14.8.20

Yuval Noah Harari: “Mỗi cuộc khủng hoảng cũng là một cơ hội”

YUVAL NOAH HARARI: “MỖI CUỘC KHỦNG HOẢNG CŨNG LÀ MỘT CƠ HỘI”
Trong một cuộc phỏng vấn với UNESCO Courier, Yuval Noah Harari, nhà sử học người Israel và là tác giả của Sapiens, Homo Deus, và 21 Bài học cho thế kỷ 21, phân tích những hậu quả có thể của cuộc khủng hoảng y tế hiện nay vi-rút corona, và nhấn mạnh sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế nhiều hơn nữa về khoa học và chia sẻ thông tin giữa các quốc gia.
Đại dịch y tế toàn cầu này khác với các cuộc khủng hoảng y tế trong quá khứ như thế nào và nó cho chúng ta biết điều gì?
Tôi không chắc đó là mối đe dọa sức khỏe toàn cầu tồi tệ nhất mà chúng ta từng đối mặt. Đại dịch cúm năm 1918-1919 còn tồi tệ hơn, đại dịch AIDS có lẽ còn tồi tệ hơn, và các đại dịch ở các thời đại trước chắc chắn còn tồi tệ hơn nhiều. Trong thực tế, đây thực sự là một dịch nhẹ. Vào đầu những năm 1980, nếu bạn bị AIDS - bạn sẽ chết. Cái chết đen [bệnh dịch đã tàn phá châu Âu từ năm 1347 đến năm 1351] đã giết chết khoảng từ một phần tư đến một nửa số dân bị ảnh hưởng. Bệnh cúm năm 1918 đã giết chết hơn 10% dân số ở một số quốc gia. Ngược lại, COVID-19 giết chết chưa tới năm phần trăm những người bị nhiễm, và trừ khi một số đột biến nguy hiểm xảy ra, nó ít có khả năng giết chết hơn một phần trăm dân số của bất kỳ quốc gia nào.


Trái ngược với các thời đại trước, chúng ta hiện có tất cả các kiến ​​thc khoa hc và công c công ngh cn thiết để vượt qua bnh dch này. Khi Cái chết đen p đến, con người hoàn toàn bt lc. H không bao gi phát hin ra điu gì đang giết chết h và có th làm gì vi nó. Năm 1348, khoa y của Đại học Paris tin rằng dịch bệnh là do một vận xui xẻo trong chiêm tinh - cụ thể là “sự kết hợp chính của ba hành tinh trong chòm sao Bảo Bình [đã gây ra] sự biến chất chết người của không khí” (trích trong Rosemary Horrox ed. Cái chết đen, Nhà xuất bản Đại học Manchester, 1994, trang 159).
Ngược lại, khi COVID-19 bùng phát, các nhà khoa học chỉ mất hai tuần để xác định chính xác loại vi-rút gây ra dịch bệnh, trình tự toàn bộ bộ gen của nó và phát triển các xét nghiệm đáng tin cậy cho căn bệnh này. Chúng ta biết phải làm gì để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh này. Có khả năng là trong vòng một hoặc hai năm, chúng ta cũng sẽ có vắc-xin.
Tuy nhiên, COVID-19 không chỉ là một cuộc khủng hoảng y tế. Nó cũng dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị lớn. Tôi ít sợ vi-rút hơn là những con quỷ bên trong của loài người: hận thù, tham lam và ngu dốt. Nếu người ta đổ lỗi bệnh dịch cho người nước ngoài và các nhóm thiểu số; nếu các doanh nghiệp tham lam chỉ quan tâm đến lợi nhuận của họ; và nếu chúng ta tin vào tất cả các loại thuyết âm mưu - sẽ khó khăn hơn nhiều để vượt qua nạn dịch này, và sau này chúng ta sẽ sống trong một thế giới bị đầu độc bởi hận thù, tham lam và thiếu hiểu biết này. Ngược lại, nếu chúng ta phản ứng với đại dịch bằng sự đoàn kết và độ lượng toàn cầu, và nếu chúng ta tin tưởng vào khoa học hơn là vào các thuyết âm mưu, tôi chắc chắn rằng chúng ta không chỉ có thể vượt qua cuộc khủng hoảng này mà chúng ta còn thực sự mạnh mẽ hơn nhiều khi bước ra khỏi đại dịch.
Giãn cách xã hội có thể trở thành chuẩn mực ở mức độ nào? Điều đó sẽ có ảnh hưởng gì đến xã hội?
Trong suốt thời gian của cuộc khủng hoảng, việc giãn cách xã hội là không thể tránh khỏi. Vi-rút lây lan bằng cách khai thác những bản năng con người tốt nhất của chúng ta. Chúng ta là loài động vật xã hội. Chúng ta thích tiếp xúc, đặc biệt là trong những lúc gặp khó khăn. Và khi người thân, bạn bè hoặc hàng xóm đau ốm, lòng trắc ẩn của chúng ta nảy sinh và chúng ta muốn đến giúp đỡ họ. Vi-rút đang sử dụng điều này để chống lại chúng ta. Đây là cách nó lây lan. Vì vậy, chúng ta cần hành động từ cái đầu hơn là trái tim, và bất chấp khó khăn, hãy giảm mức độ tiếp xúc của chúng ta. Trong khi vi-rút là một mẩu thông tin di truyền không có trí óc, con người chúng ta có trí óc, chúng ta có thể phân tích tình hình một cách hợp lý và chúng ta có thể thay đổi cách chúng ta hành xử. Tôi tin rằng một khi cuộc khủng hoảng kết thúc, chúng ta sẽ không thấy bất kỳ ảnh hưởng lâu dài nào đến bản năng cơ bản của con người chúng ta. Chúng ta sẽ vẫn là động vật xã hội. Chúng ta sẽ vẫn thích liên lạc. Chúng ta sẽ vẫn đến để giúp đỡ bạn bè và người thân.
Ví dụ, hãy xem những gì đã xảy ra với cộng đồng LGBT [đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới] sau sự bùng phát của bệnh AIDS. Đó là một dịch bệnh khủng khiếp, và những người đồng tính thường bị nhà nước bỏ rơi hoàn toàn, tuy nhiên dịch bệnh vẫn chưa gây ra sự tan rã của cộng đồng đó. Mà ngược lại. Ở đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng, các tình nguyện viên LGBT đã thành lập nhiều tổ chức mới để giúp đỡ những người bệnh, truyền bá thông tin đáng tin cậy và đấu tranh cho quyền chính trị. Vào những năm 1990, sau những năm tồi tệ nhất của đại dịch AIDS, cộng đồng LGBT ở nhiều quốc gia đã mạnh hơn trước rất nhiều.
Ông thấy thế nào về tình trạng hợp tác khoa học và thông tin của nhà nước sau cuộc khủng hoảng? UNESCO được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm thúc đẩy hợp tác khoa học và trí tuệ thông qua sự lưu thông tự do các ý tưởng. Liệu “sự lưu thông tự do các ý tưởng” và sự hợp tác giữa các quốc gia có thể được tăng cường như là kết quả của cuộc khủng hoảng?
Lợi thế lớn nhất của chúng ta đối với vi-rút là khả năng hợp tác hiệu quả của chúng ta. Một loại vi-rút ở Trung Quốc và một loại vi-rút ở Hoa Kỳ không thể trao đổi cho nhau những cái mẹo về cách lây nhiễm sang người. Nhưng Trung Quốc có thể dạy cho Mỹ nhiều bài học quý giá về vi-rút corona và cách đối phó với nó. Hơn thế nữa - Trung Quốc thực sự có thể cử các chuyên gia và thiết bị đến trực tiếp giúp đỡ Mỹ, và Mỹ cũng có thể giúp các nước khác. Vi-rút không thể làm bất cứ điều gì như vậy.
Và trong tất cả các hình thức hợp tác, việc chia sẻ thông tin có lẽ là quan trọng nhất, vì bạn không thể làm gì nếu không có thông tin chính xác. Bạn không thể phát triển thuốc và vắc xin nếu không có thông tin đáng tin cậy. Thật vậy, ngay cả việc cách ly cũng phụ thuộc vào thông tin. Nếu bạn không hiểu cách thức lây lan của một căn bệnh, làm thế nào bạn có thể cách ly con người để chống lại vi-rút?
Ví dụ, cách ly chống lại AIDS rất khác với cách ly chống lại COVID-19. Để cách ly bản thân với AIDS, bạn cần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, nhưng không có vấn đề gì khi nói chuyện trực tiếp với người có HIV dương tính - hoặc bắt tay họ và thậm chí ôm họ. COVID-19 là một câu chuyện hoàn toàn khác. Để biết cách thức cách ly bản thân khỏi một bệnh dịch cụ thể, trước tiên bạn cần thông tin đáng tin cậy về nguyên nhân gây ra dịch bệnh này. Nó là vi-rút hay vi khuẩn? Nó có lây qua đường máu hay hơi thở không? Nó có gây nguy hiểm cho trẻ em hoặc người già không? Chỉ có một chủng vi-rút, hay một số chủng đột biến?
Trong những năm gần đây, các chính trị gia độc tài và dân túy không chỉ tìm cách chặn sự lưu thông tự do của thông tin mà thậm chí còn làm suy yếu lòng tin của công chúng đối với khoa học. Một số chính trị gia đã miêu tả các nhà khoa học như một tầng lớp ưu tú độc ác, không kết nối với “người dân”. Những chính trị gia này đã nói với những người ủng hộ của họ rằng đừng tin những gì các nhà khoa học đang nói về biến đổi khí hậu, hoặc thậm chí về tiêm chủng. Bây giờ mọi người đều thấy rõ những thông điệp dân túy như vậy nguy hiểm như thế nào. Trong thời kỳ khủng hoảng, chúng ta cần thông tin phải được truyền tải một cách cởi mở, và chúng ta cần mọi người tin tưởng vào các chuyên gia khoa học hơn là các nhà chính trị mị dân.
May mắn thay, trong trường hợp khẩn cấp hiện nay hầu hết mọi người thực sự chuyển sang khoa học. Giáo hội Công giáo hướng dẫn các tín hữu tránh xa các nhà thờ. Israel đã đóng cửa các giáo đường Do Thái của mình. Cộng hòa Hồi giáo Iran đang trừng phạt những người đến thánh đường Hồi giáo. Các loại đền chùa và giáo phái đã đình chỉ các buổi lễ công khai. Và tất cả chỉ vì các nhà khoa học đã thực hiện một số tính toán và khuyến nghị đóng cửa những thánh địa này.
Tôi hy vọng rằng mọi người sẽ ghi nhớ tầm quan trọng của thông tin khoa học đáng tin cậy ngay cả sau khi cuộc khủng hoảng này kết thúc. Nếu chúng ta muốn tận hưởng thông tin khoa học đáng tin cậy trong thời điểm khẩn cấp, chúng ta phải đầu tư vào nó trong thời gian bình thường. Thông tin khoa học không từ trên trời rơi xuống, cũng không phải xuất phát từ tâm trí của từng cá nhân thiên tài. Nó phụ thuộc vào việc có các tổ chức độc lập mạnh mẽ như trường đại học, bệnh viện và báo chí. Các tổ chức không chỉ nghiên cứu sự thật mà còn được tự do nói cho mọi người biết sự thật mà không sợ bị chính phủ độc tài nào đó trừng phạt. Phải mất nhiều năm để xây dựng các thể chế như vậy. Nhưng đó là điều rất đáng cho ta làm. Một xã hội cung cấp cho công dân một nền giáo dục khoa học tốt, và được phục vụ bởi các thể chế độc lập mạnh mẽ, có thể đối phó với dịch bệnh tốt hơn nhiều so với một chế độ độc tài tàn bạo luôn phải có cảnh sát giữ trật tự một nhóm dân vô học.
Ví dụ, bạn làm thế nào để hàng triệu người rửa tay bằng xà phòng mỗi ngày? Một cách để làm điều đó là đưa đến một cảnh sát, hoặc có thể là một camera, trong mỗi nhà vệ sinh và trừng phạt những người không rửa tay. Một cách khác là dạy mọi người trong trường học về vi-rút và vi khuẩn, giải thích rằng xà phòng có thể loại bỏ hoặc tiêu diệt những mầm bệnh này, và sau đó tin tưởng mọi người để họ tự quyết định. Bạn nghĩ sao, phương pháp nào hiệu quả hơn?
Đâu là tầm quan trọng của việc các quốc gia hợp tác với nhau để phổ biến thông tin đáng tin cậy?
Các quốc gia cần chia sẻ thông tin đáng tin cậy không chỉ về các vấn đề y tế hẹp mà còn về hàng loạt các vấn đề rộng lớn khác - từ tác động kinh tế của cuộc khủng hoảng đến tình trạng tâm lý của người dân. Giả sử quốc gia X hiện đang tranh luận về việc nên áp dụng loại chính sách phong tỏa nào. Họ phải xem xét không chỉ sự lây lan của dịch bệnh, mà còn cả chi phí kinh tế và tâm lý của việc phong tỏa. Trước đây các quốc gia khác đã phải đương đầu với tình thế tiến thoái lưỡng nan này và đã thử các chính sách khác nhau. Thay vì hành động dựa trên những suy đoán thuần túy và lặp lại những sai lầm trong quá khứ, quốc gia X có thể xem xét hậu quả thực sự của các chính sách khác nhau được áp dụng ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển, Ý và Vương quốc Anh. Do đó quốc gia X có thể đưa ra quyết định tốt hơn. Nhưng chỉ khi tất cả các quốc gia này báo cáo trung thực không chỉ về số người bệnh và tử vong, mà còn cả những gì đã xảy ra với nền kinh tế của họ và đối với sức khỏe tâm thần của người dân.
Sự phát triển của AI (trí tuệ nhân tạo) và nhu cầu về các giải pháp kỹ thuật đã chứng kiến sự tham gia của ​​các công ty tư nhân. Trong bi cnh này, liu có còn kh năng phát trin các nguyên tc đạo đức toàn cu và khôi phc hp tác quc tế?
Khi các công ty tư nhân tham gia, thì việc xây dựng các nguyên tắc đạo đức toàn cầu và khôi phục quan hệ hợp tác quốc tế càng trở nên quan trọng hơn. Một số công ty tư nhân có thể được thúc đẩy bởi lòng tham nhiều hơn là sự đoàn kết, vì vậy các công ty này phải được quản lý cẩn thận. Ngay cả những người hành động hảo tâm cũng không chịu trách nhiệm trực tiếp trước công chúng, vì vậy sẽ rất nguy hiểm nếu để họ tích lũy quá nhiều quyền lực.
Điều này đặc biệt đúng khi nói về giám sát. Chúng ta đang chứng kiến ​​vic to ra các hệ thống giám sát mới trên toàn thế giới, bởi cả chính phủ và các tập đoàn. Cuộc khủng hoảng hiện tại có thể đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử giám sát. Thứ nhất, bởi vì cuộc khủng hoảng có thể hợp pháp hóa và bình thường hóa việc triển khai các công cụ giám sát hàng loạt ở các quốc gia từ trước đến nay đã khước từ các công cụ này. Thứ hai, và thậm chí quan trọng hơn, nó có ý nghĩa là một sự chuyển đổi mạnh mẽ từ giám sát “qua da” sang giám sát “dưới da”.
Trước đây, các chính phủ và tập đoàn chủ yếu theo dõi hành động của bạn trên thế giới - bạn đi đâu, gặp ai. Bây giờ họ đã trở nên quan tâm hơn đến những gì đang xảy ra bên trong cơ thể bạn. Quan tâm đến tình trạng y tế, nhiệt độ cơ thể và huyết áp của bạn. Loại thông tin sinh trắc học đó có thể cho các chính phủ và tập đoàn biết về bạn nhiều hơn bao giờ hết.
Ông có thể đề xuất một số nguyên tắc đạo đức về cách thức điều chỉnh các hệ thống giám sát mới này không?
Lý tưởng nhất là hệ thống giám sát nên được vận hành bởi một cơ quan y tế đặc biệt chứ không phải bởi một công ty tư nhân hoặc bởi các dịch vụ an ninh. Cơ quan y tế này nên tập trung chủ yếu vào việc ngăn ngừa dịch bệnh và không nên có lợi ích thương mại hoặc chính trị nào khác. Tôi đặc biệt hoang mang khi nghe người ta so sánh cuộc khủng hoảng COVID-19 với chiến tranh và kêu gọi các dịch vụ an ninh tiếp quản. Đây không phải là một cuộc chiến. Đây là một cuộc khủng hoảng y tế. Không có kẻ thù là con người để giết. Mà tất cả là về việc phải chăm sóc cho mọi người. Hình ảnh chủ đạo trong chiến tranh là một người lính với khẩu súng trường lao về phía trước. Giờ đây, hình ảnh trong đầu chúng ta phải là một y tá đang thay ga trải giường trong bệnh viện. Người lính và người y tá có cách nghĩ rất khác nhau. Nếu bạn muốn giao cho ai đó phụ trách, đừng để một người lính phụ trách. Mà hãy giao cho một y tá.
Cơ quan chăm sóc sức khỏe nên thu thập lượng dữ liệu tối thiểu cần thiết cho nhiệm vụ hẹp là ngăn ngừa dịch bệnh và không nên chia sẻ dữ liệu này với bất kỳ cơ quan chính phủ nào khác - đặc biệt là không được chia sẻ cho cảnh sát. Cũng không nên chia sẻ dữ liệu với các công ty tư nhân. Phải đảm bảo rằng dữ liệu thu thập được về các cá nhân không bao giờ được sử dụng để làm hại hoặc thao túng những cá nhân này - ví dụ như dẫn đến việc bị mất việc làm hoặc mất bảo hiểm của họ.
Cơ quan y tế có thể cung cấp dữ liệu cho nghiên cứu khoa học, nhưng chỉ khi thành quả của nghiên cứu này được cung cấp miễn phí cho nhân loại và nếu bất kỳ khoản lợi nhuận ngẫu nhiên nào được tái đầu tư để cung cấp cho mọi người dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Trái ngược với tất cả những hạn chế này về chia sẻ dữ liệu, bản thân các cá nhân cần được trao quyền kiểm soát nhiều nhất đối với dữ liệu thu thập được về họ. Họ sẽ được tự do kiểm tra dữ liệu cá nhân của mình và hưởng lợi từ nó.
Cuối cùng, mặc dù các hệ thống giám sát như vậy có thể mang tính chất quốc gia, nhưng để thực sự ngăn chặn dịch bệnh, các cơ quan y tế khác nhau sẽ phải hợp tác với nhau. Vì tác nhân gây bệnh không tôn trọng biên giới quốc gia, trừ khi chúng ta kết hợp dữ liệu từ các quốc gia khác nhau, sẽ rất khó để phát hiện và ngăn chặn dịch bệnh. Nếu việc giám sát quốc gia được thực hiện bởi một cơ quan y tế độc ​​lp, không có li ích chính tr và thương mi, thì các cơ quan quc gia đó s d dàng nhiều hơn để hợp tác trên toàn cầu.
Ông đã nói về sự suy giảm niềm tin nhanh chóng gần đây trong hệ thống quốc tế. Ông nhìn nhận thế nào về những thay đổi sâu sắc trong hợp tác đa phương trong thời gian tới?
Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nó phụ thuộc vào sự lựa chọn của chúng ta ở hiện tại. Các quốc gia có thể lựa chọn cạnh tranh để giành nguồn lực khan hiếm và theo đuổi chính sách vị kỷ và biệt lập, hoặc họ có thể chọn giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần đoàn kết toàn cầu. Sự lựa chọn này sẽ định hình cả tiến trình của cuộc khủng hoảng hiện tại và tương lai của hệ thống quốc tế trong nhiều năm tới.
Tôi hy vọng các nước sẽ lựa chọn đoàn kết và hợp tác. Chúng ta không thể ngăn chặn dịch bệnh này nếu không có sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới. Ngay cả khi một quốc gia cụ thể thành công trong việc ngăn chặn dịch bệnh trên lãnh thổ của mình trong một thời gian, miễn là dịch tiếp tục lây lan ở nơi khác, nó có thể quay trở lại khắp nơi. Tệ hơn nữa, vi-rút liên tục đột biến. Một đột biến trong vi-rút ở bất kỳ nơi nào trên thế giới có thể làm cho nó dễ lây lan hơn hoặc gây tử vong nhiều hơn, gây nguy hiểm cho tất cả nhân loại. Cách duy nhất chúng ta có thể thực sự bảo vệ chính mình, là giúp bảo vệ tất cả loài người.
Điều này cũng đúng với cuộc khủng hoảng kinh tế. Nếu mỗi quốc gia chỉ chăm lo cho lợi ích của mình, thì kết quả sẽ là một cuộc suy thoái toàn cầu nghiêm trọng ập đến với tất cả mọi người. Các quốc gia giàu có như Mỹ, Đức và Nhật Bản sẽ xáo trộn theo cách này hay cách khác. Nhưng các nước nghèo hơn ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latinh có thể hoàn toàn sụp đổ. Mỹ có thể chi trả gói giải cứu trị giá 2 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế của mình. Ecuador, Nigeria và Pakistan không có các nguồn lực tương tự. Chúng ta cần một kế hoạch giải cứu kinh tế toàn cầu.
Thật không may, cho đến nay chúng tôi không thấy bất cứ điều gì giống như sự lãnh đạo toàn cầu mạnh mẽ mà chúng ta cần. Mỹ, quốc gia lãnh đạo thế giới trong đợt đại dịch Ebola năm 2014 và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, đã từ bỏ công việc này. Chính quyền Trump đã nói rõ rằng họ chỉ quan tâm đến Mỹ và đã từ bỏ ngay cả các đồng minh thân cận nhất của mình ở Tây Âu. Ngay cả khi hiện nay nếu Mỹ đưa ra một kế hoạch toàn cầu, ai sẽ tin tưởng, và ai sẽ đi theo hướng dẫn của kế hoạch đó? Bạn có đi theo một nhà lãnh đạo có phương châm là “Tôi là trên hết” không?
Nhưng mọi cuộc khủng hoảng cũng là một cơ hội. Hy vọng rằng đại dịch hiện nay sẽ giúp nhân loại nhận ra mối nguy hiểm cấp tính do mất đoàn kết toàn cầu gây ra. Nếu thực sự dịch bệnh này cuối cùng dẫn đến sự hợp tác toàn cầu chặt chẽ hơn, đó sẽ là một chiến thắng không chỉ chống lại vi-rút corona, mà còn chống lại tất cả các mối nguy hiểm khác đang đe dọa loài người - từ biến đổi khí hậu đến chiến tranh hạt nhân.
Ông nói về những lựa chọn mà chúng ta đưa ra bây giờ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến xã hội của chúng ta về mặt kinh tế, chính trị và văn hóa, trong nhiều năm tới. Những lựa chọn này là gì và ai sẽ chịu trách nhiệm thực hiện?
Chúng ta phải đối mặt với nhiều sự lựa chọn. Không chỉ là sự lựa chọn giữa chủ nghĩa biệt lập mang tính dân tộc và sự đoàn kết toàn cầu. Một câu hỏi quan trọng khác là liệu mọi người sẽ ủng hộ sự trỗi dậy của các nhà độc tài, hay họ kiên quyết giải quyết tình trạng khẩn cấp theo cách dân chủ? Khi các chính phủ chi hàng tỷ USD để giúp đỡ các doanh nghiệp thất bại, họ sẽ cứu các tập đoàn lớn hay các doanh nghiệp gia đình nhỏ? Khi mọi người chuyển sang làm việc tại nhà và giao tiếp trực tuyến, điều này sẽ dẫn đến sự sụp đổ của lao động có tổ chức hay chúng ta sẽ thấy sự bảo vệ tốt hơn các quyền của người lao động?
Tất cả những điều này là lựa chọn chính trị. Chúng ta phải biết rằng hiện nay chúng ta không chỉ đối mặt với một cuộc khủng hoảng y tế mà còn là một cuộc khủng hoảng chính trị. Giới truyền thông và người dân không nên để mình bị phân tâm hoàn toàn bởi dịch bệnh. Tất nhiên điều quan trọng là phải theo dõi tin tức mới nhất về chính căn bệnh - hôm nay có bao nhiêu người tử vong? Có bao nhiêu người bị nhiễm? Nhưng điều quan trọng không kém là phải quan tâm đến chính trị và tạo áp lực để các chính trị gia làm điều đúng đắn. Công dân nên gây áp lực cho các chính trị gia hành động trên tinh thần đoàn kết toàn cầu; hợp tác với các quốc gia khác hơn là đổ lỗi cho họ; nên phân phối quỹ một cách công bằng; nên duy trì các nguyên tắc giám sát và đối trọng các quyền lực dân chủ - ngay cả trong trường hợp khẩn cấp.


Bây giờ là lúc để làm tất cả. Bất cứ chính phủ nào được chúng ta bầu trong những năm tới sẽ không thể đảo ngược các quyết định đã được đưa ra bây giờ. Nếu bạn trở thành tổng thống vào năm 2021, điều đó giống như đến một bữa tiệc khi bữa tiệc đã kết thúc và việc còn lại để làm là rửa bát đĩa bẩn. Nếu bạn trở thành tổng thống vào năm 2021, bạn sẽ phát hiện ra rằng chính phủ trước đó đã phân phối hàng chục tỷ đô la - và bạn có một núi nợ phải trả. Chính phủ trước đây đã tái cấu trúc thị trường việc làm - và bạn không thể bắt đầu lại từ đầu. Chính phủ tiền nhiệm đã đưa ra các hệ thống giám sát mới - và chúng không thể bị xóa bỏ trong một sớm một chiều. Vì vậy, đừng đợi đến năm 2021. Hãy theo dõi những gì các chính trị gia đang làm ngay bây giờ.
Các ý kiến ​​được trình bày trong cuc phng vn này là ca tác gi, và không nht thiết là ca UNESCO và không cam kết vi T chc.
Yuval Noah Harari, nhà sử học người Israel và là tác giả của các tác phẩm: ‘Sapiens’, ‘Homo Deus’, và ‘21 Bài học cho thế kỷ 21’.
Người dịch: Lê Thị Hạnh
Nguồn: Yuval Noah Harari: “Every crisis is also an opportunity””, The UNESCO Courier. 2020-3.
Có thể tham khảo:Yuval Noal Haari: the world after coronavirus”, Financial Times, March 20. 2020.
Print Friendly and PDF