Về
Robert J. Shiller
Robert J. Shiller, người được trao
giải Nobel kinh tế năm 2013, là giáo sư kinh tế học công tác tại trường Đại học
Yale và là người đồng sáng lập chỉ số Case-Shiller
cho giá nhà ở Mỹ. Ông là tác giả cuốn Irrational Exuberance (Sự hồ hởi phi lý trí), mà lần tái bản
thứ hai của cuốn sách này đã dự báo được sự sụp đổ đang gần kề của hiện tượng bong
bóng bất động sản, và gần đây nhất là cuốn Finance and the Good Society (Tài chính và xã hội thiện mỹ).
KINH TẾ HỌC CÓ THỰC SỰ LÀ MỘT MÔN KHOA HỌC
New Haven - Tôi là một trong những
người giành được giải Nobel kinh tế năm nay, sự kiện này khiến tôi nhận thức rõ
sự phê phán đối với giải thưởng từ phía những người cho rằng kinh tế học –
không giống như hóa học, vật lý hay y học, là những môn khoa học cũng được trao
giải Nobel – không phải là một môn khoa học. Liệu rằng nhận định của họ có đúng
không?
Một vấn đề của kinh tế học là ở chỗ kinh
tế học nhất thiết phải tập trung vào chính sách hơn là khám phá ra các nguyên
lý. Không một ai quan tâm đến dữ liệu kinh tế trừ khi dữ liệu kinh tế được dùng
như các chỉ báo cho chính sách: tự thân các hiện tượng kinh tế không có sự
quyến rũ đối với chúng ta như hiện tượng cộng hưởng bên trong một nguyên tử hay
chức năng của các bào quan của cơ thể hay của một tế bào sống. Chúng ta đánh
giá kinh tế học thông qua sản phẩm mà bộ môn này có thể tạo ra. Do đó, kinh tế
học có sự tương đồng với công việc của ngành kỹ thuật hơn là của nhà vật lý
học, có tính thực tiễn hơn là tinh thần.
Không có giải Nobel cho công việc của
ngành kỹ thuật, mặc dù là nên có một giải cho lĩnh vực này. Thực sự là như vậy,
giải hóa học năm nay có vẻ giống một giải dành cho ngành kỹ thuật, bởi vì giải
này được trao cho 3 nhà nghiên cứu – Martin Karplus, Michael Levitt, và Arieh
Warshel – “vì việc phát triển các mô hình đa thang đo trong các hệ thống hóahọc phức tạp” làm nền tảng cho các chương trình máy tính kích hoạt phần cứng hạt
nhân cộng hưởng từ hoạt động. Nhưng quỹ Nobel bị buộc phải xem xét kỹ càng hơn
tính thực tế, tính ứng dụng khi cân nhắc trao giải cho lĩnh vực kinh tế.
Vấn đề là một khi chúng ta chú trọng
vào chính sách, thì sẽ không còn chỗ cho khoa học. Yếu tố chính trị đang len
lỏi vào nghiên cứu kinh tế, và dư luận lại đánh giá cao các động tác giả mang
tính chính trị. Giải Nobel được thiết kế để trao cho những ai không dùng tiểu
xảo để thu hút sự chú ý, và những ai, vì thế, trong việc thành thật theo đuổi
chân lí, có thể bị xem thường.
Tại sao người ta lại gọi là giải
thưởng dành cho “khoa học kinh tế”, mà không phải là “kinh tế học”? Các giải
thưởng khác không trao cho “khoa học hóa học” hay “khoa học vật lý.”
Các lĩnh vực nghiên cứu có dùng từ
“khoa học” trong tên gọi có xu hướng là những lĩnh vực thu hút được đông đảo
người tham gia một cách đầy nhiệt huyết và là những lĩnh vực mà kẻ lập dị có
thể tác động đến ý kiến dư luận. Các lĩnh vực có từ “khoa học” trong tên gọi là
để phân biệt chính mình với những người bà con tai tiếng.
Cụm từ khoa học chính trị được sử dụng phổ biến trong cuối thế kỷ thứ 18 để
vạch rõ ranh giới với các đảng phái chính trị mà mục đích của họ là giành phiếu
bầu và ảnh hưởng hơn là theo đuổi chân lý. Khoa
học thiên văn là một thuật ngữ quen thuộc vào cuối thế kỷ thứ 19, dùng để
phân biệt với thuật chiêm tinh bói toán và hoạt động tìm hiểu truyền thuyết cổ
xưa về các chòm sao. Khoa học thôi miên
cũng được sử dụng vào thế kỷ thứ 19 để phân biệt với hoạt động nghiên cứu có
tính khoa học về phép thôi miên của các pháp sư hay về thuyết tiên nghiệm trong
các tôn giáo.
Sự trở lại của các thuật ngữ như vậy
là cần thiết vì nhìn chung những người lập dị đã có sức ảnh hưởng mạnh hơn. Vì
thế, các nhà khoa học buộc phải tự tuyên bố chính họ là những nhà khoa học.
Trong thực tế, ngay cả thuật ngữ Khoa học hóa học vẫn còn được sử dụng
phổ biến trong thế kỷ thứ 19, đó là giai đoạn mà ngành hóa học đã tìm cách phân
biệt bản thân với thuật giả kim và thuốc chữa bách bệnh xuất hiện tràn lan của
lang băm. Nhưng, kể từ khi giải Nobel ra đời vào năm 1901 thì các nhà khoa học đã
không cần thêm vào hai chữ “khoa học” trước tên ngành mình để tự phân biệt mình
với những kẻ mạo danh.
Tương tự, các cụm từ Khoa học thiên văn và Khoa học thôi miên cũng dần biến mất từ
thế kỷ thứ 20, có lẽ là vì xã hội không còn tin tưởng nhiều vào những điều huyền
bí. Thực tế là tử vi vẫn còn xuất hiện bền bỉ trên các tờ báo đại chúng, chúng
tồn tại ở đó là hoàn toàn vì muốn thách thức khoa học, hay chỉ để giải trí; ý
tưởng về số phận được quyết định bởi các chòm sao đã mất đi hết sự thịnh hành
mang tính trí tuệ. Do đó mà bây giờ người ta không cần dùng cụm từ Khoa học thiên văn nữa.
Những người chỉ trích các “khoa học
kinh tế” đôi lúc coi đó là khoa học kinh tế giả mạo hay “ngụy khoa học”, họ cho
rằng khoa học kinh tế sử dụng các chiêu trò trong khoa học, ví dụ như sử dụng
toán học dày đặc, nhưng chỉ để khoe mẽ. Đơn cử, trong cuốn sách viết năm 2004 Fooled
by Randomness (Bị đánh lừa bởi
tính ngẫu nhiên), Nassim Nicholas Taleb nói về kinh tế học như sau: “Bạn có thể
ngụy trang các trò bịp bợm dưới sức nặng của các phương trình, và không ai có
thể phát hiện ra vì không có cái gọi là thực nghiệm có kiểm soát.”
Tuy
nhiên, vật lý cũng không tránh khỏi những lời chỉ trích như vậy. Trong tác phẩm
viết năm 2004 The Trouble with Physics: The Rise of String Theory, The Fall
of a Science, and What Comes Next (Rắc rối với vật lý: Sự trỗi dậy của lý
thuyết dây, Khoa học hạ màn, và Chuyện gì tiếp theo), Lee Smolin đã chỉ trích
các chuyên gia vật lý vì họ bị quyến rũ bởi các lý thuyết đẹp đẽ và thanh lịch
(đặc biệt là lý thuyết dây) hơn là những lý thuyết có thể kiểm định bằng nghiên
cứu thực nghiệm. Tương tự, trong cuốn sách viết năm 2007 Not Even Wrong: The
Failure of String Theory and the Search for Unity in Physical Law (Thậm chí
là không sai: Sự thất bại của lý thuyết dây và quá trình tìm kiếm sự thống nhất
của các định luật vật lý) , Peter Woit cáo buộc các nhà vật lý cũng phạm cùng tội
tương tự như lời luận tội đối với các nhà kinh tế toán.
Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng
ở một chừng mực nào đó những mô hình mà tính hiệu lực không bao giờ là rõ ràng
gây tổn hại cho kinh tế học nhiều hơn là cho các khoa học vật lí, vì sự cần
thiết phải làm những xấp xỉ trong các mô hình kinh tế là lớn hơn nhiều, đặc
biệt khi các mô hình ấy mô phỏng hành vi của con người chứ không phải mô phỏng
hiện tượng cộng hưởng từ hay các hạt cơ bản. Con người ta có thể thay đổi ý
định và ứng xử hoàn toàn khác nhau. Con người thậm chí mắc hội chứng nhiễu tâm và
có những vấn đề về nhân thân đó chính là những hiện tượng phức tạp mà kinh tế
học hành vi cho là xác đáng cần xem xét để tìm hiểu hoạt động kinh tế của con
người.
Tuy nhiên, không phải tất cả các ứng
dụng toán học trong kinh tế học đều là ngón bịp như Taleb cáo buộc. Kinh tế học
sở hữu mảng định lượng quan trọng không thể chối cãi. Thách thức chính là việc
kết hợp toán học cùng với một số điều chỉnh cần thiết giúp cho các mô hình trở
nên tương thích với các thành tố mang tính con người không thể quy giản hóa
được của nền kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế học hành
vi về cơ bản là không mâu thuẫn với kinh tế toán học, như một số người nghĩ,
mặc dù trường phái này có thể có mâu thuẫn với một số mô hình kinh tế toán học
thời thượng ngay nay. Và, trong khi kinh tế học cũng có những vấn đề riêng về
phương pháp luận, thì thách thức cơ bản mà các nhà nghiên cứu kinh tế đang đối
mặt về cơ bản là không khác với những vấn đề mà giới học thuật trong các lĩnh
vực khác đang đối mặt. Khi kinh tế học phát triển, nó sẽ khuếch trương bộ sưu
tập các phương pháp cũng như là các nguồn dữ liệu minh chứng, môn khoa học này sẽ
lớn mạnh và những trò lừa bịp sẽ bị bóc trần.
Robert J. Shiller
Trần Thị Minh Ngọc dịch.
Nguồn: Is Economics a Science?, Project Syndicate, Nov.6, 2013.