11.11.14

Những nguy cơ của sự đồng thuận kinh tế



Những nguy cơ của sự đồng thuận kinh tế

PRINCETON – Tổ chức Sáng kiến ​​về thị trường toàn cầu thuộc trường Đại học Chicago, khảo sát định kỳ một nhóm các nhà kinh tế học hàng đầu, thuộc nhiều xu hướng chính trị khác nhau, về những vấn đề mang tính thời sự. Vòng khảo sát mới đây nhất đặt ra câu hỏi liệu gói kích cầu của Tổng thống Barack Obama có giúp làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ hay không.
Với tên gọi chính thức là Đạo luật Phục hồi và Tái đầu tư nước Mỹ năm 2009, kế hoạch này tiêu tốn hơn 800 tỷ $ ngân sách chi tiêu của chính phủ cho các dự án về cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, năng lượng, ưu đãi về thuế và nhiều chương trình xã hội khác. Được triển khai vào giữa thời kỳ của một cuộc khủng hoảng kinh tế, đó là một phản ứng theo học thuyết Keynes cổ điển.
Đối với câu hỏi trên, các nhà kinh tế học trả lời gần như nhất trí. 36 trong số 37 nhà kinh tế học hàng đầu có hồi âm cuộc khảo sát đều cho rằng kế hoạch đã đạt được mục tiêu công khai là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nhà kinh tế học Justin Wolfers, thuộc trường Đại học Michigan, chào đón sự đồng thuận ấy trong blog của ông trên tờ New York Times. Ông than phiền rằng cuộc tranh luận công cộng ác liệt về tính hiệu quả của kích cầu tài chính hoàn toàn không liên quan gì đến những gì mà các chuyên gia biết được và đồng ý với nhau.

Trong thực tế, các nhà kinh tế học đồng ý trên rất nhiều điểm, trong đó có một số gây nhiều tranh cãi về chính trị.
Năm 2009, nhà kinh tế học Greg Mankiw thuộc trường đại học Harvard đã liệt kê một số điểm này. Những mệnh đề sau đây đã được ít nhất 90% các nhà kinh tế học tán thành: thuế nhập khẩu và hạn mức nhập khẩu làm giảm tổng phúc lợi kinh tế; quy định giá thuê nhà làm giảm nguồn cung nhà ở; việc thả nổi tỷ giá hối đoái làm cho hệ thống tiền tệ quốc tế vận hành hiệu quả; nước Mỹ không nên hạn chế người sử dụng lao động xuất khẩu việc làm ra nước ngoài (outsourcing); và chính sách tài khóa kích cầu khi nền kinh tế ở dưới mức toàn dụng lao động.     
Sự đồng thuận về nhiều vấn đề quan trọng đến thế tương phản với cảm nhận chung là các nhà kinh tế học hiếm khi đồng ý về bất cứ một điều gì. "Nếu xếp hàng tất cả các nhà kinh tế học lại," George Bernard Shaw đã châm biếm, "thì họ sẽ không có khả năng đi đến một kết luận."
Bị ức chế bởi những lời tư vấn mâu thuẫn và rào đón từ các cố vấn của mình, Tổng thống Dwight Eisenhower được cho là đã có lần yêu cầu một "nhà kinh tế học cụt tay[*]."
Không nghi ngờ gì nữa, có rất nhiều vấn đề về chính sách công được các nhà kinh tế học tranh luận gay gắt. Đánh thuế thu nhập cao phải từ mức nào? Nên chăng cần tăng mức lương tối thiểu? Thâm hụt ngân sách nên được giảm bằng cách tăng thuế hay cắt giảm chi tiêu? Bằng sáng chế kích thích hay cản trở sự đổi mới? Đối với những vấn đề trên và nhiều vấn đề khác, các nhà kinh tế học thường có khiếu nhìn thấy cả hai mặt của vấn đề, và tôi nghi rằng một cuộc khảo sát về những vấn đề trên sẽ cho thấy có rất ít sự đồng thuận.
Một sự đồng thuận giữa các nhà kinh tế học có thể nổi lên vì những lí do tốt lẫn xấu. Đôi khi một sự đồng thuận là vô thưởng vô phạt, như khi nghe các nhà kinh tế học lập luận rằng ai không biết đến vai trò của những biện pháp khuyến khích thì may nhờ rủi chịu. Làm sao có thể phản đối một quan điểm như thế? Đôi khi sự đồng thuận được giới hạn vào một thời điểm đặc biệt và dựa trên những bằng chứng được tích lũy sau khi sự kiện diễn ra: Vâng, hệ thống kinh tế của Liên Xô cực kỳ kém hiệu quả; vâng, chính sách kích cầu tài chính của Obama năm 2009 đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Nhưng nếu sự đồng thuận được hình thành xung quanh tính ứng dụng phổ quát của một mô hình cụ thể, mà các giả định nền tảng của mô hình có khả năng bị vi phạm trong những cấu hình khác nhau, thì lúc đó chúng ta lại có vấn đề.
Hãy thử xem xét một số lĩnh vực được sự đồng ý rộng rãi mà tôi liệt kê ở trên.
Mệnh đề cho rằng hạn chế thương mại làm giảm phúc lợi kinh tế chắc chắn là không có hiệu lực phổ biến, và nó bị vi phạm trong một số trường hợp nhất định – chẳng hạn như khi có những hiệu ứng ngoại lai hoặc những hiệu suất theo theo quy mô tăng dần. Hơn thế nữa, điều này buộc các nhà kinh tế học phải đưa ra các đánh giá giá trị về những hiệu ứng phân phối, mà tốt hơn nên để cho cử tri tự quyết định.
Tương tự, mệnh đề cho rằng kiểm soát giá thuê nhà làm giảm nguồn cung nhà không còn đúng trong điều kiện cạnh tranh không hoàn hảo. Và mệnh đề theo đó hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi là có hiệu quả dựa trên các giả định về một hệ thống tiền tệ và tài chính hữu hiệu cũng đã chứng minh là có vấn đề; tôi đoán rằng một cuộc thăm dò ngày nay sẽ cho thấy là mệnh đề này sẽ nhận được rất ít sự hậu thuẫn.
Có lẽ các nhà kinh tế học có xu hướng đồng ý rằng một số giả định mang tính phổ biến hơn trong thế giới thực. Hoặc họ nghĩ rằng có một tập hợp những mô hình nào đó hoạt động ở mức "trung bình" tốt hơn một tập hợp khác. Mặc dù vậy, là nhà khoa học, họ có nên bổ sung thêm một số lời cảnh báo thích hợp không? Họ có nên lo rằng những khẳng định như trên có khả năng gây hiểu sai trong ít nhất một số thông số của mệnh đề phát biểu không?
Vấn đề là các nhà kinh tế học thường nhầm lẫn giữa một mô hình với mô hình lí tưởng. Khi điều đó xảy ra, thì sự đồng thuận chắc chắn không phải là một cái gì đó đáng để chào đón.
Có hai loại sai sót có khả năng xảy ra.
Đầu tiên, là lỗi bỏ sót – những trường hợp trong đó các điểm mù trong sự đồng thuận ngăn chặn các nhà kinh tế học có thể thấy được những rắc rối hiện ra lờ mờ ở phía trước. Một ví dụ gần đây là sự thất bại của các nhà kinh tế học trong việc nắm bắt các tình huống hợp lưu nguy hiểm tạo ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sai sót này không phải do thiếu vắng các mô hình bong bóng, do thông tin bất đối xứng, động cơ bị bóp méo, hoặc sự hoảng loạn của ngân hàng. Đó là do các mô hình đó đã bị xem nhẹ để nhường chỗ cho những mô hình khác nhấn mạnh đến phạm trù thị trường hiệu quả.
Tiếp theo, là lỗi hành động – những trường hợp khi các nhà kinh tế học bám chặt vào một mô hình cụ thể nào đó về thế giới làm cho họ trở thành đồng lõa của việc điều hành những chính sách đáng lên án, mà thất bại đã có thể dự đoán trước được. Những khuyến nghị của các nhà kinh tế ủng hộ các chính sách tân tự do của "đồng thuận Washington" và toàn cầu hóa tài chính rơi vào lỗi này.
Chuyện xảy ra trong cả hai trường hợp trên là các nhà kinh tế học bỏ qua các biến tốt nhất hạng hai nghiêm trọng, chẳng hạn như các yếu tố môi trường bên ngoài và sự yếu kém của các thể chế, làm cùn đi sức mạnh cải cách, và trong một số trường hợp, làm cho chúng phản tác dụng.
Bất đồng giữa các nhà kinh tế học mang tính lành mạnh. Nó phản ánh thực tế là bộ môn của họ gồm có một tập những mô hình đa dạng, và sự phù hợp giữa thực tế với mô hình là một khoa học không hoàn hảo, có nhiều chỗ cho sự sai sót. Điều tốt hơn đối với công chúng là phải được tiếp xúc nhiều hơn nữa với sự không chắc chắn đó, hơn là được ru ngủ bằng một cảm giác an toàn sai lầm dựa trên một vẻ kiến thức bề ngoài.
Dani Rodrik
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch.
Nguồn: “The Perils of Economic Consensus”, Project Syndicate, Aug 14, 2014.





[*] “one-handed economist.” là một cách chơi chữ (tham khảo “Quyền tự do lựa chọn được dành cho mỗi người”).

Print Friendly and PDF