VỀ CÁC THUẬT NGỮ LIÊN QUAN TỚI KHÁI NIỆM TRƯỜNG TRONG TỪ ĐIỂN QUỐC TẾ VỀ BOURDIEU
CHAMP
[TRƯỜNG]
![]() |
Khái niệm trường được mượn từ vật lý lý thuyết: nó nắm bắt các mối quan hệ giữa các yếu tố trong một không gian, được quan niệm như một trường lực, theo nguyên lý (lực) hút – (lực) đẩy. Nguyên lý này được các nhà lý thuyết Gestalt chuyển sang tâm lý học. Kurt Lewin đã thích nghi nguyên lý đó vào tâm lý học xã hội để tư duy về các tương tác giữa cá nhân và môi trường của mình. Cũng theo nghĩa này của từ trường, Pierre Bourdieu đã đưa nguyên lý ấy vào xã hội học để tư duy về các không gian xã hội tương đối tự trị, đồng thời định nghĩa lại nó theo cách trừu tượng hơn: một trường lực (“không gian của các vị trí”), hoạt động cùng lúc như một trường đấu tranh (“không gian của sự chiếm lĩnh các cương vị”), hai cấp độ phân tích cần phải phân biệt, mặc dù cả hai không gian này duy trì các mối quan hệ đồng đẳng về mặt cấu trúc [Sociologie générale 1: 501-503].
Sự hình thành và xây dựng lý thuyết trường
Từ những năm 1970 trở đi, Bourdieu đã phát triển dự án một lý thuyết tổng quát về các trường không được công bố khi ông còn sống (bản thảo của cuốn sách vẫn chưa hoàn thành), nhưng vẫn có nhiều dấu vết, từ các hội thảo, bài giảng và bài nói chuyện mà ông dành cho lý thuyết này [PB 2013a; SG 1], cho đến các nghiên cứu mà bản thân ông, các thành viên trong nhóm của ông và các sinh viên của ông đã thực hiện về một số trường đặc thù: văn học [PB 1975d; Les règles de l'art], tôn giáo, khoa học [PB 1975e; 1976c; Science de la science et réflexivité], chính trị [Propos sur le champ politique], hàn lâm [Homo academicus], triết học [PB 1975j; L’Ontologie politique de Martin Heidegger], nghệ thuật [PB 1987a; Manet], biên tập [PB 1999a] – và cả thời trang cao cấp [Questions de sociologie: 196-206] (về sự hình thành và sự phát triển của lý thuyết này, xem Sapiro [2017]).
Sự xây dựng xã hội học khái niệm trường đáp ứng một vấn đề kép. Trước hết, cần phải tính đến quá trình lịch sử phân biệt các hoạt động xã hội kèm theo sự phân công lao động. Tiến trình tự trị hóa của một lĩnh vực hoạt động thường là kết quả của cuộc đấu tranh do một nhóm chuyên gia (ví dụ, luật sư) tiến hành để có được sự công nhận của xã hội về thẩm quyền và năng lực của họ trong lĩnh vực được đề cập, tạo ra sự phân cách giữa những người chuyên nghiệp và những người ngoại đạo (ví dụ, giữa giáo sĩ và người thế tục). Lý thuyết trường hệ thống hóa sự phân tích quá trình này được phát hiện đặc biệt bởi Max Weber, và rút ra những hệ quả về mặt phương pháp luận, cụ thể là khả năng tự trị hóa một trường như một đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, và đây là vấn đề thứ hai, sự tự trị này luôn luôn là tương đối. Những ràng buộc về mặt xã hội, kinh tế và chính trị liên tục đè nặng lên những thế giới tương đối tự trị này, nhưng tác động của chúng bị “khúc xạ” (một khái niệm khác mượn từ vật lý) bởi logic đặc thù của trường này, tức là được chuyển dịch lại thành những được mất đặc thù (của trường).
Tiến trình khái niệm hóa này và phương pháp được đề xuất vừa vay mượn từ cả thuyết cấu trúc và chủ nghĩa Marx, đồng thời cũng vừa tự cách biệt với các học thuyết này. Trong khi các cách tiếp cận theo thuyết cấu trúc đã tự giới hạn trong việc phân tích các hệ thống biểu tượng (không gian của sự chiếm lĩnh các cương vị khoa học, thẩm mỹ hoặc khác), thì những nhà mác xít thường hay quy giản chúng thành các mối quan hệ quyền lực khách quan (không gian của các vị trí). Tuy khôi phục lại tính tự trị của không gian của việc chiếm lĩnh các cương vị, Bourdieu vẫn giữ lại từ chủ nghĩa Marx một quan niệm động về các mối quan hệ xã hội, bắt nguồn từ chiều kích đấu tranh của chúng. Đây là điều cho phép kết nối hai không gian, không gian của các vị trí và không gian của sự chiếm lĩnh các cương vị: cuộc đấu tranh cạnh tranh là biểu hiện của các nguyên tắc đối lập cấu trúc nên trường và quy định các đối kháng và các liên minh (theo nguyên lý hút - đẩy) [QS: 113-120]. Các nguyên tắc này về sự đối lập cũng tạo thành cơ sở cho sự đồng dạng về mặt cấu trúc giữa các trường.
Trường là không gian của những khả thể trong đó sự chiếm lĩnh các cương vị - tức là sự lựa chọn giữa các chọn lựa ít nhiều được xây dựng như thế - được xác định bởi những khoảng cách có ý nghĩa (theo mô hình của ngôn ngữ học cấu trúc), những khoảng cách mang đầy đủ ý nghĩa khi được đối chiếu với lịch sử của trường (ví dụ, sự đối lập giữa âm nhạc có giai điệu và phi giai điệu, hoặc giữa triết học phân tích và triết học “lục địa”). Thật vậy, đặc trưng của các trường tương đối tự trị là lấy bản thân làm mục đích cuối cùng (autotélisme) hoặc tính tự tham chiếu (autoréférentialité) của chúng, tức là sự tham chiếu đến lịch sử của chính chúng: đây là trường hợp của các trường sản xuất văn hóa (văn học, nghệ thuật, âm nhạc) cũng như các trường khoa học và pháp lý, nơi người ta không thể bỏ qua các vấn đề trong quá khứ và các giải pháp được đưa ra nếu không muốn tự loại trừ mình ra khỏi trường. Bị chi phối bởi một nomos/đạo lý chung, dựa trên cùng một niềm tin vào trò chơi (illusio), việc chiếm lĩnh các cương vị xung đột với nhau xung quanh định nghĩa chính đáng về hoạt động đang được tiến hành (trường đấu tranh). Nhưng hoàn toàn không bị phân định bởi sức mạnh nội tại của chúng, sự chiếm lĩnh các cương vị này lại bị chi phối bởi các mối tương quan lực lượng khách quan chi phối không gian của các vị trí do các tác nhân chiếm giữ.
Cấu trúc và động năng của các trường
Không gian của các vị trí này (trường của các lực) được cấu trúc bởi sự phân phối (bất bình đẳng) của vốn đặc thù trong nội bộ không gian này: các tác nhân sở hữu vốn đặc thù cao nhất chiếm các vị trí thống trị, trong khi những tác nhân có ít vốn đặc thù, thường là những người mới tham gia, chiếm các vị trí bị thống trị. Đoạn tuyệt với cả thực thể luận và tương tác luận (tương tác luận biểu tượng và cả tương tác luận tự phát phổ biến trong lịch sử văn học và lịch sử nghệ thuật, trong đó xu hướng cá biệt hóa các quỹ đạo thúc đẩy sự quan tâm đến các mối quan hệ liên cá nhân), cách tiếp cận địa hình vừa muốn mang tính cấu trúc (tính quan hệ) và tính khách quan: kết nối với nhau bởi sự cạnh tranh xung quanh cùng một được mất, việc chiếm lấy vốn đặc thù, các tác nhân được xác định một cách khách quan trong mối quan hệ giữa họ với nhau, độc lập với các tương tác của họ. Sự tương ứng giữa “không gian các vị trí” và “không gian của sự chiếm lĩnh các cương vị”, vốn được thể hiện, chẳng hạn trong “phong cách”, được trung gian hóa bởi các “thiên hướng” mà các tác nhân du nhập vào trường. Những thiên hướng này làm cho sự chiếm lĩnh các cương vị có thể dự đoán được trong một không gian các vị trí nhất định. Trong mỗi trường, “phe bị thống trị” đối lập với “phe thống trị”, phe sau có xu hướng bảo tồn định nghĩa thống trị về hoạt động liên quan (“chính thống”), trong khi phe trước có xu hướng tranh cãi nó (“dị giáo”). Một sự phân biệt thứ hai mang tính cấu trúc hóa, được Bourdieu phát triển đặc biệt hơn cho các trường sản xuất văn hóa, đối lập những người ủng hộ tính tự chủ của trường, dựa trên sự đánh giá của các người đồng môn phái được xây dựng theo các tiêu chí đặc thù để xác định giá trị biểu tượng của các sản phẩm, với những người có xu hướng du nhập các sự ràng buộc ngoại tại, ý thức hệ hoặc kinh tế.
Bourdieu cũng phân biệt các trường trong đó các vị trí đã được thiết lập - ông sử dụng khái niệm kết tinh hóa do Gerhard Lenski xây dựng - trong đó các tác nhân kiểm soát quyền gia nhập (thông qua các bằng cấp, các kỳ thi, sự hạn chế đầu vào (numerus clausus), v.v.) với những trường trong đó các vị trí vẫn còn phải được thiết lập - chúng được “phi kết tinh hóa” - chẳng hạn như các lĩnh vực hoạt động mới hoặc các trường ít bị quy tắc hóa (ví dụ như trường văn học). Đặc trưng của các trường đầu là mức độ thuần nhất cao hơn về mặt tuyền lựa xã hội, trong khi các trường sau thường thu hút các tác nhân không đồng nhất, một sự phân tán có thể dẫn đến “sự chia tách/scissiparité” [SG 1: 465-466]. Ví dụ, ông so sánh sự kết tinh cao của các ngành học cũ với bằng thạc sĩ/agrégation (văn học) với sự phi kết tinh của xã hội học, trong đó các cá nhân rất hỗn tạp cùng tồn tại.
Sự thay đổi đôi khi là do các nhân tố ngoại sinh, chẳng hạn như các tình huống khủng hoảng hoặc bị chính trị hóa, hoặc do chuyển đổi hình thái (gia tăng số lượng sinh viên tốt nghiệp), hoặc do các nhân tố nội sinh, cụ thể là các cuộc đấu tranh nội bộ, sự lão hóa xã hội, các cuộc cách mạng biểu tượng. Nếu các nhân tố ngoại sinh góp phần vào sự đồng bộ hóa các trường, như trong biến cố tháng 5 năm 68 [HA], thì các nhân tố nội sinh áp đặt một tính thời gian đặc thù cho từng nhân tố một, một dấu hiệu khác về tính tự chủ tương đối của các nhân tố này.
Các trường có thể được phân chia thành các tiểu trường: ví dụ, các ngành học tạo thành các tiểu trường ít nhiều tự chủ trong trường hàn lâm. Tuy nhiên, ranh giới của các (tiểu) trường vẫn là một cuộc đấu tranh liên tục (Bourdieu đưa ra ví dụ về cuộc đấu tranh của Durkheim để xác định rõ lĩnh vực của xã hội học đối với một bên là tâm lý học và bên kia là triết học), tiêu chí là biết các hiệu ứng của trường tác động đến mức nào [SG 1: 483-484].
Là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu ở Pháp từng chứng minh giá trị phát hiện của giá trị này đối với các chủ đề khác nhau và làm cho giá trị đó thêm phong phú bằng cách đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa các trường và các chiều kích xuyên quốc gia của chúng [Brahimi và cộng sự 2018], khái niệm trường lan rộng ra nước ngoài trước hết trong các nghiên cứu văn học (đặc biệt là ở Đức, Ý, Israel và Nhật Bản). Ít được sử dụng hơn nhiều ở Hoa Kỳ so với các khái niệm “vốn văn hóa” và “tập tính”, khái niệm trường đã có sự hồi sinh vào khoảng năm 2010, trong các cách sử dụng ít nhiều chặt chẽ và ít nhiều liên quan đến lý thuyết xã hội học của Bourdieu.
Gisèle Sapiro
Giám đốc nghiên cứu CNRS và EHESS
BRAHIMI M., T. LEPERLIER et G. SAPIRO, 2018, “Champs intellectuels transnationaux”, ARSS, no 224. – SAPIRO G., 2017, “Champ”, Politika.io, en ligne: https://www.politika.io/fr/notice/champ.
☛ ALLEMAGNE, ART, AUTONOMIE, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CHAMP ACADÉMIQUE, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP POLITIQUE, CHAMP RELIGIEUX, CHAMP SCIENTIFIQUE, CRISE, CROYANCE, DIACHRONIE, DIFFÉRENCIATION, DISPOSITION(S), DIVISION DU TRAVAIL, DURKHEIM, ÉCART, ÉDITION, ESPACE SOCIAL, ÉTATS-UNIS, FORCE, HABITUS, HAUTE COUTURE, HÉTÉRODOXIE, HOMO ACADEMICUS, HOMOLOGIE(S) ILLUSIO, INTERACTION(S), INTERACTIONNISME, ISRAËL, ITALIE, JAPON, JEU(X), LEWIN, LITTÉRATURE, MAI 68, MARXISME, MUSIQUE, NOMOS, OBJECTIVISME, ONTOLOGIE POLITIQUE DE MARTIN HEIDEGGER (L’), ORTHODOXIE, POSITION(S), POSSIBLES, PRISE(S) DE POSITION, RECONNAISSANCE, RÉFRACTION, RELATIONNELLE (APPROCHE), RÉVOLUTION SYMBOLIQUE, SOUS-CHAMP, STRUCTURALISME, TRAJECTOIRE(S), TRANSFORMATION(S), VIEILLISSEMENT, WEBER.
Thư mục:
1980 [QS] Questions de sociologie, Paris, Minuit, rééd. 2002.
1984 [HA] Homo academicus, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une postface, 1992.
1988 [OPMH] L’Ontologie politique de Martin Heidegger, Paris, Minuit.
1992 [RA] Les Règles de l’art. Genèse et structure du champ littéraire, Paris, Seuil, rééd. “Points” 1998, 2015*.
2000 [PCP] Propos sur le champ politique, introduction de P. Fritsch, Lyon, Presses universitaires de Lyon.
2001 [SSR] Science de la science et réflexivité. Cours du Collège de France 2000-2001, Paris, Raisons d’agir.
2013 [MRS] Manet. Une révolution symbolique, 1998-2000, suivis d’un manuscrit inachevé để Pierre et Marie-Claire Bourdieu, éd. établie par P. Casanova, P. Champagne, C. Charle, F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
2015 [SG 1] Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et all., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.
[PB 1975d] “L’invention de la vie d’artiste”, ARSS, no 2, p. 67-93.
[PB 1975e] “La spécificité du champ scientifique et les conditions sociales du progrès de la raison”, Sociologie et sociétés, vol. 7, no 1, p. 91-118.
[PB 1975j] “L’ontologie politique de Martin Heidegger”, ARSS, no 5-6, p. 109-156.
[1976c] “Le champ scientifique”, ARSS, no 2-3, p. 88-104.
[1987a] “L’institutionnalisation de l’anomie”, Les Cahiers du Musée national d’art moderne, no 19-20, p. 6-19.
[PB 1999a] “Une révolution conservatrice dans l’édition”, ARSS, no 126-127, p. 3-28.
* * *
CHAMP ACADÉMIQUE
[TRƯỜNG HÀN LÂM]
Được nghiên cứu sau cuộc khủng hoảng tháng 5 năm 68 ([PB 1971e] và sau đó trong Homo academicus, trường hàn lâm cấu thành, theo Pierre Bourdieu, một không gian xã hội tự chủ có thể được mô tả như là tập hợp các tác nhân chiếm giữ các vị trí trong các trường đại học và các định chế giáo dục cao cấp khác hướng nhiều hơn đến nghiên cứu như Collège de France, École des hautes études en sciences sociales (EHESS), hoặc École pratique des hautes études (EPHE), các định chế mà Bourdieu đã từng là thành viên. Do đó, nó khác với chính trường khoa học, ngay cả khi, tất nhiên, một phần đáng kể của trường hàn lâm chồng chéo với trường khoa học (thông qua các phòng thí nghiệm nghiên cứu), một phân khúc khác của trường hàn lâm thì kết nối trực tiếp hơn với hệ thống giáo dục. Vả lại, tính hai mặt này (giảng dạy và nghiên cứu) là một trong những nét đặc thù của trường hàn lâm hiện đại và góp phần tạo nên sự chia rẽ giữa một cực quyền lực “thế tục”, mà mục đích là kiểm soát sự tái sản sinh, và một cực quyền lực “biểu tượng”, nơi các vấn đề thuần túy về trí tuệ chiếm ưu thế.
Là sản phẩm của một quá trình lịch sử rất dài, trường hàn lâm đương đại nằm trong một sự liên tục nhất định với đại học thời trung cổ [Charle và Verger 2012] và kéo dài các chức năng xã hội truyền thống đã tạo ra chúng: đào tạo các ngành luật và y khoa, tái sản sinh thành phần giảng dạy và các nhà nghiên cứu (đã thay thế cho sự tái sản sinh giới giáo sĩ cấp cao) và ngày càng nhiều, xã hội hóa các nhà quản lý cấp cao và trung cấp tương lai của nền kinh tế: quản lý, kỹ sư, v.v.. Tuy nhiên, tại Pháp, trường hàn lâm vẫn giữ vị trí bị thống trí so với trường của các Trường Lớn/Grandes Écoles và sự xích lại gần nhau đang diễn ra giữa hai trường này vẫn còn yếu ớt.
Cấu trúc cơ bản của trường này, đối lập các ngành học “thế tục” với các ngành học “tinh thần”, vẫn tương đối ổn định kể từ khi được thành lập. Luật, kinh tế và quản lý, và y học có liên hệ khá rõ ràng với cực thứ nhất, khoa học nhân văn và khoa học toán học, vật lý và sinh học “thuần túy” với cực thứ hai, ngay cả khi ranh giới đang thay đổi, đặc biệt là do những thay đổi tác động đến các điều kiện của sự sản xuất khoa học. Khoa học ứng dụng (khoa học kỹ thuật, khoa học y sinh, v.v.) góp phần làm cho ranh giới bị mờ dần.
Kể từ những năm 1980 và những chuyển đổi toàn cầu ảnh hưởng đến hệ thống kinh tế thế giới (toàn cầu hóa, tự do hóa, tài chính hóa, v.v.), trường hàn lâm đã phải chịu những thay đổi đáng kể ở tất cả các quốc gia: các vấn đề kinh tế hiện diện khắp nơi, bất kể trong ngành nào, và được kèm theo với những chuyển đổi hình thái sâu rộng. Dân số sinh viên tiếp tục tăng, nhưng nhiều hơn ở một số ngành nhất định so với các ngành khác: hiện nay các ngành “thế tục” dường như được hưởng lợi từ mối liên hệ chặt chẽ hơn của chúng với thị trường lao động, trong khi sức hấp dẫn của khoa học nhân văn và khoa học “thuần túy” đang giảm sút.
Các trường đại học hiện được kỳ vọng sẽ đóng góp chủ yếu vào việc sản xuất vốn con người và sự tìm kiếm sự đổi mới, hai khía cạnh của “nền kinh tế tri thức” này, được các nhà kinh tế như Philippe Aghion ở Pháp coi trọng, hiện đang cấu trúc các chức năng xã hội của các trường đại học.
Trong bối cảnh này, trường hàn lâm đang trải qua những chuyển đổi rất lớn: sự xuất hiện của thị trường giáo dục cao cấp toàn cầu, sự thống trị ngày càng tăng của tiếng Anh trong phân khúc cao cấp của thị trường này, sự suy yếu của trường đại học “theo mô hình Humbold”[*] truyền thống và của “chế độ quan lại”, có lợi cho sự quản lý công mới và các chỉ số hiệu suất của nó (thành tích thi cử, sự hội nhập chuyên môn của sinh viên, năng suất khoa học, đổi mới, v.v.), sự lớn mạnh tương ứng của một nhóm tinh hoa quản lý thường được đào tạo về kinh tế và quản lý, sự biến đổi của các tổ chức và các nghề nghiệp, thách thức ngày càng tăng đối với quyền tự chủ nghề nghiệp của các giáo sư, v.v.. Do đó, áp lực của hệ thống kinh tế đối với trường hàn lâm đang thách thức quyền tự chủ đã được giành lấy một cách khó khăn từ các thế lực tôn giáo và chính trị.
Từ đấy, cấu trúc của trường trải qua những thay đổi đáng kể. Các vị trí quyền lực hàn lâm biến đổi và có xu hướng bị các chuyên gia trong quản lý học thuật “kế toán” độc chiếm, những người ngày càng xa lánh những người sở hữu “vốn khoa học có uy tín”. Những người sau ngày càng phải chịu những ràng buộc về mặt thể chế (như áp lực phải xuất bản, tìm kiếm nguồn tài trợ uy tín, nhu cầu quốc tế hóa, v.v.), những ràng buộc của sự hiển thị trên các phương tiện truyền thông (với mệnh lệnh phải “làm tăng giá trị”), và thậm chí là những ràng buộc về mặt chính trị (với nhiều hình thức kiểm soát ngầm đối với việc thể hiện công khai của họ). Ngược lại, điều kiện làm việc của “giới tăng lữ cấp thấp” trong đại học ít nhiều càng xấu đi: việc làm bấp bênh gia tăng, mức lương thấp và trì trệ, thiếu sự công nhận, điều kiện giảng dạy trở nên khó khăn hơn do sự hợp lý hóa ngân sách, v.v..
Do đó, những mâu thuẫn trong trường hàn lâm, vốn đã được thấy rõ vào những năm 1990, đang có xu hướng gia tăng và thậm chí được phổ cập trên trường hàn lâm toàn cầu, một hiện tượng được củng cố bởi sự kết nối ngày càng tăng giữa các học giả thông qua các mạng xã hội và sự quốc tế hóa các chương trình giảng dạy.
Từ đó, các cam kết công khai của Bourdieu, cùng với l’Association de réflexion sur les enseignements supérieurs et la recherche (ARESER, do Christophe Charle đứng đầu)/Hiệp hội Suy ngẫm về Giáo dục Đại học và Nghiên cứu), vào những năm 1990, nay mang tính thời sự hơn bao giờ hết. Tuy không ủng hộ việc quay trở lại các hình thức truyền thống của chủ nghĩa quan liêu hàn lâm và hệ thống phân cấp cứng nhắc của nó, vốn đã bị thách thức vào tháng 5 năm 1968, thì cũng cần phải tái khẳng định các tham vọng phổ quát và dân chủ, các chức năng công dân và văn hóa của đại học, bằng cách đảm bảo vai trò động lực của đại học trong việc sản xuất và phổ biến kiến thức tự chủ [ARESER 1997].
Frédéric Lebaron
professeur de sociologie à l’ENS Cachan
ARESER, 1997, Quelques diagnostics et remèdes urgents pour une université en péril, Paris, Raisons d’agir. – CHARLE C. et J. VERGER, 2012, Histoire des universités. XIIe-XXIe siècles, Paris, PUF.
☛ ASSOCIATION DE RÉFLEXION SUR LES ENSEIGNEMENTS SUPÉRIEURS ET LA RECHERCHE, AUTONOMIE, CHAMP, CHAMP SCIENTIFIQUE, COLLÈGE DE FRANCE, ÉCOLE DES HAUTES ÉTUDES EN SCIENCES SOCIALES, ENSEIGNEMENT, GRANDES ÉCOLES, HOMO ACADEMICUS, INSTITUTION(S), MAI 68, UNIVERSITÉS
Thư mục:
1984 [HA] Homo academicus, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une postface, 1992.
[PB 1971e] “La défense du corps” (avec L. Boltanski et P. Maldidier), Informations sur les sciences sociales, vol. 10, no 4, p. 45-86.
* * *
CHAMP ARTISTIQUE
TRƯỜNG NGHỆ THUẬT
☛ ART, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE
* * *
CHAMP BUREAUCRATIQUE
[TRƯỜNG QUAN LIÊU]
Trong khi hai bài viết quan trọng từ những năm 1990, “Esprit d’État” và “De la maison du roi à la raison d’État” [PB 1990e; 1997b], đề cập rõ ràng đến sự hình thành và cấu trúc của trường quan liêu, thì sự khái niệm hóa khái niệm này thật sự đã không được xây dựng dựa trên một cuộc điều tra mang tính hệ thống, khác với trường văn học hoặc hàn lâm, chẳng hạn. Nó lại được trình bày theo từng đoạn liên tiếp giữa những năm 1970 và 1990 [PB 1976b; 1990f; 1993a; 1995f; La Misère du monde; La Noblesse d’État; Les Structures sociales de l’économie], và sau đó trong suốt tác phẩm Sur l'État.
Trường quan liêu (đôi khi còn được gọi là trường hành chính) được định nghĩa là không gian đấu tranh nơi diễn ra quá trình tạo ra và cuối cùng là quá trình thao tác hóa các loại hạng của Nhà nước. Do đó, nó không thể bị lẫn lộn với trường quyền lực, mà nó chỉ là một thành tố ở phần trên, cũng như với trường chính trị, thậm chí cũng không phải với guồng máy hành chánh theo nghĩa thể chế của thuật ngữ này. Là một không gian đấu tranh để quản lý các nguồn lực Nhà nước và chế tạo các loại hạng và các chính sách của Nhà nước, nó lan tràn ra bên ngoài những ranh giới của Nhà nước, bằng cách liên kết các tác nhân không phải là công chức, và trong các chức năng của nó, bằng cách không chỉ là dây cu roa truyền tải đơn giản của quyền lực chính trị mà là một nơi để chuyển dịch và kết hợp các xung lực xuất phát từ các trường khác nhau.
Sự khái niệm hóa này đoạn tuyệt với cách khái niệm hóa về khoa học hành chính, được Bourdieu quan niệm là sản phẩm phụ của trường quan liêu nhằm biện minh cho Nhà nước và nắm giữ độc quyền về sự định nghĩa lợi ích chung, tức là một trong những vấn đề trung tâm của các cuộc đấu tranh nội bộ và bên ngoài (hay tập thể) của trường [SÉ]. Để hiểu được hoạt động của trường quan liêu, chúng ta phải quay trở lại sự hình thành của Nhà nước hiện đại, tức là thời điểm diễn ra quá trình tự chủ hóa một phần của nó. Trong bài viết về Văn phòng của Nhà Vua/La maison du roi [PB 1997c], quá trình xây dựng không gian quan liêu được phân tích như là sản phẩm của các cuộc đấu tranh giữa các triều đại mà hiệu ứng là sự tập trung các nguồn lực mà người thừa kế ngai vàng dựa vào để chống lại tất cả những đối thủ khác tranh giành ngôi vua. Ở nguồn gốc của trường quan liêu còn có sự cạnh tranh giũa các gia tộc quý tộc lớn thúc đẩy việc vô hiệu hóa các cuộc xung đột bằng cách tạo ra các cơ quan được coi là trung lập trong việc quản lý các tài nguyên. Hậu quả của quá trình này là các tác nhân trong trường quan liêu ban đầu không có tước hiệu cha truyền con nối, và cũng không còn là những kẻ ăn bám trực tiếp nhờ vào cá nhân nhà vua và sau đó vào thể chế (Nhà nước) đã biến họ thành những gì họ đang là. Do đó, trong các cuộc cạnh tranh đối lập họ với các bộ phận khác của trường quyền lực, họ buộc phải hướng tới việc tạo ra các nguồn lực, các kiến thức lý thuyết (luật pháp, triết lí về lí lẽ Nhà nước) và những bí quyết thực tiễn nhằm thể hiện tính trung lập và tính vô vụ lợi, hoàn toàn trái ngược với các tác nhân đấu tranh công khai để giành quyền lực. Việc chiếm đoạt các nguồn lực này là cội nguồn của các cuộc cạnh tranh giữa các tác nhân trong trường này và, trong quá trình hình thành của nó, của sự chế tạo và tích lũy một vốn biểu tượng đặc thù. Thật sự là cốt lõi của chức vụ, sẽ sớm được thừa nhận bởi bằng cấp, vốn biểu tượng này bao gồm thẩm quyền vừa xác định và vừa cùng lúc là hiện thân của cái lợi ích chung.
Những đóng góp của tiến trình khái niệm hóa này đặc biệt rõ ràng khi phân tích các cuộc đấu tranh trong trường quan liêu. Thật vậy, những cuộc đấu tranh này không chỉ giới hạn ở các cuộc chiến giữa các tổ chức (các định chế hoặc phòng ban) hoặc các tập thể công chức tập trung vào lợi ích của họ, mà còn ở các trò chơi quyền lực tinh vi hơn ăn sâu vào không gian xã hội, như Bourdieu chỉ ra trong phân tích của ông về hoạt động của các ủy ban nơi các loại hạng của Nhà nước được xây dựng và được thao tác hóa thành các chuẩn mực và các chính sách. Trong “La production de l’idéologie dominante/Sự sản sinh ý thức hệ thống trị” [PB 1976b], Bourdieu phân tích cái modus operandi/phương thức vận hành: các hình thái lý luận chuyên môn và các hình thái tu từ để xác lập định chế, sự chế tạo ra những không gian trung lập và những không gian chung, các thực tiễn để vô hiệu hóa các sự đối kháng và để xác lập sự đồng thuận, sự thiết lập các loại hạng. Trong trường hợp chính sách nhà ở [PB 1990e; 1990f], ông phác thảo các phương thức thực thi/opus operatum, bằng cách xây dựng lại về mặt lý thuyết không gian của các ủy ban trong đó các công chức, các chủ ngân hàng, các người đại diện lợi ích, các người được bầu và các kỹ sư đối đầu với nhau để xác định chính sách nhà ở dưới dạng một mô hình cấu trúc sự đối lập giữa các đại diện của lợi ích chung và lợi ích riêng trên một trục, và giữa các thẩm quyền tài chính và kỹ thuật trên trục kia.
Quan trọng đối với việc hiểu được quá trình sản xuất các chính sách công, mô hình này đồng thời cho phép chúng ta xác định nền tảng xã hội của uy quyền tương đối của những người chủ chốt trong trường quan liêu. Như vậy, quyền lực trong và đối với trường này xuất phát từ sự tích lũy những vốn đa dạng (nguồn gốc xã hội, vốn giáo dục, vốn xã hội, tính đa vị trí) và những nguồn lực đặc thù của không gian này (sự công nhận gắn với các trường công, sự gần gũi với quyền lực bổ nhiệm chính trị, khả năng xử lý ngôn ngữ và các công cụ của Nhà nước, sự sở hữu các kỹ năng phù hợp với định nghĩa về năng lực thống trị về mặt chính trị, hoặc thậm chí là sự gần gũi với “trung tâm” hơn là với “ngoại vi” trong không gian thực thi tại địa phương) mà phần lớn những người không phải là chuyên gia lâu dài và được thừa nhận đều thiếu. Trong La Misère du Monde, Bourdieu mở rộng phân tích này về một không gian phụ để phác họa một bản đồ tổng thể trong đó, một mặt là “giới quý tộc Nhà nước thượng lưu”, một bộ phận của trường quyền lực, đối lập với bộ máy quan liêu cấp cơ sở, bị ngược đãi và ngày càng bị tước đoạt các phương tiện hành động, và mặt khác, giữa “bàn tay trái” và “bàn tay phải” của Nhà nước, cụ thể là các lĩnh vực chi tiêu và tài chính của Nhà nước.
Bằng cách bộc lộ sự mơ hồ về thẫm quyền và dựa trên sự tương tự với giới quý tộc pháp định, La Noblesse d'Etat đã tập trung sự chỉ trích và hiểu lầm đến mức cuối cùng làm lu mờ quan niệm của Bourdieu về trường quan liêu. Do đó, chỉ tương đối gần đây, khái niệm này mới được thảo luận và chủ yếu là bởi các tác giả gần gũi về mặt trí tuệ với Bourdieu. Những người này đặc biệt đề xuất tinh chỉnh mô hình chung bằng cách tính đến các biến thể lịch sử và đến thực tế hàng ngày của các cuộc đấu tranh giữa các phòng ban và các thành phần khác nhau của trường [Charle 2014]; bằng cách tích hợp nhiều hơn một cực hình sự trên thực tế tương đối bị loại trừ bởi sự lưỡng phân tài chính/chi tiêu [Wacquant 2010]; bằng cách tính nhiều hơn đến sự chuyển giao các thực tiễn của tổ chức tôn giáo trong quá trình hình thành của Nhà nước [Genet 2014]; điều này mang lại nhiều ý nghĩa hơn cho các nghi lễ và tính thiêng liêng xác định sứ mệnh của Nhà nước và hiệu quả của nó; bằng cách tạo ra mối liên hệ với các chính sách công, về mặt quá trình cũng như về những diễn biến lịch sử gần đây của chúng tại Pháp [Dubois 2014; Gaïti 2014] hoặc bằng cách tra cứu về không gian và các hoạt động giao thoa giữa trường chính trị và trường quan liêu [Eymeri 2003; Collas, Dulong và Sawicki 2018]. Tuy nhiên khi dứt khoát đoạn tuyệt với tư duy duy thực thể được truyền đạt bởi hầu hết các lí thuyết cạnh tranh về chế độ quan liêu, quan điểm mang tính quan hệ được nêu bật bởi khái niệm về trường quan liêu khiến cho giờ đây, khó có thể tư duy về “sự cạnh tranh giữa các bộ phận hành chánh”, về mối quan hệ giữa “Nhà nước và xã hội dân sự” hoặc về “quyền lực của công chức” từ các ngành bị phân cách của xã hội học, khoa học chính trị hoặc sử học dành cho chính quyền. Ngoài Nhà nước hiện đại và đương đại của Tây Âu, khái niệm này cũng mời gọi việc phân tích các không gian khác; đây là trường hợp so sánh với Trung Quốc thời đế chế [Will 2014] mà còn với những thực tế hiện tại hoặc tương lai, ví dụ khi Loïc Wacquant [2010] nối kết sự suy yếu của Nhà nước Phúc lợi/Welfare với sự củng cố của Nhà nước hình sự để hiểu các cấu trúc của Nhà nước tân tự do đang hình thành, hoặc trong những phác thảo đầu tiên nhằm mục đích suy nghĩ về sức mạnh của các trường quan liêu vượt ra ngoài Nhà nước và các quốc gia, như trong trường hợp của Liên Minh Châu Âu [Georgakakis 2012; Georgakakis và Vauchez 2015].
Didier Georgakakis
Giáo sư khoa học chính trị Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne
CHARLE C., 2014, “Du bon usage des divergences entre histoire et sociologie”, ARSS, no 201-202, p. 106-111. – COLLAS TH., D. DULONG et F. SAWICKI (dir.), 2018, “Sociographie des cabinets ministériels”, Revue française d’administration publique, no 168, p. 745-912. – DUBOIS V., 2014, “L’action de l’État, produit et enjeu des rapports entre espaces sociaux”, ARSS, no 201-202, p. 11-25. – EYMERI J. M., 2003, “Frontière ou marche? De la contribution de la haute administration à la production du politique”, in J. LAGROYE, La politisation, Paris, Belin, p. 47-78. – GAÏTI B., 2014, “L’érosion discrète de l’État-providence dans la France des années 1960. Retour sur les temporalités d’un “tournant néo-libéral”“, ARSS, no 201-202, 2014/1-2, p. 58 -71. – GENET J.-P., 2014, “À propos de Pierre Bourdieu et de la genèse de l’État moderne”, ARSS, no 201-202, p. 98-105. – GEORGAKAKIS D. (dir), 2012, Le Champ de l’eurocratie. Une sociologie du personnel politique de l’UE, Paris, Economica. – GEORGAKAKIS D. et A. VAUCHEZ, 2015, “Le concept de champ à l’épreuve de l’Europe”, in J. SIMÉANT et B. RÉAU (dir.), Enquêtes globales en sciences sociales, Paris, CNRS Éd., p. 197-220. – WACQUANT L., 2010, “La fabrique de l’État néolibéral. “Workfare”, “Prisonfare” et insécurité sociale”, Civilisations, 59-1, p. 151-173.
☛ ACCUMULATION, AUTONOMIE, AUTORITÉ, CAPITAL POLITIQUE, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CATÉGORIE(S), CHAMP, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP POLITIQUE, COMMISSION, DÉSINTÉRESSEMENT, ÉTAT, FONCTIONNAIRE, IDÉOLOGIE, INSTITUTION(S), LOGEMENT, LUTTE(S), MAISON, MISÈRE DU MONDE (LA), MODUS OPERANDI, NOBLESSE D’ÉTAT (LA), OPUS OPERATUM, ORIGINE(S) SOCIALE(S), RELATIONNELLE (APPROCHE), SCIENCE POLITIQUE, SUR L’ÉTAT
Thư mục:
1989 [NÉ] La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.
1993 [MM] La Misère du monde (et al.), Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1998.
2000 [SSÉ] Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014.
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1976b] “La production de l’idéologie dominante” (avec L. Boltanski), ARSS, no 2-3, p. 4-73.
[PB 1990e[ “La construction du marché. Le champ administratif et la production de la “politique du logement”“(avec R. Christin), ARSS, no 81-82, p. 65-85.
[PB 1990f[ “Droit et passe-droit. Le champ des pouvoirs territoriaux et la mise en œuvre des règlements”, ARSS, no 81-82, p. 86-96.
[PB 1993a] “Esprits d’État. Genèse et structure du champ bureaucratique”, ARSS, no 96-97, p. 49-62.
[PB 1995f] “L’État et la concentration du capital symbolique”, in B. THÉRET (éd.), L’État, la finance et le social. Souveraineté nationale et construction européenne, Paris, La Découverte, p. 73-105.
[PB 1997b] “L’État et la concentration du capital symbolique”, in B. THÉRET (éd.), L’État, la finance et le social. Souveraineté nationale et construction européenne, Paris, La Découverte, p. 73-105.
* * *
CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE
[TRƯỜNG SẢN SINH VĂN HÓA]
Khái niệm trường sản sinh văn hóa bao gồm các trường văn học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, báo chí, v.v.. Pierre Bourdieu đã xây dựng lý thuyết về trường sản sinh văn hóa của mình chủ yếu từ khái niệm trường văn học.
Vượt qua sự đối lập giữa phân tích nội tại và ngoại tại
Khái niệm trường văn học hiểu thế giới văn chương như là một thế giới xã hội có được quyền tự chủ tương đối, vì trường văn học bị chi phối bởi các quy tắc riêng, phản ánh lịch sử của trường này và xác định các điều kiện tích lũy vốn đặc thù của thế giới này. Khái niệm nhằm mục đích tránh một chướng ngại kép. Chống lại hệ tư tưởng lãng mạn về “người sáng tạo tồn tại nhưng không được tạo ra”, vốn tìm thấy biểu hiện hoàn thiện nhất trong ý niệm của Sartre về “dự án sáng tạo” và là nền tảng cho cách tiếp cận hoàn toàn mang tính diễn giải đối với các tác phẩm, ý niệm này nhắc nhở chúng ta rằng những người sản sinh (văn học) không thoát khỏi những ràng buộc chi phối thế giới xã hội. Một xã hội học về văn học hoặc nghệ thuật có quyền đặt câu hỏi: “Ai đã tạo ra những người sáng tạo?”, theo tiêu đề của một bài viết được đăng trong Questions de sociologie [207-221], tức là qua những quá trình nào mà giá trị biểu tượng của tác phẩm được hình thành. Tuy nhiên, chống lại xã hội học Mác xít, vốn quy giản tác phẩm trong các đặc điểm xã hội của công chúng hoặc của tác giả của tác phẩm, và chống lại cách tiếp cận duy kinh tế chỉ quan tâm đến các điều kiện vật chất của sự sản xuất và tiêu thụ của ngành công nghiệp sách, Bourdieu khẳng định rằng người ta không thể giải thích các vũ trụ văn hóa mà không tính đến tính tự chủ tương đối của chúng và đặc tính chính của chúng, đó là niềm tin. Về mặt phương pháp luận, cách tiếp cận như vậy muốn vượt lên trên sự đối lập truyền thống giữa phân tích nội tại và phân tích ngoại tại. Phân tích nội tại tập trung vào việc giải mã, thay vì vào hành động sáng tạo. Ngược lại, phân tích ngoại tại có xu hướng quy giản tác phẩm thành các điều kiện sản xuất và tiếp nhận chúng. Trong khi phân tích nội tại quan tâm đến cấu trúc của tác phẩm, thì phân tích ngoại tại lại nhấn mạnh đến chức năng xã hội của chúng. Khái niệm trường nhắm tới mục tiêu kết nối cả hai, bằng cách tính đến sự trung gian giữa hai loại hiện tượng này.
Khái niệm trường lần đầu tiên xuất hiện dưới ngòi bút của Bourdieu trong một bài viết có tựa đề “Champ intellectuel et projet créateur/Trường trí tuệ và dự án sáng tạo” được xuất bản năm 1966 trên tạp chí Les Temps Modernes [PB 1966h]. Nếu ý tưởng về một vũ trụ xã hội tương đối tự chủ, có một lịch sử riêng và các quy tắc đặc thù, đã hiện diện lúc bấy giờ, Bourdieu sẽ chối từ phác thảo đầu tiên này, mà ông coi là mang tính quá tương tác luận, để hướng tới một quan niệm khách quan luận và tôpô luận hơn về trường, được phát triển trong một số bài báo về các trường sản sinh văn hóa, được xuất bản từ năm 1971 đến năm 1991- “Le marché des biens symboliques/Thị trường các hàng hóa biểu tượng” [PB 1971d], “Quelques propriétés des champs/Một số thuộc tính của các trường” và “Mais qui a créé les créateurs/Ai đã tạo ra những người sáng tạo?”, “The field of cultural production/Trường sản xuất văn chương” [PB 1983d], “Le champ littéraire/Trường văn học” [PB 1991a], “L’institutionnalisation de l’anomie/Tiến trình thể chế hóa sự lệch chuẩn” -, trước khi đưa ra một tác phẩm quan trọng: Les Règles de l'art và có một bài giảng ở Collège de France về Édouard Manet [Manet]. Bourdieu cũng đưa ra những suy ngẫm về trường hợp của Beethoven như một “nghệ sĩ doanh nhân” [PB 2001a].
Một cách tiếp cận khách quan và duy quan hệ (relationnel)
Theo cách tiếp cận khách quan và duy quan hệ này, các trường sản xuất văn hóa là những không gian của sự chiếm lĩnh các cương vị được ghi nhận trong một lịch sử, cũng mang ý nghĩa đối với nhau. Tương ứng với không gian này là không gian các vị trí được xác định trong mối liên hệ với nhau dựa trên sự phân bổ bất bình đẳng của vốn đặc thù. Hai không gian này chia sẻ một mối quan hệ đồng dạng. Thật vậy, trong khi không gian của những điều khả thi thể hiện với các nhà văn và các nghệ sĩ dưới dạng của sự chọn lựa giữa các lựa chọn đã ít nhiều được thiết lập như vậy trong suốt lịch sử của nó (vần điệu hoặc thơ tự do, hội họa tượng hình hoặc trừu tượng), những lựa chọn thẩm mỹ này tương liên với các vị trí mà tác giả của chúng chiếm giữ trong trường, dựa trên khối lượng và sự cấu tạo của vốn biểu tượng đặc trưng được nắm giữ, tức là mức độ và loại công nhận mà họ đã sở đắc với tư cách là nhà văn hoặc nghệ sĩ. Để hiểu được sự phân bổ vốn đặc thù này, cần phải liên hệ nó với các thế đối lập chính vốn cấu trúc các trường sản xuất văn hóa.
Thế đối lập đầu tiên không gì khác hơn là sự hiện thực hóa trong trường của một sự phân chia cấu trúc không gian xã hội và được tìm thấy trong tất cả các thế giới xã hội: sự phân chia này đối lập “kẻ thống trị” với “kẻ bị thống trị”, theo tổng khối lượng vốn được thừa nhận trong vũ trụ trên, ở đây là vốn của sự công nhận. Sự phân chia này thường khớp với sự đối lập giữa “già” và “trẻ”, những nhà văn đã thành danh và những nhà văn mới gia nhập (trường). Nó có thể được minh họa bằng một bên là các thành viên của Viện Hàn lâm Pháp, và bên kia là những người tiên phong. Trong khi những người thống trị có lợi trong việc duy trì hiên trạng của tương quan quyền lực, những người bị thống trị vốn tìm cách lật đổ nó, đoạn tuyệt với các quy ước và các mã đã được thiết lập. Lấy cảm hứng từ xã hội học tôn giáo của Max Weber, Bourdieu mô tả những người tiên phong là dị giáo trong nỗ lực đánh đổ các quy ước của lối viết của thời đại của họ, gây nên những phản ứng ít nhiều mãnh liệt từ những người bảo vệ sự chính thống, có thể so sánh với những phản ứng của các tu sĩ phát ngôn viên của một Giáo hội. Nếu họ chia sẻ niềm tin vào các đặt cược đặc thù của trường (illusio), các cuộc đấu tranh giữa những người bảo vệ tính chính thống và những người dị giáo lại thường tái diễn và góp phần mạnh mẽ vào sự cấu thành nên lịch sử của trường. Nguyên lí về tính độc đáo vốn đã chi phối các trường sản sinh văn hóa kể từ chủ nghĩa lãng mạn khiến cho các cuộc đấu cạnh tranh nhau để áp đặt một định nghĩa chính đáng về văn học hoặc nghệ thuật diễn ra dưới hình thức công khai và đôi khi bạo lực, mà hình thức tuyên ngôn minh họa rõ ràng. Nếu logic này dẫn đến việc cá biệt hóa một số nhân vật, như Gustave Flaubert hoặc Manet, vốn đóng góp nhiều hơn những người khác vào việc tạo ra các cuộc cách mạng biểu tượng bằng cách biến đổi không gian của những khả thể, thì chủ thể của tác phẩm, theo Bourdieu, không phải là cá nhân mà là toàn bộ trường.
Sự đối lập thứ hai mang tính đặc thù hơn của các thế giới sản sinh văn hóa khi định nghĩa mối quan hệ với các ràng buộc bên ngoài: quan hệ này phân biệt các loại công nhận, mang tính biểu tượng hoặc thế tục, tùy vào mức độ tự chủ của quan hệ so với nhu cầu về quan hệ, cho dù đó là kỳ vọng của công chúng hay nhu cầu ý thức hệ. Theo logic dị thể, giá trị của tác phẩm bị quy thành, hoặc bằng giá trị thị trường, mà doanh thu bán sách là chỉ báo cho sách (ví dụ như sách bán chạy nhất), hoặc là giá trị giáo huấn của nó, dựa trên những tiêu chuẩn đạo đức hoặc ý thức hệ. Ngược lại, logic tự chủ giành ưu thế cho giá trị thẩm mỹ thuần túy của tác phẩm, một giá trị mà chỉ những chuyên gia, tức là những người đồng đẳng và những nhà phê bình, mới có thể đánh giá được: do đó, sự công nhận của những người đồng đẳng sẽ là tiêu chuẩn để tích lũy vốn biểu tượng đặc thù trong trường. Tính tự chủ tương đối này được đảm bảo bởi những địnnh chế chuyên biệt của sự tôn vinh như các nhà phê bình, các tạp chí chuyên ngành hoặc các giải thưởng văn học.
Quá trình tự chủ hóa
Sản sinh văn học trở nên tự chủ đối với nhu cầu của giai cấp thống trị và rộng rãi công chúng bằng cách dựa vào sự phán đoán của các chuyên gia. Trong khi Bourdieu cho rằng quá trình tự chủ hóa của trường văn học xảy ra vào giữa thế kỷ 19, dưới thời Đế chế thứ hai, một số nhà sử học về văn học lại thấy sự khởi đầu của nó ngay từ thế kỷ 17 [Saint-Jacques và Viala 1994]. Tuy nhiên, quá trình này không phải là tuyến tính hay đồng nhất, và nó thay đổi tùy theo quốc gia và hình thái nghệ thuật. Phác thảo về một suy tư về Beethoven cho thấy, trong trường hợp này, sự đổi mới hình thái đi kèm với sự đổi mới trong mô hình kinh tế trong thời kỳ chuyển tiếp từ việc chèo kéo khách hàng sang thị trường, điều đã thay đổi cấu trúc cung và cầu. Trong trường hợp của hội họa, vốn được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ ở Pháp, thông qua Viện Hàn Lâm Mỹ Thuật (Académie des Beaux-Arts), cho đến giữa thế kỷ 19, chính thị trường đã cho phép trường nghệ thuật nổi lên. Một nghiên cứu so sánh giữa các loại hình nghệ thuật hiện nay có thể thực hiện được nhờ vào công trình nghiên cứu các loại hình nghệ thuật khác như điện ảnh [Duval 2016; để biết thêm thông tin, hãy xem Sapiro 2017].
Gisèle Sapiro
Giám đốc nghiên cứu CNRS và EHESS
DUVAL J., 2016, Le Cinéma au XXe siècle, entre loi du marché et règles de l’art, Paris, CNRS Éd. – SAINT-JACQUES D. et A. VIALA, 1994, “À propos du champ littéraire. Histoire, géographie, histoire littéraire”, Annales. Histoire, Sciences Sociales, vol. 49, no 2, p. 395-406. – SAPIRO G., 2017, “Champ”, Politika, en ligne: https://www.politika.io/fr/notice/champ.
☛ ACCUMULATION, ART, AUTONOMIE, BEETHOVEN, BIENS SYMBOLIQUES, CAPITAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CHAMP, CHAMP JOURNALISTIQUE, CHAMP SCIENTIFIQUE, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CONSÉCRATION, CRITIQUE(S), CROYANCE, ÉDITION, FLAUBERT, HÉTÉRODOXIE, HÉTÉRONOMIE, HOMOLOGIE(S), ILLUSIO, IMPOSITION, INTERACTIONNISME, LITTÉRATURE, LUTTE(S), MANET, MANET, MARCHÉ, MARXISME, MATÉRIALISME, MUSIQUE, OBJECTIVISME, ORTHODOXIE, POSITION(S), POSSIBLES, PRISE(S) DE POSITION, PRÊTRE, PROJET, QUESTIONS DE SOCIOLOGIE, RECONNAISSANCE, RÈGLES DE L’ART (LES), RELATIONNELLE (APPROCHE), RÉVOLUTION SYMBOLIQUE, SARTRE, TEMPS MODERNES (LES), TOPOLOGIE, VALEUR, WEBER
Thư mục:
1980 [QS] Questions de sociologie, Paris, Minuit, rééd. 2002.
1992 [RA] Les Règles de l’art. Genèse et structure du champ littéraire, Paris, Seuil, rééd. “Points” 1998, 2015*.
2013 [MRS] Manet. Une révolution symbolique, 1998-2000, suivis d’un manuscrit inachevé để Pierre et Marie-Claire Bourdieu, éd. établie par P. Casanova, P. Champagne, C. Charle, F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1971d] “Le marché des biens symboliques”, L’Année sociologique, vol. 22, p. 49-126.
[PB 1966h] “Champ intellectuel et projet créateur”, Les Temps Modernes, no 246, p. 865-906.
[PB 1983d] “The field of cultural production, or: the economic world reversed”, Poetics, vol. 12, n0 4-5, p. 311-356.
[PB 1987a] “L’institutionnalisation de l’anomie”, Les Cahiers du Musée national d’art moderne, no 19-20, p. 6-19.
[PB 1991a] “Le champ littéraire”, ARSS, no 89, p. 3-46.
[PB 2001a] “Bref impromptu sur Beethoven, artiste entrepreneur”, Sociétés & Représentations, no 11, p. 15-18.
* * *
CHAMP DE PRODUCTION IDÉOLOGIQUE
[TRƯỜNG SẢN XUẤT HỆ TƯ TƯỞNG]
Chính ở giao điểm giữa những công trình của ông về quyền lực biểu tượng và về chính trị mà Pierre Bourdieu đã hướng tới việc xây dựng khái niệm về trường sản xuất hệ tư tưởng. Ông trình bày trường này như một “vũ trụ tương đối tự chủ, nơi mà, thông qua cạnh tranh và xung đột, các công cụ tư duy về thế giới xã hội đã có sẵn một cách khách quan ở một thời điểm nhất định được phát triển, qua đó xác định trường của những gì có thể được tư duy về mặt chính trị hoặc, nói cách khác, là cách đặt vấn đề chính đáng” [PB 1977a: 56]. Không gian này, với những ranh giới mờ nhạt, nằm ở vị trí trung gian giữa trường chính trị và không gian xã hội. Do đối tượng của nó, không gian này có những rào cản lớn ở đầu vào: dấn thân vào đó không chỉ đòi hỏi phải nắm vững các quy chiếu chính trị mà thường còn phải sở hữu kiến thức chuyên môn (về kinh tế, luật, khoa học xã hội, v.v.). Điều này không ngăn cản các nghệ sĩ, nhà văn và nhà tiểu luận đầu tư vào đó.
Các hệ tư tưởng luôn được xác định kép: bởi các lợi ích đặc thù của những người sản sinh ra chúng, một phần là do vị trí mà họ chiếm giữ trong trường xuất thân của họ; và bởi công chúng mà các hệ tư tưởng hướng đến có những lợi ích phải theo đuổi [Langage et pouvoir symbolique /Ngôn ngữ và Quyền lực Biểu tượng: 208]. Trong lĩnh vực này, sự bất đối xứng giữa người sản xuất và người tiêu dùng sản phẩm tư tưởng có thể thay đổi rất nhiều từ tiểu trường này sang tiểu trường khác. Trong khi một số người chủ yếu có người đối thoại là những người đồng đẳng, thì trong những trường hợp khác, khoảng cách xã hội đạt mức tối đa giữa những ai soạn thảo những yêu sách và chương trình và những người mà chúng hướng đến [Ansart 1974]. Điều này dẫn đến những rủi ro đáng kể về sự hiểu lầm và sự nhầm lẫn về mặt trí tuệ. Việc loại trừ số lượng người lớn nhất đảm bảo cho trường sản xuất hệ tư tưởng một sự tự chủ nhất định. Tuy nhiên, sự tự chủ này phải được tương đối hóa. Hẳn là các hệ tư tưởng là “công cụ quyền lực mà hiệu quả chính là do chúng hoạt động như những công cụ tri thức, xây dựng hình tượng về thế giới xã hội” [PB 1977a: 88]. Nhưng những ý tưởng chủ đạo này chỉ chiếm ưu thế nếu chúng có thể đoàn kết và huy động các lực lượng xã hội nhằm xác lập vị thế của mình trong trường chính trị.
Do đó, ý niệm trường sản xuất hệ tư tưởng giúp phân tích các cuộc tranh luận chính trị mà không tự giới hạn vào những người đã biến chính trị thành nghề nghiệp của họ. Các nhà trí thức, nhà báo, lãnh đạo công đoàn và những người phát ngôn của các phong trào xã hội đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các quan niệm cạnh tranh nhau về thế giới xã hội vốn tìm thấy được những cơ chế tiếp sức trong không gian xã hội và cũng như trong trường quyền lực.
François Denord
Nhà nghiên cứu CNRS (CESSP)
ANSART P., 1974, Les Idéologies politiques, Paris, PUF.
☛ AUTONOMIE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP POLITIQUE, ESPACE SOCIAL, IDÉOLOGIE, INTELLECTUEL(S), POSITION(S), POUVOIR SYMBOLIQUE, REPRÉSENTATION(S)
Thư mục:
[PB 1977a] “Questions de politique”, ARSS, no 16, p. 55-89.
* * *
CHAMP DU POUVOIR
[TRƯỜNG QUYỀN LỰC]
Mang tính trừu tượng, ý niệm “trường quyền lực” cho phép Pierre Bourdieu nắm bắt quyền lực như là năng lực chỉ đạo/bắt (người khác) thực hiện/làm, quay lưng với các cuộc thảo luận triết học và chính trị xung quanh chủ đề này. Ý niệm trường quyền lực phải được hiểu trong mối liên hệ với ba bối cảnh xây dựng nó: xã hội học về giai cấp thống trị do Bourdieu đề xuất vào đầu những năm 1970, lý thuyết tổng quát về các trường mà ông đã phát triển trong suốt sự nghiệp của mình và xã hội học lịch sử về Nhà nước mà ông đã phác thảo từ cuối những năm 1980 đến giữa những năm 1990.
Trước hết, nói đến trường quyền lực cho phép chúng ta vượt qua sự đối lập giữa thuyết nhất nguyên và thuyết đa nguyên đã làm cho xã hội học về “giới tinh hoa” - một thuật ngữ mà Bourdieu bác bỏ - bị vướng kể từ những năm 1950. Một bên, các nhà xã hội học lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx (thường bao gồm một cách sai lầm cả Charles Wright Mills) mô tả các giai cấp thống trị như một giai cấp thống trị thống nhất có ý thức về lợi ích của mình. Bên kia, các nhà xã hội học có khuynh hướng tự do hơn (như Raymond Aron) khẳng định rằng các lợi ích và cách hành động khác nhau cùng tồn tại trong các giai cấp thống trị. Chồng lên sự đối lập về mặt lý thuyết này là một sự đối lập khác, mang tính phương pháp luận hơn: trong khi những người bảo vệ tính thống nhất khi nghiên cứu giai cấp thống trị dành ưu tiên cho cách tiếp cận chuyên khảo và cho việc sử dụng người cung cấp thông tin (theo Bourdieu, luận đề của họ bao gồm một chiều kích mật mã), thì những người theo thuyết đa nguyên tiến hành các phân tích thường giới hạn vào một số lĩnh vực hoạt động hoặc vào các quyết định. Những phân tích này cho thấy rằng những người nắm giữ quyền lực kinh tế hiếm khi có khả năng kiểm soát quyền lực trong các chiều kích hành chính, văn hóa hoặc chính trị của quyền lực.
Một quan niệm duy quan hệ về quyền lực
Bourdieu thực sự có ý định thoát khỏi hai khuynh hướng này. Một mặt, ông cho rằng cấp độ phân tích thích đáng không phải là tác nhân, mà là không gian xã hội trong đó tác nhân được xác định và mang lại các đặc tính cho tác nhân. Mặt khác, ông bác bỏ giả định chung của thuyết nhất nguyên và thuyết đa nguyên, theo đó việc ra quyết định đòi hỏi sự phối hợp có ý thức của các hành động cá nhân. Ngược lại, ông nhấn mạnh vai trò của tiến trình xã hội hóa trong việc tái tạo cấu trúc xã hội và sự phối hợp, không có nhạc trưởng, mà sự tương đồng của tập tính giai cấp cho phép.
Cụm từ “trường quyền lực”, xuất hiện trong các tác phẩm của Bourdieu vào đầu những năm 1970 [PB 1971a], dần thay thế cụm từ “giai cấp thống trị”. Thật vậy, là một đối tượng nghiên cứu thực nghiệm, giai cấp thống trị cho thấy có đủ sự phân hóa để được phân tích như một trường, tức là một không gian các vị trí được cấu trúc bởi sự phân bổ vốn bất bình đẳng (vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn xã hội và vốn biểu tượng) mà sự tích lũy cấu thành nên cái đặt cược về quyền lực. Hơn nữa, khái niệm “trường quyền lực” cho phép có một viễn cảnh duy quan hệ hơn là duy thực thể [PB 1993k] bằng cách thay thế sự nghiên cứu các cá nhân và nhóm bằng sự nghiên cứu các mối quan hệ kết nối các vị trí mà các cá nhân, các nhóm nắm giữ. Do đó, trường quyền lực có thể được mô tả là không gian mà giá trị tương đối của các loại vốn khác nhau cung cấp quyền lực đối với hoạt động của các trường khác nhau, được thiết lập. Trường quyền lực tạo nên một loại siêu trường, trong đó cuộc đấu tranh diễn ra với mục tiêu là áp đặt nguyên lý thống trị chính đáng.
Các chiến lược tái sản sinh do thành phần thống trị triển khai luôn bao gồm một chiều kích biểu tượng nhằm chính đáng hóa loại vốn là cơ sở của quyền lực của họ. Đây là lý do tại sao sự đối lập giữa quyền lực thế tục và quyền lực tinh thần, mà Marx và Engels đã nêu bật trong L'idéologie allemande (1846), vẫn là bất biến trong trường quyền lực. Tuy nhiên, sự đối lập này không thể che giấu thực tế rằng quyền lực cần phải không được nhận thức là mang tính võ đoán để được duy trì lâu dài, và do đó, có một hình thức liên kết một số phe phái trí thức thống trị tạm thời với những người có quyền lực. Họ tham gia vào “các kênh chính đáng hóa” của giai cấp thống trị, càng hiệu quả khi các kênh này tồn tại lâu dài [La Noblesse d'État].
Ngoài tính ổn định của sự cùng tồn tại của các quyền lực thế tục và tinh thần, cấu trúc của trường quyền lực không được cố định một cách vĩnh viễn. Đó là sản phẩm của quá trình phân hóa tác động đến xã hội của chúng ta trong thời gian dài. Sự tồn tại của một trường quyền lực giả định sự tồn tại của nhiều trường. Nhưng một hình thức tập trung vốn cũng là cần thiết. Trong bài giảng Sur l'État, Bourdieu cho thấy Nhà nước và trường quyền lực là khác biệt nhưng lại kết nối với nhau: Nhà nước là kết quả của sự cấu thành trường quyền lực, và một trong những vấn đề cốt lõi của trường quyền lực vẫn là quyền kiểm soát Nhà nước. Vì Nhà nước đã dần dần nắm độc quyền về bạo lực thế chất và biểu tượng chính đáng và do đó có khả năng thực hiện các biện pháp có khả năng thay đổi giá trị tương đối của các loại vốn khác nhau.
Một cấu trúc không ngừng biến đổi
Siêu vốn mà quyền kiểm soát Nhà nước cấu thành là đối tượng của sự cạnh tranh trong siêu trường quyền lực. Để giải thích điều này, Bourdieu đã vạch lại một quá trình dài, từ thế kỷ 12 cho đến Cách mạng Pháp, của sự đối đầu giữa thành phần quý tộc chiến binh (noblesse d'épée) và thành phần quý tộc pháp định (noblesse de robe), cũng như giữa nhà vua và Quốc hội. Động năng nội tại của trường quyền lực xuất phát từ sự cùng tồn tại của hai chế độ tái sản sinh mâu thuẫn với nhau: một bên là sự tái sản sinh di truyền, và một bên là sự tái sản sinh quan liêu. Sự phát triển của giáo dục và sự gia tăng số lượng công chức mà thẩm quyền dựa trên năng lực, đặt lại vấn đề của tính di truyền, vốn ưu tiên cho quan hệ huyết thống. Tiến trình tự chủ hóa của một trường quan liêu và sự hình thành tương liên của các bộ máy chính quyền lớn đã tháo gỡ phần nào mâu thuẫn giữa hai phương thức tái sản sinh này. Một tầng lớp quý tộc mới được hình thành và truyền lại vị trí của mình cho những người thừa kế nhân danh năng lực học thuật được Nhà nước đảm bảo [SÉ].
Bourdieu đã dành nhiều công trình nghiên cứu về các Trường Lớn/Grandes Écoles (đặc biệt là École Polytechnique, École Normale Supérieure và École Nationale d'Administration), vốn cung cấp nhân sự cho các bộ máy lớn của Nhà nước. Trường của các Trường Lớn và trường quyền lực cho thấy chúng hoạt động theo cách đồng điều. Trong La Noblesse d'État, ông chỉ ra rằng cả hai đều có cấu trúc giao thoa. Ở hai cực đối lập nhất dựa trên sự cấu tạo của vốn sở hữu, các “Trường Lớn” ưu tiên tuyển dụng các tác nhân có lợi thế hơn về mặt văn hóa hoặc kinh tế. Do đó, trường quyền lực được cấu trúc bởi sự đối lập giữa, một bên là các vị trí thống trị về mặt kinh tế hoặc thế tục nhưng bị thống trị về mặt văn hóa, và bên kia là các vị trí thống trị về mặt văn hóa và bị thống trị về mặt kinh tế.
Tuy nhiên, ngay từ đầu những năm 1980, Bourdieu đã lưu ý đến thực tế rằng “cấu trúc giao thoa này không rõ ràng như vào cuối thế kỷ 19, có lẽ một phần là do giới trí thức đã giàu hơn về vốn kinh tế […] và nhất là vì, về phía cực thống trị của giai cấp thống trị, sự tích lũy vốn văn hóa trở nên ngày càng đáng kể” [Sociologie générale 1: 596]. Những biến đổi kinh tế và xã hội diễn ra kể từ đó chỉ củng cố thêm ưu thế của vốn kinh tế so với vốn văn hóa. Việc quyền lực công rút khỏi lĩnh vực sản xuất đã có tác đụng đưa giới chủ trong các tập đoàn Nhà nước và giới chủ các công ty tư xích lại gần nhau hơn: giới đầu đã phải tự chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh, trong khi giới thứ hai đã nâng cao sự đào tạo và giành được uy tín ngày càng cao. Chuyển động kép này, kết quả của việc bãi bỏ các quy định, của các vụ tư nhân hóa và của tâm trạng ý thức hệ trong những năm 1980, đã làm giảm lợi nhuận biểu tượng mà các bộ phận trí thức đã thu được từ việc khai thác kiến thức mà họ không có độc quyền. Tuy nhiên, sự suy yếu tương đối của các thành phần này không có nghĩa là sự tàn lụi của Nhà nước. “Giới quý tộc Nhà nước” đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong khi rút lui về các hoạt động cơ bản (régalien) mà vẫn duy trì các đặc quyền của mình [Dudouet và Grémont 2010].
Có thể mô tả được trường quyền lực đương đại của Pháp dựa trên bốn tiêu chí chính: sự hội nhập vào trường kinh tế, thâm niên của tư cách thành viên trong giai cấp tư sản, sự gần gũi với Nhà nước và khả năng hiển thị công cộng [Denord, Lagneau-Ymonet và Thine 2011]. Cần lưu ý rằng các nguyên tắc phân chia tương tự (ít nhất là hai nguyên tắc đầu tiên) được tìm thấy ở các quốc gia khác [Hjellbrekke và cộng sự 2007]. Cấu trúc của trường quyền lực luôn là kết quả của quá trình kép nhằm phân biệt hóa và phân tầng hóa. Vào thời điểm vốn kinh tế đã khẳng định được vị thế thống trị, việc sở hữu (hoặc không) quyền lực đối với các phương tiện sản xuất tạo ra sự tách biệt giũa các vị trí thống trị. Còn hệ thống phân cấp của các vị trí thống trị thì luôn gắn liền với thâm niên trong giai cấp. Điều này cho phép tránh các chiến lược tái sản sinh lâu dài trong quá trình chuyển giao quyền lực và cung cấp một phần đáng kể vốn biểu tượng của gia đình với chi phí thấp.
François Denord
Nhà nghiên cứu CNRS (CESSP)
DENORD F., P. LAGNEAU-YMONET et S. THINE, 2011, “Le champ du pouvoir en France”, ARSS, no 190, p. 24-57. – DUDOUET F.-X. et E. GRÉMONT, 2010, Les Grands Patrons en France. Du capitalisme d’État à la financiarisation, Paris, Lignes de Repères. – HJELLBREKKE J., B. LE ROUX, O. KORSNES, F. LEBARON, L. ROSENLUND et H. ROUANET, 2007, “The Norwegian field of power ANNO 2000”, European Societies, vol. 9, no 2, p. 245-273.
☛ ACCUMULATION, ARBITRAIRE, ARON, AUTONOMIE, AUTORITÉ, BOURGEOISIE(S), CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CHAMP, CHAMP ÉCONOMIQUE, CHIASME, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CORPS (EFFET DE), DIFFÉRENCIATION, DOMINATION, ESPACE SOCIAL, ÉTAT, FONCTIONNAIRE, GRANDES ÉCOLES, HABITUS, HÉRITAGE, IMPOSITION, INTELLECTUEL(S), LÉGITIMATION, LUTTE(S), MARXISME, MÉCONNAISSANCE, MONOGRAPHIE, NOBLESSE, NOBLESSE D’ÉTAT (LA), PATRONAT, POSITION(S), RELATIONNELLE (APPROCHE), STRATÉGIE(S), STRUCTURE(S), SUR L’ÉTAT, TRANSFORMATION(S), VALEUR, VIOLENCE SYMBOLIQUE
Thư mục:
1989 [NÉ] La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1993k] “From ruling class to field of power: an interview with Pierre Bourdieu on La Noblesse d’État” (avec L. Wacquant), Theory, Culture and Society, vol. 10, no 3, p. 19-44.
* * *
CHAMP ÉCONOMIQUE
[TRƯỜNG KINH TẾ]
Trong một bài báo năm 1973 có tựa đề “Les stratégies de reconversion. Les classes sociales et le système d’enseignement/Chiến lược chuyển đổi: giai cấp xã hội và hệ thống giáo dục” [PB 1973a], Pierre Bourdieu, Luc Boltanski và Monique de Saint-Martin đã du nhập các khái niệm về trường doanh nghiệp và trường kinh tế vào một sự phân tích tổng quát hơn về các chiến lược tái sản sinh được các thành viên của các giai cấp và các thành phần giai cấp khác nhau áp dụng. Cấu trúc của trường kinh tế lúc đó chủ yếu được quan niệm như sự phân bổ các doanh nghiệp theo quy mô và cấu trúc pháp lý của chúng, điều này làm khái niệm này gần với khái niệm thị trường củng như với khái niệm “hệ thống sản xuất” được sử dụng vào thời điểm đó. Tuy nhiên, viễn cảnh xã hội học được phát triển đã đưa vào các mối quan hệ khác ngoài mối quan hệ cạnh tranh, chẳng hạn như quan hệ hành chính, tài chính hoặc cá nhân, dẫn đến sự tích hợp các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và các mạng lưới vào trọng tâm của nghiên cứu về trường này. Bài báo về “Le patronat/Giới chủ nhân” [PB 1978b] mở rộng viễn cảnh này bằng cách đề xuất một phân tích về “trường quyền lực kinh tế”.
Mặc dù việc tham chiếu đến các mạng lưới đưa ý niệm về trường kinh tế gần hơn với “xã hội học kinh tế mới” của Mỹ được phát triển xung quanh Mark Granovetter (2000), việc sử dụng khái niệm trường mở rộng viễn cảnh này hơn nữa, khi khuyến khích việc áp dụng quan điểm so sánh (giữa các trường): giống như những trường khác, trường kinh tế giả định một illusio, những đặt cược đặc thù, sự tích lũy của một hình thái vốn đặc thù (vốn kinh tế), các tác nhân được xã hội hóa theo nomos/đạo lý hoặc theo các luật chơi của trường, một cấu trúc và động năng riêng biệt. Tuy nhiên, không giống như các trường khác, nó vừa lan tỏa vừa thống trị trong các xã hội tư bản phát triển.
Vào năm 1992-1993, Bourdieu đã phát triển trong bài giảng của mình tại Collège de France (được xuất bản lâu sau đó dưới tiêu đề Anthropologie économique) ý tưởng rằng trường kinh tế là một phát minh lịch sử gần đây có thể đã “giải tỏa” chiều kích kinh tế hiện diện trong các xã hội và thực tiễn truyền thống nhưng chưa bao giờ được công nhận đầy đủ như vậy. Sự suy nghĩ này về những nét lịch sử đặc thù của trường kinh tế góp phần làm rõ những đặc tính chung của trường kinh tế và bất kỳ trường nào khác, đồng thời xăc định rõ hơn tính đặc thù của chính trường kinh tế này.
Khái niệm “trường kinh tế” đã được lý thuyết hóa vào năm 1997 trong một bài viết [PB 1997c] được đăng lại vào năm 2000 trong cuốn Les structures sociales de l'économie. Trên thực tế, kể từ thời kỳ Algérie, Bourdieu đã không ngừng nghiên cứu về trường kinh tế mà ông trước tiên đã phân tích như là một “vũ trụ” đặc thù gắn liền với các thiên hướng thuần lý [Algérie 60]. Vũ trụ này bị chi phối bởi một đạo lý (nomos) cơ bản, kết quả của một quá trình tự chủ hóa, dẫn đến việc logic kinh tế tự định nghĩa theo một hình thức trùng ngôn: “kinh doanh là kinh doanh” [Invitation à la sociologie réflexive: 142]. Quá trình này, gần với quá trình “giải lồng ghép (désencastrement)” được Karl Polanyi phân tích (1983), đã tự trị hóa một trật tự của thực tại xã hội, trật tự kinh tế, vì trật tự này đã tự trị hóa cái illusio, một niềm tin đặc thù vào giá trị của trò chơi, một dạng ham muốn/libido, một năng lượng đặc thù. Niềm tin này thúc đẩy các tác nhân kinh tế, bất kể họ là ai, tối đa hóa lợi nhuận của họ (chủ yếu được coi là lợi nhuận của cá nhân về mặt tiền bạc) và biến đổi thiên hướng của họ theo hướng này.
Ban đầu, Bourdieu tập trung vào sự đối lập giữa đạo lý kinh tế “thuần lý” và các hình thái truyền thống hơn, trước khi mở rộng phân tích này sang sự bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội, cho đến các phân tích được phát triển trong Les structures sociales de l'économie. Sự lan rộng của cái illusio kinh tế là sản phẩm của một quá trình xung đột lâu dài trong đó Nhà nước đã đóng vai trò quyết định, thông qua sự thống nhất tiền tệ và việc xây dựng độc quyền trong việc thu thuế cho phép tạo ra một không gian tương đối ổn định cho sự trao đổi và sự lưu thông tiền tệ [SSÉ: 24-26]. Nhưng sự thống nhất sâu sắc hơn của trường kinh tế gắn liền với việc các tác nhân kinh tế chơi cùng một trò chơi, tranh đua với nhau. Đạo lý kinh tế thuần lý có xu hướng lan rộng và trở nên phổ biến, nhưng với một số điều kiện kinh tế rất đặc biệt, như Bourdieu chỉ ra từ ví dụ về vùng Kabylie [A60: 83-116]. Trong cùng quá trình lịch sử này, các thể chế và các thực tiễn liên quan đến trật tự tư bản chủ nghĩa “hiện đại” đã được thiết lập: các khoản vay có tính lãi, ngân hàng và các kỹ thuật ngân hàng, kế toán, sự đối lập giữa công việc/giải trí dưới hình thức “hiện đại”, chế độ làm công ăn lương, v.v.. Đồng thời, các thiên hướng tính toán, dự đoán, tích lũy, tiết kiệm, v.v., vốn gắn liền với sự vận hành “bình thường” của vũ trụ này và giả định một lượng vốn tối thiểu (vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn xã hội), được phát triển. Cuối cùng, sự tồn tại của các vũ trụ phản kinh tế, tức là các không gian mà việc tìm kiếm vốn biểu tượng dựa trên sự kìm hãm nền kinh tế tiền tệ (các trường nghệ thuật, khoa học, quan liêu và thậm chí là trường chính trị), chứng minh rằng cái illusio kinh tế cũng chỉ là một trường hợp đầu tư đặc thù vào trò chơi xã hội [Les Règles de l'art].
Trong Les Structures sociales de l’économie, Bourdieu, dựa trên nghiên cứu của mình về thị trường nhà riêng ở Pháp, được thực hiện vào những năm 1980, đề xuất một khuôn khổ lý thuyết tổng quát nhằm phân tích mọi “trường kinh tế”, tức là bất kỳ không gian phụ tương đối tự chủ nào trong trường kinh tế tổng quát. Phân tích này trước tiên đòi hỏi phải xác định chính sự tồn tại của một trường và bản chất của nó, bằng cách làm nổi bật vai trò và trọng lượng tương đối của các tác nhân và các định chế công, ngay cả trong trường hợp của các thị trường bị phi điều tiết nhất. Mọi trường kinh tế luôn được xây dựng về mặt chính trị, ở những cấp độ khác nhau, từ cấp độ tổng quát nhất đến cấp độ địa phương nhất.
Chỉ khi được xác định và định vị theo cách này, “thị trường” mới có thể được phân tích như là giao điểm của cung và cầu, với điều kiện là hai đối tượng này phải thật sự được định nghĩa về mặt xã hội học. Về phía cung, trên hết chính sự tương quan lực lượng giữa các tác nhân có quy mô và nguồn lực rất bất bình đẳng, mà chiến lược bị chi phối chặt chẽ bởi vị trí của họ trong trường, quyết định các đặc điểm của sản xuất. Bản thân mỗi công ty là một không gian đấu tranh để xác định chiến lược của công ty, có quan hệ chặt chẽ với cấu trúc của trường, tức là các vốn có thể được huy động, chẳng hạn như vốn công nghệ. Về phía cầu, chính các hệ thống sở thích được cấu thành về mặt xã hội tạo thành cơ sở cho “sự tiêu dùng” của các tác nhân, cá nhân hay hộ gia đình. Mối quan hệ giữa cung và cầu không phải là một “sự điều chỉnh” tự phát, mà là sản phẩm của một quá trình ít nhiều được thể chế hóa để kết nối hai cấu trúc phần nào độc lập (quảng cáo có mục đích tác động đến các hệ thống sở thích) và đồng đẳng này lại với nhau: một bên là cấu trúc của cung và bên kia là cấu trúc của cầu. Bourdieu đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa việc mua nhà, tín dụng và, trong hậu cảnh, Nhà nước: thật vậy, trái ngược với những gì một phân tích trừu tượng về thị trường gợi ý, Nhà nước hiện diện ở khắp mọi nơi trong các giao dịch, thông qua khuôn khổ pháp lý vốn chi phối đặc biệt là các khoản vay ngân hàng.
Bằng cách huy động phân tích hình học các dữ liệu, kết hợp với các phương pháp định tính, xã hội học về trường kinh tế không chỉ có các công cụ phân tích thực nghiệm mà còn là khởi đầu cho quá trình hính thức hóa các không gian xã hội như một giải pháp thay thế cho phân tích được hình thức hóa mà lý thuyết kinh tế đề xuất.
Frédéric Lebaron
Giáo sư xã hội học tại ENS Cachan
GRANOVETTER M., 2000, Le Marché autrement. Les réseaux dans l’économie, trad. fr., Paris, Desclée de Brouwer. – POLANYI K., 1983, La Grande Transformation. Aux origines politiques et économiques de notre temps, trad. fr., Paris, Gallimard.
☛ ACCUMULATION, ALGÉRIE, ALGÉRIE 60, ANTHROPOLOGIE ÉCONOMIQUE, AUTONOMIE, BOLTANSKI, CALCUL, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL SOCIAL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CAPITALISME, CHAMP, CHAMP BUREAUCRATIQUE, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP POLITIQUE, CHAMP SCIENTIFIQUE, CLASSE(S) SOCIALE(S), CROYANCE, DISPOSITION(S), ÉCONOMIE, ESPACE SOCIAL, ÉTAT, ETHOS, ILLUSIO, INSTITUTION(S), JEU(X), KABYLIE, LIBIDO, LOGEMENT, LOGIQUE(S), LUTTE(S), MARCHÉ, MÉTHODE, NOMOS, PATRONAT, POSITION(S), RATIONALITÉ, RECONVERSION, RÉSEAUX, STRATÉGIE(S), STRUCTURE(S), STRUCTURES SOCIALES DE L’ÉCONOMIE (LES), SYSTÈME
Thư mục:
1992 [RA] Les Règles de l’art. Genèse et structure du champ littéraire, Paris, Seuil, rééd. “Points” 1998, 2015*.
1977 [A60] Algérie 60, Structures économiques et structures temporelles, Paris, Minuit.
2000 [SSÉ] Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014.
2017 [AE] Anthropologie économique. Cours au Collège de France, 1992-1993, éd. établie par P. Champagne et J. Duval, avec la collaboration de F. Poupeau et M.-C. Rivière; postface de R. Boyer, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1973a] “Les stratégies de reconversion. Les classes sociales et le système d’enseignement” (avec L. Boltanski et M. de Saint-Martin), Information sur les sciences sociales, vol. 12, n0 5, p. 61-113.
[PB 1978b] “Le patronat” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 20-21, p. 3-82.
[PB 1997c] “Le champ économique”, ARSS, no 119, p. 48-66.
* * *
CHAMP INTELLECTUEL
[TRƯỜNG TRÍ TUỆ]
Khái niệm trường trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phương pháp nghiên cứu và trong những công trình đã chín mùi của Bourdieu đã được ông phát triển bắt đầu từ năm 1966 với bài “Champ intellectuel et projet créateur/Trường trí tuệ và Dự án sáng tạo” [PB 1966h], sau đó là bài “Champ du pouvoir, champ intellectuel et habitus de classe/Trường quyền lực, trường trí tuệ và tập tính giai cấp” [PB 1971a]. Hai bài này tập trung vào xã hội học của trường văn học, mà sau này Bourdieu chỉ trích là còn thiếu sót, đã được hoàn thiện và hiệu chỉnh bằng hai đóng góp quan trọng của ông về các không gian biểu tượng khác, trường tôn giáo và trường nghệ thuật, cho phép các đề xuất này được khái quát hóa sang trường trí tuệ tổng quát: “Une interprétation de la théorie de la religion selon Max Weber/Diễn giải về Lý thuyết tôn giáo của Max Weber” [PB 1971f] và “Le marché des biens symboliques/Thị trường của cải biểu tượng” [PB 1971d]. Khái niệm trường trí tuệ nhằm mục đích đoạn tuyệt với một xã hội học liên kết trực tiếp lợi ích giai cấp với các định hướng tư tưởng và trí tuệ, như xã hội học mác xít về văn học vào thời điểm đó (Georg Lukács, Lucien Goldmann) và chủ nghĩa chức năng đã chủ trương. Cách tiếp cận này cũng thách thức truyền thống duy học thức (lettré), duy tâm và duy trí thức, vốn luôn thống trị việc nghiên cứu các chủ đề này và giới hạn việc diễn giải các xung đột trí tuệ trong cuộc tranh luận về các ý tưởng thuần túy, độc lập với bối cảnh rộng hơn và ưu tiên cho việc nghiên cứu diễn ngôn, sự chú giải các văn bản và cách tiếp cận mang tính chú giải đồng cảm [Pinto 1999].
Sự phổ biến thuật ngữ “trường trí tuệ” trong ba mươi năm qua, tương xứng với thành công của thuật ngữ này và với các cuộc thảo luận mà nó đã khơi dậy trong các bộ môn có liên quan và thường mang tính thù địch (lịch sử triết học, lịch sử tư tưởng, lịch sử văn học, lịch sử nghệ thuật, v.v.), thường là có xu hướng khiến thuật ngữ này mất đi một số hiệu lực phê phán và quấy rầy ban đầu của nó. Sự phổ biến này biến thuật ngữ thành một khái niệm mang tính mô tả thuần túy, giản lược “trường trí tuệ” thành “đời sống trí thức” hoặc “môi trường trí thức”, hoặc thậm chí là giới trí thức. Thật vậy, lúc ban đầu cũng như hiện nay, vấn đề luôn luôn là sự xây dựng một bản câu hỏi và một chương trình nghiên cứu nhằm kiểm tra nhiều giả thuyết khác nhau, thông qua việc sử dụng nghiêm ngặt khái niệm trên: ở thời điểm và trong bối cảnh địa lý nào, ta có thể xác định hay không một trường trí tuệ (hoặc trường văn học), tức là một tập hợp các vị trí và các sự đối lập giữa các nhóm (trí thức) đấu tranh giành quyền bá chủ và quyền tự chủ đối với các nhóm khác (trí thức hay không)? Các sự đối lập và các cuộc tranh luận của họ tập trung vào những vấn đề nào và chúng phát triển như thế nào? Chúng có đặc thù không, như trong một số trường khoa học được kiểm soát chặt chẽ như toán học, hay chúng không đồng nhất, như trong các trường liên quan đến quyền lực và kinh tế, nơi ranh giới về tính chính đáng để can thiệp bị mờ nhạt và luôn bị tranh cãi? Loại vốn văn hóa, thiên hướng và đặc điểm nào của những người sản xuất các ý tưởng hoặc các luận đề đang cạnh tranh giải thích cho quỹ đạo, thành công và thất bại hoặc xác định cương vị của họ? Trường trí tuệ này có biên độ tự do nào đối với truòng quyền lực, trường kinh tế, trường tôn giáo, v.v.? Quyền tự chủ này phát triển theo hướng nào tùy theo hoàn cảnh lịch sử? Do đó, trả lời những câu hỏi trên đòi hỏi nhiều loại điều tra bổ sung sâu rộng: hình thái học, xã hội học, ý thức hệ và chính trị? Chẳng hạn, điều này bao hàm việc thiết lập tiểu sử xã hội (tức là được xây dựng) chéo và so sánh của những trí thức chính tham gia vào các cuộc tranh luận của một thời đại, sự phân tích về mặt thể chế các cấp chính đáng hóa, sản xuất hoặc tái sản xuất các vị trí trong trường trí tuệ, sự phân tích các mối liên hệ đa dạng giữa các nhân tố và ràng buộc khác nhau này, chưa kể đến sự phân tích duy quan hệ các đặc điểm của các văn bản, các phương thức truyền bá của chúng, các mô hình tu từ được sử dụng, các công chúng được cho là của chúng, các cương vị và các tác phẩm được sản xuất trong các cấu hình khác nhau này.
Chúng ta tìm thấy những cách tiếp cận này được triễn khai trong các công trình do Bourdieu và các cộng sự thực hiện khi họ cố gắng mô tả sâu sắc một trường trí tuệ (hay trường nghệ thuật, hay trường tôn giáo, hay trường văn học) riêng biệt, thậm chí là một tác phẩm hay một tác giả. Chẳng hạn, trong ứng dụng đầu tiên của các giả thuyết nghiên cứu này vào trường văn học Pháp vào giữa thế kỷ 19 thông qua trường hợp của Flaubert [PB 1975d], Bourdieu đã làm nổi bật sự đối lập diễn ra trong trường này giữa một vài tác giả đòi hỏi quyền tự chủ của họ đối với các lợi ích kinh tế của một nền văn học đang trong quá trình thương mại hóa nhanh chóng thông qua báo chí, sân khấu, tiểu thuyết và phần lớn các nhà văn chấp nhận sự lệ thuộc vào quy luật thị trường. Nhưng sự tôn vinh văn học thuần túy và nghệ thuật, nơi Flaubert, không chỉ giới hạn ở sự hối tiếc về một trật tự biểu tượng đã lỗi thời (và một phần là huyền thoại). Khi tác giả của Madame Bovary bác bỏ sự cam kết hoặc tầm nhìn tiên tri của thế hệ Lãng mạn, bị phá đổ bởi sự thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, tác giả này cũng đặt ra cho sứ mệnh của mình một tham vọng phê phán và mỉa mai về nền văn học tiêu dùng lúc bấy giờ thông qua một phong cách viết gây nhiễu làm rối các quy tắc đã được thiết lập.
Ứng dụng đầu tiên này của phương pháp phân tích dựa trên mô hình trường trí tuệ sẽ được mở rộng và đào sâu hơn trong Les Règles de l’art [1992] bằng cách tích hợp các đóng góp của các nghiên cứu có cảm hứng tương tự được soạn thảo từ năm 1975 đến năm 1990 về trường trí tuệ, trường văn học và trường triết học vào cuối thế kỷ 19 [Ponton 1977; Charle 1979; 1990; Thiesse 1984/2000; Fabiani 1988] và bằng cách gợi ý cho các nghiên cứu khác sẽ tinh chỉnh và làm phong phú thêm mô hình tổng quát và các giả thuyết ban đầu về các thời kỳ phức tạp khác như thời kỳ Đức chiếm đóng và thời kỳ Giải phóng [Sapiro 1999; Boschetti 1985], hoặc bằng cách so sánh và nghiên cứu các tương tác giữa các trường văn học hoặc trí tuệ của một số quốc gia hoặc các không gian đô thị [Charle 1996/2001; 2015]. Bản thân Bourdieu đã cố gắng, ngay từ năm 1975, chuyển phương pháp này sang trường trí tuệ Đức đang khủng hoảng vào những năm 1930 bằng cách đề xuất một cách diễn giải chính trị về bản thể học của Martin Heidegger [PB 1975j].
Những sự mở rộng này đã làm nổi bật những nét đặc thù của các trường trí tuệ tại nhữmg quốc gia khác nhau. Quá trình tự chủ hóa, mặc dù diễn ra ở khắp mọi nơi, nhưng lại mang những hình thái khác nhau và đi theo những con đường trái nhau ngay cả ở những quốc gia có vẻ gần nhau. Quá trình này không bao giờ hoàn toàn chắc chắn và có thể bị thách thức triệt để ngay cả ở Pháp (dưới thời Vichy) hoặc ở Hoa Kỳ (dưới thời chủ nghĩa McCarthy), hai quốc gia kể từ thế kỷ 18 đã tự phong cho mình vai trò tiên phong trong các vấn đề về tự do trí tuệ.
Cách tiếp cận xuyên quốc gia cũng giúp làm nổi bật tầm quan trọng của hiện tượng thống trị văn hóa giữa các quốc gia lớn và nhỏ, giữa các ngôn ngữ lớn và nhỏ, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đặc điểm của các trường văn học và trí tuệ, không chỉ giữa các quốc gia đế chế và các quốc gia bị thuộc địa hóa hoặc đã từng bị thuộc địa hóa [Casanova 1999], mà thậm chí cả trong không gian Châu Âu tùy vào mối quan hệ quyền lực giữa các thị trường văn học hoặc trí tuệ, điều mà chẳng hạn xã hội học về dịch thuật giúp khách quan hóa [Sapiro 2008; Wilfert 2002].
Những ví dụ này chứng minh tính phong phú và đa dạng của các chương trình nghiên cứu được bao hàm trong khái niệm trường trí tuệ. Thật vậy, khái niệm trường tri tuệ có thể được áp dụng cho một lĩnh vực đặc biệt, chẳng hạn như trường triết học [Fabiani 1988; Pinto 1995], cho một nhóm tiên phong nhỏ, hoặc cho một tác giả lớn (với điều kiện là họ được định vị lại trong không gian của những mối quan hệ cho phép chúng ta hiểu các dự án và tình cảnh của họ), chẳng hạn như Guillaume Apollinaire [Boschetti 2001], hoặc Stéphane Mallarmé [Durand 2008], Samuel Beckett hoặc Franz Kafka [Casanova 1997; 2011] hoặc cho một số “chủ nghĩa” như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc, v.v. [Boschetti 2013], cho đến các không gian tổng quát hoặc thậm chí là quốc tế. Trong mọi trường hợp, điều này đòi hỏi phải điều chỉnh và mở rộng bản câu hỏi, triển khai các phương pháp phân tích hoặc so sánh phù hợp với các đặc điểm và các nguồn để tránh rơi vào cái bẫy mang tính thực chứng và thông thái của một nghiên cứu vô hạn và không thể xác định về các “nguồn” hoặc các “ảnh hưởng”. Vấn đề là hiểu các điều kiện của những sự biến dạng, hiểu lầm, biến đổi bị gây nên bởi quá trình chuyển đổi từ trường quốc gia này sang trường quốc gia khác hoặc từ tiểu không gian trí tuệ này sang tiểu không gian trí tuệ khác trong bối cảnh lịch sử vốn luôn bị lệch, thậm chí bị lãng quên, chứ không phải là dùng đến các mô hình vạn năng của các phương pháp tiếp cận mà công cụ này được thiết kế để chống lại [PB 1990h].
Christophe Charle
Nhà nghiên cứu tại INRA (CESSP)
BOSCHETTI A., 1985, Sartre et “Les Temps Modernes”, Paris, Minuit. – BOSCHETTI A., 2001, La Poésie partout. Apollinaire homme-époque 1898-1918, Paris, Seuil. – BOSCHETTI A., 2013, Ismes. Du réalisme au postmodernisme, Paris, CNRS Éd. – CASANOVA P., 1997, Beckett l’abstracteur. Anatomie d’une révolution littéraire, Paris, Seuil. – CASANOVA P., 1999, La République mondiale des lettres, Paris, Seuil. – CASANOVA P., 2011, Kafka en colère, Paris, Seuil. – CHARLE C., 1979, La Crise littéraire à l’époque du naturalisme, roman, théâtre, politique, Paris, Presses de l’ENS. – CHARLE C., 1990, Naissance des “intellectuels” (1880-1900), Paris, Minuit. – CHARLE C., 2001, Les Intellectuels en Europe au XIXe siècle. Essai d’histoire comparée, Paris, Seuil, “Point” (1996). – CHARLE C., 2015, La Dérégulation culturelle. Essai d’histoire des cultures en Europe au XIXe siècle, Paris, PUF. – DURAND P., 2008, Mallarmé. Du sens des formes au sens des formalités, Paris, Seuil. – FABIANI J.-L., 1988, Les Philosophes de la République, Paris, Minuit. – PINTO L., 1995, Les Neveux de Zarathoustra, la réception de Nietzsche en France, Paris, Seuil. – PONTON R., 1977, Le Champ littéraire en France, de 1865 à 1905, thèse sous la direction de P. BOURDIEU, Paris, EHESS. – SAPIRO G., 1999, La Guerre des écrivains 1940-1953, Paris, Fayard. – SAPIRO G. (dir.), 2008, Translatio. Le marché de la traduction en France à l’heure de la mondialisation, Paris, CNRS Éd. – THIESSE A.-M., 2000, Le Roman du quotidien, Paris, Seuil, “Points” (1984). – WILFERT B., 2002, “Cosmopolis et l’homme invisible. Les importateurs de littérature étrangère en France, 1880-1914”, ARSS, no 144, p. 33-46.
☛ AUTONOMIE, CAPITAL CULTUREL, CHAMP, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP ÉCONOMIQUE, CHAMP POLITIQUE, CHAMP RELIGIEUX, DISCOURS, DISPOSITION(S), DOMINATION, ENQUÊTE(S), FLAUBERT, FONCTIONNALISME, FORCE, GOLDMANN, HÉTÉRONOMIE, INTELLECTUEL(S), INTERACTION(S), INTERNATIONALISATION, KAFKA, LÉGITIMATION, LITTÉRATURE, LUTTE(S), MALLARMÉ, MARXISME, MÉTHODE, ONTOLOGIE POLITIQUE DE MARTIN HEIDEGGER (L’), POSITION(S), PRISE(S) DE POSITION, QUESTIONNAIRE, RÈGLES DE L’ART (LES), RELATIONNELLE (APPROCHE), TRADUCTION, TRAJECTOIRE(S), TRANSFORMATION(S), VULGARISATION, WEBER
Thư mục:
1992 [RA] Les Règles de l’art. Genèse et structure du champ littéraire, Paris, Seuil, rééd. “Points” 1998, 2015*.
[PB 1966h] “Champ intellectuel et projet créateur”, Les Temps Modernes, no 246, p. 865-906.
[PB 1971a] “Champ du pouvoir, champ intellectuel et habitus de classe”, Scolies. Cahiers de recherches de l’École normale supérieure, no 1, p. 7-26.
[PB 1971d] “Le marché des biens symboliques”, L’Année sociologique, vol. 22, p. 49-126.
[PB 1971f] “Une interprétation de la théorie de la religion selon Max Weber”, Archives européennes de sociologie, vol. 12, no 1, p. 3-21.
[PB 1975j] “L’ontologie politique de Martin Heidegger”, ARSS, no 5-6, p. 109-156.
[PB 1990h] “Les conditions sociales de la circulation internationale des idées”, Cahier d’histoire des littératures romanes, no 1-2, p. 1-10.
* * *
CHAMP JOURNALISTIQUE
[TRƯỜNG BÁO CHÍ]
“Để vượt ra ngoài phạm vi của một sự mô tả, dù có chi tiết đến đâu, về những gì xảy ra trong một phòng quay truyền hình và cố gắng nắm bắt các cơ chế giải thích các thực tiễn của nhà báo, chúng ta phải vận dụng một ý niệm có phần kỹ thuật, mà tôi buộc phải viện dẫn, ý niệm về trường báo chí.” Bài giảng thứ hai của Pierre Bourdieu, được xuất bản trong Sur la télévision năm 1996, bắt đầu như vậy. Ông tiếp tục: “Thế giới báo chí là một thế giới thu nhỏ với những quy luật riêng và được xác định bởi vị trí của nó trong thế giới toàn thể. […] Những gì xảy ra ở đó không thể được hiểu trực tiếp từ các nhân tố bên ngoài.” Và ông chỉ rõ, để được hiểu rõ, rằng điều này có nghĩa là, ví dụ, “chúng ta không thể giải thích những gì được thực hiện tại TF1 chỉ bằng thực tế là kênh này thuộc sở hữu của Bouygues (một nhà thầu lớn nhất ở Pháp, sau này phát triển hoạt động sang lãnh vực các phương tiện truyền thông và nhiều lãnh vực khác – ND) .”
Tương tự như vậy, vào năm 1994, trong bài phát biểu ở hội nghị thành lập Trung tâm Nghiên cứu Báo chí tại Trường Báo chí Cao cấp của Lille, ông đã giải thích rằng đóng góp đặc thù nhất mà xã hội học có thể mang lại cho việc phân tích thế giới báo chí nằm ở cách đọc theo mô hình trường: “Vũ trụ báo chí là thứ mà tôi gọi là một trường, tức là một sân chơi nơi mọi người chơi theo các quy tắc riêng biệt, các quy tắc của trò chơi. Chẳng hạn những quy luật này hoặc những quy tắc của trò chơi báo chí không giống với các quy tắc của trò chơi khoa học. Và khi chúng ta nói về mối quan hệ giữa các học giả và các nhà báo, tốt hơn là nên nói về mối quan hệ giữa trò chơi báo chí và trò chơi học thuật. […] Trò chơi này có một nét đặc thù so với các trò chơi khác như trò chơi khoa học, trò chơi tôn giáo hoặc trò chơi chính trị: đó là một trò chơi ít tự chủ hơn các trò chơi khác vì nó phải chịu mạnh mẽ hơn những sự ràng buộc từ bên ngoài. Tự chủ có nghĩa là tuân theo quy tắc mà nó tự đặt ra, có cái đạo lý/nomos riêng của mình.”
Như vậy, đóng góp đặc thù nhất mà Bourdieu nghĩ ông đã mang lại cho sự phân tích thế giới báo chí nằm ở cách đọc này theo mô hình trường mà ông đề xuất hơn là bằng một cuộc điều tra thực nghiệm do chính ông thực hiện. Một số nhà xã hội học về phương tiện truyền thông, ngồi trên một đống “tài liệu thực nghiệm” mà họ không rút ra được gì ngoài trừ việc sao chép cái thực tại, chỉ trích Bourdieu đã không tự mình tiến hành một cuộc điều tra “thực sự” về giới báo chí và đã không tuân theo các đòi hỏi của chính bản thân mình. Lời chỉ trích này hoàn toàn vô căn cứ trên hai mặt. Ngoài thực tế Bourdieu là một nhà nghiên cứu gần gũi với thực địa trong suốt cuộc đời và đã tích lũy, trong suốt quá trình điều tra của ông, những dữ liệu về toàn bộ các nhóm xã hội, ta cần lưu ý rằng, một mặt, ta không nên phóng đại, đặc biệt là trong lĩnh vực này, sự đối lập giữa dữ liệu thực nghiệm, nghiên cứu thực địa và tiếp cận lý thuyết trong chừng mực giới báo chí tạo ra và công bố rất nhiều thông tin về chính nó, trong nhiều trường hợp, có thể thay thế cho nghiên cứu thực địa. Thật vậy, có cả một kho tư liệu rất đa dạng về báo chí (hồi ký, lời chứng, chuyên khảo về phương tiện truyền thông, phỏng vấn, lịch sử báo chí, tiểu sử của các ông chủ báo chí, sách tiết lộ, v.v.) tự nó tạo nên chất liệu thực nghiệm quan trọng và đủ để bắt đầu một phân tích. Mặt khác, phân tích theo trường cho phép chuyển giao các sơ đồ giữa các trường. Kết quả là những gì chúng ta biết được từ sự phân tích một trường có thể được chuyển sang sự phân tích một trường khác vì cách tiếp cận này có tác dụng thay thế các nhà báo - những tác nhân hữu hình - bằng cấu trúc của trường báo chí và các cơ chế hoạt động trong đó. Ví dụ, cuộc điều tra của Bourdieu về trường xuất bản tiết lộ nhiều điều về trường báo chí hơn là một chuyên khảo báo chí bị chìm đắm trong vô số giai thoại và mô tả bất tận [PB 1999a].
Mặc dù sự thận trọng mà Bourdieu đã thể hiện khi đưa ra một phân tích về trường báo chí, không thể nói rằng phần này trong sự nghiệp của ông được giới nhà báo hoặc các nhà xã hội học về phương tiện truyền thông hiểu rõ nhất. Không chỉ các phân tích của ông được ví như “chủ nghĩa Marx tầm thường “, theo đó ông coi các nhà báo là những “con rối” trong tay giới “đại tư bản” - điều hoàn toàn trái ngược với những gì ông viết -, nhưng chính xác là nhờ dựa trên khái niệm trường báo chí, có người còn tưởng phát hiện ở đây một sự lên án, sự chỉ trích (theo nghĩa tầm thường) đối với các phương tiện truyền thông, sự tấn công các nhà báo, sự tra vấn về năng lực của họ, thay vì là sự khách quan hóa cho phép chúng ta giải thích, với sự thấu hiểu, các thực tiễn được quan sát trong giới này.
Khái niệm trường không chỉ có ý nghĩa quan trọng từ góc độ hiểu biết về hoạt động của thế giới báo chí, mà còn trong khuôn khổ của một lý thuyết tổng quát về trường, từ góc độ mối quan hệ mà trường báo chí có với các trường khác, đặc biệt là với trường chính trị, trường các khoa học xã hội và trường trí tuệ, những trường có điểm chung là đều có tham vọng, theo cách riêng của mình, nắm giữ độc quyền về quan niệm chính đáng về thế giới xã hội, điều đó có nghĩa là các trường này có những mối quan hệ cạnh tranh sâu sắc phải được tính đến trong quá trình phân tích. Hơn nữa, Bourdieu lưu ý đến thực tế là trường báo chí có xu hướng tạo ra ảnh hưởng ngày càng tăng lên tất cả các trường khác, bao gồm cả những trường tự chủ nhất như trường triết học và thậm chí là trường khoa học, khi mà các nhà khoa học, để có được tài trợ và hợp đồng, cũng phải tham gia vào sự cạnh tranh để giành được sự nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông. Giống như hầu hết các trường khác, trường báo chí được cấu trúc trên cơ sở của sự đối lập giữa hai cực, giữa một bên là các tác nhân trong sáng và độc lập nhất đối với quyền lực Nhà nước, quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế, và bên kia là các tác nhân phụ thuộc nhiều hơn vào các quyền lực này và là các tác nhân thương mại nhất. Trường báo chí, ngày càng bị chi phối bởi bên ngoài, nghĩa là ngày càng bị chi phối bởi những sự ràng buộc của nền kinh tế, chủ yếu thông qua thước đo tỷ lệ khán thính giả (audimat), lại ngày càng áp đặt các ràng buộc của mình lên tất cả các trường khác và đặc biệt là các trường sản sinh văn hóa như trường khoa học xã hội, triết học, chính trị, v.v..
Patrick Champagne
Nhà nghiên cứu tại INRA (CESSP)
☛ AUTONOMIE, CHAMP, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP INTELLECTUEL, CHAMP POLITIQUE, CHAMP SCIENTIFIQUE, ÉCONOMIE, ÉDITION, ENQUÊTE(S), HÉTÉRONOMIE, JEU(X), MÉDIAS, MONOGRAPHIE, NOMOS, OBJECTIVATION, PHILOSOPHIE, RÈGLE, RÉGULARITÉS, SCHÈME(S), SOCIOLOGIE, SUR LA TÉLÉVISION, VISION DU MONDE, VULGARISATION
Thư mục:
1996 [ST] Sur la télévision, Paris, Raisons d’agir.
[PB 1999a] “Une révolution conservatrice dans l’édition”, ARSS, no 126-127, p. 3-28.
* * *
CHAMP JURIDIQUE
[TRƯỜNG PHÁP LÝ]
Khái niệm về trường pháp lý xuất hiện muộn trong sự nghiệp của Pierre Bourdieu. Vào năm 1986, thông qua một bài viết dành riêng cho trường này, “La force du droit. Pour une sociologie du champ juridique/Sức mạnh của pháp luật. Về một xã hội học về trường pháp ly” [PB 1986d; La Force du droit], khái niệm này lần đầu tiên xuất hiện. Trước hết và trên hết là để giải thích các cơ chế xã hội tạo nên sức mạnh cho “hình thái pháp lý”, do đó bỏ qua vấn đề về sự liên kết của trường này với trường quyền lực, và đặc biệt là với Nhà nước. Nghiên cứu của Bourdieu về quá trình hình thành về mặt xã hội học của Nhà nước sẽ dẫn ông đến việc đào sâu những phát triển ban đầu trên bằng cách thảo luận về các điều kiện hình thành của trường này cũng như mối quan hệ của nó với trường quyền lực [Sur l'État].
Theo định nghĩa kinh điển được đề xuất trong “La force du droit”, trường pháp lý là “vũ trụ, tương đối độc lập đối với các yêu cầu bên ngoài, trong đó quyền lực pháp lý được tạo ra và thực thi” [PB 1986d: 86]. Đây là không gian cạnh tranh trong đó những người diễn giải được ủy quyền về các văn bản pháp lý, sở hữu nhiều hình thái vốn pháp lý khác nhau, đối đầu với nhau về quyền của pháp luật để chính đáng nhận lãnh trách nhiệm về quyền lực biểu tượng được ghi nhận trong đó (“quyền phát biểu ra pháp luật”). Bị mắc trong sự phân công lao động vốn là sản phẩm của lịch sử lâu dài của các nghề nghiệp pháp lý, các giáo sư, thẩm phán, luật sư và cảnh sát cùng tham gia một cách tập thể và canh trạnh vào quá trình phổ quát hóa và phi thực tế hóa các vấn đề và các lợi ích xã hội thông qua luật pháp. Về mặt này, không gian tư pháp tổ chức và nghi lễ hóa cuộc đối đầu này có thể được coi là không gian tiêu biêu của quá trình tự chủ hóa này do trường pháp lý tổ chức.
Sự hình thành của trường này đã được phân tích trong mối quan hệ chặt chẽ của nó với quá trình phát minh ra Nhà nước hiện đại, mà Bourdieu đặt lại trong một quá trình tự chủ hóa chéo của các trường tôn giáo, trường quan liêu và trường pháp lý [SÉ]. Gắn kết chặt chẽ với những cuộc đấu tranh chính trị và xã hội khác nhau đã xuyên suốt quyền lực của Chế độ Cũ, các phe phái cạnh tranh của trường pháp lý mới nổi này, cho dù là “giới tăng lữ pháp lý cấp thấp” gần với giai cấp tư sản mới nổi, giới quý tộc pháp định của các nghị viện hay các nhà luật học Nhà nước, đã khởi xướng, thông qua sự cạnh tranh của họ, một quá trình chuyên nghiệp hóa dần dần chức năng pháp lý xung quanh một đoàn thể các chuyên gia và sự xác định vị trí trung tâm của luật pháp trong quá trình chính đáng hóa Nhà nước. Vì được lồng ghép trong trường quyền lực như vậy, trường pháp lý có đặc điểm là ít tự chủ hơn về mặt cấu trúc so với các trường khác như trường nghệ thuật hoặc trường văn học.
Mặc dù được tổ chức theo các sự tách biệt riêng của nó, chính cấu trúc của trường này (hệ thống phân cấp nghề nghiệp, các lĩnh vực của pháp luật, các loại kiến thức, v.v.) khúc xạ, bởi hiệu ứng của sự đồng đẳng, hệ thống phân cấp xã hội của các nhóm, các khách hàng và các vụ kiện có mối liên hệ với pháp luật. Tuy nhiên, trường pháp lý hoàn toàn không cố định, vì nó bị xuyên qua bởi các chiến lược thích ứng/aggiornamento thường do các thành phần bị thống trị và không chính đáng của nó đề xướng, thường là liên kết với các nhóm xã hội, hoặc thậm chí là vài bộ phận của Nhà nước, vốn tranh cãi về các hình thái chính đáng của pháp luật như về ranh giới của trường (đặc biệt là bằng cách tham chiếu đến thế giới của thực tiễn, đến “nhu cầu xã hội”, đến luật tự nhiên của quyền con người, v.v.). Nhưng những chiến lược lật đổ các chức năng và các đường viền của pháp luật này cũng có thể được phân tích như những đòn bẩy thiết yếu để duy trì (và đổi mới) các “khách hàng” của pháp luật - điều này không phải là không liên quan đến những biến đổi đang diễn ra ở bên ngoài chính ngay trường pháp lý về giá trị tương đối của các loại vốn xã hội khác nhau.
Khái niệm trường pháp lý không tránh khỏi một số sự mơ hồ và chuyển dịch về ý nghĩa. Như Violaine Roussel đã lưu ý một cách đúng đắn, Bourdieu đôi khi có vẻ nhầm lẫn trường pháp lý với trường tư pháp, trường pháp luật với trường của những người làm luật, với nguy cơ đóng khung luật trong (hoạt động của) các chuyên gia về luật và do đó loại trừ các cuộc đấu tranh chính trị và chuyên môn đang diễn ra với những nhóm làm luật khác như quốc hội, chính quyền, v.v. [Roussel 2004]. Tuy vậy, khái niệm này đã chứng tỏ là một công cụ phân tích mạnh mẽ và phong phú cho sự nghiên cứu lịch sử hoặc so sánh các không gian sản xuất luật và sự kết hợp khác biệt của chúng với trường quyền lực [Willemez 2015]. Trong số nhiều sự phát triển, chúng ta lưu ý những sự phát triển được mở ra bởi một ghi chú nghiên cứu của Christophe Charle phân tích trường pháp luật như một không gian tiếp xúc, nơi “vốn xã hội dễ dàng được chuyển đổi thành những hình thái vốn khác nhau: kinh tế, trí tuệ, chính trị” [Charle 1989: 119]. Hướng nghiên cứu này sẽ được tiếp tục và mở rộng thông qua chương trình nghiên cứu rộng lớn do Yves Dezalay phát triển về xã hội học các trường quyền lực quốc tế, nhưng cũng bị biến cách thông qua khái niệm “trường yếu” của pháp luật trong một tập hợp các nghiên cứu về các điều kiện xuất hiện của một trung tâm quyền lực Châu Âu [Vauchez và de Witte 2014].
Antoine Vauchez
Giám đốc nghiên cứu tại CNRS (CESSP)
DEZALAY Y. et B. GARTH, 2002, La Mondialisation des guerres de palais. La restructuration du pouvoir d’État en Amérique latine entre notables du droit et Chicago boys, Paris, Seuil. – CHARLE C., 1989, “Pour une histoire sociale des professions juridiques”, ARSS, no 76, p. 117-119. – VAUCHEZ A. et B. de WITTE (dir.), 2014, Lawyering Europe. European law as a transnational social field, Oxford, Palgrave. – WILLEMEZ L., 2015, “Un champ mis à l’épreuve. Structure et propriétés du champ juridique dans la France contemporaine”, Droit et société, no 89, p. 129-149.
☛ AUTONOMIE, AUTORITÉ, BOURGEOISIE(S), CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL POLITIQUE, CAPITAL SOCIAL, CHAMP, CHAMP BUREAUCRATIQUE, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP RELIGIEUX, CONVERSION DE CAPITAUX, CORPS (EFFET DE), DIVISION DU TRAVAIL, DROIT, ÉTAT, FONCTION, FORME, HIÉRARCHIE, HOMOLOGIE(S), LÉGITIMATION, LUTTE(S), NOBLESSE, POUVOIR SYMBOLIQUE, PROFESSION, SOCIOGENÈSE, STRATÉGIE(S), STRUCTURE(S), SUR L’ÉTAT, UNIVERSEL
Thư mục:
2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
2017 [FD] La Force du droit, éd. établie par L. Israël, Paris, Éd. de la Sorbonne.
[PB 1986d] “La force du droit. Éléments pour une sociologie du champ juridique”, ARSS, n0 64, p. 5-19.
* * *
CHAMP LITTÉRAIRE
☛ CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, LITTÉRATURE
* * *
CHAMP POLITIQUE
[TRƯỜNG CHÍNH TRỊ]
Trong khi các vấn đề chính trị là trọng tâm trong sự nghiệp của Pierre Bourdieu, thì đặc biệt là sau sự chuyển đổi quyền lực năm 1981(với sự thắng cử của Francois Mitterrand thuộc đảng xã hội trong cuộc bầu cử tổng thống - ND), ông đã dành sự chú ý đặc biệt đến hoạt động của trường chính trị, đặc biệt là với việc xuất bản một số ấn phẩm của Actes de la recherche en sciences sociales về “La représentation/Sự đại diện” [PB 1981a], “Le travail politique/Công tác chính trị” [PB 1984b] và “Penser la politique/Tư duy về chính trị” [PB 1988a].
Trong các văn bản này, Bourdieu nhấn mạnh đến tiến trình tự chủ hóa của các hoạt động chính trị và sự phân công lao động chính trị, cũng như đến kết quả của tiến trình này là sự tước đoạt quyền của những tác nhân bị thiệt thòi nhất về mặt xã hội. Nếu thật sự, trường chính trị là nơi giải quyết các cuộc đấu tranh liên tục đối lập các nhóm xã hội về các nguyên tắc “đúng đắn” về quan niệm và sự phân chia thế giới xã hội, thì trên thực tế, những cuộc đấu tranh này chỉ được thực hiện thông qua các chuyên gia cạnh tranh để giành quyền lên tiếng và hành động nhân danh tất cả hoặc một phần các nhóm này [PB 1981a]. Giống như trường tôn giáo, mà Bourdieu thường so sánh với, trường chính trị dựa trên sự phân công lao động giữa một bên là nhóm thiểu số những tác nhân chuyên nghiệp hóa trong công tác đại diện chính trị cho thế giới xã hội; bên kia là phần lớn những người phàm tục trở nên thụ động do trường chính trị dần dần khép kín.
Là sản phẩm của nhiều quá trình phân hóa bắt đầu từ thế kỷ 19 với quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị, quá trình tự chủ hóa các hoạt động chính trị tác động trước hết đến các giai cấp thống trị sau khi xuất hiện một hình thái mới tích lũy vốn chính trị. Sự nổi tiếng cá nhân của những thân hào dần được thay thế bằng vốn đặc thù về sự thanh danh đặc thù về chính trị, được tích lũy bởi và trong các đảng phái [Propos sur le champ politique]. Các đảng phái, đặc biệt là thông qua hệ thống đề cử, kiểm soát ranh giới của trường bằng cách xác định các loại vốn có thể chuyển đổi thành chính trị (chẳng hạn như bằng cấp) và áp đặt các điều kiện gia nhập: niềm tin vào giá trị của trò chơi, là nguyên lý của sự đoàn kết giữa những tác nhân vượt lên trên sự đối lập chính trị của họ; thời gian rảnh rỗi, càng cần thiết hơn khi kiến thức về trò chơi chính trị chủ yếu được tiếp thu thông qua thực tiễn; cuối cùng là giáo dục, là nền tảng của cảm thức, được xã hội cho phép và khuyến khích, để có căn cơ tham gia vào đời sống chính trị [PB 1977a].
Về mặt này, quá trình tự chủ hóa các hoạt động chính trị đã ảnh hưởng sâu sắc hơn đến các giai cấp bị thống trị. Thật vậy, sự tự chủ này dẫn đến việc loại trừ, bị tranh cãi theo nhiều cách, tất cả những người không có thời gian rảnh rỗi hoặc trình độ học vấn cần thiết để tham gia vào chính trị. Từ cuối những năm 1970, bằng chứng thống kê đã chỉ ra rằng cảm nhận về năng lực chính trị, mà sự tham gia phụ thuộc vào, được phân phối không đồng đều trong xã hội, khi khả năng đạt được một quan điểm chính trị cá nhân và biểu lộ nó càng yếu kém khi ta có một vị trí càng thấp kém [Gaxie 1978]. Ngược lại với những người phàm tục có trình độ học vấn cao nhất vốn thường tranh cãi về quyền uy chính trị của những chuyên gia (về) chính trị, những người ít học nhất coi chính trị không phải là việc của họ: tốt nhất, họ chỉ tiếp cận chính trị thông qua sự ủy quyền - hoặc thậm chí là sự ủy quyền toàn diện - cho những người phát ngôn [PB 1984b]; tệ nhất, họ thờ ơ với các trò chơi chính trị và các đặt cược của các trò chơi này, họ chiếm phần lớn trong số những người không đi bỏ phiếu.
Tuy nhiên, không giống như trong trường tôn giáo, các vị trí quyền lực trong trường chính trị phụ thuộc phần lớn vào sự huy động của những người phàm tục. Thật vậy, “phán quyết của cuộc bầu cử” quyết định tương quan quyền lực giữa những người chuyên nghiệp, điều khiến cho hoạt động của trường chính trị thực sự dựa trên một mâu thuẫn lớn giữa nguyên lý của sự trao quyền và xu hướng tự chủ hóa phương thức hoạt động của trường chính trị đã tồn tại hàng thế kỷ. Như vậy, làm nổi bật mâu thuẫn này - tức là tính tự chủ tương đối của trường chính trị - cho phép làm sáng tỏ một số hiểu lầm được lặp đi lặp lại giữa các người ủy nhiệm và các người được ủy nhiệm [PB 1984b]. Vì nếu những người được ủy nhiệm có mối quan hệ đồng đẳng về mặt cấu trúc, dựa vào đó cuộc đấu tranh chính trị có thể được phân tích như một cuộc đấu tranh giai cấp thông qua sự ủy quyền [PB 1981a], thì hành vi của người phát ngôn không bao giờ có thể được hiểu hoàn toàn từ các nhân tố quyết định bên ngoài. Ở đây, cũng như trong các trường khác, hành vi này cũng tuân theo các lợi ích riêng biệt - chẳng hạn như việc tái sản xuất các bộ máy quan liêu của các đảng phái mà sự sống còn của các chuyên gia phụ thuộc vào [PB 2000b] - và liên quan trước hết đến vị trí chiếm giữ so với các tác nhân khác trong trường này. Những gì được trải nghiệm như “sự phản bội của các tăng lữ” thường không gì khác hơn là hiệu ứng của trường. Rộng hơn, lý thuyết tổng quát về trường chứng tỏ là một công cụ phân tích tuyệt vời về “cuộc khủng hoảng” của sự đại diện chính trị. Cuộc khủng hoảng tiết lộ các nhân tố quyết định cấu trúc của trường - sự đóng cửa của trường, vốn là nguyên lý của sự không bỏ phiếu; bản chất không ổn định của vốn chính trị khiến cho các vụ tai tiếng trở thành một phương tiện quan trọng của cuộc đấu tranh chính trị, v.v. - và rộng hơn, là các giới hạn của tính hiệu quả chính trị [PB 1981b].
Khung phân tích này không thể khiến khoa học chính trị Pháp thờ ơ. Mặc dù một số ít nhà nghiên cứu coi đó là một cuộc tấn công trực tiếp vào nền dân chủ, một số thạc sĩ (agrégé) trẻ tuổi lấy cảm hứng từ nghiên cứu của Bourdieu đã đổi mới sâu sắc khoa học này. Một bước ngoặt xã hội học thực sự trong khoa học chính trị đã diễn ra ở Pháp vào những năm 1980, có thể đo lường bằng số lượng luận án hiện đang được sản xuất trong ngành “xã hội học chính trị” (một chuyên ngành chiếm 40% luận án được bảo vệ trong ban 04 của CNU/Conseil National des Universités/Ủy Ban Quốc Gia về các Đại Học) và sự gia tăng của các tạp chí khoa học xã hội về chính trị (Politix, Genèses). Vượt lên trên những lời chỉ trích mang tính ý thức hệ hơn là khoa học, khái niệm trường thường xuyên là chủ đề của những sự chỉ trích mang tính xây dựng. Chẳng hạn một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng khái niệm trường áp dụng tốt hơn cho trường chính trị trung tâm, được cấu trúc bởi việc chinh phục các vị trí quyền lực thống trị, hơn là cho các trường chính trị ngoại vi, nơi mà sự cạnh tranh cho các vị trí bị thống trị ít khác biệt hơn nhiều [Gaxie và Lehingue 1984]. Vài nhà nghiên cứu khác cũng đã tương đối hóa tính tự chủ của trường chính trị bằng cách nhấn mạnh “tính linh hoạt của các cấu trúc xã hội” trong một số tình huống nhất định [Dobry 2009]. Nhưng trên hết, chính ảnh hưởng ngày càng tăng của logic không thuần nhất của truyền hình đối với trường chính trị đã khiến Bourdieu khẳng định rằng các nhà báo phải được đưa vào lĩnh vực hoạt động này [Sur la télévision]. Một khẳng định đã gây ra cuộc tranh luận trong khoa học chính trị [Darras 1995; Neveu 2001].
Delphine Dulong
Giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne
DARRAS É., 1995, “Le pouvoir “médiacratique”? Les logiques du recrutement des invités politiques à la télévision”, Politix, no 30, p. 183-198. – DOBRY M., 2009, Sociologie des crises politiques. La dynamique des mobilisations multisectorielles, Paris, Presses de Science Po. – GAXIE D., 1978, Le Cens caché. Inégalités culturelles et ségrégation politique, Paris, Seuil. – GAXIE D. et P. LEHINGUE, 1984, Enjeux municipaux. La constitution des enjeux politiques dans une élection municipale, Paris, PUF. – NEVEU É., 2001, Sociologie du journalisme, Paris, La Découverte, coll. “Repères”.
☛ ACCUMULATION, ACTES DE LA RECHERCHE EN SCIENCES SOCIALES, APPAREIL, AUTONOMIE, AUTORITÉ, CAPITAL POLITIQUE, CHAMP, CHAMP BUREAUCRATIQUE, CHAMP JOURNALISTIQUE, CHAMP RELIGIEUX, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), CRISE, CROYANCE, DÉLÉGATION, DÉPOSSESSION, DIFFÉRENCIATION, DIVISION DU TRAVAIL, ÉDUCATION, FORCE, HÉTÉRONOMIE, HOMOLOGIE(S), JEU(X), LUTTE(S), POSITION(S), PRATIQUE, PROPOS SUR LE CHAMP POLITIQUE, RECONVERSION, REPRÉSENTATION(S), SCIENCE POLITIQUE, SUR LA TÉLÉVISION, TEMPS, TITRE(S), VISION DU MONDE
Thư mục:
1996 [ST] Sur la télévision, Paris, Raisons d’agir.
[PB 1977a] “Questions de politique”, ARSS, n0 16, p. 55-89.
[PB 1981a] “La représentation politique. Éléments pour une théorie du champ politique”, ARSS, n0 36-37, p. 3-24.
[PB 1984b] “La délégation et le fétichisme politique”, ARSS, no 52-53, p. 49-55.
[PB 2000b] “Sur la science de l’État” (avec O. Christin et P.-E. Will), ARSS, no 133, p. 3-11.
* * *
CHAMP RELIGIEUX
[TRƯỜNG TÔN GIÁO]
Việc Pierre Bourdieu chiếm dụng xã hội học tôn giáo của Max Weber đánh dấu, theo lời kể hồi tưởng của ông chỉ rõ rằng vào dịp này, “mắt ông đã được mở ra” [PB 2006a: 118], thời điểm quyết định trong quá trình xây dựng lý thuyết về trường sản xuất của cãi biểu tượng của ông, một quá trình đã bắt đầu từ những năm 1960 [PB 1971d]; xem thêm Dianteill và Löwy 2005].
Thật vậy, ta có thể tìm thấy nhũng bước đầu tiên của cách Bourdieu đọc xã hội học tôn giáo của Weber trong các văn bản như “Sociology and Philosophy in France since 1945/Xã hội học và Triết học tại Pháp từ năm 1945” [PB 1967d] và “Champ intellectuel et projet créateur/Trường trí tuệ và dự án sáng tạo” [PB 1966h], vốn tìm cách tư duy, dựa vào khái niệm trường, sự phát triển của xã hội học tại Pháp và, một cách có hệ thống hơn, sự lao động sáng tạo của người trí thức. Dưới tiêu đề “Prophètes, prêtres, sorciers/Các nhà tiên tri, linh mục, pháp sư”, sự phân tích các mối quan hệ cạnh tranh trong trường trí tuệ rõ ràng viễn dẫn các phân tích của Weber về tôn giáo. Mặc dù hướng đến một xã hội học về các tác nhân sản xuất văn hóa trong thế cạnh tranh giữa “chính thống” và “dị giáo”, lập luận vẫn còn chung chung: sự đối lập giữa linh mục và nhà tiên tri, và thứ yếu là với pháp sư, phục vụ cho việc khách quan hóa các chiến lược lật đổ cá nhân ít hơn là để chỉ định các chức năng đối lập, giữa một bên là “người bảo thủ văn hóa” và bên kia là “người sáng tạo văn hóa” [PB 1966h: 894]. Những phân tích ban đầu này, dựa trên kiến thức vững chắc về các bài viết của Weber, cũng chứng minh sự cam kết tự phân tích về sự hình thành và cấu trúc của trường trí tuệ, và dẫn Bourdieu đến việc đọc lại Weber - mà ông gọi là “sự diễn giải” - dẫn đến một lý thuyết về trường tôn giáo, một khái niệm không có trong tác phẩm của nhà xã hội học người Đức.
Hai bài báo được xuất bản năm 1971 mô tả cách Bourdieu hành xử như một auctor (người sáng tạo/người bảo vệ/người có thẩm quyền) về lý thuyết của Weber, khi sáp nhập lý thuyết này vào một cách đặt vấn đề mới theo trường dành ưu tiên cho không gian của các mối quan hệ khách quan thay vì cho các tác nhân. Có thể đọc bài đầu tiên – “Une interprétation de la théorie de la religion selon Max Weber/Diễn giải về lý thuyết tôn giáo theo Max Weber” [PB 1971f] – như một văn bản làm việc trong đó chúng ta thấy Bourdieu đọc Weber, tay cầm bút chì. Sự đoạn tuyệt kép được công bố ngay từ đầu bao gồm việc chuyển từ kiểu đọc tương tác, đã phần nào hiện diện, sang một sự “diễn giải” theo nghĩa là “xây dựng cấu trúc của các mối quan hệ khách quan giữa các vị trí mà họ [các tác nhân tôn giáo] chiếm giữ trong “trường tôn giáo” [PB 1971f: 5]. Bourdieu tiếp thu đề xuất của Weber theo đó các tác nhân tôn giáo tham gia vào một công việc đặc thù - được gọi là “cách chữa lành tâm hồn” - và được yêu cầu phải đáp ứng các lợi ích thật sự mang tinh tôn giáo vốn là yêu cầu của các nhóm giáo dân dưới hình thức kép của một yêu cầu về ý nghĩa của cuộc sống và, ngoài ra, là nhu cầu biện minh cho vị trí các nhóm này chiếm giữ trong xã hội. Chính về mặt này, tôn giáo như một doanh nghiệp thao túng các của cải cứu rỗi là đối tượng của sự phân tích xã hội học khác biệt hóa, trong đó những thuyết biện thần (théodicée) có giá trị của “sự lý giải xã hội học (sociodicée)” phải được điều chỉnh theo các điều kiện xã hội hoặc giai cấp – thống trị hoặc bị thống trị – của giáo dân.
Được khơi mào trong bài đầu tiên, việc tái cấu trúc xã hội học tôn giáo của Weber được hệ thống hóa trong bài thứ hai, có tiêu đề không còn viễn dẫn Weber nữa: “Genèse et structure du champ religieux/Sự hình thành và cấu trúc của trường tôn giáo” [PB 1971b]. Chính về sự phân công lao động tôn giáo được quan niệm trong logic của trường mà sự đoạn tuyệt với Weber là rõ ràng nhất. Vượt lên trên các đặc tính cá nhân, hoạt động của trường tôn giáo dựa trên các sự đối lập cấu trúc bất biến, một mặt, tách biệt các chuyên gia khỏi những người thế tục dựa trên vốn tôn giáo sở hữu và mặt khác, đặt các tác nhân tôn giáo vào cuộc cạnh tranh với nhau, tùy thuộc vào việc họ ở thế thượng phong, hành động liên tục, như những người tái tạo một sự chính thống đã được thiết lập - đó là các linh mục - hay ở thế lật đổ, buộc phải tự mình xây dựng thẩm quyền để tạo ra một thông điệp mới, đoạn tuyệt với hoạt động thường lệ của các linh mục - đó là các nhà tiên tri. Những lời chỉ trích mạnh mẽ nhất liên quan đến định nghĩa về sức lôi cuốn/charisme, mà theo Bourdieu, chỉ là sự công nhận chủ quan về một thẩm quyền nơi Weber, thậm chí còn được Weber coi là sự thể hiện của môt thiên chất gần như tự nhiên. Được tái cấu trúc trong logic của trường tôn giáo, sức lôi cuốn thể hiện sự cam kết của thế lực bên ngoài của nhóm xã hội được huy động và mang hình thức bên trong của một “ý thức hệ chuyên nghiệp” về sự đoạn tuyệt, xét đến vị trí chống thể chế của nhà tiên tri trong trường [PB 1971b: 317]. “Genèse et structure du champ religieux” còn mang lại một đóng góp quan trọng khác về mối quan hệ giữa “quyền lực chính trị và quyền lực tôn giáo”, rõ ràng chứa đựng cái mô hình xã hội học và logic của sự tổng hợp được viết vào năm 1973 về “quyền lực biểu tượng” [PB 1977e]. Như đã thấy trong trường hợp của tôn giáo, chính thông qua việc áp đặt các quan niệm về thế giới xã hội “mà 'các hệ thống biểu tượng' thực hiện chức năng chính trị của chúng […] là chính đáng hóa sự thống trị” [PB 1977e: 408].
Việc xây dựng những mệnh đề logic trong “Genèse et structure du champ religieux” đã không ngăn cản việc đào sâu khái niệm. Trong khi sự đoạn tuyệt với cách đọc theo loại hình của Weber, vốn thống trị vào thời điểm đó, đã được thiết lập, thì tính chất cấu trúc của lý thuyết về trường tôn giáo sẽ được phát triển thêm sau này. Đặc biệt, khái niệm “giao dịch” giữa các linh mục và giáo dân, ban đầu gần với cách diễn đạt của Weber về “sự nhượng bộ” dành cho giáo dân, rõ ràng đã bị bác bỏ trong bài viết về đoàn giám mục [PB 1982a: 34]. Trường tôn giáo là không gian, với ranh giới luôn thay đổi [Choses dites: 118-121], trong đó các cuộc đấu tranh giữa các tác nhân tôn giáo tạo ra và áp đặt, theo cách ẩn giấu và không được công nhận, “các cấu trúc tinh thần được điều chỉnh khách quan theo các cấu trúc xã hội” [PB 1977e: 410]. Sự điều chỉnh này - được thực hiện do sự tương ứng không được tính toán giữa các cấu trúc của trường giáo sĩ, không gian xã hội của giáo dân và trường quyền lực - là nguồn gốc của niềm tin vào các dịch vụ do không gian tôn giáo được cấu trúc như thế cung cấp [CD: 106-111].
Được làm cho phong phú thêm bởi những thành quả của nhiều cuộc điều tra về không gian sản xuất văn học và nghệ thuật, khái niệm trường tôn giáo đã đóng vai trò là một mô hình phân tích để tư duy theo chiều ngang các quá trình “sản xuất niềm tin” về giá trị của các sản ph biểu tượng [PB 1977c]. Đối lại, logic của các cuộc xung đột diễn ra ở đó đã biến nó thành một điểm quy chiếu thiết yếu để hiểu các tình huống đoạn tuyệt, như chúng ta thấy qua nhiều sự vay mượn từ trường tôn giáo được đề cập trong tác phẩm cuối cùng về cuộc cách mạng biểu tượng do một “kẻ lãnh đạo dị giáo” tiêu biểu nhất thực hiện, là Édouard Manet [Manet].
Những thành quả của sự “diễn giải” theo logic của trường tôn giáo của xã hội học tôn giáo của Weber thường được chuyển sang các lĩnh vực xã hội học chính trị và xã hội học văn hóa. Tương đối ít công trình được thực hiện từ góc nhìn này về bản thân tôn giáo. Chúng ta có thể chỉ ra các cuộc điều tra về các quá trình thấm nhuần thiên hướng về thiên chức linh mục trong bối cảnh các chủng viện nông thôn nhỏ [Suaud 1978], về những biến đổi của trường tôn giáo do các cuộc đấu tranh nội bộ cũng như do sự trỗi dậy của các tầng lớp trung lưu và trí thức trong các nhóm giáo dân [Cavalin et al. 2010; Rousseau 2015], cũng như về các điều kiện để mở ra một trường tôn giáo xuyên quốc gia [Weiser 2018].
Charles Suaud
Giáo sư danh dự về xã hội học tại Đại học Nantes
CAVALIN T., C. SUAUD et N. VIET-DEPAULE (dir.), 2010, De la subversion en religion, Paris, Karthala. – ROUSSEAU A., 2015, Pour une sociologie de la crise catholique. France, 1960-1980, Brest, Centre de recherche bretonne et celtique. – SUAUD C.,1978, La Vocation. Conversion et reconversion des prêtres ruraux, Paris, Minuit. – WEISER F., 2018, “Les experts au concile Vatican II, 196-65. Note de recherche sur les conditions de possibilité d’un champ transnational”, ARSS, no 4, 224, p. 64-75.
☛ AGENT(S), AUCTOR, AUTORITÉ, BIENS DE SALUT, BIENS SYMBOLIQUES, CAPITAL, CHAMP, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP INTELLECTUEL, CLASSE(S) SOCIALE(S), CROYANCE, DIVISION DU TRAVAIL, DOMINATION, ÉPISCOPAT, HÉTÉRODOXIE, IMPOSITION, INTELLECTUEL(S), LÉGITIMATION, LOGIQUE(S), LUTTE(S), MANET, MÉCONNAISSANCE, ORTHODOXIE, POSITION(S), POUVOIR SYMBOLIQUE, PRÊTRE, PROPHÈTE, RECONNAISSANCE, RELATION(S) OBJECTIVE(S), RELIGION, RÉVOLUTION SYMBOLIQUE, SOCIODICÉE, SOCIOGENÈSE, SORCIER, STRATÉGIE(S), STRUCTURE(S), SYSTÈME, TYPE, WEBER
Thư mục:
1987 [CD] Choses dites, Paris, Minuit.
2013 [MRS] Manet. Une révolution symbolique, 1998-2000, suivis d’un manuscrit inachevé để Pierre et Marie-Claire Bourdieu, éd. établie par P. Casanova, P. Champagne, C. Charle, F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil.
[PB 1966h] “Champ intellectuel et projet créateur”, Les Temps Modernes, no 246, p. 865-906.
[PB 1971b] “Genèse et structure du champ religieux”, Revue française de sociologie, vol. 12, no 3, p. 295-334.
[PB 1971d] “Le marché des biens symboliques”, L’Année sociologique, vol. 22, p. 49-126.
[PB 1971f] “Une interprétation de la théorie de la religion selon Max Weber”, Archives européennes de sociologie, vol. 12, no 1, p. 3-21.
[PB 1977c] “La production de la croyance. Contribution à une économie des biens symboliques”, ARSS, no 13, p. 3-43.
[PB 1982a] “La sainte famille. L’épiscopat français dans le champ du pouvoir” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 44-45, p. 2-53.
[PB 2006a] “Mit Weber gegen Weber”, entretien avec F. Schultheis et A. Pjeuffer, in S. EGGER, A. PFEUFFER et F. SCHULTHEIS, Das religiöse Feld. Texte zur Ökonomie des Heilsgeschehens, Constance, Universitätsverlag Konstanz, 2000, p. 111-129.
* * *
CHAMP SCIENTIFIQUE
[TRƯỜNG KHOA HỌC]
Phân tích của Pierre Bourdieu về cấu trúc của trường khoa học không chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự phân tích trường. Như tiêu đề của văn bản gốc được xuất bản năm 1975 trên tạp chí ở Québec Sociologie et sociétés [PB 1975e], “La spécificité du champ scientifique et les conditions sociales du progrès de la raison/Tính đặc thù của trường khoa học và các điều kiện xã hội của sự tiến bộ của lý tính” chỉ rõ, Bourdieu ý thức rằng trường khoa học cấu thành nên chính nền tảng của khả năng tri thức khoa học và sự phân tích động năng của nó mang lại cơ hội duy nhất cho phân tích xã hội học phản tư tránh cái bẫy của một tương đối luận tự hủy hoại.
Vừa là sự tiếp nối hợp lý của những nghiên cứu trước đó của ông, văn bản này xuất hiện vào thời điểm mà chuyên ngành xã hội học khoa học, được thành lập tại Hoa Kỳ sau Thế chiến thứ hai trên cơ sở các công trình của nhà xã hội học người Mỹ Robert K. Merton, đang ở bước ngoặt. Thật vậy, kể từ đầu những năm 1970, mô hình chức năng về khoa học do Merton và những môn đồ của ông đề xuất đối lập với một quan niệm mang tính xung đột hơn, nhấn mạnh vào lợi ích của các nhà khoa học và vào những tranh luận hơn là vào các thỏa thuận hợp lý được áp đặt bởi phán quyết không thể chối cãi của các xác nhận thực nghiệm. Trong khi lý thuyết trường thì lại dựa trên các khái niệm về lợi ích và xung đột, tạo thành một giải pháp thay thế cho hệ ý của Merton.
Chưa bao giờ nghiên cứu trường khoa học theo cách thực nghiệm và chi tiết - như ông đã làm với những trường khác (trường trí tuệ, trường tôn giáo và trường nghệ thuật) - Bourdieu đã tiếp thu khối lượng lớn tài liệu hiện có trong xã hội học khoa học và diễn giải lại những thành quả trong khuôn khổ lý thuyết trường tổng quát của ông, với các khái niệm liên quan về chiến lược, vốn (vốn xã hội, vốn văn hóa và vốn biểu tượng), quỹ đạo và tập tính. Nghiên cứu này cho phép ông đưa ra một phân tích toàn diện về hoạt động chung của trường khoa học trong động thái lịch sử để giành quyền tự chủ. Nó cũng tạo nên một thời điểm quyết định trong quá trình phát triển lý thuyết trường vì nó nhằm mục đích chỉ ra rằng chính vấn đề của tính khách quan của khoa học đang bị đe dọa và lý thuyết trường có thể giải thích được sự đặc thù này mà không rơi vào tương đối luận nhận thức khi đó được áp đặt trong xã hội học khoa học, chống lại khách quan luận chức năng của Merton.
Bourdieu thừa nhận rằng các chân lý khoa học, khi xuất hiện trong các điều kiện xã hội và lịch sử nhất định, là những sản phẩm mà hiệu lực (chân lý) “tương đối độc lập với các điều kiện sản xuất xã hội ra chúng”. Sau khi thiết lập tiên đề duy lý này, ông ngay lập tức nói thêm rằng khoa học, ngay cả khoa học thuần túy nhất, “là một trường xã hội giống như bất kỳ trường nào khác, với các tương quan quyền lực và các độc quyền, các cuộc đấu tranh và các chiến lược, các lợi ích và các lợi nhuận, nhưng tất cả những bất biến này đều mang những hình thái riêng biệt”. Cái đặt cược đặc thù của trường khoa học, phân biệt trường này với các trường xã hội khác, nằm ở cuộc đấu tranh giành sự độc quyền về thẩm quyền khoa học” luôn được định nghĩa vừa là năng lực kỹ thuật và vừa là quyền lực xã hội”. Tất nhiên, “sự độc quyền” này là một tình huống tới hạn không bao giờ đạt được và trường khoa học “luôn là nơi diễn ra cuộc đấu tranh ít nhiều không cân sức giữa các tác nhân sở hữu vốn khoa học không đồng đều, và do đó cũng có những khả năng không đồng đều để chiếm đoạt sản phẩm của sự lao động khoa học được tạo ra, thông qua sự hợp tác khách quan của họ, bởi tất cả các đối thủ cạnh tranh sử dụng mọi phương tiện sản xuất khoa học có sẵn”. Do đó, “cấu trúc của trường khoa học được xác định tại mỗi thời điểm bởi trạng thái của tương quan quyền lực giữa những người chủ chốt của cuộc đấu tranh, các tác nhân hoặc thể chế, tức là, bởi cấu trúc phân phối vốn đặc thù, kết quả của các cuộc đấu tranh trước đó được khách quan hóa trong các thể chế và thiên hướng và chi phối các chiến lược và các cơ hội khách quan của các tác nhân hoặc thể chế khác nhau trong các cuộc đấu tranh hiện tại”.
Giá trị của mô hình của Bourdieu là cung cấp nền tảng cho một cách tiếp cận thực sự mang tính lịch sử đối với sự cấu thành của trường khoa học, cho phép hiểu cả những giai đoạn của tiến trình tự chủ hóa lẫn của sự suy giảm quyền tự chủ tùy theo các mối tương quan quyền lực mà trường khoa học có với các trường xã hội khác.
Khái niệm về trường khoa học, được phát triển trong các tác phẩm sau này như Les Usages sociaux de la science (1997) và Science de la Science et Réflexivité (2002), đã được sử dụng một cách hạn chế trong xã hội học về các khoa học. Sau khi được đón nhận khá thuận lợi ngay sau khi được công bố, động thái riêng biệt của tiểu trường xã hội học này đã định tiểu trường này, từ cuối những năm 1970, theo hướng phân tích vi mô xã hội học và tương tác luận, để lại ít chỗ cho các thể chế ở cấp độ xã hội học trung mô hoặc vĩ mô và cho ý tưởng về cấu trúc như được tìm thấy trong ý tưởng về trường. Dựa vào những chuyển đổi đáng kể của trường khoa học và mối quan hệ của trường này với các trường học thuật, kinh tế và chính trị đặc trưng cho giai đoạn 1980-2000, vấn đề về vai trò của các thể chế đã trở lại vị trí hàng đầu trong mối quan tâm của các nhà xã hội học khoa học. Sự trở lại của các phân tích thể chế, chính trị và kinh tế có thể nhận thấy trong các nghiên cứu gần đây về các trường đại học và nghiên cứu khoa học, các quan hệ giữa các trường đại học và ngành công nghiệp, các xung đột lợi ích và các vụ gian lận khoa học. Trong bối cảnh như vậy, chắc chắn rằng sự phong phú của khái niệm do Bourdieu đề xuất trong lý thuyết của ông về trường khoa học, một sự khái niệm hóa đã bị trào lưu kiến tạo gạt ra ngoài lề trong một thời gian dài, cung cấp các công cụ phù hợp với tình hình hiện tại. Do đó, kể từ giữa những năm 1990, đã có sự gia tăng các tài liệu tham chiếu về Bourdieu trong các tạp chí về xã hội học khoa học.
Yves Gingras
Giáo sư sử học và xã hội học tại đại học UQAM
☛ AGENT(S), AUTONOMIE, AUTORITÉ, CAPITAL, CHAMP, CHAMP ACADÉMIQUE, CHAMP ÉCONOMIQUE, CHAMP POLITIQUE, CONSTRUCTIVISME, DISPOSITION(S), FONCTIONNALISME, FORME, FORCE, HABITUS, INSTITUTION(S), INTERACTIONNISME, INTÉRÊT, INVARIANT(S), LUTTE(S), MERTON, RATIONALISME, RÉALISME, RÉFLEXIVITÉ, RELATIVISME, SCIENCE, SCIENCE DE LA SCIENCE ET RÉFLEXIVITÉ, STRATÉGIE(S), STRUCTURE(S), TRAJECTOIRE(S), UNIVERSITÉS, USAGES SOCIAUX DE LA SCIENCE (LES), VÉRITÉ
Thư mục:
1987 [CD] Choses dites, Paris, Minuit.
2001 [SSR] Science de la science et réflexivité. Cours du Collège de France 2000-2001, Paris, Raisons d’agir.
[PB 1975e] “La spécificité du champ scientifique et les conditions sociales du progrès de la raison”, Sociologie et sociétés, vol. 7, n0 1, p. 91-118.
* * *
CHAMP SOCIAL
ESPACE SOCIAL
* * *
CHAMP UNIVERSITAIRE
CHAMP ACADÉMIQUE
--------------------------------------
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: Dictionnaire international Bourdieu, Paris, CNRS Éditions, 2000.
Chú thích: [*]
Đại học theo mô hình Humboldt được xây dựng vào đầu thế kỹ
XIX mang tên của nhà khoa học Đức đã chủ trương nó ở Berlin. Mô hình này dựa
trên nền tảng của 4 nguyên lý xác định sứ mệnh của trường đại học: - Sự thống nhất giữa giảng dạy và nghiên cứu - Tự do học thuật trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập - Độc lập khỏi các cân nhắc kinh tế - Sinh viên được khuyến khích phát triển cá tính (có trách
nhiệm và quyền tự quyết thông qua việc sử dụng lý trí) nhưng cũng được khuyến
khích trở thành công dân toàn cầu (quan tâm đến các vấn đề lớn của nhân loại,
chẳng hạn như việc tìm kiếm hòa bình, công lý và giao lưu giữa các nền văn
hóa). Mô hình này là mô hình chủ đạo của các trường đại học cho đến
giữa thế kỹ XX khi mô hình tân tự do chủ nghĩa của “đại học của thị trường” nổi
lên, trong đó đại học được xem như là động lực kinh tế phải gắn chặt với những
yêu cầu cua kinh tế , của thị trường. Hai mô hình này không chỉ khác nhau
về mặt tinh thần (tinh thần đại học, mục tiêu của việc học) mà còn về cơ cấu tổ
chức với tầm quan trọng khác nhau dành cho các ngành học, với ưu thế dành cho
các ngành học, các ngành đạo tạo gắn kết chặt chẽ với thị trường trong các đại
học theo xu hướng tân tự do (ND).
