PHỎNG VẤN VICTORIA CHICK
Howard R. Vane và Peter Wynarczyk
Victoria Chick sinh năm 1936 tại Berkeley, California, nơi bà đã học và tốt nghiệp BSc năm 1958 và MA năm 1960. Từ 1963 bà giảng dạy tại London University College, trở thành Reader năm 1984 rồi giáo sư năm 1993.
Victoria Chick, mặc dù rất ghét những nhãn hiệu, được biết đến như là một nhà kinh tế hậu keynesian và đã có nhiều đóng góp cho trường phái này. Những cuốn sách của bà gồm: The Theory of Monetary Politicy (Gray-Mills, 1973; 2nd edition, Blackwell, 1977), Mcroeconomics after Keynes: A Reconsideration of the General Theory (Phillip Allan, 1983), và On Money, Method and Keynes: Selected Essays by Victoria Chick (Macmilan/St Martin’s Press, 1992), P. Arestis và S. C. Dow chủ biên.
Những bài viết của bà được biết đến nhiều nhất là: “The Nature of the Keynesian Revolution: A Reassessment”, Australian Economic Papers (1978), “Monetary Increases and their Consequences: Streams, Backwater and Floods”, in A. Ingham và A. M. Ulph (chủ biên), Demand, Equilibrium and Trade: Essays in Honor of Ivor F. Pearce (Macmillan, 1984), “The Evolution of the Banking System and the Theory of Saving, Investment and Interest”, Economie et Sociétés (1986), “A PostKeynesian Perspective on the Relationbetween Banking and Regional Development”, viết chung với S. C. Dow, in P. Arestis (chủ biên), Post Keynesian Monetary Economics: New Approaches to Financial Modelling (Edward Elgar, 1988) và “Hicks and Keynes on Liquidity Preference: A Methodological Approach”, Review of Political Economic (1991).
Cuộc phỏng vấn Victoria Chick diễn ra trong văn phòng bà tại University College ở London ngày 8 tháng ba 1993.
Tại sao có nhiều cách kiến giải khác nhau về Lí thuyết Tổng quát? Giáo sư cho rằng điều này chứng tỏ điểm mạnh hay điểm yếu của cuốn sách?
John M. Keynes (1883-1946) |
Bill Gerrard |
Trong việc xem lại Lí thuyết Tổng quát, giáo sư viết rằng “Lí thuyết Tổng quát cung cấp một cách hiểu những phương pháp phân tích và cấu trúc của những tương tác kinh tế vĩ mô phong phú hơn nhiều hầu hết gì những đã được viết sau đó”. Ý kiến chính xác này của giáo sư dựa vào đâu?
Lấy ví dụ sơ đồ IS-LM dưới những dạng khác nhau của nó. Đặc điểm của sơ đồ là có thể nắm bắt tinh túy của Lí thuyết Tổng quát chỉ trong vài phương trình. Giải pháp tự nó là cần thiết trong lúc chính ngay Lí thuyết Tổng quát huy động đến mọi mối quan hệ chằng chịt có những tầm nhìn thời gian khác nhau – tầm nhìn rất ngắn hạn cho người đầu cơ, tầm nhìn ngắn hạn của người sản xuất và tầm nhìn dài hạn hơn của chính người này khi quyết định đầu tư. Rất là khó nắm bắt một thái độ như thế đối với thời gian bằng một tập hợp những phương trình đồng thời.
Sheila Dow (1949- ) |
Như thế giáo sư giải thích vì sao Keynes đã ít có phê phán trực tiếp nào đối với cách trình bày của Hicks về Lí thuyết Tổng quát bằng IS-LM?
Hugh Townshend (1890-1974) |
John R. Hicks (1904-1989) |
Theo giáo sư đâu là những khía cạnh độc đáo nhất của Lí thuyết Tổng quát?
Dennis Robertson (1890-1963) |
Keynes có xứng đáng được giải Nobel không ?
Không có gì phải nghi ngờ cả! [Cười]. Đương nhiên là nếu bạn nghĩ rằng giải Nobel đáng để theo đuổi! [Cười nữa].
Vì sao những phương pháp marshallian, cũng như những phương pháp Walrasian-Paretian là không thích hợp đối với mục đích của Keynes khi ông viết Lí thuyết Tổng quát?
Alfred Marshall (1842-1924) |
Giáo sư được công nhận như một nhà kinh tế hậu Keynesian. Ở cương vị đó, đâu là những mệnh đề chính của kinh tế học hậu keynesian?
Là một nhà kinh tế hậu Keynesian, tôi nói rằng nguyên lí cầu thực tế là một mệnh đề chủ yếu. Nhiều ý xuất phát từ đấy, như tương lai là bất khả tri, hay bất trắc và thông tin không hoàn hảo. Vả lại nói “thông tin không hoàn hảo” để chỉ tương lai là hơi mâu thuẫn trong từ ngữ vì chúng ta không biết thông tin đó là thông tin nào. Kết quả của bao nhiêu điều đó là một thất nghiệp dai dẳng, tự bản thân nền kinh tế không thể tiêu trừ được. Đó là những mệnh đề kinh tế vĩ mô then chốt. Trong kinh tế học vi mô, mà tôi còn lâu mới là một chuyên gia, các nhà hậu keynesian đã có những công trình xuất sắc để gạt bỏ hình ảnh máy móc của doanh nghiệp nhỏ tối đa hoá lợi nhuận và phát triển lí thuyết độc quyền vài người và lí thuyết độc quyền, cũng như những phương thức ấn định giá khác.
Đâu là tầm quan trọng của tiền tệ nội sinh trong kinh tế học hậu keynesian?
Đây là một vấn đề cực kì khó và phức tạp. Tôi nghĩ là vào thời của Keynes, không phải là một điều phi lí để xem rằng tiền tệ được tạo ra do tài trợ đầu tư của ngân hàng – một điều rất quan trọng trong lập luận keynesian. Thế mà cũng đúng là vào thời đó các giới chức tiền tệ có một quyền cực kì lớn trên cung tiền khi họ quyết định làm việc ấy – các giới chức tiền tệ, nếu muốn, có thể thu hồi tiền tệ vào hệ thống mà không được họ dung nạp. Theo quan điểm này, tôi không nghĩ rằng là không nhất quán, như đã có nhiều người nghĩ, khi đồng thời khẳng định rằng vị trí hàng đầu Keynes dành cho đầu tư so với tiết kiệm là do sự hỗ trợ của ngân hàng cho đầu tư, và rằng cung tiền là ngoại sinh, hay đúng hơn, do chính sách kinh tế ấn định. Đó là điều hoàn toàn có thể.
Ngoài Keynes ra, những gương mặt nổi bật của kinh tế học hậu keynesian là ai?
Joan Robinson (1903-1983) |
Michal Kalecki (1899-1970) |
Giáo sư có đồng ý với Sheila Dow để cho rằng Joan Robinson là gương mặt tiêu biểu của trào lưu vì công trình của bà ấy là một tổng hợp hài hoà những yếu tố cấu thành cái mà hôm nay chúng ta gọi bằng học thuyết hậu keynesian không ?
Có và không. Tính toàn diện và quy mô của công trình của bà bằng với chiều sâu rộng và tầm cỡ của Kaldor – và Kaldor cũng có thể xứng đáng danh hiệu này. Robinson rất khác với Keynes một cách khá khôi hài. Viết theo kiểu Zen and the Art of Motorcycle Maintenance để tiêu khiển, Michael Anyadike-Danes cho rằng Keynes là một người lãng mạn và Joan là một nhà cổ điển. Tôi nghĩ đó là một cách hay để mô tả họ. George Krimpas có nói rằng Joan Robinson muốn giảng dạy và Keynes muốn chinh phục – như thế còn hay hơn nữa [Cười]. Joan Robinson và Keynes là hai nhân cách rất khác nhau, và công trình của họ là một bằng chứng. Những định lí tích lũy của Joan Robinson rất cổ điển hay tân cổ điển trong cách tiếp cận nhưng lại là không trong ý đồ – ý đồ là chứng minh rằng khó đạt đến một đường tăng trưởng ổn định.
Có một mức độ giống nhau phải chăng giữa những cách nhìn của các nhà kinh tế Áo và các nhà hậu keynesian không ?
George L.S. Shackle (1903-1992) |
Giáo sư có chấp nhận ý cho rằng kinh tế học vĩ mô đòi hỏi phải có những cơ sở kinh tế vi mô không ?
Đây là một chủ đề rất lí thú! Những người bảo vệ ý này – thường là các nhà tân cổ điển – thường muốn nói rằng cần phải quay ngược về những tiên đề của hành vi cá thể. Một cách tổng quát, tôi hoàn toàn không tin vào cách tiếp cận tiên đề của kinh tế học vi mô – như là cơ sở cho kinh tế học vĩ mô – cũng như không tin vào giá trị nội tại của cách tiếp cận này. Phản đề của cách tiếp cận bằng tiên đề là hàm tiêu dùng của Keynes, đây là một công cụ rất thực tiễn và đơn giản, gần như là thiên tài. Điều này không còn làm chúng ta ngạc nhiên nữa vì chúng ta đã quen với nó rồi. Nhưng bạn hãy nhớ lại lúc bấy giờ nó mới biết mấy. Hàm tiêu dùng, với khuynh hướng tiêu dùng nhỏ hơn 1 (mpc<1) chứng minh rằng nền kinh tế không nhất thiết tiến đến toàn dụng lao động. Ngày nay ta xem hàm tiêu dùng như một điều quá bình thường, song tầm quan trọng của nó là cực kì to lớn, thế mà nó không có sơ sở kinh tế vi mô nào cả. Sau này, nhiều nhà kinh tế đã gán cho nó những cơ sở vi mô. Nếu có thể đào sâu vào tính chặt chẽ của những cơ sở kinh tế vi mô có mặt trong Lí thuyết Tổng quát thì tất nhiên tôi đồng ý, và đối với tôi không phải là điều hệ trọng nếu việc này có một vẻ tân cổ điển.
Do đó tôi không tin vào tầm quan trọng của cách tiếp cận tiên đề hoá đến độ, như các nhà kinh tế tân cổ điển, coi những tiên đề của hành vi cá thể như những niềm tin tuyệt đối cơ bản. Đó không phải là trường hợp của tôi. Người ta có thể phát triển kinh tế học vĩ mô một cách xa nhất và gặt hái được những kết quả có giá trị. Nhưng chung qui lại, điều khiến cho kinh tế học vĩ mô là một đối tượng nghiên cứu đó là kết quả của tất cả những quyết định cá thể không tương ứng với việc cộng chúng lại. Ở đây có một ngụy biện vơ đũa cả nắm. Nếu bạn không chấp nhận ngụy biện này thì hãy trở về với Walras.
Câu trả lời ngắn gọn cho câu hỏi của bạn là: không [Cười]! Tôi không nghĩ rằng kinh tế học vĩ mô có thể sống sót nếu những mệnh đề của nó chỉ đặt cơ sở độc nhất trên kinh tế học vi mô. Tôi nghĩ là kinh tế vĩ mô sống sót được nhờ những điều khác, vì ít nhất hai lí do: cách tiếp cận bằng tiền đề không chắc là cách thích đáng, và còn có sự ngụy biện vơ đũa cả nắm.
Về một mặt nào đó là không, nhưng mặt khác, có lẽ là có. Theo tôi, khi mà các nhà tân ricardian, hay sraffian, hay bất cứ tên gì người ta gọi họ, cho rằng điều quan trọng duy nhất trong kinh tế là việc nghiên cứu dài hạn, thì không thể có hòa giải được giữa họ và các nhà hậu keynesian. Một lần nữa nếu ta trở về những cơ sở và khái niệm thị trường marshallian, ngắn và dài hạn – những khái niệm được sử dụng trong Lí thuyết Tổng quát – thì ta thấy là chỉ có khiá cạnh cầu, nhưng không có khiá cạnh cung, là có mặt trong phương trình đầu tư dài hạn. Đơn giản là không thể xác định được rằng việc thực hiện một đầu tư có tỏ ra là một điều tốt hay không trong dài hạn. Vấn đề không đặt ra, và do đó cơ chế mà, trong một cách tiếp cận bằng khái niệm thặng dư, dẫn đến những lợi nhuận đều bằng nhau ở thế cân bằng, là không có. Thế mà đó là tất cả những gì một số nhà sraffian chỉ quan tâm và họ cho rằng nếu bạn không tính đến dài hạn thì bạn thực ra không làm lí thuyết, điều mà tôi không thể chấp nhận. Nếu ta chỉ quan tâm đến dài hạn, thì ta chỉ mất thì giờ. Về mặt này, hố sâu chia cách chúng tôi là rất lớn, và lấp nó đi rất là khó. Tất nhiên, có những khiá cạnh khác trong cách tiếp cận của Sraffa được các nhà hậu keynesian thích – đặc biệt là việc xét lại một số giả thiết tân cổ điển. Tôi nghĩ rằng hoà tan hai cách tiếp cận là một công việc cực khó. Dutt và Amadeo [1990], trong cuốn sách Keynes’s Third Alternative, đã thử làm việc này. Hai người này đủ xuất sắc để hòa giải được tốt hơn ai hết hai cách tiếp cận. Thế thì hãy nhìn theo hướng của họ [Cười].
.
Đâu là những bài viết/sách trong những năm qua có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển của kinh tế vĩ mô học nói chung ?
Tôi không có ý nào cả vì kinh tế học vĩ mô nói chung là kinh tế học vĩ mô dòng chính, và tôi đứng ở xa nó bao nhiêu càng tốt [Cười].
Những dự kiến đóng một vai trò quan trọng trong phân tích kinh tế. Ý kiến của giáo sư ra sao về giả thiết những dự kiến duy lí?
Léon Walras (1834-1910) |
Đóng góp của các nhà cổ điển mới theo giáo sư có đem lại gì cho cách chúng ta hiểu kinh tế học vĩ mô không ?
Tôi chắc là có nhưng tôi không ở vị thế tốt để định nghĩa đóng góp của họ. Còn về những công trình của Lucas, tốt hơn là nên hỏi ý kiến của người khác.
Giáo sư có nghĩ rằng họ đã buộc các nhà keynesian chính thống trở lại với Keynes và xét lại những định kiến của họ không?
Tôi cũng hi vọng như thế. Nếu họ đã có được ảnh hưởng như thế, thì điều đó thật là tuyệt vời, nhưng tôi nghĩ là không phải như vậy. Họ đã đặt các nhà trọng tiền vào một thế tế nhị, có thể đó là một đóng góp [Cười].
Giáo sư có đồng ý để thừa nhận rằng những quan điểm của các nhà hậu keynesian là quá phân tán không ?
Không. Dự án hậu keynesian trong thập niên 1970 đã trải qua một giai đoạn chịu phải sự phê phán dữ dội của phân tích tân cổ điển để hôm nay mở ra trên một cách tiếp cận tích cực hưóng về những lĩnh vực mới. Một phần lớn những công trình đầu tiên, về phần kinh tế học vi mô, nhằm phát triển và củng cố những trực giác của Kalecki, còn về phần kinh tế học vĩ mô là phục hồi lại Keynes. Bây giờ ta thấy các nhà hậu keynesian quan tâm đến những lĩnh vực như kinh tế học phát triển, thuế khoá, những lí thuyết về tổ chức và hành vi của doanh nghiệp. Điều bạn thấy như một sự phân tán thật ra chỉ là việc các nhà kinh tế khác nhau áp dụng những nguyên lí cơ bản của kinh tế học hậu keynesian vào những lĩnh vực khác nhau.
Nếu không phải sự phân tán thì là điều gì khi mà những cội rễ của kinh tế học hậu keynesian vẫn còn tách rời và ngày càng chĩa vào những hướng khác nhau?
Tôi không nhìn vấn đề như vậy. Tôi đã nhấn mạnh là trào lưu sraffian nằm riêng, và tôi đã nêu những lí do chính vì sao lại như thế. Rõ ràng là có nhiều xu hướng khác nhau giữa những ai tự nhận mình trong trào lưu hậu keynesian và còn rất nhiều việc phải làm để thiết lập sự nhất quán giữa các nguồn gốc khác nhau. Đây là một nhóm những nhà kinh tế ô hợp làm việc cho một mục tiêu rất giống nhau, mục tiêu thiết lập một kinh tế học không phải là tiên đề hoá, cũng không phải là hình thức, kết hợp trực giác và nghệ thuật lẫn khoa học, tuy nhiên lại là một kinh tế học logic và đưa đến những kết luận vững chắc. Đó là cách mà dự án hậu keynesian hiện ra dưới mắt tôi. Tất nhiên có những tranh luận trên những tiểu tiết. Nhưng đâu là thi vị của cuộc sống nếu không có tranh luận [Cười]? Có những cách nhìn rất khác biệt, song vẫn luôn có một điều gì chung. Tất cả tùy thuộc vào tính đa dạng và nhập nhằng mà bạn dung thứ được.
Chúng ta có đến gần việc hợp nhất những lí thuyết tiền tệ và giá trị hơn là thời Keynes không?
Tôi nghĩ là Keynes đã làm rất nhiều để cho việc hợp nhất này trở thành có thể. Một lần nữa tôi phải nêu tên Townshed, nhưng người đã thực sự đeo đuổi việc hợp nhất những lí thuyết giá trị và tiền tệ – nhưng không phải theo cách mà bạn chờ đợi – là Roy Rotheim.
Đâu là những điểm mốc của lí thuyết tiền tệ sau Keynes ?
Jan Kregel (1944- ) |
Hyman Minsky (1919-1996) |
Tại sao các nhà kinh tế có vẻ ít bất đồng trên những vấn đề kinh tế vi mô hơn là trên những vấn đề kinh tế vĩ mô ?
Có thật như thế không? Các nhà kinh tế vi mô tân cổ điển không bất đồng với nhau lắm, nhưng tôi không chắc rằng có thể nói như thế đối với các nhà kinh tế vi mô hậu keynesian. Cảm tưởng tranh chấp trong nội bộ kinh tế học vĩ mô là do khó tách nó ra khỏi chính trị. Trong kinh tế học vi mô cũng có một lượng ý thức hệ đáng kể, nhưng không dễ thấy bằng.
Giáo sư nghĩ như thế nào về cuộc điều tra mới đây của AER [1992] về ý kiến của các nhà kinh tế cho thấy là dường như họ đồng ý với nhau nhiều hơn trên những vấn đề kinh tế vi mô ?
Những câu hỏi và câu trả lời phần lớn đều dựa trên lí thuyết tân cổ điển. Các nhà kinh tế tân cổ điển đều thu xếp để có những ý kiến rất giống nhau, vì những lí do không có gì khó đoán cả. Điều này lại càng ít ngạc nhiên hơn khi họ xuất phát từ một tập hợp những tiền đề chung. Kinh tế học vi mô là một môi trường rất thuận lợi cho việc nảy nở một nhà kinh tế tân cổ điển. Một khi ta không chấp nhận sự tồn tại của một ngụy biện vơ đũa cả nắm thì không còn chỗ cho kinh tế học vĩ mô. Do đó họ phải đứng ngoài kinh tế học vĩ mô [Cười]. Nhưng họ giỏi hơn trong kinh tế học vi mô và tôi khâm phục nhiều công trình của họ.
Đâu là những hệ quả của kinh tế học hậu keynesian đối với chính sách kinh tế ?
Patrick Minford (1943- ) |
Trước nhiều thất bại để thực thi một chính sách thu nhập ở Vương quốc Anh, giáo sư có nghĩ rằng phải từ bỏ mọi hi vọng sử dụng lại công cụ này không ?
Margaret Thatcher (1925-2013) |
Giáo sư có tin vào sự trỗi dậy của một đồng thuận giữa các nhà kinh tế không ?
Không [Cười].
Giáo sư nghĩ gì về những phát triển mới đây của chính sách kinh tế tại Vương quốc Anh ?
[Cười nữa].
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: La pensée économique moderne. Guide des grands courants de Keynes à nos jours của Brian Snowdon, Howard R. Vane và Peter Wynarczyk, nhà xuất bản Ediscience, Paris, 1997.
[1] Carabelli, A. M., [1988], On Keynes’s Method, New York, St Martin Press↩
[2] O’Donnell R. M., [1989], Keynes: Philosophy, Economics and Politics, London, Macmilan ↩
[3] Vercelli A., [1991], Methodological Foundations of Macroeconomics: Keynes and Lucas, Cambridge, Cambridge University Press ↩
[4] Townshend, H., [1937], “Liquidity Premium and the Theory of Value”, Economic Journal, March ↩