26.10.25

Giải “Nobel kinh tế” là một “sự lừa bịp” phục vụ chủ nghĩa tân tự do

“GIẢI NOBEL KINH TẾ” LÀ MỘT “SỰ LỪA BỊP” PHỤC VỤ CHỦ NGHĨA TÂN TỰ DO

Tác giả: Vincent Lucchese[*]

Philippe Aghion, một trong ba người được “giải Nobel kinh tế” 2025 trước Collège de France ở Paris ngày 14 tháng 10 năm 2025 - @ Kiran Ridley/Getty Images Europe/Getty Images via AFP

Với hào quang dành cho người nhận giải Nobel Kinh tế năm 2025, Philippe Aghion được mời lên mọi kênh truyền hình để ca ngợi chủ nghĩa tân tự do. Vấn đề: giải thưởng này không phải là một giải Nobel thực sự, và nó hoàn toàn không phải là sự đảm bảo về chất lượng...

Còn cách nào tốt hơn để biện minh cho bất cứ điều gì và điều ngược lại ngoài một “Giải Nobel Kinh tế”? Ngày 13 tháng 10, nhà kinh tế học người Pháp Philippe Aghion đã trở thành người đồng nhận giải thưởng quý giá này năm 2025, cùng với Joel Mokyr, người Mỹ gốc Israel và Peter Howitt, người Canada. Ngay lập tức, báo chí bảo thủ đã lợi dụng hào quang mới của người chiến thắng “Giải Nobel” để tái khẳng định những tư tưởng tân tự do của ông và sự phản đối quyết liệt của ông chống thuế Zucman đối với giới siêu giàu.

Vấn đề: cùng lúc đó, một “người từng đoạt giải Nobel Kinh tế”, Joseph Stiglitz, đã mạnh mẽ lập luận ngược lại và bảo vệ sự cần thiết của thuế Zucman, đồng thời lên án quyền lực chết người của giới đầu sỏ chống đối nó. Một mâu thuẫn khác: Philippe Aghion được trao giải thưởng mặc dù ông là một trong những cố vấn kinh tế thân cận nhất của Emmanuel Macron trong mười năm qua, với thành tích là sự bùng nổ của nạn đói nghèo, sự đổ vỡ xã ​​hội hay hệ sinh thái bị một số nhà kinh tế khác coi là thảm họa.

Khoảng cách thực sự bắt nguồn từ chính giải thưởng, vốn phần lớn đã chiếm dụng tham vọng của giải thưởng về tính khoa học. Trước hết, đây không phải là một giải Nobel thực sự. Theo di chúc của mình, Alfred Nobel đã thiết lập việc trao giải thưởng từ năm 1901 cho ba lĩnh vực khoa học (vật lý, hóa học và y học), cũng như cho văn học và cho hoạt động hòa bình.

Sự chiếm đoạt hào quang khoa học

Mãi đến năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển mới thành lập “Giải thưởng Khoa học Kinh tế của Ngân hàng Thụy Điển để vinh danh Alfred Nobel”. Sau đó, ngân hàng đã đàm phán để giải thưởng được trao bởi Quỹ Nobel và được nhại lại lễ nghi của Quỹ. Điều này khiến sáng kiến ​​của họ trông giống như một Giải Nobel thực sự: một “hoạt động cướp giật ngôn ngữ” thực sự, theo lời nhà kinh tế học Gilles Dostaler, nhằm mục đích tôn vinh kinh tế học “với hào quang khoa học vốn bị phủ nhận đối với các ngành khoa học nhân văn khác”.

Một số nhà kinh tế từng nhận Giải Nobel giả mạo này đã lên án sự tồn tại của nó, chẳng hạn như Gunnar Myrdal, người sau khi đóng góp vào việc thành lập và được trao giải vào năm 1974, đã kêu gọi bãi bỏ nó.

Việc Ngân hàng Thụy Điển trao ‘Giải Nobel’ như thể đó là giải Nobel cho vật lý hay y học là một sự chiếm đoạt, một trò lừa bịp”, nhà kinh tế học Bernard Maris đã phẫn nộ trong “Lettre ouverte aux gourous de l’économie qui nous prennent pour des imbéciles/Thư Ngỏ gửi các bậc thầy kinh tế xem chúng ta là đồ ngốc” (Le Point, 1999).

“Một lập luận ngụy biện, sai lầm, nhưng lại có vẻ đúng.”

Ông viết, lý do chính đáng và hiển nhiên là kinh tế học không thể có tham vọng đạt được cùng trình độ khoa học như vật lý học: “Mọi điều được nói trong kinh tế học đều không thể kiểm chứng, không thể xác nhận, nhưng mặt khác lại hoàn toàn có thể chứng minh được, cũng như điều ngược lại cũng hoàn toàn có thể chứng minh được. Kinh tế học, giống như vô thức, siêu hình học, tôn giáo và bùa phép, đều không biết đến nguyên lý mâu thuẫn.”

Các nhà kinh tế khác có quan điểm nhẹ nhàng hơn trong việc phê phán kinh tế học, nhưng vấn đề về sự mất kết nối giữa các mô hình kinh tế và thực tế vẫn là trọng tâm. Năm 2014, nhà kinh tế học Antonin Pottier đã bảo vệ luận án của mình với tựa đề “Kinh tế học trong Bế tắc Khí hậu”. Trong đó, ông chỉ trích gay gắt công trình của một số nhà kinh tế học nổi tiếng, trong số đó có ... Philippe Aghion.

Nóng lên 4°C? Tin tốt!

Phân tích kỹ các mô hình toán học được nhà kinh tế học và các đồng nghiệp sử dụng, ông lên án sự thiếu nhất quán giữa mô hình và thế giới thực. Các công thức toán học do các nhà kinh tế đặt ra có giá trị trong vũ trụ khép kín và trừu tượng của các con số, nhưng “mô hình không vượt qua được bài kiểm tra về sự khả thi, và điều này dường như không gây ra vấn đề gì”, ông nhận xét.

Trong bài báo năm 2012 được Antonin Pottier phân tích, các nhà kinh tế Daron Acemoğlu (một người đoạt giải Nobel kinh tế khác), Philippe Aghion, và các đồng nghiệp của họ đã mô hình hóa tác động của thuế carbon lên tăng trưởng kinh tế. Một trong những vấn đề mà Pottier nêu ra bắt nguồn từ việc loại thuế này được mô hình hóa trong một giai đoạn “tạm thời”, vốn không phải là thực tế.

Sự thiếu quan tâm này của các nhà lý thuyết và các nhà kinh tế chính thống khác đối với thế giới thực tại dẫn đến việc hình thành “một lập luận ngụy biện, sai lầm, nhưng có vẻ là sự thật”, Antonin Pottier kết luận, nghiên cứu của ông cũng đã dẫn dắt ông vào năm 2016 xuất bản cuốn sách “Comment les économistes réchauffent la planète/Các nhà kinh tế đang làm nóng hành tinh như thế nào”.

“Kinh tế học vẫn còn đầy rẫy những sự lệch lạc ý thức hệ không thể kiểm soát được.”

Đỉnh cao lố bịch nhất của sự lệch lạc này chắc chắn đã được William Nordhaus đạt đến. Là một nhà kinh tế người Mỹ, mô hình của ông đã dẫn dắt ông kết luận, không hề mỉa mai, rằng sự nóng lên toàn cầu gần 4°C là mức “tối ưu” cần đạt được cho nền kinh tế toàn cầu. Một đánh giá “ngớ ngẩn đến mức đáng xấu hổ”, theo lời của đồng nghiệp Steve Keen, hoàn toàn tách khỏi với mọi thứ được các nhà khí hậu học mô tả, nhưng lại mang về cho ông ta “Giải Nobel Kinh tế” giả mạo năm 2018.

Khả năng gây nên sự bối rối này của một số lý thuyết kinh tế trong việc tự giải phóng khỏi sự đối đầu với thực tế giải thích tại sao một loạt các trào lưu lý thuyết có thể cùng tồn tại trong kinh tế học. Và tại sao “khoa học” này lại mang đậm tính chính trị.

Điều này có lẽ thay đổi đôi chút với trào lưu thực nghiệm, việc xem xét các sự kiện, như trong tác phẩm lịch sử của Thomas Piketty, nhà kinh tế học và tác giả của “Le Capital au XXIe siècle/Tư bản trong thế kỷ XXI” (Seuil, 2013)]. Nhưng nền kinh tế vẫn còn đầy rẫy những sự lệch lạc ý thức hệ không thể kiểm soát được”, Frédéric Lebaron, giáo sư xã hội học tại École Normale Supérieure Paris-Saclay, tác giả của cuốn “La Crise de la croyance économique/Khủng hoảng Niềm tin Kinh tế” (Éditions du Croquant, 2010), cho biết.

Giải thưởng tiếp sức cho học thuyết thống trị (doxa dominante)

Như vậy, giải thưởng Ngân hàng Thụy Điển được thành lập trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các trào lưu tư tưởng kinh tế khác nhau. Trong một cuốn sách viết về lịch sử của giải thưởng này, các nhà nghiên cứu Avner Offer, giáo sư tại Oxford, và Gabriel Söderberg, nhà nghiên cứu tại Đại học Uppsala ở Thụy Điển, giải thích rằng Ngân hàng trung ương, chống đối học thuyết dân chủ xã hội đang chiếm ưu thế tại Thụy Điển lúc bấy giờ, đã thành lập giải thưởng này để áp đặt học thuyết kinh tế tân tự do của mình và tôn vinh những giá trị của thị trường.

Định chế này luôn bị chính trị hóa cao độ. Những nhân vật tiêu biểu của chủ nghĩa tân tự do, đặc biệt Hayek và Friedman đã được trao giải thưởng. Đôi khi các nhà kinh tế học theo học thuyết Keynes và rất hiếm khi là những nhà kinh tế học phi chính thống hơn nhận được giải thưởng, nhưng nó vẫn là một định chế rất bảo thủ”, Frédéric Lebaron nhấn mạnh.

Một logic bảo thủ cũng được củng cố bởi động lực học thuật của ngành: các nhà kinh tế được đề cử cho giải thưởng Ngân hàng Thụy Điển là những người có công trình được công bố trên các tạp chí uy tín nhất, thường là ở Hoa Kỳ, những người được đồng nghiệp trích dẫn nhiều nhất và được hưởng lợi từ sự vận động hành lang mạnh mẽ nhất từ ​​các đồng nghiệp. Nói cách khác, những ý tưởng chủ đạo và chính thống nhất được ủng hộ.

Giải Nobel trao thưởng cho những nhà kinh tế ít nhiều đồng thuận tại một thời điểm nhất định”, Jean-Édouard Colliard và Emmeline Travers, tác giả của cuốn sách trong bộ sưu tập “Repères” về Giải Nobel Kinh tế (La Découverte) năm 2009, tóm tắt trong một bài báo trên Mediapart.

Thật vậy, các lý thuyết kinh tế cũng nhằm mục đích biện minh cho việc tổ chức sản xuất và phân phối của cải. Do đó, các lý thuyết thống trị có nhiều khả năng giống với các mối quan hệ quyền lực tồn tại trong một xã hội. Frédéric Lebaron lưu ý: “Diễn ngôn kinh tế là diễn ngôn tiêu biểu của quyền lực; do đó, mức độ tự chủ của nó bị hạn chế. Điều này không có nghĩa là diễn ngôn này không thể tự giải phóng hơn nữa, nhưng việc sử dụng toán học thường đóng vai trò như một tấm bình phong để khẳng định một hình thái trung lập hoặc khoa học”.

Khi Philippe Aghion giải thích rằng tăng trưởng kinh tế và “đổi mới xanh” sẽ cứu chúng ta khỏi hiểm họa khí hậu, điều này mang tính biểu tượng của chủ nghĩa duy công nghệ đang thịnh hành hơn là phản ánh những quan sát khoa học xác đáng. Đối với các nghiên cứucác nhà kinh tế học chỉ ra tính cấp thiết của việc giảm tăng trưởng hoặc ít nhất là lập kế hoạch cho một hình thái điều độ, có thể chắc chắn rằng “sự vinh danh với giải Nobel” của họ sẽ phải chờ một sự thay đổi chính trị triệt để.

Người dịch: Phạm Như Hồ

Nguồn:Le “prix Nobel d’économie”, une “fumisterie” au service du néolibéralisme”, Reportere, 17.10.2025.

---- 

Bài có liên quan: “Giải Nobel kinh tế”: một sự huyễn hoặc khéo léo




Chú thích:

[*] Vincent Lucchese, nhà báo vừa nhận giải thưởng về nhà báo khoa học của ASIPJ (Association des Journalistes Scientifiques de la Presse d’Information/Hiệp Hội các Nhà Báo Khoa học của ngành báo chí thông tin) năm 2025, hiện là thành viên của ban biên tập của trang mạng báo Reporterre.

Print Friendly and PDF