9.10.25

Cỗ máy 80 năm tuổi đã định hình internet – và có thể giúp chúng ta sống sót trong thời đại AI

CỖ MÁY 80 NĂM TUỔI ĐÃ ĐỊNH HÌNH INTERNET – VÀ CÓ THỂ GIÚP CHÚNG TA SỐNG SÓT TRONG THỜI ĐẠI A.I.

Vannevar Bush làm việc với hệ thống memex trong phòng thí nghiệm (Ảnh: Getty Images)

Nhiều năm về trước, khi internet hay trí tuệ nhân tạo (AI) còn chưa tồn tại, một kỹ sư người Mỹ tên là Vannevar Bush đã trăn trở về cách tháo gỡ một bài toán khó. Ông nhận thấy việc nghiên cứu của giới chuyên môn ngày càng trở nên khó khăn, và tìm ra một hướng tiếp cận hiệu quả hơn.

Vannevar Bush (Ảnh: Associated Press)

Thời điểm đó là thập niên 1940, khi muốn tìm các bài báo, sách hay tài liệu khoa học, người ta đều phải đến thư viện và lần mò trong một tủ chỉ mục thẻ khổng lồ. Đó là những dãy dài ngăn kéo nối tiếp, chứa đầy phiếu tra cứu (index cards), thường được sắp xếp theo tên tác giả, nhan đề hoặc chủ đề. Khi tìm được tài liệu mong muốn, việc tạo bản sao hay trích đoạn là một nhiệm vụ thủ công, tẻ nhạt. Mỗi cá nhân buộc phải cực kỳ ngăn nắp để lưu trữ các tư liệu của riêng mình.

Và thật khốn khổ cho những ai phải nghiên cứu trên nhiều hơn một lĩnh vực. Bởi về mặt vật lý, mỗi cuốn sách chỉ có thể nằm ở một vị trí duy nhất, thế nên chúng phải được phân loại dưới một chủ đề chính. Một bài viết về nghệ thuật hang động chẳng hạn, sẽ chỉ được xếp vào mục “nghệ thuật” hoặc “khảo cổ học”, chứ không thể nằm ở cả hai. Vì vậy mà các nhà nghiên cứu thường phải tốn thêm thời gian chỉ để tìm tài liệu đúng chỗ.

Thử thách này vốn đã tồn tại từ lâu, nhưng sự bùng nổ của các ấn phẩm nghiên cứu trong thời kỳ ấy khiến vấn đề càng tồi tệ hơn. Như Bush đã viết trong bài tiểu luận có sức ảnh hưởng lớn As We May Think đăng trên Tạp chí The Atlantic tháng 7 năm 1945:

“Khối lượng nghiên cứu ngày càng chất chồng như một ngọn núi. Trong khi có ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chúng ta đang bị sa lầy khi các lĩnh vực chuyên môn mở rộng. Người nghiên cứu choáng ngợp trước kết quả và kết luận của hàng nghìn đồng nghiệp khác – những kết luận mà khi chúng ra đời, họ còn chẳng có đủ thời gian để nắm bắt, chứ đừng nói đến việc ghi nhớ.”

Bush lúc ấy là trưởng khoa Kỹ thuật tại Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), đồng thời giữ chức chủ tịch Viện Carnegie. Trong Thế chiến II, ông còn là giám đốc Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển Khoa học (OSRD), điều phối công việc của khoảng 6.000 nhà khoa học không ngừng nghỉ để mang lại lợi thế công nghệ cho nước Mỹ. Ông nhận thấy tiến trình khoa học đang bị cách thức nghiên cứu kìm hãm nghiêm trọng, và đã đề xuất một giải pháp mà ông gọi là “memex”. 

Memex được hình dung như một thiết bị cá nhân tích hợp vào bàn làm việc, chiếm rất ít không gian. Hệ thống này lưu trữ dữ liệu chủ yếu dựa vào vi phim (microfilm), một công nghệ mới mẻ thời bấy giờ. Nhờ đó, memex có thể chứa khối lượng lớn tài liệu dưới dạng nén và chiếu chúng lên màn hình nửa trong suốt (translucent screen).

Điều quan trọng nhất trong thiết kế của Bush là memex có cơ chế chỉ mục liên tưởng (associative indexing), cho phép liên kết hai tài liệu với nhau. Người dùng có thể dùng bàn phím để bấm vào một mã số cạnh tài liệu, từ đó nhảy ngay sang một tài liệu có liên quan hoặc xem song song cả hai – mà không cần phải lục lọi trong mục lục.

Trong tiểu luận của mình, Bush thừa nhận rằng dạng thao tác “nhấp chuột” qua bàn phím như vậy bấy giờ chưa khả thi về mặt công nghệ. Tuy nhiên, ông tin điều này sẽ sớm thành hiện thực, đồng thời chỉ ra rằng các hệ thống xử lý dữ liệu hiện thời như thẻ đục lỗ (punched cards, hay thẻ Hollerith) có thể là tiền thân tiềm năng.

Thẻ đục lỗ (punched cards) là một cách lưu trữ thông tin kỹ thuật số thời kỳ đầu. (Ảnh: CC BY-SA)
Bush hình dung người dùng sẽ tự tạo các kết nối giữa những tài liệu khi họ xây dựng thư viện nghiên cứu cá nhân, hình thành nên các chuỗi khung vi phim (chains of microfilm), trong đó cùng một tài liệu hoặc trích đoạn có thể đồng thời xuất hiện ở nhiều tuyến (trails) khác nhau.

Các tài liệu bổ sung mới có thể được thêm vào bằng cách chụp ảnh lên vi phim hoặc mua bản vi phim của tài liệu đã có. Và chắc chắn, người dùng có thể mở rộng Memex của mình bằng các văn bản tham khảo khổng lồ. Bush viết: “Sẽ xuất hiện những hình thức bách khoa toàn thư mới, được xây dựng sẵn với vô số tuyến liên tưởng đan xen, chỉ cần đưa thẳng vào memex”. Thật đáng kinh ngạc, ý tưởng này không khác mấy so với Wikipedia ngày nay. 

Con đường memex mở ra

Bush tin rằng memex sẽ giúp các nhà nghiên cứu tư duy một cách tự nhiên và mang tính liên tưởng hơn, điều này cũng sẽ được phản ánh trong chính kho tư liệu của họ. Người ta cho rằng ý tưởng của ông đã truyền cảm hứng cho hai nhà phát minh người Mỹ là Ted NelsonDouglas Engelbart, những người vào thập niên 1960 đã độc lập phát triển các hệ thống siêu văn bản (hypertext). Trong đó, các tài liệu có chứa siêu liên kết (hyperlink) để truy cập trực tiếp sang tài liệu khác. Đây chính là nền móng cho World Wide Web mà chúng ta biết ngày nay.

Không chỉ dừng ở tính thực tiễn khi dễ dàng tiếp cận khối lượng lớn thông tin, Bush còn tin rằng giá trị gia tăng của memex là giúp người dùng dễ dàng thao tác với các ý tưởng, từ đó khơi gợi ra những ý tưởng mới. Trong tiểu luận, ông phân biệt rõ giữa tư duy lặp lại và tư duy sáng tạo, đồng thời dự báo rằng sẽ sớm xuất hiện những “công cụ cơ học mạnh mẽ” để hỗ trợ các kiểu hình tư duy mang tính lặp lại.

Có lẽ Bush chủ yếu nghĩ đến toán học, nhưng vẫn để ngỏ khả năng cho những dạng tư duy khác. Và 80 năm sau, với AI nằm gọn ngay trong túi chúng ta, loài người đã tự động hóa hoạt động trí óc nhiều hơn hẳn so với những gì một chiếc máy tính bỏ túi từng làm được.

Chỉ 80 năm sau khi Bush đề xuất Memex, AI trên điện thoại thông minh đã trở nên phổ biến (Ảnh: Jackpress)

Nếu nghe đến đây tưởng chừng là một cái kết có hậu, thì thực tế Bush lại không mấy lạc quan khi soi chiếu lại chính tầm nhìn của mình trong cuốn sách Pieces of the Action (1970). Trong 25 năm kể từ khi viết tiểu luận As We May Think, ông chứng kiến những tiến bộ lớn trong các lĩnh vực như điện toán, đã từng bước đưa memex đến gần hơn với hiện thực.

Thế nhưng, Bush cho rằng công nghệ ấy đã phần nào bỏ lỡ ý nghĩa triết học trong tầm nhìn của ông – đó là nâng cao khả năng lý luận và sáng tạo của con người: “Năm 1945, tôi từng mơ về những cỗ máy có thể tư duy cùng chúng ta. Còn giờ đây, tôi lại thấy những cỗ máy tư duy thay chúng ta – thậm chí còn tệ hơn, kiểm soát chúng ta”.

Bush qua đời bốn năm sau đó, hưởng thọ 84 tuổi. Nhưng những trăn trở này đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta có thể vui mừng vì không còn phải lật giở từng ngăn kéo thẻ mục lục để tìm sách, nhưng đồng thời lại phải băn khoăn khi ngày càng nhiều hoạt động tư duy được giao phó cho máy móc.

Liệu công nghệ đang nâng cao và mài sắc kỹ năng của chúng ta, hay đang khiến chúng ta trở nên lười biếng hơn? Không nghi ngờ gì việc mỗi người lại có quan điểm khác nhau, nhưng nguy cơ lớn nhất là bất kỳ kỹ năng nào ta giao phó cho máy móc thì sớm muộn cũng sẽ bị mất đi, và các thế hệ trẻ thậm chí có thể không có cơ hội học chúng ngay từ đầu.

Bài học từ tiểu luận As We May Think là: một giải pháp thuần túy kỹ thuật như memex là chưa đủ. Công nghệ vẫn cần phải lấy con người làm trung tâm, được củng cố bởi một tầm nhìn triết học. Khi suy ngẫm về tiềm năng tự động hóa vĩ đại trong tư duy con người, thách thức chính là làm sao đồng thời bảo vệ được khả năng sáng tạo và năng lực lý luận của chúng ta.

Tác giả

Martin Rudorfer

Martin Rudorfer

Giảng viên ngành Khoa học Máy tính, Đại học Aston

Tuyên bố công khai

Martin Rudorfer không làm việc, tư vấn, sở hữu cổ phần hoặc nhận tài trợ từ bất kỳ công ty hay tổ chức nào có thể hưởng lợi từ bài viết này, và không có mối liên hệ nào liên quan ngoài vị trí công tác tại trường đại học.

Đối tác

Đại học Aston tài trợ với tư cách là thành viên của The Conversation UK.

Hải Âu dịch

Nguồn: The forgotten 80-year-old machine that shaped the internet – and could help us survive AI, The Conversation, ngày 11 tháng 7 năm 2025.

Print Friendly and PDF