tiền lương tương đối hơn là tiền lương tuyệt đối quyết định”.

[31] Marx nêu thêm một nhận xét có ý nghĩa. Một mặt, sản xuất giá trị thặng dư tương đối hoàn toàn tương hợp với sự gia tăng tiền lương thực tế: “Giá trị thặng dư tương đối có thể tăng liên tục, và do đó giá trị của sức lao động có thể giảm liên tục, (…) trong khi phạm vi các tư liệu sinh hoạt của công nhân, và do đó phạm vi hưởng thụ của họ, không ngừng mở rộng” [1861-1863, tr. 255]. Mặt khác, tăng lương thực tế trở thành điều kiện phát triển giá trị thặng dư: “Sản xuất giá trị thặng dư tương đối (…) đòi hỏi phạm vi tiêu dùng phải mở rộng theo phạm vi sản xuất” [1857-1858, t. 1, tr. 347].

[32] Trong văn bản của Marx, khái niệm “subsomption” chỉ một tương quan thứ bậc giữa hai thực thể, trong đó thực thể này bao hàm thực thể kia như là một thực thể phụ thuộc nó. Trong mối quan hệ xã hội cấu thành bởi hai thực thể A và B, sự thâu gồm thực thể B vào thực thể A chỉ sự thống trị của A trên B, qua đó A qui B thành hình thái tồn tại của nó. Hay nói cách khác, trong quan hệ đó, B không tồn tại như nó là, mà chỉ tồn tại như là hình thái của A. Đó là trường hợp của tương quan giữa lao động và tư bản. Đối với tư bản, lao động không trỏ hoạt động thể lực và trí lực do người lao động tiến hành trong mọi phương thức sản xuất, mà chỉ một hoạt động đặc thù của người làm công trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo nên giá trị thặng dư cho chủ tư bản. Theo nghĩa đó, tư bản thâu gồm lao động như một hình thái tồn tại của nó.
Trong bản dịch tiếng Việt của nhà xuất bản Sự Thật, cụm từ “subsomption du travail sous le capital” được chuyển ngữ là “sự lệ thuộc của lao động vào tư bản” (Quyển I của bộ Tư bản) hay “sự phục tùng của lao động đối với tư bản” (Bản thảo kinh tế những năm 1861-1863, tức chỉ là một phần nội dung trong khái niệm của Marx. Muốn diễn tả hết nội dung đó có lẽ cần tạo ra một từ mới như là “sự hàm nhiếp” (hàm: bao hàm; nhiếp: thu, lấy) đã xuất hiện trong từ điển Trung Quốc. Tạm thời, chúng tôi sử dụng cách dịch đơn giản của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn là “sự thâu gồm” (Phê phán lý tính thuần túy của I. Kant, nxb Văn học, tr. 1231).

[33] Xem Lysianne Cartelier [1980]. Hoặc Bernard Drugman [1983, tr. 51] mà luận đề là nhà nước mang tính nội tại trong quan hệ làm công, nên “sự phục tùng vốn xác định chế độ làm công chỉ có thể là một sự phục tùng có tính nhà nước”. Bởi, khi đã thừa nhận rằng sức lao động không phải là hàng hóa và không có giá trị, thì khái niệm giá trị thặng dư – xác định như là chênh lệch giữa giá trị do sức lao động tạo ra và giá trị mua bán sức lao động – mất tính xác đáng của nó. Khái niệm sức lao động trở nên không cần thiết để lý giải chế độ làm công. Từ đó mà quan hệ làm công được khái niệm hóa như là “hình thái quyền lực chính trị” thay vì là hình thái bóc lột. [Drugman, 1981, tr. 102]

[34] J. Bidet [1990, tr. 290-291].

[35] L. Dumont [1985, tr. 148]; P. Rosavallon [1979, tr. 183]

[36] Trong cách đọc văn bản của Marx, cũng như trong cách đặt vấn đề nhà nước tư bản chủ nghĩa, bài viết của chúng tôi gần với những quan điểm của Antoine Artous trong Marx, l’Etat et la politique. Các công trình của A. Artous và của chúng tôi gặp nhau ở cách biểu đạt vấn đề mà Marx nêu lên để khái niệm hóa nhà nước tư bản chủ nghĩa là: “xác lập mối tương quan” giữa cái đặc thù của nhà nước hiện đại và cái đặc thù của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, “suy diễn một cách lô-gích” hình thái đặc thù của nhà nước hiện đại từ hình thái đặc thù của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa [Artous, 1999, tr. 19; 241].
Do nó nhấn mạnh tính đặc thù của nhà nước tư sản so với những hình thái tổ chức quyền lực chính trị của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, cách đặt vấn đề nói trên chú ý trước tiên đến những văn bản của Marx các năm 1843-1846 về sự tách biệt giữa nhà nước hiện đại và xã hội dân sự tư sản. Nó khước từ những phân tích về sự “phát sinh lịch sử” của nhà nước như Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước của Engels mà chủ ý là xây dựng lý thuyết về nhà nước giai cấp nói chung: trong văn bản năm 1891 này, Engels tiếp cận nhà nước như một thiết chế xuyên lịch sử, phát sinh từ thời cổ đại Hy Lạp cùng với sự phân hóa giai cấp do phát triển phân công lao động trong xã hội tạo nên. Cách tiếp cận này có xu hướng tẩy xóa những khác biệt về hình thái lịch sử và “phóng chiếu lên quá khứ những phạm trù hiện đại”. Như sự tách biệt quan hệ thống trị về chính trị với những quan hệ xã hội về sản xuất: Engels tìm thấy nó trong mọi xã hội giai cấp, trong khi Marx cho rằng đó là đặc tính cơ bản phân biệt xã hội tư sản với các xã hội nô lệ hay phong kiến. Hiểu như là một thiết chế xã hội tách biệt khỏi các quan hệ xã hội khác, “nhà nước là một sáng chế của chủ nghĩa tư bản”. [Artous, 1999, tr. 242-243]

[37] J. Bidet [1990, tr. 293]

[38] Xác định nội dung giai cấp của nhà nước hiện đại đưa đến xác định lại tính chất của tiền tệ: tiền tệ là cái phổ quát cụ thể có tính hão huyền. Dưới vỏ bề ngoài của lợi ích chung, tiền tệ che khuất sự thống trị của một số lợi ích tư trên những lợi ích khác. Chế độ và chính sách tiền tệ là sự thể chế hóa tương quan lực lượng xã hội giữa các nhóm lợi ích trong sự tái sản xuất tư bản.

[39] Vào năm 1845, Marx có cam kết soạn một tác phẩm gồm hai tập có tựa là “Phê phán chính trị và kinh tế chính trị học”. Về tập thứ nhất, Marx chỉ phác họa có một dàn bài gồm 11 điểm: 1/ Sự phát sinh của nhà nước hiện đại với Cách mạng Pháp và sự tách đôi xã hội thành con người dân sự và con người chính trị; 2/ Tuyên ngôn nhân quyền và hiến pháp nhà nước xác lập tự do và bình đẳng của các cá nhân; 3/ Nhà nước và xã hội dân sự tư sản; 4/ Nhà nước đại biểu dân chủ và Hiến chưong 1830; 5/ Sự phân quyền; 6/ Quyền lập pháp và các cơ quan lập pháp; 7/ Quyền hành pháp và bộ máy hành chính; 8/ Quyền tư pháp và pháp luật; 9/ Quốc tịch và dân tộc; 10/ Các đảng chính trị; 11/ Quyền bầu cử và cuộc đấu tranh nhằm bãi sự bỏ tách biệt giữa nhà nước và xã hội dân sự. [1844-1881, tr. 1027-1028]

[40] M. Barbier [1992, tr. 9, 175 và 328]

[41] J. Elster [1989, tr. 541, 549 và 566]

[42] M. Barbier [1992, tr. 92]

[43] M. Barbier [1992, tr. 197-198]

[44] Sự cần thiết phân biệt nhà nước và chế độ chính trị đã được P. Salama nêu lên và liên hệ với lý luận của Marx phân biệt giá trị và hình thái biểu hiện của nó. [Salama, 1979, tr. 243-245; Mathias và Salama, 1983, tr. 13-14]
Về mặt thuật ngữ, sự phân biệt giữa “hình thái giá trị” (giá trị với tính cách là hình thái xã hội, như là quan hệ xã hội đặc thù) và “hình thái của giá trị” (hình thái biểu hiện của giá trị, hình thái hiện tượng của nó hay là giá trị trao đổi) không phải lúc nào cũng rõ ràng trong trình bày của bộ Tư bản. Marx thừa nhận điều này ở Chương 1 Quyển I khi phân biệt rõ rệt “giá trị” và “giá trị trao đổi” [1875, t.1, tr. 74]. Ngoài ra, thuật ngữ “Werthform” mà Marx dùng trong chương này để chỉ hình thái biểu hiện của giá trị hay giá trị trao đổi không được chuyển ngữ một cách thống nhất trong các bản dịch tiếng Pháp. Trong bản dịch tiếng Pháp năm 1875 của Quyển I của bộ Tư bản mà chính tay Marx chỉnh sửa, thuật ngữ này được dịch là “forme de la valeur” [1875, t. 1, tr. 62]; còn trong bản dịch tiếng Pháp của phiên bản tiếng Đức xuất bản lần thứ tư năm 1890, nó được chuyển ngữ là “forme-valeur” [1890, tr. 53], làm cho khó phân biệt giữa khái niệm “hình thái của giá trị” với khái niệm “hình thái giá trị”.
Marx bắt đầu khảo cứu hình thái của giá trị với phạm trù giá cả như hình thái tiền tệ của giá trị ở Quyển I của bộ Tư bản, là cấp độ phân tích tư bản nói chung. Ở Quyển III, ông triển khai hình thái của giá trị ở cấp độ tư bản như là số nhiều, tức là trong cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, với phạm trù giá cả sản xuất. Rồi ông khảo cứu cấp độ cạnh tranh tư bản trong nội bộ ngành với phạm trù giá cả sản xuất chung, và cấp độ cạnh tranh tư bản liên ngành với phạm trù giá cả thị trường. Về các hình thái chuyển hóa này của giá cả, xem Trần Hải Hạc [2003, t.2, phần 2 và 3]

[45] Sức lao động không chỉ là phạm trù đặc thù của Marx đối với kinh tế chính trị học mà những phân tích không phân biệt lao động với sức lao động. Nó còn là phạm trù đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa so với những hình thái sản xuất không có sự tách biệt giữa người lao động và sức lao động. Marx nhận xét chủ nghĩa tư bản khác những hình thái sản xuất có trước nó ở chỗ “người thợ không còn thuộc về những điều kiện sản xuất khách quan nữa (chế độ nô lệ, chế độ nông nô)” [1864, tr. 77]. Khái niệm sức lao động sinh ra từ sự tách biệt, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giữa người lao động với khả năng thể lực và trí lực của mình, bởi chỉ khả năng này mới có thể làm đối tượng cho nhà tư bản chiếm hữu. Đúng ra, đó là một sự mâu thuẫn bởi khái niệm sức lao động trỏ sự tách biệt khả năng lao động – không thể tách biệt được – ra khỏi người lao động, vì “khả năng này không tồn tại ở ngoài người lao động” [1857-1858, t. 1, tr. 224].
Cho nên người lao động cho thuê sức lao động của mình vẫn bị ràng buộc vào nó về thể chất, và cái mà người lao động bán cho chủ tư bản đó là sự phục tùng của cá nhân trong quá trình lao động. Sức lao động là khái niệm của một sự tách biệt giả tưởng của người lao động với những khả năng thể lực và trí lực của mình; tuy nhiên, chính sự tách biệt giả tưởng này cho phép người lao động bán sự phục tùng cá nhân mà vẫn khẳng định sự tự do của mình như là con người. [1857-1858, t. 1, tr. 230]. Theo nghĩa này, sức lao động là một khái niệm đặc thù của người lao động tự do trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xem Trần Hải Hạc [2014, tr. 214-216].

Print Friendly and PDF