11.10.25

Những khám phá khoa học mang tính đột phá có đang ngày càng khó tìm ra?

NHỮNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC MANG TÍNH ĐỘT PHÁ CÓ ĐANG NGÀY CÀNG KHÓ TÌM RA?

Các nhà nghiên cứu đang tranh cãi về việc liệu khoa học “đột phá hiện trạng” hay “mới lạ” có đang suy giảm không – và cách khắc phục vấn đề này.

Tác giả David Matthews

Minh họa: David Parkins

Russell Funk không lường được công trình của mình sẽ gây chấn động đến nhường nào. Nhưng ngay sau đó, hàng loạt tin tức xuất hiện và email ủng hộ từ hàng trăm nhà khoa học đổ về — cùng với làn sóng phê phán dữ dội.

Funk và các đồng tác giả của ông lập luận rằng các bài báo khoa học bằng sáng chế đã dần kém khả năng đột phá hiện trạng hơn theo thời gian, ý họ là công trình mới ít có khả năng khiến các bài báo trước đó trở nên lỗi thời. Hai năm trước[1], bài báo đã thu hút sự chú ý của hơn 250 cơ quan báo chí khi vừa được công bố. Phát hiện này thậm chí còn xuất hiện trong một phiên điều trần trong năm 2025 của Quốc hội Hoa Kỳ.

“Thật không thể tin nổi, mọi người vẫn đang liên hệ tôi”, Funk, nhà nghiên cứu về tiến trình phát triển tri ​​thức khoa học tại Đại học Minnesota ở Minneapolis, cho biết. Ông viết bài báo trên cùng nhà xã hội học Erin Leahey tại Đại học Arizona ở Tucson và Michael Park, một nhà nghiên cứu về hành vi tổ chức tại trường kinh doanh INSEAD ở Fontainebleau, Pháp.

Công trình này có vẻ đã cô đọng những mối quan tâm rộng hơn về tác động của khoa học hiện đại. Trong nhiều thập kỷ, các chuyên gia chính sách khoa học đã lo ngại rằng những phát hiện có tính đột phá đang ngày càng hiếm, kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là chủ đề mà một số quan chức khoa học hàng đầu thế giới đang nhấn mạnh ngày nay.

“Tiến bộ của chúng ta ngày nay thật mờ nhạt so với những bước nhảy vọt hồi thế kỷ 20”, Michael Kratsios, giám đốc Văn phòng Chính sách Khoa học và Công nghệ Hoa Kỳ (US Office of Science and Technology Policy – OSTP, chia sẻ trong bài phát biểu vào tháng 4. Giám đốc Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (US National Institutes of Health – NIH), Jay Bhattacharya, hứa hẹn sẽ có nhiều “nghiên cứu tiên phong” hơn là “tiến bộ nhỏ giọt” tại phiên điều trần phê chuẩn của ông vào tháng 3 — trước khi giám sát việc cắt giảm các khoản tài trợ nghiên cứu trên diện rộng.

Không chỉ ở Hoa Kỳ các chính trị gia mới nói về việc tỷ lệ lợi tức trên đầu tư khoa học đang giảm dần. Sam Arts, một nhà nghiên cứu chiến lược tại KU Leuven ở Bỉ, cho biết: “Khoa học và đổi mới là động lực cho tiến bộ và tăng trưởng, vậy nên nếu có vấn đề gì ở khâu này thì ta nên lo lắng”. Ông và các đồng nghiệp đã trao đổi với một số chính phủ châu Âu về cách giúp hệ thống nghiên cứu của họ tạo ra nhiều phát hiện mang tính đột phá hơn.

Tuy nhiên, kể từ khi bài báo của Funk và các đồng nghiệp được công bố, giới phê bình đã lập luận rằng phép đo mức độ đột phá trong công trình này còn thiếu sót, và xét trên bình diện rộng hơn, hiện vẫn chưa có sự đồng thuận chung về cách đo lường tính đột phá hoặc tính mới của một bài báo nghiên cứu.

Mặc dù vậy, dường như có sự đồng tình rằng đổi mới mang tính đột phá đang ngày càng khó đạt được — nhưng với nhiều lý giải trái ngược nhau. Trong lúc cuộc tranh luận này vẫn chưa ngã ngũ, các nhà nghiên cứu đang bắt đầu các thí nghiệm để cố gắng định lượng tốt hơn công trình mang tính đột phá — đồng thời đề xuất các chiến lược có thể thúc đẩy chúng.

Làm sao để đo lường sự đột phá

Theo báo cáo của Funk, Leahey và Park vào năm 2023, số lượng các bài báo mang tính đột phá hằng năm vẫn không đổi trong giai đoạn 1945-2010, ngay cả khi tổng số lượng các bài báo học thuật tăng vọt, do đó, mức độ đột phá trung bình đã giảm (xem hình ‘Khoa học mang tính đột phá đang giảm dần’). Nếu đúng như vậy, điều này ngụ ý rằng việc đổ thêm tiền và nhân lực vào nghiên cứu đã không mang lại thành quả nghiên cứu có tính đột phá tương xứng.

Nguồn: Tài liệu tham khảo số 1

Nghiên cứu của họ sử dụng một chỉ số đo lường do Funk và nhà xã hội học Jason Owen-Smith tại Đại học Michigan phát minh[2] vào năm 2016. Họ đo lường sự đột phá bằng cách kiểm tra các mẫu trích dẫn. Ý tưởng cơ bản là một bài báo có tính đột phá thay đổi lĩnh vực của mình triệt để đến mức các công trình sau này, khi trích dẫn nó, sẽ có xu hướng không trích dẫn các tài liệu tham khảo của bài báo đó nữa (vì hầu hết đã lỗi thời). Tuy nhiên, khi một bài báo chỉ đơn thuần củng cố các công trình đi trước thì những bài báo sau này khi tham chiếu đến nó sẽ có xu hướng trích dẫn cả những nghiên cứu cũ kia.

Một bài báo càng được các công trình sau này trích dẫn nhiều mà không cần viện dẫn lại tài liệu tham khảo của chính nó thì bài báo đó càng đạt điểm cao trên cái gọi là chỉ số củng cố-đột phá (consolidation–disruption – CD); thang điểm này nằm trong khoảng từ -1 đến 1.

Trước khi có chỉ số CD, các học giả cũng đo lường tính mới của một bài báo dựa vào mức độ đa dạng về lĩnh vực của nguồn tài liệu trích dẫn[3]. Lingfei Wu, một nhà khoa học thông tin tại Đại học Pittsburgh ở Pennsylvania, giải thích: tính mới và sự đột phá hiện trạng nghe qua thì gần như đồng nghĩa, nhưng chỉ số đo lường tính mới thực chất là đo xem liệu các nhà khoa học có chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác biệt nhau hay không. Ngược lại, chỉ số đột phá đo lường kết quả thực tế thông qua tác động lên các trích dẫn trong các công trình về sau.

Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu, trích dẫn là chỉ số đo lường dễ sai lệch. Chẳng hạn trích dẫn không báo hiệu một cách đáng tin cậy về tầm ảnh hưởng học thuật của một bài báo. Arts chia sẻ, một khảo sát năm 2022 cho thấy hơn một nửa số bài báo mà các nhà khoa học trích dẫn thực tế ít hoặc không ảnh hưởng gì đến nội dung bài báo của họ[4].

Một vấn đề khác là văn hóa trích dẫn đã thay đổi qua nhiều thập kỷ. Các bài báo hiện nay có nhiều trích dẫn hơn so với trước đây, và chúng có xu hướng trích dẫn các nghiên cứu xa hơn trong quá khứ. Trong khi đó, Lutz Bornmann, một nhà xã hội học khoa học tại Đại học Ludwig Maximilian ở Munich, Đức lưu ý các bài báo trước đây vốn có ít tài liệu tham khảo có thể vô tình đạt điểm số đột phá cao dù không liên quan gì đến tác động chuyển đổi thực tế, bởi vì các bài báo sau này ít có khả năng trích dẫn lại danh sách tham khảo ít ỏi đó.

Tuy nhiên, bài báo của Funk đã kiểm soát yếu tố thay đổi xu hướng trích dẫn theo thời gian, và vẫn tìm thấy sự sụt giảm đáng kể về tính đột phá trung bình.

Một số người phê phán công trình của Funk lập luận rằng kết quả nghiên cứu đã bị bóp méo do các bài báo bị ghi nhận nhầm là không có tài liệu tham khảo vì lỗi siêu dữ liệu (metadata), và vì các bài báo này lại tập trung ở giai đoạn đầu của khung thời gian nghiên cứu. Điều này đẩy điểm đột phá của chúng lên cao một cách giả tạo. Nhưng Funk và các đồng nghiệp của ông đã đáp trả trong bản thảo tháng 2 năm 2025[5], tranh luận rằng bộ dữ liệu của chính những người phê phán đó lại chứa nhiều bài báo không có tài liệu tham khảo hơn hẳn – đúng loại mà họ cho là đang làm méo mó phân tích.

[a2] Erin Leahey, Russell Funk và Michael Park (từ trái sang phải) cho rằng theo thời gian các bài nghiên cứu đã dần ít đi tính đột phá. Ảnh: Ivory Orchid Photography; Russell J. Funk; Michael Park

Một cách tiếp cận thay thế là theo vết ngôn ngữ được sử dụng trong các bài báo. Nghiên cứu của Funk cũng đã thử cách này, theo dõi tỷ lệ các từ và tổ hợp từ duy nhất trong các tiêu đề bài báo và bằng sáng chế; công trình cũng phân tích xem các bài báo có sử dụng các từ có thể ngụ ý sự sáng tạo hoặc đột phá, chẳng hạn như ‘sản xuất’, hay củng cố, chẳng hạn như ‘cải thiện’. Sử dụng cả hai phương pháp này, các nhà nghiên cứu lập luận về sự suy giảm rõ ràng trong tính đột phá.

Nhưng năm nay, Arts và nhóm của ông đã đi đến một kết luận khác. Họ đã xem xét các tiêu đề và tóm tắt của các bài báo trải dài từ năm 1901 để xem khi nào các cụm danh từ hoặc từ mới — chẳng hạn như ‘photon’ — xuất hiện và theo dõi cách các bài báo sau này tiếp nhận chúng[6].

Phân tích của Arts phát hiện ra rằng, thay vì suy giảm chung về tính mới, mỗi lĩnh vực lại bùng nổ sự đổi mới tại các thời điểm khác nhau. “Chúng ta có nên lo lắng về điều đó không?” ông nói về mối lo ngại rằng tính mới đang giảm dần theo thời gian. “Chắc rồi, nhưng đó không phải là ưu tiên hàng đầu”.

Bornmann cho biết các bài báo khác ủng hộ kết luận của Funk rằng tính đột phá và tính mới đang giảm dần. Nhưng ông vẫn ngờ rằng chẳng có phép đo dựa trên trích dẫn nào thực sự nắm bắt được điều mà các nhà khoa học muốn nói khi nói đến tính đột phá. Ông nói rằng “Chúng ta vẫn cần bằng chứng thực nghiệm có tính kết luận”.

AlphaFold có tính đột phá không?

Một cách để kiểm tra chỉ số CD là chọn một bước có vẻ đột phá quan trọng thấy rõ thời nay: nghiên cứu năm 2021 mô tả AlphaFold[7]công cụ dự đoán cấu trúc protein đã giúp những người sáng tạo ra giành được một phần Giải Nobel Hóa học năm ngoái. Theo Funk, bài báo này có chỉ số CD thấp — nhưng ông lập luận rằng như vậy là phù hợp. Ông nói: “Đó là một tiến bộ khoa học sâu sắc, nhưng không phải là tiến bộ thay thế về mặt khái niệm của kiến ​​thức sinh học trước đây hoặc các nguyên lý gấp (của protein) trước đó”. Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng chỉ số CD của AlphaFold có thể tăng lên theo thời gian, lý do là tại thời điểm đột phát AlphaFold được công bố, các bài báo đầu tiên có trích dẫn nó thường đã đang trong quá trình thực hiện, và do đó có khả năng trích dẫn nhiều công trình cũ hơn.

Sự thực rằng AlphaFold không đạt điểm cao trên chỉ số CD cho thấy chỉ số đo lường này không nắm bắt được đầy đủ ý nghĩa của sự đột phá. Nhìn chung, ông không bị thuyết phục bởi bất kỳ thước đo hiện có nào được sử dụng để đo lường sự đột phá hoặc tính mới. Ông nói rằng “Tất cả chúng vẫn là những đại diện khá mong manh cho những gì chúng ta thực sự đang cố gắng hiểu”.

Wu đồng tình rằng vẫn còn ít sự đồng thuận về việc nên sử dụng phép đo nào, ông cho biết lĩnh vực này vẫn đang trong “giai đoạn đầu”. “Giống như vật lý lượng tử vào những năm 1920 hoặc 1930”, ông nói. “Càng xem càng thấy khó hiểu”.

Những lập luận này quan trọng vì các nhà nghiên cứu hiện đang phân tích hiệu quả của nguồn tài trợ nghiên cứu dựa trên các chỉ số đo lường tính mới hoặc đột phá khác nhau. Ví dụ, một nghiên cứu[8] được công bố vào tháng trước cho rằng các nhà khoa học Hoa Kỳ nhận được các khoản tài trợ gia hạn từ NIH trong bốn thập kỷ qua đã tạo ra các nghiên cứu có tính mới cao hơn so với các nhà nghiên cứu tương tự nhưng không nhận được khoản này — điều có lẽ minh họa cho lợi ích dài hạn của một môi trường tài trợ ổn định. Nghiên cứu đó đo lường tính mới bằng cách kiểm tra sự độc đáo và mức độ thịnh hành của các từ khóa và khái niệm trong các bài báo nghiên cứu.

Một số nhà khoa học đang lập kế hoạch thử nghiệm để tìm ra phép đo tính đột phá tốt hơn. Bornmann sẽ hỏi các nhà nghiên cứu xem họ nghĩ những bài báo nào đã thay đổi các hệ ý khoa học, và sau đó sẽ xem phép đo định lượng nào về sự đột phá dự đoán tốt nhất những ý kiến ​​đó.

Và Roberta Sinatra, nhà khoa học dữ liệu tại Đại học Copenhagen, chuyên nghiên cứu các hệ thống nghiên cứu, sẽ hỏi các nhà khoa học liệu các bài báo chưa được công bố có tiềm năng đột phá hiện trạng hay không, sau đó xem xét liệu sau khi xuất bản chúng có thực sự trở thành những đột phá được trích dẫn rộng rãi “ngoài đời thực” hay không.

Cô nói: “Chúng ta cần nhiều thử nghiệm tích cực hơn, thay vì chỉ có dữ liệu quan sát”.

Funk cho biết hiện ông chủ yếu tập trung vào các phép đo xem xét sự thay đổi ngôn ngữ trong các bài báo, bằng sáng chế và đơn xin tài trợ, thay vì trích dẫn.

Đổi mới khó hơn

Mặc dù vẫn còn nhiều tranh luận về cách đo lường chính xác tính đột phá và tính mới, nhưng sự đồng thuận mới nổi dường như là: đổi mới khoa học đang ngày càng khó đạt được.

Luận điểm chính ở đây là tăng trưởng năng suất kinh tế, về cơ bản được thúc đẩy bởi các đổi mới và công nghệ mới, đã chậm lại ở thế giới giàu có trong suốt nhiều thập kỷ. Ví dụ, trong cuốn sách năm 2016 của mình, The Rise and Fall of American Growth[9] (tạm dịch: Sự trỗi dậy và suy tàn của kinh tế Mỹ), nhà kinh tế học Robert Gordon lập luận rằng kỷ nguyên tăng trưởng nhanh chóng trong thế kỷ 20 — kết quả từ những cải tiến công nghệ vô tiền khoáng hậu như ô tô, bồn cầu xả nước và đèn điện — đã kết thúc.

“Vẫn là nỗi lo đó trong suốt 20 năm qua, chỉ là đổi hình thức”, Wilsdon nói.

Các nhà nghiên cứu cũng đã theo dõi tình trạng lợi suất giảm dần trong nghiên cứu và phát triển (R&D) trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, theo bài báo nổi bật[10] của một nhóm các nhà kinh tế vào năm 2020, để duy trì Định luật Moore – xu hướng số lượng bóng bán dẫn trên vi mạch tăng gấp đôi sau mỗi hai năm – thì số lượng nhà nghiên cứu bán dẫn hiện nay phải nhiều gấp 18 lần so với hồi những năm 1970. Một xu hướng tương tự cũng được tìm thấy trong năng suất nông nghiệp hay các phương pháp điều trị bệnh tim và ung thư, nhóm này lưu ý. “Dù nhìn vào đâu, chúng tôi cũng thấy rằng các ý tưởng và sự tăng trưởng theo cấp số nhân theo sau đó đang ngày càng khó tìm hơn”, họ viết.

Một nghiên cứu khác[11] phát hiện ra rằng số lượng thuốc mới được phê duyệt trên mỗi tỷ đô la chi tiêu cho R&D, sau khi điều chỉnh theo lạm phát, đã giảm một nửa sau mỗi chín năm kể từ năm 1950.

Sinatra lưu ý, kể từ giữa thế kỷ 20, tài trợ khoa học đã bùng nổ. Từ năm 1956 đến năm 2020, chi tiêu của Hoa Kỳ cho nghiên cứu và phát triển đã tăng gấp 11 lần theo giá trị thực. “Lượng nghiên cứu, số lượng người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu, đều đang tăng theo cấp số nhân”, cô nói.

Tuy nhiên, theo Sinatra, những đột phá đạt được dường như không ấn tượng hơn mấy. “Chúng ta không có hàng loạt khám phá xứng đáng với giải Nobel hơn”, cô lập luận.

Sinatra không phải là người duy nhất có ấn tượng đó; Funk đã tập hợp hơn 40 bài viết chỉ ra tỷ lệ đổi mới đang giảm. Matt Clancy, một nhà kinh tế học tại Open Philanthropy – tổ chức phi lợi nhuận cấp tài trợ có trụ sở tại Mỹ – đã khảo sát các bằng chứng vào năm 2022, và cũng cho rằng những khám phá không theo kịp tốc độ tăng số lượng các nhà khoa học và nguồn kinh phí nghiên cứu. “Khoa học đang trở nên khó khăn hơn”, ông kết luận.

Chuyện gì đang diễn ra thế?

Nếu lợi tức đầu tư vào khoa học thực sự đang co lại thì có rất nhiều thủ phạm tiềm ẩn.

Điều hiển nhiên nhất – như các nhà nghiên cứu đã nói với Funk trong email phản hồi về nghiên cứu của ông – là các nhà khoa học hiện đang bị ràng buộc bởi việc viết đơn xin tài trợ, trách nhiệm hành chính và giảng dạy, đến nỗi họ có rất ít thời gian cho suy nghĩ độc đáo. Một nghiên cứu của Hà Lan đã phát hiện ra rằng các giáo sư chính thức tại các trường đại học ở Hà Lan dành ít hơn 20% thời gian cho nghiên cứu của bản thân[12].

Theo Patricia Fara, nhà sử học khoa học tại Đại học Cambridge, Vương quốc Anh, so với nửa thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu hiện đại có ít tự do hơn nhiều để theo đuổi những hướng khác thường do cấu trúc cứng nhắc của sự nghiệp học thuật và nguồn tài trợ.

James Watson và Francis Crick gần như đã bỏ dở chương trình tiến sĩ khi họ nỗ lực hướng tới khám phá nổi tiếng về cấu trúc DNA, bà nói. “Nếu bây giờ mà trốn việc trong nhiều tháng như khi đó, họ sẽ gặp rắc rối lớn”, bà nói.

Một lời giải thích khả thi khác là, dưới áp lực phải công bố ngày càng tăng, các nhà nghiên cứu đang “cắt lát”, trải mỏng các ý tưởng thành nhiều bài báo hơn và làm giảm tính đột phá hoặc tính mới của mỗi bài.

Theo tính toán của Vincent Larivière, nhà khoa học thông tin tại Đại học Montreal ở Canada, từ năm 1996 đến năm 2023, khi xem xét dữ liệu toàn cầu, số lượng bài báo trên mỗi nhà nghiên cứu đã tăng gấp đôi. Một phân tích được công bố vào năm ngoái cho thấy số lượng bài báo mà một nhà khoa học công bố tỷ lệ nghịch với mức độ có tính đột phá của chúng[13].

Funk nói thêm rằng vấn đề không chỉ là khoa học tầm thường đang phình to ở tầng chót. Bài báo của ông phát hiện ra rằng tính đột phá cũng đang giảm dần ở các bài báo đoạt giải Nobel và những bài được công bố trên các tạp chí uy tín như NatureScience và Proceedings of the National Academy of Sciences.

Một lực cản khác đối với khoa học là trang thiết bị đắt đỏ. Robert Boyle, nhà triết học tự nhiên người Anh-Ireland thế kỷ 17, từng có thể tiến hành thí nghiệm ngay tại nhà riêng ở London, theo lời Dashun Wang, nhà nghiên cứu về quản lý và tổ chức tại Đại học Northwestern ở Evanston, Illinois. Nhưng ngày nay, chẳng hạn với cơ sở hạ tầng khổng lồ như Máy gia tốc hạt lớn gần Geneva, Thụy Sĩ, ông nhận xét “khoa học đã trở nên quá bao la và phức tạp hơn”.

Một vấn đề nữa là khi kiến ​​thức khoa học mở rộng, các nhà khoa học mất nhiều thời gian học hơn để vươn đến tuyến đầu. “Chúng ta đang đứng trên vai những người khổng lồ”, Wang nói. “Nhưng những người khổng lồ này phát triển theo cấp số nhân”.

Sự chú ý có hạn?

Sinatra cho rằng vẫn còn nhiều bài báo mang tính đột phá, nhưng cộng đồng khoa học chỉ có thời gian hạn chế để đọc, hiểu và trích dẫn các công trình mới, nghĩa là mỗi năm chỉ có một lượng bài báo nhất định có thể được ca ngợi là đột phá.

Cô cho rằng ‘hiệu ứng bầy đàn’ – có thể trở nên tệ hơn bởi phương tiện truyền thông xã hội và thuật toán lựa chọn bài viết – có nguy cơ hướng sự chú ý của các nhà khoa học vào những luồng bài báo eo hẹp.

“Để trở thành bước đột phá, bạn cần sự chú ý của tập thể”, cô nói. Điều này ngụ ý rằng “có thể có những đột phá chỉ là bị bỏ lỡ”. Các bài viết có thể không được chú ý trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, trước khi đột nhiên được phát hiện và được trích dẫn rộng rãi.

Nhưng vấn đề nan giải nhất liên quan đến việc đổi mới chậm lại là quan điểm cho rằng các nhà nghiên cứu đã gặt hết những thành quả dễ hái và giờ đây phải nỗ lực gấp bội cho các khám phá mới mẻ.

Nếu vậy, ta không tránh khỏi cảnh những đột phá khoa học sẽ ngày càng khó đạt được. Về lâu dài, tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại nếu không có thêm khoản đầu tư lớn vào R&D.

Tuy nhiên, Funk không tin rằng đây là điều đang kìm hãm khoa học. Nếu giả thuyết này là đúng, các lĩnh vực cũ phải chậm lại nhiều hơn hẳn so với các lĩnh vực mới, bởi những thành quả dễ hái nhất đã được thu hoạch xong.

Nhưng thay vào đó, ông lập luận, cả lĩnh vực nghiên cứu đã ổn định lẫn non trẻ đều cho thấy tỷ lệ suy giảm tính đột phá tương tự. Theo phân tích của ông, tính đột phá của các bằng sáng chế trong các lĩnh vực công nghệ ở các giai đoạn phát triển khác xa nhau – chẳng hạn như hóa chất và máy tính – đã giảm gần như đồng bộ.

Các lĩnh vực sáng tạo khác, chẳng hạn như nghệ thuật, cũng đang thể hiện sự suy giảm tính mới, Funk nói. Ví dụ, lời bài hát càng ngày càng lặp đi lặp lại nhiều hơn trong vòng nửa thế kỷ qua, theo một nghiên cứu khác[14].

Funk lập luận rằng điểm chung giữa khoa học và nghệ thuật là mức độ tập trung ngày càng tăng vào việc tối ưu thước đo, dù là số trích dẫn, lượt nghe hay doanh thu phim. Ông cho biết, “Mọi thứ ngày nay dựa vào các chỉ số nhiều hơn bao giờ hết”, và việc chăm chăm chạy theo những con số đại diện này có thể đang nghiền nát tính độc đáo.

Làm thế nào để khắc phục vấn đề

Trước lo ngại về việc khoa học ngày càng khó khăn, hàng loạt sáng kiến, quỹ tài trợ và tổ chức đã ra đời nhằm nỗ lực tìm giải pháp.

Một ý tưởng thường được đề xuất là khuyến khích tiến bộ bằng cách trao thưởng khi có người đạt được các cột mốc công nghệ. Chẳng hạn, thử thách do Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra vào năm 2004, yêu cầu các nhóm chế tạo ra xe tự lái có thể di chuyển trên địa hình sa mạc, đã giúp gieo mầm cho ngành công nghiệp xe tự hành.

Một nỗ lực khác là trao tài trợ nhanh hơn và linh hoạt hơn. Trong thời kỳ đại dịch, một nhóm các nhà tài trợ tư nhân đã ra quyết định tài trợ cho các nhà khoa học trong vòng 48 giờ để họ có thể ngay lập tức chuyển sang nghiên cứu COVID-19, thay vì chờ đợi các cơ chế tài trợ chậm chạp hơn. Giám đốc Văn phòng Chính sách Khoa học và Công nghệ Hoa Kỳ Kratsios đã đề cập đến cả việc sử dụng giải thưởng lẫn các khoản tài trợ linh hoạt trong bài phát biểu hồi tháng 4 của mình.

Đức và Vương quốc Anh đã thành lập các quan đổi mới sáng tạo với mục đích rõ ràng là tài trợ cho các công nghệ và ý tưởng đột phá, thay vì cải tiến từng bước. Và Quỹ Volkswagen của Đức đã bắt đầu cấp kinh phí cho các nhà nghiên cứu để khám phá các ý tưởng ‘khoa học viễn tưởng’ bị các nhà tài trợ khác coi là quá điên rồ và cầm chắc thất bại.

Để tránh tình trạng các nhà tài trợ chỉ đổ tiền vào một vài chủ đề nghiên cứu hẹp và ‘hot’ như AI ta có thể trao tài trợ ngẫu nhiên hơn, Sinatra gợi ý. Một số quốc gia, chẳng hạn như New Zealand, đã thử nghiệm sử dụng xổ số để quyết định tài trợ cho dự án nào, áp dụng cho những hồ sơ đạt ngưỡng chất lượng tối thiểu.

Nghiên cứu của các nhà khoa học về khoa học [metascientist], những người nghiên cứu về cách tiến hành nghiên cứu, đưa ra một vài manh mối về cách đưa thêm tính đột phá vào khoa học. Nghiên cứu của Wang và Wu, dựa trên chỉ số CD, cho thấy các nhóm nhỏ tạo ra nhiều kết quả mang tính đột phá hơn so với các nhóm lớn[15]. Wu cho rằng nguyên nhân có thể là do rất khó nảy ra ý tưởng độc đáo khi làm việc trong những nhóm đông người. Hơn nữa, các nhóm lớn có nhiều khả năng nhận hỗ trợ từ các khoản tài trợ có thời hạn hơn các nhóm nhỏ, nghĩa là họ chịu áp lực phải tạo ra kết quả nhanh chóng. Ông nói: “Bạn phải công bố và bạn không thể mạo hiểm được”.

Một nghiên cứu khác, do Brian Uzzi, nhà nghiên cứu về tính mới trong khoa học tại Đại học Northwestern làm đồng tác giả, đã chỉ ra rằng các nhóm đa dạng về giới tạo ra công trình giàu tính mới hơn – trong đó tính mới được đo bằng việc trích dẫn các bài báo từ các tổ hợp tạp chí khác thường, cho thấy sự đa dạng trong nguồn tri thức của bài báo[16] – so với các nhóm chỉ gồm một giới. Và một bài báo khác phát hiện ra rằng làm việc trực tiếp, thay làm việc từ xa, cải thiện tính đột phá, vẫn đo bằng chỉ số CD[17].

Ngành siêu khoa học cũng đang nhận được nhiều sự chú ý và tiền bạc hơn. Năm ngoái, cơ quan tài trợ nghiên cứu quốc gia của Anh đã thành lập một đơn vị siêu khoa học, lưu ý rằng tài trợ nghiên cứu trước đây “quá sợ rủi ro, thiên lệch, không công bằng và kém hiệu quả”.

Rủi ro chính trị

Nhưng ngay cả khi các nhà khoa học cố gắng hiểu rõ hơn về sự đột phá và tính mới trong nghiên cứu, cũng như nghĩ cách cải thiện nó, thì vấn đề lợi tức đầu tư vào nghiên cứu càng ngày càng gây nhiều tranh cãi về mặt chính trị.

Uzzi cho rằng không khí này là một trong những lý do khiến các phát hiện của Funk gây sốc cho giới nghiên cứu. “Các nhà khoa học đọc xong và thốt lên, trời ơi, nếu đúng thế thì người ta sẽ bắt đầu đổ tiền vào những thứ khác mất thôi”, ông nói.

Tệ nhất, mối lo ngại về năng suất khoa học đang giảm sút có thể được dùng làm vũ khí để tấn công toàn bộ hệ thống nghiên cứu. “Nó có thể được sử dụng như một cách để dẹp bỏ nền học thuật”, Uzzi cảnh báo. “Tất nhiên, điều đó đang xảy ra ở Hoa Kỳ ngay lúc này”.

Cole Donovan, cựu quan chức chính sách nghiên cứu tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và hiện đang làm việc cùng Liên đoàn các nhà khoa học Hoa Kỳ tại Washington DC, lập luận rằng tiến bộ khoa học vẫn tiếp tục diễn ra nhanh chóng trong các lĩnh vực như vắc-xin và điều trị ung thư.

Tuy nhiên, ông cho biết, giờ đây “những cải tiến về công nghệ không tạo cảm giác mang tính cách mạng như tủ lạnh gia đình hay sự ra đời của các chuyến bay thương mại phổ biến rộng rãi” trong thế kỷ 20. Donovan cho rằng cảm thức rằng các công nghệ đột phá đã trở nên hiếm hơn khiến việc cắt giảm chi tiêu cho khoa học trở nên dễ dàng hơn về mặt chính trị.

Bản thân Funk cũng vừa bị hủy một khoản tài trợ từ Quỹ Khoa học Quốc gia, vốn là khoản tài trợ cho nghiên cứu tìm cách cải thiện việc tuyển dụng phụ nữ trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Đây là một trong hàng ngàn khoản tài trợ đã bị cắt giảm dưới nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump.

Ông nói: “Tôi thực sự nản lòng trước những đợt cắt giảm tài trợ khoa học đang diễn ra”.

Nhưng ông cảnh báo không nên né tránh thảo luận về tính đột phá khoa học đang suy sút chỉ vì sợ rằng các chính trị gia thù địch sẽ vin vào đó. “Với tôi, đối mặt với thực tế về sự đổi mới chậm chạp không phải là mối đe dọa đối với khoa học – đó là cách cứu lấy nó.”

Nature 641, 836-839 (2025)

doi: https://doi.org/10.1038/d41586-025-01548-4

Cập nhật & Sửa lỗi

  • Sửa lỗi ngày 22 tháng 5 năm 2025: Bài viết này đã trích dẫn sai lời của Dashun Wang trong bình luận của ông về việc học để đi tiên phong.

Tài liệu tham khảo

[1] Park, M., Leahey, E. & Funk, R. J. Nature 613, 138–144 (2023). Article PubMed Google Scholar 

[2] Funk, R. J. & Owen-Smith, J. Mgmt Sci. 63, 791–817 (2016). Article Google Scholar 

[3] Uzzi, B., Mukherjee, S., Stringer, M. & Jones, B. Science 342, 468–472 (2013). Article PubMed Google Scholar 

[4] Teplitskiy, M., Duede, E., Menietti, M. & Lakhani, K. R. Res. Policy 51, 104484 (2022). Article Google Scholar 

[5] Park, M., Leahey, E. & Funk, R. J. Preprint at arXiv https://doi.org/10.48550/arXiv.2503.00184 (2025).

[6] Arts, S., Melluso, N. & Veugelers, R. Rev. Econ. Stat. https://doi.org/10.1162/rest_a_01561 (2025). Article Google Scholar 

[7] Jumper, J. et al. Nature 596, 583–589 (2021). Article PubMed Google Scholar 

[8] Li, B. & Bai, A. Scientometrics https://doi.org/10.1007/s11192-025-05295-1 (2025). Article Google Scholar 

[9] Gordon, R. J. The Rise and Fall of American Growth (Princeton Univ. Press, 2016). Google Scholar 

[10] Bloom, N., Jones, C. I., Van Reenen, J. & Webb, M. Am. Econ. Rev. 110, 1104–1144 (2020). Article Google Scholar 

[11] Scannell, J., Blanckley, A., Boldon, H. & Warrington, B. Nature Rev. Drug Discov. 11, 191–200 (2012). Article PubMed Google Scholar 

[12] Koens, L., Hofman, R. & de Jonge, J. What Motivates Researchers? Research Excellence is still a Priority (Rathenau Inst., 2018). Google Scholar 

[13] Li, H., Tessone, C. J. & Zeng, A. Proc. Natl Acad. Sci. USA 121, e2322462121 (2024). Article PubMed Google Scholar 

[14] Parada-Cabaleiro, E. et al. Sci. Rep. 14, 5531 (2024). Article PubMed Google Scholar 

[15] Wu, L., Wang, D. & Evans, J. A. Nature 566, 378–382 (2019). Article PubMed Google Scholar 

[16] Yang, Y., Tian, T. Y., Woodruff, T. K., Jones, B. F. & Uzzi, B. Proc. Natl Acad. Sci. USA 119, e2200841119 (2022). Article PubMed Google Scholar 

[17] Lin, Y., Frey, C. B. & Wu, L. Nature 623, 987–991 (2023). Article PubMed Google Scholar

Huỳnh Thị Thanh Trúc dịch

Nguồn: Are groundbreaking science discoveries becoming harder to find?, Nature, 21 May 2025.

Print Friendly and PDF