Thuyết trình khai mạc khoá giảng Chiapas
NHỮNG HƯ CẤU KIẾN TẠO DÂN CHỦ
(tháng 11.2025)
Nguyễn Hữu Động
Danh bất chính thì ngôn bất thuận. Ngôn bất thuận thì sự bất thành.
Khổng Tử
Một ý tưởng sẽ khó thực hiện cho đến khi người ta hình dung được cụ thể những gì sẽ làm dưới động lực của nó.
Danielle Allen
Trải nghiệm cá nhân về hai ý tưởng huyền thoại: chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ
Năm 1977, khi mà phần đông các bạn chưa ra đời, tôi có cơ duyên đi xe lửa từ Paris đến Hà Nội, Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đề nghị, trên đường đi, tôi ngừng chân ở bất cứ nước nào tôi muốn, trong thời gian tôi muốn, để đến khi về nước, tôi báo cáo đã thấy gì, hiểu gì về sự vận hành của chủ nghĩa xã hội hiện tồn ở các nước tôi đi qua.
Trong một tháng trời, đi qua Cộng hòa Dân chủ Đức, Liên Xô, từ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan cho tới Trung Quốc, quan sát và chuyện trò với nhiều người, tôi không hề trông thấy hay trải nghiệm chủ nghĩa xã hội mà trên nguyên tắc, đã được xây dựng ở Nga từ Cách mạng 1917, và nhất là từ sau Thế chiến lần thứ nhì. Điều mà tôi chứng kiến và trải nghiệm là những nguyên tắc khắt khe mà mọi người phải tuân thủ, từ giờ mở cửa đóng cửa của các tiệm ăn, phiếu mua thực phẩm và hàng hóa, rồi những cửa hàng chỉ nhận thanh toán bằng đô la Mỹ.
Nói ngắn gọn: chủ nghĩa xã hội thường nhật là chế độ quan liêu cộng thêm những hạn chế, sản phẩm của chiến tranh, cuộc chiến tranh đã sản sinh ra hệ thống xã hội chủ nghĩa, không biệt lệ, sau đó đã được các nhà tư tưởng lý thuyết hóa. Điều này giải thích phần lớn các ảo tưởng mà tuổi trẻ của tôi được nuôi dưỡng. Xin đơn cử vài ví dụ:
Qua những điều tôi chứng kiến, các khẩu hiệu như kiểu Vô sản các nước, liên hiệp lại! chỉ tồn tại trên giấy tờ.
Khi bạn đi qua biên giới từ Pháp sang Bỉ hay sang Đức chẳng hạn, đôi khi bạn có thể nhận thấy những sự khác biệt về nhà cửa. Còn ở biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô, thì các khẩu hiệu và loa phát thanh âm nhạc báo hiệu cho biết bạn đã đi từ nước này sang nước kia.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản rốt cuộc đã thể hiện dưới dạng một chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đơn điệu. Chuyến xe lửa tôi đi là một đoàn tàu liên hợp, các toa tàu một nửa là Liên Xô, nửa kia là Trung Quốc. Trước khi đoàn tàu qua biên giới, nhân viên Trung Quốc bỏ thời giờ dọn dẹp lau chùi các toa tàu Trung Quốc sạch sẽ, bóng loáng, để mặc các toa tàu Liên Xô trong tình trạng dơ bẩn đáng sợ.
Năm 1979, khi cuộc chiến tranh chớp nhoáng bùng nổ giữa Việt Nam và Campuchia Khơme Đỏ, một anh bạn tôi viết trên nhật báo Le Monde rằng đó là chuyện “chủ nghĩa xã hội sa vào cạm bẫy của chủ nghĩa dân tộc” mà không cần biết cái chủ nghĩa xã hội, cũng như cái chủ nghĩa dân tộc ấy thực chất là gì. Thay vì lao mình vào những lý giải ý thức hệ, vô bổ và rối rắm, tôi nghĩ chỉ cần nói đơn giản như thế này: Hai quốc gia đánh nhau, vì những nguyên nhân mông lung liên quan đến cái gọi là quyền lợi dân tộc, nhưng có thể chỉ vì quyền lợi đảng phái hay quyền lợi địa – chính trị, mà cho đến nay chưa ai minh định được một cách chính xác. Và cuộc chiến tranh ấy kết thúc như mọi cuộc chiến tranh: bên thắng cuộc và bên thua cuộc, bên thắng cuộc kiểm soát lãnh thổ của bên thua cuộc. Nói đến chủ nghĩa mà làm gì!
Stalin “người cha hiền từ của các dân tộc” đã đặt mục tiêu vào việc tạo ra con người mới. Còn Mao chủ tịch thì chắc mẩm rằng tâm hồn của nhân dân Trung Hoa là trang giấy trắng để người ta có thể viết lên đó những bài thơ hay nhất. Tôi không có may mắn được thấy con người mới hay được đọc bài thơ hay, nhưng tôi được gặp một nền văn minh mấy ngàn năm, lịch lãm và hiếu khách.
Chủ nghĩa xã hội hiện tồn đã biến mất khỏi chân trời lý luận của chúng ta, còn chế độ dân chủ, địch thủ của nó, thì sao?
Hai tiếng dân chủ có một lịch sử lâu đời, và các tác giả nói tới dân chủ thường bắt đầu từ thời Athenes. Như John Dunn[1] viết, người Hi Lạp đã có công sáng tạo ra danh từ dân chủ, nhưng phải đợi hai ngàn năm sau, Cách mạng Pháp 1789 mới tạo cho nó một chứng chỉ danh dự chính trị, đồng thời đặt nền móng cho thể chế đáp ứng yêu cầu của khái niệm này[2].
Nhưng bị sử dụng như ngọn cờ tập hợp để đấu tranh chống giai cấp quý tộc trong hai thế kỷ 18 và 19, rồi chống lại chủ nghĩa xã hội từ Cách mạng bôn sê vich 1917, riết rồi nó đã đánh mất sự nghiêm túc của khái niệm. Khoảng cách giữa khái niệm và những thực hiện cụ thể của nó cứ lớn lên dần. Ngày nay, thật khó mô tả thế nào là dân chủ khi mà hầu hết các quốc gia trong cộng đồng quốc tế đều mệnh danh là dân chủ.
Vẫn biết, ở Bắc Âu, một vài nước (thêm vào đó là Thụy Sĩ) được coi là mẫu mực dân chủ và công dân của các nước ấy hầu như là những nhà dân chủ từ trong bụng mẹ. Nhưng thời sự cho thấy sự việc không đơn giản như vậy, và dân chủ vẫn là đề tài để thảo luận và nghiên cứu.
Những năm gần đây, từ khắp năm châu, vang lên những tiếng kêu khẩn cấp, nào là dân chủ lâm nguy, nào là dân chủ đánh mất lòng tin của dân chúng trước sự lớn mạnh của những thế lực muốn sử dụng những cơ cấu của dân chủ để lật đổ dân chủ[3]. Đến khi phải mô tả cuộc khủng hoảng ấy, người ta mới nhận ra rằng nó đụng chạm tới những quá trình rất đa tạp và khác biệt. Đó là những nguy cơ đe dọa nhà nước pháp quyền, đe doạ các quyền tự do (phát biểu, lập hội), hay sự công bằng xã hội, sự tự lập, đối trọng quyền lực (nhất là trong lãnh vực tư pháp). Nhưng cuộc khủng hoảng của dân chủ, hay cái chết nhiều lần được báo trước của dân chủ, chưa bao giờ được mô tả một cách chính xác và nghiêm túc[4]. Và chừng nào chưa làm được việc đó thì làm sao giải quyết được “khủng hoảng”?
Tóm lại, dường như chúng ta đứng trước lưỡng đề này: dân chủ ra đời như một hình thái cụ thể để bảo vệ các quyền tự do của người dân Athenes, thì ngày nay nó vẫn giữ được những nét hấp dẫn như một hình thái tối ưu để bảo vệ tự do và nhân phẩm của cá nhân và tập thể hợp thành nhân loại. Phương pháp bảo vệ biến đổi về dạng thức, tùy theo bối cảnh lịch sử cụ thể. Nhưng cái bất biến là sự tôn trọng tính đa dạng vốn là đặc trưng của cộng đồng nhân loại.
Để tránh lạc hướng trong cuộc thảo luận về lý thuyết, xin nêu một thí dụ thôi: đó là cách định nghĩa của H. Kelsen dường như được coi là định nghĩa ngắn gọn và thiết thực nhất. Theo Kelsen, dân chủ là chế độ trong đó các công dân tuân thủ pháp luật đồng thời tham gia tạo ra pháp luật. Trúng ý tôi là tóm gọn mối liên hệ giữa dân chủ, các quyền và bầu cử. Chúng ta sẽ trở lại định nghĩa này, nhưng trước mắt, chỉ cần xem xét quá trình sản xuất các đạo luật quốc gia. Ở mọi nơi, đa số các đạo luật đều do đề nghị của hành pháp, trong khi đó là thẩm quyền dành riêng cho lập pháp.
Thực tại chính trị và xã hội học ngày nay có thể và phải thay đổi ý kiến của Kelsen như thế nào?
Nói khác đi, không thể chỉ nói suông là những căn bệnh mãn tính của dân chủ chỉ cần một liều thuốc là: thêm dân chủ. Cần phải đặt ra vấn đề tìm ra những biện pháp thực tiễn qua đó tái lập độ tin cậy vào dân chủ. Dân chủ có những mối quan hệ như thế nào với những vấn đề quốc gia và quốc tế cấp thiết? Giá phải trả là bao nhiêu và ai phải trả giá đó nếu cần quyết định những ưu tiên vi phạm các nguyên tắc cơ bản của thực tiễn dân chủ.
Như thế, nếu ta chấp nhận rằng nguyên tắc phân quyền – mà khi đọc vội Montesquieu[5] người ta vẫn coi là tiêu chuẩn DUY NHẤT của thực tiễn dân chủ – không phù hợp lắm với thực tế, và nếu phải đưa vào hiến pháp khái niệm cân bằng giữa các quyền lập pháp và hành pháp, thì làm sao xây dựng khái niệm cân bằng này?
Ngoài ra cũng nên xem lại lịch sử sự ra đời của dân chủ như một khái niệm chính trị không thể trốn tránh[6] và xem xét mối quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa vô chính phủ, có thể nói là trạng thái dân chủ đẩy xa tới tận cùng của nó[7].
Từ đó, có thể đánh giá chính xác cái được coi là sự phản bội dân chủ: chủ nghĩa dân túy dưới các dạng thức khác nhau, thiên tả hay thiên hữu.
Các quyền con người: quyền cá nhân, quyền cộng đồng và trách nhiệm tập thể
“Sự bất chấp, lãng quên hay khinh thị quyền con người, đó là những nguyên nhân duy nhất tạo ra những tai hoạ công cộng, tạo ra sự thối nát của các chính quyền”.
Đó là những câu chữ mạnh mẽ mở đầu bản Tuyên ngôn về các quyền con người và các quyền công dân 1789-1791, sau ngày nhà ngục Bastille được phá bỏ. Ngày nay, chúng ra biết rằng những lời lẽ ấy nhắm vào chế độ quân chủ đã gây ra những thảm hoạ nói trên. Chúng ta cũng biết rằng Cách mạng Pháp qua đó còn tuyên bố một cuộc cách mạng về quyền con người[8].
Tôi nhắc lại Tuyên ngôn này, vì, cùng với Tuyên ngôn Độc lập của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, đó là nguồn gốc của Tuyên ngôn phổ quát về các quyền con người 1948, nền tảng đầu tiên của hoạt động Liên Hợp Quốc. Không muốn trở lại sự kiện quan yếu này của cuộc xây dựng cộng đồng quốc tế pháp lý, tôi nghĩ cũng cần nhấn mạnh mấy điểm sau đây.
Các quyền cơ bản (quyền tự do, quyền sống, quyền nhân phẩm, quyền tự do phát biểu, quyền hạnh phúc), cũng như nhiều quyền khác, không phải là những điều được ban phát hay đưa ra như những yêu cầu. Đó là những quyền mà các công dân – nam và nữ công dân – đã tuyên cáo, đồng thời cũng là lý do tồn tại của hệ thống chính trị mà ngày nay chúng ta gọi là dân chủ chính là bảo vệ và phát huy những quyền ấy.
Mục tiêu đầu tiên của Sách XI trong bộ Tinh thần Luật pháp của Montesquieu nói về việc xây dựng định chế của các quyền, về quan hệ giữa các quyền với nhau (hợp tác, cạnh tranh, kỹ năng) là bảo vệ quyền được tự do. Chỉ có những nhà trí thức vô công rồi nghề[9] mới tìm cách xây dựng một khái niệm nhân dân với những quyền hành. Chính “nhân dân”[10] Pháp năm 1789 với vũ khí trong tay, chính nhân dân mà mục sư Martin Luther King đã huy động năm 1965, hay cuộc đấu tranh của ANC ở Nam Phi suốt mấy chục năm, hay mùa Xuân Á Rập năm 2010 đã dẫn tới sự chấp thuận những biện pháp thể chế phù hợp với đòi hỏi của nhân dân.
Bảo rằng quyền con người là cốt tuỷ của chính trị chẳng khác nào làm bộ kẻ cả với những tuyên bố theo kiểu: quyền con người là nền tảng chính sách của chúng tôi vì chính sách của chúng tôi là bảo vệ quyền của các bạn. Giữa mang lại hạnh phúc cho nhân dân (chính phủ cực quyền nào mà chẳng nói thế) và quyền nhân dân mưu cầu hạnh phúc có một sự dị biệt không nhỏ. Đó là không nói quyền cũng thay đổi, đa dạng theo thời gian, và sự bảo vệ các quyền ấy cũng phải thích ứng cho phù hợp.
Năm 2003 tôi được cử tới Afghanistan tham gia tổ chức bầu cử, tôi lại càng nghiệm ra rằng những quyền “được ban phát” không nhất thiết là những quyền được tuyên ngôn. Năm 1979 khi Liên Xô chiếm đóng đất nước này, họ đã tuyên bố hủy bỏ khăn chùm “burka” và áp đặt chế độ trường học nam nữ hỗn hợp. Về nguyên tắc, đó là điều đáng hoan nghênh. Nhưng trong bối cảnh chiếm đóng, các biện pháp đó đã gây tai hại cho chính những người được thụ hưởng: phụ nữ không chùm “burka” bị tát a-xít vào mặt, các trường hỗn hợp bị ném lựu đạn.
Lẽ ra, phải chăng nên để cho ý nguyện công dân nảy nở, rồi từ đó, với nền giáo dục phổ quát, sẽ củng cố ý thức công dân, ý thức chính trị, đưa tới khai phóng? Nhưng đó chỉ là câu hỏi trừu tượng, trả lời chính xác phải đến từ chính người Afghan, nam cũng như nữ.
Nói phải có một đường lối chính trị về quyền con người là nói rằng: đối diện với những người công dân kiên quyết bảo vệ những quyền tuyên bố, chính quyền buộc phải tìm ra những giải pháp chính trị và định chế nhằm bảo vệ và củng cố các quyền đó.
Những chính sách ấy không thể thu hẹp vào những thủ tục mà phải căn cứ vào một quan niệm nhất định về công lý. Không chỉ hạn chế vào những quyền đang có mà phải tính đến những quyền sẽ tới. Nhất thiết phải mở rộng sang những lãnh vực khác, về chính sách xã hội (công bằng xã hội) hay kinh tế (và với tình hình dịch bệnh hiện nay, một chính sách y tế phù hợp), củng cố kiến trúc hệ thống dân chủ bằng quyền bầu phiếu phổ thông, nhà nước pháp quyền hợp hiến, tính đa nguyên, tính công dân chính trị.
Trong các cuộc thảo luận quốc tế về phạm vi phổ quát của các quyền nói trên, có một số luận điểm đáng được bàn cãi. Thí dụ như khía cạnh cá nhân chủ nghĩa (trước tiên là những quyền của tôi, sau đó mới là quyền lợi tập thể); sự thiếu vắng thảo luận về các quyền của cộng đồng trong khi các cộng đồng rất quan trọng trong sự hình thành bản sắc, yếu tố cơ bản để tìm hiểu cộng đồng dân tộc hiện nay; rồi sự thiếu vắng suy xét tới trách nhiệm cá nhân và tập thể, một yếu tố cơ bản cấu tạo sự gắn kết của các cộng đồng. Một số tác giả còn nhận xét rằng quyền con người không thúc đẩy quá mức chủ nghĩa cá nhân, mà ngược lại, chúng mở ra những suy nghĩ về những hình thái mới trong quan hệ giữa các cá nhân, do đó củng cố sự gắn kết dân tộc chung quanh trật tự pháp lý[11].
Nói như vậy rồi, khó khăn vô cùng to lớn là xây dựng các giá trị phổ quát tại mỗi nước, với văn hóa là lịch sử đặc thù của mình. Việc đó, chỉ có người dân mỗi nước mới có thể tiến hành. Thế thì chẳng hóa chúng ta diễn thuyết về đề tài này là vô bổ?
Các cuộc bầu cử giữa một bên là cơ quan hành chính, bên kia là những hư cấu thao tác và huyền thoại
Đây không phải chỗ viết lại lịch sử các cuộc bầu cử, một hình thức ngàn năm nhằm phân định các ý kiến khác nhau khi phải có một quyết định tập thể. Việc thiết lập phổ thông bầu phiếu – mà Tuyên ngôn phổ quát đã khẳng định – chứng tỏ tầm quan trọng chính trị của bầu cử. Thông qua hành động chính trị dưới hình thức bỏ phiếu kín một cách tự do, những con người, nam cũng như nữ, trở thành nam nữ công dân của một quốc gia độc lập, chủ quyền, làm thay đổi vận mệnh của mình bằng cách làm chủ vận mệnh. Quyền bính từ nay không còn cha truyền con nối giữa quý tộc với nhau, từ nay không còn những đạo luật do một nhóm người áp đặt lên cử tri, từ nay không còn những kết quả bầu cử được biết trước khi công bố.
Trong một thời gian dài, những người quản lý quá trình bầu cử đã sống với hai tiên đề tâm niệm.
Tiên đề thứ nhất: một bộ máy quản lý bầu cử tốt (có quyền tự quản, độc lập, rành nghề…) dựa trên luật lệ bầu cử tương xứng, các cuộc bầu cử và kết quả bỏ phiếu được tin cậy, nghĩa là được mọi tác nhân chính trị và xã hội chấp nhận.
Tiên đề thứ hai: sự chấp nhận đó sẽ củng cố tính chính đáng của Nhà nước và những chính phủ được bầu cử sẽ có thể thực hiện mạnh mẽ cương lĩnh chính trị của mình, nghĩa là chương trình đã được đưa ra trong cuộc tranh cử.
Hai tiên đề ấy rất đáng kính, nhưng đã hiện ra như những ảo tưởng vì dựa trên niềm tin rằng quá trình bầu cử hoàn toàn độc lập đối với những rủi ro của chính trường, rằng độ tin cậy của nó bắt nguồn từ sự chân thực, công chính của cuộc bầu cử. Để thêm thắt cho phải phép, người ta thường viện dẫn những tiêu chí quốc tế về bầu cử công chính, tiêu chí thực ra chỉ là những lời tuyên bố long trọng sẽ tuân thủ các nguyên tắc của Tuyên ngôn Nhân quyền (1948) hay Định ước quốc tế về các quyền công dân và chính trị 1966 (mà đoạn liên quan tới bầu cử chép nguyên si Tuyên ngôn Nhân quyền).
Trong hai thập niên vừa qua, các cuộc tranh chấp về bầu cử, phản đối kết quả xảy ra rất nhiều, trở thành xu hướng chung, ở các nước dân chủ lâu đời (Hoa Kỳ năm 2000 và 2020) hay mới mẻ (Mêhicô 2006-2012, Bờ biển Ngà, Kenya, Zimbawe vân vân). Bây giờ nhìn lại, có thể thấy những cuộc bầu cử tiến hành trong tình hình bấp bênh (Nam Phi năm 1994, Haïti năm 1990, Sénégal 2000) đã không bị phản đối, lẽ ra có cơ sở để phản đối.
Những ví dụ ấy cho phép tạm kết luận: các cuộc bầu cử này đã được chấp nhận trong những điều kiện nhất định cho nên được tin cậy mặc dầu trình độ tổ chức kém. Trong trường hợp Nam Phi năm 1994, sự thỏa thuận giữa các chính đảng giữ vài trò quyết định. Một khi các đảng phải Nam Phi đã chẩp nhận phổ thông đầu phiếu thì kết quả (thắng lợi của ANC) coi như đã hoàn tất, và cuộc bỏ phiếu chỉ có giá trị tượng trưng mà không ai phản đối.
Điều đó không có nghĩa là chính quyền không phải cải tiến hệ thống bầu cử để cho nó tiêu biểu hơn, để giảm thiểu những bất bình đẳng quá lố trong cuộc tranh đua (ngân sách tranh cử, khả năng sử dụng các phương tiện truyền thông).
Điều cốt yếu là các cuộc cải cách ấy có củng cố hay không độ tin cậy của các cuộc bầu cử, độ tin cậy này gắn liền với độ tin cậy đối với nhà cầm quyền phụ trách tổ chức bầu cử.
Về mặt dư luận (cần phân biệt với bình diện pháp lý), khi kết quả nghiêng về phe đối lập, cuộc bầu cử được coi là đáng tin cậy hơn, mặc dầu hệ thống bầu cử còn nhiều bất cập. Trường hợp Myanmar cách đây mười năm là một ví dụ điển hình[12].
Trong mấy chục năm qua, ngày càng nhiều khiếu nại về bầu cử không đáng tin cậy[13]. Không đi vào phân tích phức tạp, tôi cho rằng có thể khẳng định đó là cuộc khủng hoảng về một số điều hư cấu nền tảng của những cuộc bầu cử như ta biết. Xin đơn cử hai thí dụ. Nếu cử tri có thể bỏ phiếu bầu và các lá phiếu có thể kiểm đếm, đầu tiên có nghĩa là những lá phiếu ấy như nhau, và các cử tri bình đẳng với nhau. Hư cấu là ở chỗ này: người công dân (nam/nữ) là một thực thể trừu tượng, một hư cấu pháp lý. Bất kể giàu, nghèo, nam, nữ, đó là một cá thể đơn độc, “tự do” không liên hệ gì tới một nhóm hay cộng đồng nào cả, đơn thuần chỉ là một con số. Mọi người bình đẳng trước Thượng đế và pháp luật.
Điều hư cấu thứ hai ẩn mình dưới quy luật đa số được coi là hiển nhiên. Thật vậy, ai được 50% cộng 1 phiếu là thắng cử. Mọi người đều biết là trong thực tế, chẳng có ai thắng cử như vậy cả, mà phải thiết lập những thể lệ thực tế dựa trên những tính toán số lượng. Hư cấu là ở chỗ đồng hóa đa số với ý chí chung, còn quy luật đa số vừa không hợp hiến vừa chẳng có gì là dân chủ.
Chính vì vậy mà hư cấu về sự nhất trí có tính quyết định trong cuộc chơi bầu cử. Tính chất hư cấu (hoàn toàn không có nghĩa là tưởng tượng) của sự nhất trí đòi hỏi rằng đa số được coi là sự thể hiện của ý chí chung như được nói trong Tuyên ngôn về các quyền con người và quyền công dân.
Hiểu theo ý nghĩa ấy, cuộc bầu phiếu không chỉ đơn thuần là thể thức phân định các ứng cử viên, mà trước hết nó là sự thể hiện chủ quyền của dân tộc, sau đó, là sự tuân phục của nhân dân (trừu tượng) đối với các định chế mà sự tuân phục ấy khai sinh ra.
Ta biết rằng: trong các cuộc bầu cử, toàn thể dân chúng, cùng một lúc, nhất loạt bỏ phiếu (tất nhiên không kể những nước rộng như lục địa như Ấn Độ, Indonesia), và qua động tác đó, thể hiện sự gặp gỡ Nhà nước. Như thế là cộng đồng tự biến thành một sự thông công. Vị tổng thống mới đắc cử, trong diễn văn đầu tiên, hiếm ai không tuyên bố rằng mình được toàn dân – chứ không phải chỉ là cử tri của riêng mình – bầu ra.
Chính vì thế mà nhiệm vụ của các đại biểu quốc hội không phải là một nhiệm vụ cưỡng bách: họ đại diện cho ý chí toàn thể. Lá phiếu do đó không phải là một quyền hành, chính xác không phải là sở hữu cá nhân, mà là sự ủy quyền cho một bộ phận (cá thể) của chủ quyền dân tộc nhằm lựa chọn một chính quyền tối ưu cho toàn dân. Vì vậy mà phải cấm chỉ việc mà cả, buôn bán lá phiếu (thuật ngữ pháp lý gọi trọng tội này là simonie) – sự cấm đoán này được nêu rõ trong mội bộ luật về bầu cử.
Song quan niệm này bị đặt lại vấn đề tại các nước đang chấp nhận những sự phân cách, xé lẻ.
Ngày càng nhiều những phân biệt về bản sắc dẫn tới những cuộc bầu cử nặng về cảm tính, ngày càng có nhiều người thất cử phủ nhận kết quả cuộc bỏ phiếu, đôi khi bất chấp những quyết định tư pháp. Làm thế nào để cưỡng lại sự phủ nhận các luận điểm truyền thống về bầu cử hợp lý, đầy đủ thông tin, ôn hòa, đó chính là thách thức mà chúng ta phải vượt qua để trả lại cho các cuộc bầu cử chức năng thực sự của chúng: làm công cụ để giải quyết các xung đột[14], tái kiến tạo cộng đồng dân tộc.
Thay lời kết luận
Dân chủ khủng hoảng, quyền con người bị đe doạ, các cuộc bầu cử càng ngày càng bị chỉ trích, đó là những đề tài phổ biến trong công luận có ý thức hiện nay, điều rất đáng lo ngại vì nó đang diễn ra ở ngay các nước có truyền thống dân chủ. Xét cho kỹ, để tiến hành những nghiên cứu nhằm đề ra những hướng giải quyết khả thể, dường như cần đề ra mấy tiêu ngữ: bớt than vãn, thêm canh tân, nêu ra những “hư cấu” mới.
Canh tân chẳng hạn là rà soát lại các khái niệm và giá trị đang bị cật vấn, thích ứng chúng với từng bối cảnh dân tộc, chính trị, văn hóa và lịch sử, là những bối cảnh luôn luôn có tính chất khu biệt, cụ thể.
Canh tân, trong lãnh vực quyền con người, còn là làm giàu thêm các khái niệm và giá trị bằng sự đóng góp của những nền văn hóa khác, lâu đời hơn và không kém phần quan trọng. Rất có ý nghĩa là việc bà Simone Weil, một nhân vật xuất sắc của Pháp, đã nêu lên ý tưởng về một bản Tuyên ngôn phổ quát về trách nhiệm để bổ sung cho tuyên ngôn về các quyền con người. Ý tưởng này mở đường cho những suy nghĩ phong phú.
Cuối cùng, trong lãnh vực bầu cử, ta thấy xuất hiện nhiều cuộc cải tổ, với những mục tiêu khác nhau, nhưng đều nhằm củng cố vai trò và độ đáng tin của các cuộc bầu cử. Đó cũng là những chỉ dấu về nỗ lực canh tân. Còn chuyện “hư cấu”, có lẽ ta nên trở lại định nghĩa của triết gia Alain: dân chủ là hình thái giải quyết các xung đột một cách hòa bình và hợp pháp.
Mục tiêu của khóa học này, cũng phù hợp với quan niệm của Viện trưởng Oswaldo Chacón, là làm cho nó trở thành quỹ tích của những suy nghĩ như trên, nơi tích tụ tri thức và thực hành của mọi người tham gia khóa học.
Xin thành thực cảm ơn các bạn đã cho tôi đồng hành trong cuộc viễn du rất đáng mê say bắt đầu từ hôm nay.
Nguyễn Hữu Động
Tháng 10/11/2025.
Nguồn: “Thuyết trình khai mạc khoá giảng Chiapas. Những hư cấu kiến tạo dân chủ”, DienDan.Org, 12/11/2025
----
Bài có liên quan: Diễn từ chào mừng Khoá học “Nguyễn Hữu Động” tại Đại học tự trị Chiapas
Chú
thích: [1]
John Dunn: Democracy, A History. Atlantic Books. London 2005 [2]
Geoffroy de Lagasnerie: La démocratie comme concept pertinent du politique. Trong Dominique Rousseau & Sandra Laugier: La Démocratie, une Idée Force. Paris 2023 [3]
Steven Levitsky & Daniel Ziblatt: How Democracies Die. New York 2018; Frederic Worms: Les maladies chroniques de la Démocratie. Paris 2017; Jean Claude Kaufmann: La Fin de la Démocratie, Paris 2019; Guy Hermet: L’Hiver de la Démocratie. Paris 2007… xin đơn cử một vài trong số hàng chục tác phẩm về đề tài này. [4]
Dominique Rousseau & Sandra Laugier. Sách đã dẫn. [5]
Xem phân tích tuyệt vời của Louis Althusser: Montesquieu: La politique et l’histoire. Paris 1959. [6]
Francis Dupuis-Déri: Démocratie: Histoire politique d’un mot. Québec 2013. [7]
Charlotte Wilson: Anarchist Essays. London Freedom Press 2000; Dominique Schnapper: Les illusions de la démocratie. Paris 2025 [8]
Marcel Gauchet: La Révolution des droits de l’homme. Paris [9]
Chantal Mouffe & Iñigo Errejón: Construire un peuple. Pour une radicalisation de la démocratie. Paris 2017. [10]
Khái niệm nhân dân này không liên quan gì tới số lượng. Về điểm này, cuộc thảo luận kéo dài từ lâu, và khá phức tạp. Mao chủ tịch nói: Nhân dân mong muốn cách mạng… [11]
Claude Lefort: Essais sur le Politique. Paris 1986 [12]
Cuộc bầu cử tháng 11-2015 đã mang thắng lợi chưa từng có cho Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Cộng đồng quốc tế coi đó là một cuộc bầu cử mẫu mực, đồng thời là một thất bại của quân đội. Tuy nhiên, không ai để ý rằng 10% dân chúng, những người Hồi giáo, bị gạt ra ngoài. Họ bị coi là người ngoại quốc, mặc dầu họ sống ở đây từ nhiều thế hệ, chính quyền Myanmar đã truất quốc tịch của họ năm 1982. [13]
Adam Przeworski: Why Bother with Elections. Polity Press 2018; David Van Reybrouck: Contre les élections. Actes Sud 2013. [14]
Christopher H. Achen & Larry M. Bartels: Democracy for Realists. Why Elections Do Not Produce Responsive Government. Princeton University Press 2016.
