19.11.25

Kiểm soát sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập do công nghệ mới bằng cách nào?

KIỂM SOÁT SỰ GIA TĂNG BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP DO CÔNG NGHỆ MỚI BẰNG CÁCH NÀO?

Các công nghệ mới thúc đẩy bất bình đẳng bằng cách tập trung thu nhập từ vốn. Ba cách tiếp cận chính sách sau đây có thể giúp phân tán quyền sở hữu và giảm bớt những cách biệt.

Branko Milanovic

Vấn đề. Công nghệ mới, tựa như tất cả các cải tiến công nghệ kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp, nhằm mục đích thay thế sức lao động của con người bằng máy móc, theo nghĩa rộng. Theo nghĩa đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không khác gì máy kéo sợi tự động được đưa vào ngành công nghiệp bông vào những năm 1820: thay thế nhân công dù giờ đây nó thực hiện điều đó ở trình độ kỹ năng cao hơn con người. (Theo nhiều cách, những phát triển như vậy đã được dự báo bởi vì trong lịch sử đã có sự gia tăng không thể cưỡng lại về trình độ kỹ năng của lao động bị thay thế bởi máy móc, bắt đầu với các nhiệm vụ không đòi hỏi kỹ năng và lặp đi lặp lại do lao động nô lệ thực hiện và sau đó (là các kỹ năng) ngày càng cao hơn).

Từ quan điểm phân phối, vấn đề là việc thay thế lao động bằng vốn dẫn đến phần lớn hơn của thu nhập quốc dân được tích lũy vào vốn. Điều này, khi xét về mặt những người thực sự nhận được thu nhập đó, có nghĩa là các doanh nhân và nhà phát minh ra máy móc mới và các nhà đầu tư vào các công nghệ mới như vậy thu được một cách không tương xứng. Theo định nghĩa, các nhà đầu tư là những người sở hữu vốn và đứng ở đỉnh kim tự tháp phân phối thu nhập. Do đó, sự mở rộng của phần thu nhập từ vốn hầu như tất yếu chuyển thành sự gia tăng bất bình đẳng trong thu nhập tổng thể.

Điều này đương nhiên đặt ra câu hỏi: nên sử dụng những chính sách nào để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập? Có ba cách để làm điều này: phân tán quyền sở hữu vốn rộng rãi hơn để tác động của việc phần thu nhập từ vốn tăng lên không chỉ hiện rõ ở đỉnh kim tự tháp, đánh thuế cao hơn vào các khoản thu nhập từ vốn cao nhất so với hiện nay và cấm một số hoạt động tài chính mới tạo ra thu nhập cho những người tham gia nhưng lại “thuần túy phi sản xuất”.

Tôi sẽ xem xét ba lựa chọn.

Phân tán quyền sở hữu vốn. Vốn tập trung cực kỳ nặng nề. Hình dưới đây cho thấy, trung bình 77% hộ gia đình ở các nền kinh tế phát triển và thu nhập trung bình có thu nhập tiền mặt từ vốn bằng 0 hoặc gần bằng 0 (mức “gần bằng 0” được định nghĩa là 100 đô la mỗi người/năm). Cần lưu ý rằng vốn ở đây chỉ bao gồm vốn tài chính hoặc vốn sản xuất tạo ra thu nhập tiền mặt cho chủ sở hữu. Vốn này không giống tài sản hộ gia đình, trong đó bao gồm nhà dùng để ở, đồ trang sức, tranh vẽ, nội thất, v.v.. Các quốc gia có sự phân tán thu nhập từ vốn cao nhất, tức là có tỷ lệ “hộ gia đình không có vốn” thấp nhất, là Na Uy, Hàn Quốc và (thật thú vị) Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay cả các nước này, vẫn có khoảng một nửa số hộ gia đình không nhận được thu nhập từ vốn. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ đó là gần 60%, và ở các nước tiên tiến khác, con số vượt quá 70%. (Tôi đã thảo luận chi tiết hơn về chủ đề này trong bài Substack trước đây.)

Nguồn: Tính theo dữ liệu hộ gia đình riêng có sẵn trong Luxembourg Income Study. Dữ liệu đề cập đến các cuộc khảo sát gần đây nhất, được thực hiện từ năm 2018 đến năm 2023. Con số trung bình 77% đã có tính trọng số dân số.

Vấn đề liên quan đến AI, như đã đề cập ở trên, là như sau: nếu quá ít người có vốn tài chính và vốn sản xuất thì tầm quan trọng ngày càng tăng của chúng sẽ chỉ đơn giản là tích lũy cho những người đã sở hữu tài sản vốn, tiếp tục trao quyền cho những người đã giàu có sẵn và gia tăng bất bình đẳng. (Việc này có thể không làm tăng số “hộ gia đình không có vốn”, nhưng để tăng bất bình đẳng thì chỉ cần giúp nhóm đang ở đỉnh kim tự tháp kia giàu thêm là đủ).

Làm thế nào để phân tán quyền sở hữu vốn? Vấn đề này từng được mang ra xử lý trước đây nhưng kết quả đạt được rất ít ỏi. Margaret Thatcher đã nói về “chủ nghĩa tư bản của nhân dân”. Cuối cùng nó chủ yếu trở thành việc tư nhân hóa nhà ở công. Kế hoạch phát hành cổ phiếu (thưởng) cho người lao động (Employee Stock Ownership Plans – ESOP) ở Hoa Kỳ là một cách khác để giúp mở rộng quyền sở hữu vốn tới người lao động. Kết quả của chúng cũng nhỏ, nhưng như Isabel Sawhill lập luận, đó chủ yếu là vì việc trao cổ phiếu cho người lao động không được khuyến khích về mặt tài khóa: nếu các công ty được hưởng lợi về thuế khi họ phân phối cổ phiếu cho người lao động, có lẽ sẽ có nhiều ESOP hơn. Trên thực tế, chẳng có lý do rõ ràng nào giải thích tại sao CEO nên được trả lương bằng cổ phiếu còn người lao động thì không. Ở một số quốc gia, quỹ hưu trí tư nhân không chỉ được dùng để loại bỏ các hệ thống trợ cấp xác định có khả năng không bền vững về mặt tài khóa mà còn nhằm phân tán thu nhập từ vốn. Ví dụ, trong biểu đồ trên, tỷ lệ hộ “không có vốn” ở Anh giảm từ 84% xuống 79% khi tính cả thu nhập từ lương hưu tư nhân. Tất cả các phương pháp này có thể được sử dụng với mục tiêu rõ ràng là phân tán một phần quyền sở hữu vốn tới nhiều người hơn, từ đó giảm thiểu sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập, vốn là chuyện sẽ gần như tự động xảy đến khi các công nghệ mới, bao gồm cả AI, được ứng dụng rộng rãi hơn.

Đánh thuế mạnh hơn vào các khoản thu nhập từ vốn cao nhất. Một cách khá rõ ràng khác để kiểm soát sự bất bình đẳng ngày càng tăng từ vốn là đánh thuế nó. Đây thường được coi là giải pháp duy nhất, nhưng, như tôi đã ngầm lập luận ở trên, thuế nên là giải pháp, nhưng đó chỉ là một trong vài giải pháp khác. Không phải mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bằng thuế. Trớ trêu thay, ở Hoa Kỳ, thu nhập từ vốn hiện đang bị đánh thuế với mức thấp hơn thu nhập lao động tương đương: ví dụ, thuế suất cận biên đối với thu nhập từ lao động dưới 100.000 đô la (khoảng 2,63 tỉ đồng) mỗi năm là 24% so với 15% đối với vốn; đối với thu nhập trên 400.000 đô la, khoảng cách đó thậm chí còn lớn hơn: 35% so với 15%; xem thêm cuốn sách xuất sắc sắp ra mắt của Ray D. Madoff The Second EstateHow the Tax Code Made an American Aristocracy (tạm dịch: Đẳng cấp thứ hai: Luật thuế đã tạo ra tầng lớp quý tộc Mỹ như thế nào, “Second Estate” ám chỉ đến giai cấp quý tộc trong chế độ phong kiến Pháp trước cách mạng 1789 – ND). Do đó, vẫn còn rất nhiều dư địa để tăng thuế.

Một phương pháp khác, có nhiều điểm tương đồng với thuế, là quyền sở hữu rõ ràng của chính phủ đối với các công nghệ hoặc đổi mới sáng tạo mới, trong đó tài trợ của chính phủ đóng vai trò quan trọng – khi mà, trên thực tế, chính phủ cũng có thể là “nhà đầu tư thiên thần”. Những đóng góp như vậy thường không được công nhận. Mariana Mazzucato đã cung cấp liệu để chứng minh điều này một cách đầy thuyết phục trong trường hợp của nhiều công ty Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ. Điều tương tự có thể đang diễn ra ngày nay, và các chính phủ không nên ngại ngùng trong việc khẳng định quyền của họ đối với một số dòng thu nhập từ vốn. Quyết định của chính phủ Mỹ về việc nắm giữ cổ phần đáng kể trong Intel có thể được nhìn nhận theo hướng này. Quyền sở hữu của chính phủ rõ ràng như vậy còn dễ biện minh hơn ở các quốc gia như Trung Quốc, nơi mà vai trò trực tiếp lẫn gián tiếp của chính phủ trong việc hỗ trợ đổi mới sáng tạo thậm chí còn lớn hơn.

Cấm một số công nghệ mới gây hại. Cách cuối cùng để ngăn chặn các công nghệ mới làm trầm trọng thêm bất bình đẳng đơn giản là cấm một số hoạt động có tính chất đầu cơ mà thuần túy “phi sản xuất”. Đây rõ ràng là cách khó nhất và triệt để nhất để giải quyết vấn đề và nên được sử dụng cực kỳ thận trọng. Tuy nhiên, không nên tránh sử dụng nó. Rất khó để xác định đâu là hoạt động “phi sản xuất” trong kinh tế học. Về lý thuyết, mọi hoạt động và thu nhập phát sinh từ đó, khi dựa trên các giao dịch tự nguyện giữa các chủ thể kinh tế, đều được coi là chính đáng. Nhưng thực tế thì có giới hạn. Việc buôn bán ma túy hoặc vũ khí bị cấm ở nhiều quốc gia ngay cả khi cả hai chắc chắn có thể được coi là các hoạt động diễn ra tự nguyện giữa các tác nhân kinh tế. Với các công nghệ mới, dường như có những hoạt động (liên quan đến tiền điện tử và đầu cơ tài chính nói chung) mà mục tiêu duy nhất là đầu cơ. Chúng không làm gia tăng số lượng hàng hóa hay dịch vụ, cũng không cải thiện rõ việc phân bổ nguồn lực. Nhiều hoạt động kiểu này giống xổ số hơn: chúng làm giàu cho số ít trong khi khiến số đông nghèo đi. Trên thực tế, như Adam Smith, trong một đoạn ít được chú ý, đã lưu ý cách đây hơn 250 năm, giải xổ số càng to, số người thua càng nhiều. Không nên loại trừ phương án cấm. Tuy nhiên, cần thực hiện một cách thận trọng và chỉ trong những trường hợp cực đoan, ví dụ khi việc đánh thuế gặp khó khăn hoặc hoạt động đó đủ “có hại” hoặc đầy rẫy các ngoại ứng tiêu cực đến mức cấm là chính đáng.

Chính bằng cách thực hiện đồng thời cả ba điều trên, mặc dù với tỷ lệ khác nhau vào những thời điểm khác nhau, chính phủ có thể hy vọng giữ sự gia tăng bất bình đẳng trong giới hạn chấp nhận được mà không kìm hãm đổi mới sáng tạo lẫn việc đưa công nghệ mới vào thực tiễn.

Xuất bản lần đầu tiên trên Substack của Branko Milanovic

Huỳnh Thị Thanh Trúc dịch

Nguồn: How to Control the Increase of Income Inequality Due to New Technologies?, socialeurope.eu, 30th September 2025.

Print Friendly and PDF