TỪ ĐÌNH ĐỐN TỚI TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
Trong suốt 200 năm qua, thế giới đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nền tảng của tăng trưởng này là dòng chảy liên tục của đổi mới công nghệ; tăng trưởng kinh tế bền vững diễn ra khi các công nghệ mới thay thế những công nghệ cũ, như một phần của quá trình được gọi là “phá hủy sáng tạo” [creative destruction]. Các nhà khoa học kinh tế nhận giải năm nay, bằng nhiều phương pháp khác nhau, giải thích tại sao sự phát triển này lại khả thi, và điều gì là cần thiết cho sự tăng trưởng liên tục.
Trong phần lớn chiều dài lịch sử nhân loại, mức sống không thay đổi đáng kể từ thế hệ này sang thế hệ khác, mặc dù thỉnh thoảng cũng có những khám phá quan trọng. Những khám phá này đôi khi giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, song rốt cuộc tăng trưởng luôn ngừng lại.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp [lần thứ nhất - ND], diễn ra cách đây hơn hai thế kỷ đã làm thay đổi cơ bản điều này. Bắt đầu ở Vương quốc Anh, rồi lan sang các nước khác, đổi mới công nghệ và tiến bộ khoa học đã tạo nên một chu kỳ đổi mới và tiến bộ không ngừng, thay vì chỉ là những sự kiện đơn lẻ. Điều này dẫn tới tăng trưởng bền vững và ổn định đáng chú ý.
Giải thưởng năm nay liên quan tới những lý giải về tăng trưởng bền vững dựa trên đổi mới công nghệ. Sử gia kinh tế Joel Mokyr được trao một nửa giải thưởng cho công trình mô tả các cơ chế cho phép những đột phá khoa học và các ứng dụng thực tiễn bổ trợ cho nhau, và tạo nên một quá trình tự sản sinh [self-generating], dẫn tới tăng trưởng kinh tế bền vững. Bởi vì đây là một quá trình thách thức các mối quan tâm hiện hành, ông cũng chứng minh tầm quan trọng của một xã hội cởi mở với những ý tưởng mới và cho phép sự thay đổi diễn ra.
Nửa giải thưởng còn lại được trao cho các kinh tế gia Philippe Aghion và Peter Howitt. Trong một ấn phẩm viết chung vào năm 1992, họ đã xây dựng một mô hình toán học về cách các công ty đầu tư vào những quy trình sản xuất được cải tiến và các sản phẩm mới, có chất lượng tốt hơn, trong khi các công ty từng sở hữu những sản phẩm tốt nhất trước đây đã bị đánh bại. Tăng trưởng nảy sinh thông qua quá trình phá hủy sáng tạo. Quá trình này mang tính sáng tạo vì nó được xây dựng dựa trên sự đổi mới, nhưng cũng mang tính phá hủy vì các sản phẩm cũ trở nên lỗi thời và mất đi giá trị thương mại. Theo thời gian, quá trình này đã thay đổi cơ bản các xã hội của chúng ta – trong khoảng thời gian một hoặc hai thế kỷ, hầu như mọi thứ đều đã thay đổi.
Sự bình thường mới
Các kinh tế gia đo lường tăng trưởng kinh tế bằng cách tính toán mức gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), song thực sự thì tăng trưởng kinh tế không đơn thuần chỉ liên quan tới tiền bạc. Các loại thuốc mới, xe hơi an toàn hơn, thực phẩm tốt hơn, cách sưởi ấm và chiếu sáng nhà cửa hiệu quả hơn, mạng internet và những cơ hội giao tiếp với người khác ở các khoảng cách xa hơn – đây chỉ là một vài nhân tố trong số những nhân tố được bao gồm trong tăng trưởng.
Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói, sự tăng trưởng kinh tế dựa trên phát triển công nghệ không phải là chuẩn mực trong lịch sử - mà hoàn toàn ngược lại. Một ví dụ điển hình là xu thế ở Thụy Điển và ở Vương quốc Anh từ đầu thế kỷ 14 tới đầu thế kỷ 18. Thu nhập có lúc tăng có lúc giảm, song nhìn chung, chúng ta gần như không thấy rõ mức tăng trưởng, bất chấp những đổi mới quan trọng đang diễn ra.
Vì thế, những khám phá này không có tác động đáng kể nào lên tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Theo Mokyr, điều này là do các ý tưởng mới không tiếp tục tiến hóa hoặc dẫn tới dòng chảy của những cải tiến và ứng dụng mới mà ngày nay chúng ta coi là hiển nhiên, vì chúng là một hệ quả tự nhiên của các bước tiến to lớn về khoa học và công nghệ.
Ngược lại, khi nhìn vào tăng trưởng kinh tế ở Vương quốc Anh và ở Thụy Điển từ đầu thế kỷ 19 tới nay, chúng ta lại thấy một điều hoàn toàn khác. Ngoại trừ những giai đoạn dễ nhận biết như cuộc Đại Suy thoái những năm 1930 và những cuộc khủng hoảng khác, sự tăng trưởng – chứ không phải sự đình đốn – đã trở thành sự bình thường mới. Một khuôn mẫu tương tự, với mức tăng trưởng hàng năm bền vững gần 2%, đã xuất hiện ở nhiều quốc gia công nghiệp hóa sau nửa đầu thế kỷ 19. Nghe có vẻ không đáng kể, song tăng trưởng bền vững ở mức đó đồng nghĩa với việc thu nhập tăng gấp đôi trong suốt cuộc đời làm việc của một người. Cuối cùng, điều này sẽ có một tác động mang tính cách mạng lên thế giới và chất lượng cuộc sống của người dân.
Tri thức hữu dụng
Vậy điều gì tạo nên sự tăng trưởng kinh tế bền vững này? Những người nhận giải năm nay đã sử dụng các phương pháp khác nhau để trả lời câu hỏi này. Thông qua nghiên cứu về lịch sử kinh tế, Joel Mokyr đã chứng minh rằng một dòng chảy liên tục của tri thức hữu dụng [useful knowledge] là cần thiết. Tri thức hữu dụng này bao gồm hai phần: phần thứ nhất là điều mà Mokyr gọi là tri thức mệnh đề [propositional knowledge], một mô tả có hệ thống về những quy luật [regularities] trong thế giới tự nhiên, chứng minh tại sao một điều gì đó lại vận hành; phần thứ hai là tri thức quy phạm [prescriptive knowledge], ví dụ như những hướng dẫn thực tiễn, các bản vẽ hoặc những công thức mô tả những gì cần thiết để một điều gì đó vận hành.
Mokyr chỉ ra rằng trước cuộc Cách mạng Công nghiệp [lần thứ nhất], đổi mới công nghệ chủ yếu dựa trên tri thức quy phạm. Con người biết rằng một điều gì đó hoạt động, nhưng không biết tại sao lại diễn ra như thế. Tri thức mệnh đề, như trong toán học và triết học tự nhiên chẳng hạn, được phát triển mà không quy chiếu tới tri thức quy phạm, khiến việc xây dựng dựa trên tri thức sẵn có trở nên khó khăn, thậm chí là bất khả thi. Những đổi mới được thử nghiệm thường ngẫu nhiên diễn ra hoặc có những cách tiếp cận mà một người có tri thức mệnh đề đầy đủ sẽ hiểu là vô ích – như việc chế tạo động cơ vĩnh cửu hoặc sử dụng thuật giả kim để làm ra vàng chẳng hạn.
Các thế kỷ 16 và 17 chứng kiến cuộc Cách mạng Khoa học [lần thứ nhất - ND], một phần của Thời Khai sáng. Các nhà khoa học bắt đầu nhấn mạnh vào các phương pháp đo lường chuẩn xác, những thí nghiệm có đối chứng, và kết quả phải có khả năng tái tạo, dẫn tới sự phản hồi mang tính cải tiến giữa tri thức mệnh đề và tri thức quy phạm. Điều này làm gia tăng sự tích lũy tri thức hữu dụng, thứ có thể được sử dụng trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Những ví dụ điển hình bao gồm việc cải tiến động cơ hơi nước nhờ những nhận thức sâu sắc đương thời về áp suất khí quyển và chân không, và các tiến bộ trong việc sản xuất thép nhờ sự am hiểu về cách oxy làm giảm hàm lượng carbon trong gang nóng chảy. Những cái lợi thu được từ các tri thức hữu dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tiến các phát minh lúc bấy giờ và mở ra những lĩnh vực ứng dụng mới.
Từ lý thuyết đến thực hành
Tuy nhiên, để hiện thực hóa những ý tưởng mới, chúng ta cần phải có tri thức thực tiễn, kỹ thuật và, nhất là, tri thức thương mại. Nếu không có những tri thức này, ngay cả những ý tưởng xuất sắc nhất cũng chỉ nằm trên bản vẽ, như thiết kế trực thăng của Leonardo da Vinci chẳng hạn. Mokyr nhấn mạnh rằng tăng trưởng bền vững đầu tiên diễn ra ở Vương quốc Anh vì nơi đây là quê hương của nhiều nghệ nhân và kỹ sư lành nghề. Họ có khả năng nắm vững thiết kế và biến các ý tưởng thành những sản phẩm thương mại, và điều này rất cốt yếu để chúng ta đạt được tăng trưởng bền vững.
Giảm tình trạng phản kháng trước sự thay đổi
Một nhân tố khác mà Mokyr cho là cần thiết cho tăng trưởng bền vững là xã hội luôn cởi mở với sự thay đổi. Tăng trưởng dựa trên thay đổi công nghệ không chỉ tạo ra người thắng, mà còn tạo ra kẻ thua. Những phát minh sáng kiến mới thay thế công nghệ cũ và có thể phá hủy các cấu trúc và phương thức làm việc hiện có. Ông cũng chỉ ra rằng đây là lý do tại sao công nghệ mới thường gặp phải tình trạng phản kháng từ các nhóm lợi ích cố hữu, những nhóm cảm thấy các đặc quyền đặc lợi của họ bị đe dọa.
Thời Khai sáng đã mang lại sự chấp nhận rộng rãi hơn đối với sự thay đổi. Các thể chế mới, như Quốc hội Vương quốc Anh chẳng hạn, không mang lại cơ hội tương tự cho những người có đặc quyền đặc lợi ngăn chặn sự thay đổi. Thay vào đó, đại diện từ các nhóm lợi ích đã có cơ hội tập hợp và đạt được những thỏa hiệp cùng có lợi. Những thay đổi này đối với các thể chế xã hội đã xóa bỏ một rào cản lớn cho tăng trưởng bền vững.
Tri thức mệnh đề đôi lúc cũng có thể góp phần làm giảm tình trạng phản kháng trước những ý tưởng mới. Vào thế kỷ 19, bác sĩ người Hungary Ignaz Semmelweis đã nhận ra rằng các tỷ suất tử vong ở các sản phụ giảm mạnh nếu bác sĩ và các nhân viên y tế khác rửa tay. Nếu ông ấy biết lý do và có thể chứng minh được việc rửa tay có thể làm chấm dứt sự tồn tại của các loại vi khuẩn nguy hiểm, thì có lẽ những ý tưởng của ông ấy đã có một tác động sớm hơn.
Tăng trưởng – một tiến trình chuyển đổi
Joel Mokyr sử dụng các quan sát lịch sử để xác định các nhân tố cần thiết cho tăng trưởng bền vững. Thay vào đó, lấy cảm hứng từ dữ liệu hiện đại, Philippe Aghion và Peter Howitt đã xây dựng một mô hình kinh tế toán học cho thấy việc tiến bộ công nghệ dẫn tới tăng trưởng bền vững ra sao. Hai cách tiếp cận này tuy khác nhau, nhưng về cơ bản đều giải quyết những câu hỏi và các hiện tượng giống nhau.
Như chúng ta đã thấy ở trên, sự tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia công nghiệp hóa như ở Vương quốc Anh và ở Thụy Điển rất ổn định. Tuy nhiên, bên dưới bề mặt, thực tế lại không hề diễn ra như thế. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, hơn 10% tổng số công ty phá sản hàng năm, trong khi số các công ty mới thành lập cũng tương đương nhau. Trong số những doanh nghiệp còn lại, một lượng lớn công ăn việc làm được tạo ra hoặc biến mất mỗi năm; mặc dù những con số này không cao bằng ở các nước khác, song khuôn mẫu vẫn chẳng có gì khác.
Aghion và Howitt đều nhận ra rằng quá trình phá hủy sáng tạo mang tính chuyển đổi này, trong đó các công ty và những công việc biến mất và được thay thế không ngừng, chính là cốt lõi của tiến trình dẫn tới tăng trưởng bền vững. Một công ty có ý tưởng về một sản phẩm tốt hơn hay một phương tiện sản xuất hiệu quả hơn có thể vượt mặt các công ty khác để trở thành công ty dẫn đầu thị trường. Tuy nhiên, ngay khi điều này xảy ra, nó sẽ tạo nên một sự khuyến khích cho các công ty khác tiếp tục cải tiến sản phẩm hoặc phương pháp sản xuất để leo lên vị trí cao hơn.
Một mô hình đột phá nền tảng
Một mô tả đơn giản về một vài cơ chế quan trọng của mô hình này có thể là một nền kinh tế bao gồm các công ty sở hữu công nghệ tốt nhất và tiên tiến nhất; khi những công ty này đăng ký các bằng sáng chế cho những sản phẩm của mình mà họ có thể được trả nhiều hơn chi phí sản xuất và do đó hưởng lợi từ sự độc quyền [bán – ND]. Đây là những công ty đã vươn lên vị trí cao nhất. Bằng sáng chế bảo vệ họ khỏi sự cạnh tranh, nhưng không bảo vệ họ khỏi việc một công ty khác tạo nên một đổi mới mới có thể được cấp bằng sáng chế. Nếu những sản phẩm hoặc quy trình sản xuất mới đủ tốt, chúng có thể vượt trội hơn các sản phẩm hoặc quy trình cũ và tiếp tục leo lên vị trí cao hơn.
Tiềm năng hưởng lợi từ sự độc quyền [bán - ND], dù chỉ là tạm thời, cũng tạo ra những sự khuyến khích cho các công ty đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D). Một công ty càng tin rằng mình có thể duy trì vị trí dẫn đầu bao lâu thì sự khuyến khích đầu tư vào hoạt động R&D càng mãnh liệt, và nguồn lực đầu tư vào hoạt động R&D sẽ càng lớn bấy nhiêu. Tuy nhiên, việc đầu tư R&D nhiều hơn sẽ khiến thời gian trung bình để đổi mới giảm xuống, và công ty ở vị trí dẫn đầu sẽ bị mất vị trí. Trong nền kinh tế, sự cân bằng giữa các tác lực này sẽ quyết định mức độ đầu tư vào hoạt động R&D, từ đó quyết định tốc độ phá hủy sáng tạo và tăng trưởng kinh tế.
Tiền đầu tư cho hoạt động R&D bắt nguồn từ các khoản tiết kiệm của những hộ gia đình. Mức tiết kiệm của họ phụ thuộc vào lãi suất, mà lãi suất lại bị ảnh hưởng bởi tỷ suất tăng trưởng của nền kinh tế. Vì thế, sản xuất, R&D, các thị trường tài chính và những khoản tiết kiệm hộ gia đình có mối liên hệ với nhau, và không thể được phân tích một cách tách biệt. Các kinh tế gia gọi một mô hình kinh tế vĩ mô mà trong đó các thị trường khác nhau đều ở trạng thái cân bằng là mô hình cân bằng tổng thể. Mô hình mà Aghion và Howitt trình bày trong bài báo khoa học vào năm 1992 của họ là mô hình kinh tế vĩ mô đầu tiên cho quá trình phá hủy sáng tạo kết hợp với trạng thái cân bằng tổng thể.
Những hiệu ứng phúc lợi
Mô hình của Aghion và Howitt có thể được sử dụng để phân tích liệu có mức R&D tối ưu, và do đó là có sự tăng trưởng kinh tế, nếu thị trường được tự do hoạt động và không có sự can thiệp về chính trị. Các mô hình trước đây, vốn không phân tích toàn bộ nền kinh tế, đã không thể trả lời câu hỏi này. Hóa ra câu trả lời không hề đơn giản, bởi vì hai cơ chế này tác động theo những hướng khác nhau.
Cơ chế đầu tiên dựa trên việc các công ty đầu tư vào hoạt động R&D hiểu rằng những khoản lợi nhuận hiện tại mà họ thu được từ một sự đổi mới sẽ không tồn tại mãi mãi. Không sớm thì muộn, một công ty khác sẽ tung ra một sản phẩm tốt hơn. Tuy nhiên, xét dưới góc độ xã hội, giá trị của sự đổi mới trước đó không hề mất đi, vì sự đổi mới sau đấy vẫn được xây dựng dựa trên tri thức cũ. Do đó, những đổi mới bị cạnh tranh khốc liệt hơn mang lại giá trị to lớn hơn cho xã hội so với các công ty phát triển chúng, khiến những sự khuyến khích trong khu vực tư [private incentives] cho hoạt động R&D nhỏ hơn những cái lợi mang lại cho toàn xã hội. Vì thế, xã hội có thể hưởng lợi từ việc trợ cấp cho hoạt động R&D.
Cơ chế thứ hai xem xét cách thức mà khi một công ty đạt thành công trong việc đẩy một công ty khác ra khỏi vị trí dẫn đầu, thì công ty mới sẽ thu được lợi trong lúc lợi nhuận của công ty cũ biến mất. Tình huống sau thường được gọi là “đánh cắp kinh doanh” [business stealing], mặc dù dĩ nhiên nó không phải là sự đánh cắp theo nghĩa pháp lý. Do đó, ngay cả khi cải tiến mới chỉ tốt hơn một chút so với cải tiến cũ, các khoản lợi nhuận có thể vẫn đáng kể và lớn hơn những cái lợi về mặt kinh tế xã hội. Vì thế, từ góc độ kinh tế xã hội, việc đầu tư vào hoạt động R&D có thể quá lớn; sự phát triển công nghệ có thể quá nhanh và tăng trưởng quá cao. Điều này tạo ra những luận cứ phản đối việc xã hội trợ cấp cho hoạt động R&D.
Tác lực nào trong hai tác lực này chiếm ưu thế sẽ phụ thuộc vào một loạt nhân tố, biến đổi tùy theo thị trường và thời điểm. Lý thuyết của Aghion và Howitt rất hữu dụng trong việc tìm hiểu những biện pháp nào sẽ hiệu quả nhất và mức độ xã hội cần hỗ trợ cho hoạt động R&D.
Nghiên cứu dẫn tới nhiều nghiên cứu hơn
Mô hình mà Aghion và Howitt xây dựng vào năm 1992 đã dẫn tới những nghiên cứu mới, bao gồm nghiên cứu về mức độ tập trung thị trường, liên quan tới số lượng công ty cạnh tranh với nhau. Lý thuyết của các nhà nghiên cứu cho thấy mức độ tập trung quá cao hay quá thấp đều không tốt cho tiến trình đổi mới. Bất chấp những tiến bộ đầy hứa hẹn về công nghệ, sự tăng trưởng đã giảm trong những thập kỷ gần đây. Một cách giải thích cho điều này, dựa trên mô hình của Aghion và Howitt, là một số công ty đã trở nên quá thống trị. Sẽ rất cần thiết nếu có những chính sách có tác lực mạnh hơn nhằm ngăn chặn tình trạng thống trị thị trường quá mức.
Một bài học quan trọng khác là sự đổi mới tạo ra người thắng kẻ thua. Điều này không chỉ đúng với các công ty mà còn đúng với cả những nhân viên của họ. Tăng trưởng cao đòi hỏi rất nhiều quá trình phá hủy sáng tạo, đồng nghĩa với việc nhiều công ăn việc làm sẽ biến mất và nguy cơ thất nghiệp cao. Do đó, điều quan trọng là phải hỗ trợ những người bị ảnh hưởng, đồng thời tạo điều kiện cho họ chuyển sang những chỗ làm có năng suất hơn. Việc bảo vệ người lao động nhưng không bảo vệ việc làm, ví dụ như thông qua một hệ thống đôi khi được gọi là hệ thống an toàn linh hoạt [flexicurity], có thể là giải pháp đúng.
Những người nhận giải cũng chứng minh tầm quan trọng của việc xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đổi mới và những nhà kinh doanh tài năng. Vì thế, tính di động xã hội, khi nghề nghiệp của bạn không bị quyết định bởi bản sắc của cha mẹ bạn, rất quan trọng cho sự tăng trưởng.
Các công cụ cho những xã hội tương lai
Nghiên cứu của Mokyr, Aghion và Howitt giúp chúng ta hiểu được các xu thế đương đại và cách chúng ta có thể giải quyết các vấn đề quan trọng. Ví dụ, công trình của Mokyr cho thấy AI có thể củng cố phản hồi giữa tri thức mệnh đề và tri thức quy phạm, đồng thời gia tăng tỷ suất tích lũy tri thức hữu dụng.
Rõ ràng, về lâu về dài, tăng trưởng bền vững không chỉ mang lại những hệ quả tích cực cho sự yên vui [wellbeing - ND] của con người. Thứ nhất, tăng trưởng bền vững [sustained growth] không đồng nghĩa với tăng trưởng có thể bền vững [sustainable growth]. Những đổi mới có thể gây ra những hiệu ứng tiêu cực đáng kể. Mokyr lập luận rằng những hiệu ứng tiêu cực này đôi khi lại khởi đầu cho những quá trình khám phá những giải pháp cho các vấn đề, biến sự phát triển công nghệ thành một quá trình tự điều chỉnh. Tuy nhiên, rõ ràng điều này thường đòi hỏi những chính sách được thiết kế tốt, ví dụ như trong các lĩnh vực của tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm, sự kháng kháng sinh, sự bất bình đẳng gia tăng và việc sử dụng không bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tóm lại, và có lẽ quan trọng nhất, những người nhận giải đã dạy chúng ta rằng tăng trưởng bền vững không thể bị xem nhẹ. Sự đình đốn kinh tế, chứ không phải tăng trưởng, đã là chuẩn mực trong phần lớn chiều dài lịch sử nhân loại. Công trình của họ cho thấy chúng ta phải nhận thức và ứng phó với các mối đe dọa đối với sự tăng trưởng liên tục. Những mối đe dọa này có thể tới từ việc một số ít công ty được phép thống trị thị trường, những hạn chế về tự do học thuật, việc mở rộng tri thức ở cấp độ khu vực thay vì toàn cầu, và sự bế tắc từ các nhóm có khả năng chịu thiệt thòi. Nếu chúng ta không ứng phó với những mối đe dọa này, cỗ máy đã mang lại cho chúng ta tăng trưởng bền vững, quá trình phá hủy sáng tạo, có thể ngừng hoạt động – và chúng ta sẽ lại một lần nữa phải đối mặt với tình trạng đình đốn. Chúng ta có thể tránh được điều này nếu biết lắng nghe những nhận định quan trọng của những người nhận giải.
Đọc thêm
Thông tin bổ sung về các giải thưởng năm nay, bao gồm cả lý lịch khoa học bằng tiếng Anh, có sẵn trên trang web của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, www.kva.se, và tại www.nobelprize.org, nơi bạn có thể xem video từ các cuộc họp báo, những bài giảng về giải Nobel và nhiều nội dung khác. Thông tin về các triển lãm và hoạt động liên quan tới Giải Nobel và Giải thưởng về các Khoa học Kinh tế có sẵn tại www.nobelprizemuseum.se.
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã quyết định trao Giải thưởng Sveriges Riksbank về các Khoa học Kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel năm 2025 cho Joel Mokyr, Philippe Aghion và Peter Howitt
“vì đã giải thích được sự tăng trưởng kinh tế nhờ đổi mới”
với một nửa phần thưởng trao cho
JOEL MOKYR
sinh năm 1946 tại Leiden, Hà Lan. Nhận bằng Tiến sĩ vào năm 1974 tại Đại học Yale, New Haven, CT, Hoa Kỳ. Giáo sư tại Đại học Northwestern, Evanston, IL, Hoa Kỳ.
“vì đã xác định được các điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng bền vững thông qua tiến bộ công nghệ”
và nửa phần thưởng còn lại cùng trao cho
PHILIPPE AGHION
sinh năm 1956 tại Paris, Pháp. Nhận bằng Tiến sĩ vào năm 1987 tại Đại học Harvard, Cambridge, MA, Hoa Kỳ. Giáo sư tại Collège de France và INSEAD, Paris, Pháp và Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London, Vương quốc Anh.
PETER HOWITT
sinh năm 1946 tại Canada. Nhận bằng Tiến sĩ vào năm 1973 tại Đại học Northwestern, Evanston, IL, Hoa Kỳ. Giáo sư tại Đại học Brown, Providence, RI, Hoa Kỳ.
“cho lý thuyết về tăng trưởng bền vững thông qua quá trình phá hủy sáng tạo”
Các biên tập viên khoa học: Kerstin Enflo và John Hassler, thành viên Ủy ban Giải thưởng về các Khoa học Kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel
Người vẽ những bức diễn họa: Johan Jarnestad
Người dịch [sang Anh ngữ]: Clare Barnes
Nhà biên tập: Sara Rylander
©Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển
Nguyễn Việt Anh dịch
Nguồn: From stagnation to sustained growth, nobelprize, Oct 13, 2025.