5.10.25

Về các thuật ngữ Thực tiễn, Bạo lực biểu tượng, Nhà nước, Cảm thức thực tiễn & Quyền lực biểu tượng

PRATIQUE/PRATIQUES

[THỰC TIỄN]


Pierre Bourdieu bắt đầu xây dựng lý thuyết thực tiễn của mình vào những năm 1960, sau khi trở về từ Algérie. Ta có thể tìm thấy sự trình bày chi tiết đầy đủ đầu tiên của lý thuyết này trong Esquisse d’une théorie de la pratique (1972) và sự trình bày lại mang tính hệ thống trong Le Sens pratique (1980). Sinh ra từ sự đối đầu của ông với nhân học cấu trúc của Lévi-Strauss, lý thuyết này được nuôi dưỡng bởi những bài của Merleau-Ponty, Husserl, Heidegger và Wittgenstein, nhưng trước hết gắn chặt với các nghiên cứu dân tộc học mà ông đã thực hiện về vùng Kabylie trong khoảng thời gian từ 1958 đến 1961.

Sự suy ngẫm về thực tiễn dựa trên sự phê phán kép chủ nghĩa luận và khách quan luận. Một bên, các cách tiếp cận theo chủ nghĩa chủ quan, từ lý thuyết của Sartre đến lý thuyết về chủ thể duy lý, cho rằng hành động là sản phẩm của ý chí của một chủ thể có ý thức có khả năng tự phóng chiếu vào tương lai bằng cách dự đoán các hệ quả của hành động của mình. Nhưng Bourdieu tranh cãi cả ý tưởng về quyền tự do lựa chọn hoàn toàn và quyền tự do phóng chiếu trong tương lai. Ông phân biệt sự dự đoán hợp lý với sự phóng chiếu như một ý đồ thực tiễn, bằng cách dựa vào khái niệm “protention/ước ao” (protention là sư ước ao (và sự mong đợi) những gì sẽ đến/à-venir -, nó là điều tạo nên cái khả năng của tương lai/avenir trong sự tiến hóa/devenir - ND) do Husserl phát triển [Choses dites: 22].

Cảm thức thực tiễn

Bên kia, chủ nghĩa khách quan mang tính cấu trúc coi các tác nhân như là những nền tảng gánh chịu gần như một cách cơ học các cấu trúc. Việc sử dụng đa nghĩa ý niệm quy tắc trong nhân học cấu trúc, từ các chuẩn mực mà các tác nhân tuân theo một cách có ý thức đến các nguyên tắc mà nhà nghiên cứu xây dựng lại để giải thích tính đều đặn của các thực tiễn, đã cảnh báo Bourdieu về những điểm yếu và những sự lệch lạc ​​của cách tiếp cận này mà tính tri thức (sau này được ông định nghĩa là “khuynh hướng kinh viện”) đã bị ông chê trách. Hơn nữa, việc ghi nhận trong thời gian những trao đổi như quà tặng và quà đáp tặng hoặc sự thách thức và sự đập lại khiến cho bất kỳ cách giải thích cơ học nào về logic chi phối các tương tác này đều thiếu hụt.

Lý thuyết thực tiễn bác bỏ cả quan niệm duy lý về hành động lẫn ý tưởng về các tác nhân bị hành động vì các cấu trúc một cách vô thức. Lý thuyết nhấn mạnh tính đặc thù của các logic thực tiễn, được triển khai trong tình huống cụ thể và một cách khẩn cấp, khác với tình huống của thời gian và tình huống của tính phản tư là đặc trưng cho hoạt động thông thái. Lý trí thông thái thất bại để thuật lại về thực tiễn bởi vì, như Marx nói, nó coi những điều của logic như là logic của các sự vật. Trong khi, logic của thực tiễn khác hoàn toàn với logic: đó là một logic mờ thoát khỏi các nỗ lực hệ thống hóa quá mức của phương pháp cấu trúc, do ý nghĩa mơ hồ của một số yếu tố nhất định có thể thay đổi tùy theo các nguyên tắc đối lập mà chúng liên quan và điều này khiến cho không có sự tương đồng hoàn hảo giữa các nguyên tắc khác nhau này về mặt cấu trúc, như Bourdieu đã ghi nhận về thực tiễn nghi lễ ở Kabylie (xem chương trong Le Sens pratique dành cho “con quỷ của phép loại suy”. [SP: 411-439]). Logic mờ này kết nối các phần tử theo nguyên tắc “sự tương đồng tổng quát”, theo khái niệm của Jean Nicod, nguyên tắc này chỉ tính đến một số khía cạnh nhất định mà không tính đến những khía cạnh khác (nhưng không phải vì vậy mà biến mất đi). Đặc trưng của logic thực tiễn là tính đa nghĩa và tính “đa dạng/polythétie”, mà Bourdieu đối lập với định nghĩa của Husserl về sự hiểu biết/nắm bắt “đơn điệu/monothétique”, đây là lý do tại sao nó chống lại lý trí thông thái.

“Cảm thức thực tiễn”, vừa là ý thức định hướng và ý thức về cuộc chơi, là thứ cho phép các tác nhân tự điều chỉnh theo vô số tình huống mà không tuân theo một chuẩn mực một cách rõ ràng, một quy tắc hoặc một mật mã nào được truyền lại (điều mà cách tiếp cận theo chủ nghĩa cấu trúc cơ học không thể giải thích), tuy vẫn không tuân theo mệnh lệnh tự do trong tư duy của mình (như các lý thuyết chủ quan hoặc duy lý khẳng định). Điều gì làm cho sự điều chỉnh này có thể thực hiện được?

Tập tính và chiến lược

Hai khái niệm then chốt trong lý thuyết thực tiễn của Bourdieu cho phép chúng ta trả lời câu hỏi này: đó là tập tính và chiến lược. Tập tính là nguyên tắc phát sinh ra các khuôn mẫu nhận thức, đánh giá và hành động. Là kết quả của một quá trình sáp nhập các cấu trúc xã hội dưới dạng các thiên hướng trong quá trình xã hội hóa sơ cấp và thứ cấp, tập tính là nguồn gốc của khả năng các tác nhân triển khai các chiến lược ít nhiều thích ứng với các tình huống mà họ gặp phải, còn ý niệm chiến lược dẫn đến các biên độ ứng biến mà các tác nhân có được tùy vào thiên hướng của họ. Tuy nhiên, những trường hợp hoàn toàn phù hợp giữa các tình huống và chiến lược chỉ là một trường hợp đặc biệt của điều có thể xảy ra. Thật vậy, ngược lại, trong các nghiên cứu ông thực hiện về xã hội Kabyle và xã hội nông dân ở Béarn, Bourdieu nhận thấy khó khăn mà các cá nhân gặp phải trong việc thích nghi với những hoàn cảnh mới trong những thời kỳ biến đổi xã hội, khi các cấu trúc xã hội không còn tương ứng với những cấu trúc mà họ đã thủ đắc trong quá khứ và khi hệ thống giá trị không còn như cũ nữa. Ở Algérie, việc không thể điều chỉnh xuất phát từ mâu thuẫn giữa các giá trị truyền thống – sự không phân chia, logic danh dự từ chối sự tính toán và sự hợp lý hóa các trao đổi kinh tế, v.v. – và logic tư bản, nhất là khi nó bị chủ nghĩa thực dân áp đặt từ bên ngoài. Ở vùng Béarn, việc duy trì nguyên tắc về sự không phân chia di sản, được để lại cho người anh cả, dẫn đến một hình thức tự sát tập thể – tình trạng độc thân của những người lớn tuổi – trong một thế giới mà các giá trị của giai cấp nông dân bị hạ thấp.

Sức ì của quá khứ được cảm nhận qua những thói quen được thể chất hóa nơi cơ thể mà Marcel Mauss [1950] đã chỉ định trong phân tích của ông về “các kỹ thuật của cơ thể” bằng khái niệm tập tính. Tuy “đã được xã hội hóa”, “đã quen với những tập tính”, cơ thể, theo Bourdieu, cũng là không gian của thực tiễn, sự phát minh và sự ứng biến các cách hành xử ít nhiều thích nghi với các tình huống, tính sáng tạo này bị giới hạn bởi các thiên hướng được kế thừa và sở đắc [ETP: 297].

Khái niệm tập tính cho phép chúng ta chuyển từ khái niệm thực tiễn sang các thực tiễn và các nguyên tắc phân biệt chúng. Trong các xã hội có giai cấp, các nhóm cá nhân được phân biệt bởi các thực tiễn của họ – tập quán ăn uống, thực tiễn tiêu dùng, thực tiễn văn hóa, bỏ phiếu, v.v.. Những thực tiễn này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và là biểu hiện của tập tính giai cấp [La Distinction].

Với tư cách là cảm thức về cuộc chơi, “cảm thức thực tiễn” cũng là điều được vận hành trong cuộc gặp gỡ giữa tập tính và trường [SP]. Quả thực, không chỉ liên quan đến những thực tiễn mang tính nghi thức, logic của thực tiễn cũng chiếm ưu thế trong các hoạt động trí tuệ và các hoạt động sáng tạo. Cũng giống như ta không cần phải biết các quy tắc ngữ pháp để học nói, thực tiễn của sự rèn luyện đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho các nghề nghệ thuật (nghệ thuật, âm nhạc, khiêu vũ), bên cạnh việc đào tạo lý thuyết vốn không phải bao giờ cũng đủ để cung cấp những phương tiện của việc làm chủ thực tiễn về phương diện biểu tượng. Đây là lý do tại sao “dự án sáng tạo”, biểu hiện cực đoan của các lý thuyết theo chủ ý luận, không đủ để thuật lại một tác phẩm như Sartre mong muốn. Sự gặp gỡ giữa tập tính của tác giả và không gian của những khả năng mà trường mang lại cho anh ta là một nguyên tắc lý giải mạnh mẽ hơn nhiều, giúp có thể kết nối các phân tích bên ngoài và bên trong của tác phẩm, trên cơ sở một lý thuyết thực tiễn nhấn mạnh đến modus operandi/phương thức thao tác (Mode opératoire; manière d'agir) hơn là đến tác phẩm như nó được trình bày cho công chúng/opus operatum, kể cả đối với văn học [Raisons pratiques: 61-80].

Do đó, lý thuyết thực tiễn này thiết lập một lý thuyết hành động tổng quát đi từ hành động mang tính nghi thức nhất đến hành động sáng tạo nhất mà không có bất kỳ sự gián đoạn nào trong tính liên tục. Là một nhà lý thuyết về thực tiễn, Bourdieu cũng áp dụng quan niệm này trong việc đào tạo nghiên cứu cho sinh viên của mình, thiên về sự rèn luyện thực tiễn hơn là sự giảng dạy lý thuyết [Sapiro 2004].

Gisèle Sapiro

Giám đốc nghiên cứu tại CNRS và tại EHESS

CHÚ THÍCH:

MAUSS M., 1950, “Les techniques du corps” (1934), in Sociologie et anthropologie, Paris, PUF, p. 365-386. – SAPIRO G., 2004, “La formation de l’habitus scientifique”, in J. BOUVERESSE et D. ROCHE (dir.), La Liberté par la connaissance. Pierre Bourdieu (1930-2002), Paris, Odile Jacob.

1972 [ETP] Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1980 [SP] Le Sens pratique, Paris, Minuit, rééd. 1989.”

1987 [CD] Choses dites, Paris, Minuit.

1994 [RP] Raisons pratiques. Sur la théorie de l’action, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1996.

AGENT(S), ALGÉRIE, ANALOGIE, BAL DES CÉLIBATAIRES (LE), CHAMP, CHOIX, CLASSE(S) SOCIALE(S), CORPS, DIFFÉRENCIATION, DISPOSITION(S), DISTINCTION (LA), DON, ESQUISSE D’UNE THÉORIE DE LA PRATIQUE, HABITUS, HEIDEGGER, HOMOLOGIE(S), HONNEUR, HUSSERL, ILLUSION SCOLASTIQUE, IMPROVISATION, INTERACTION(S), INTÉRIORISATION, JEU(X), KABYLIE, LÉVI-STRAUSS, LITTÉRATURE, LOGIQUE(S), MARXISME, MAUSS, MERLEAU-PONTY, MODUS OPERANDI, OBJECTIVISME, OPUS OPERATUM, POSSIBLES, PROJET, RATIONALISME, RÉFLEXIVITÉ, RÈGLE, RÉGULARITÉS, SARTRE, SENS PRATIQUE (LE), STRATÉGIE(S), STRUCTURALISME, STRUCTURE(S), SUBJECTIVISME, VALEUR, WITTGENSTEIN

* * *

VIOLENCE SYMBOLIQUE

[BẠO LỰC BIỂU TƯỢNG]

Khái niệm bạo lực biểu tượng, được định nghĩa là “bất kỳ quyền lực nào áp đặt được những ý nghĩa và áp đặt chúng như là chính đáng trong khi che giấu các mối quan hệ quyền lực vốn là cơ sở cho sức mạnh của quyền lực đó” [La Reproduction: 18], trả lời một vấn đề kinh điển của triết học chính trị: sự thống trị được thực hiện thông qua sự ép buộc hay thông qua sự đồng thuận của người bị thống trị? Nếu chỉ xét đến sự ép buộc thì chúng ta không thể giải thích được tại sao một số ít người lại cai trị đa số. Theo David Hume, chính phủ chỉ có nền tảng trên ý kiến/dư luận. Đối với Karl Marx, đó là một ý thức sai lệch sinh ra từ sự tha hóa, trong khi Max Weber phát triển ý niệm về tính chính đáng. Tích hợp những suy ngẫm của những bậc tiền bối [Sur l’État: 275], Pierre Bourdieu đã rèn khái niệm bạo lực biểu tượng để vượt qua thế phải lựa chọn giữa sự ép buộc/sự đồng thuận và để phân tích chính sự vận hành của sự thống trị.

Khái niệm này là trọng tâm trong lý thuyết tái sản sinh xã hội của ông. Chống lại quan niệm mác xít vốn đặt những sự khác biệt giai cấp trên cơ sở duy nhất của quyền sở hữu các phương tiện sản xuất vật chất, Bourdieu cùng với Jean-Claude Passeron xây dựng một lý thuyết về bạo lực biểu tượng được triển khai thông qua quyền nắm giam giữ và áp đặt "sự độc đoán văn hóa” thông qua hoạt động giáo dục [LR: 11]. Là điều kiện để thành công ở trường học, vốn văn hóa được kế thừa góp phần mạnh mẽ vào việc tái sản sinh các giai cấp thống trị, như họ đã cho thấy trong tác phẩm Les Héritiers.

Một sự thống trị được chính đáng hóa

Được mở rộng và hệ thống hóa với sự phản ánh về “quyền lực biểu tượng” [PB 1977e], khái niệm bạo lực biểu tượng được liên kết với “vốn biểu tượng” không chỉ là đặc trưng của các giai cấp thống trị mà còn là của Nhà nước: bạo lực biểu tượng chính đáng được cộng vào sự độc quyền về bạo lực thể xác chính đáng, theo định nghĩa do Weber đưa ra, cái sau biện minh cho cái trước [SÉ: 14]. Thật vậy, trong các xã hội hiện đại, bạo lực biểu tượng của Nhà nước hoạt động qua việc tạo ra các bản sắc chính đáng, thông qua các thể loại cơ bản – nhóm xã hội và khuôn mẫu tư tưởng – về hình tượng về thế giới hình thành nên “cái lý lẽ thông hường” của dân tộc, qua sự chính đáng hóa của chúng bằng luật pháp và sự khắc sâu chúng vào trí não thông qua sự giáo dục. “Sự độc quyền về bạo lực biểu tượng chính đáng là sự độc quyền của các hành vi theo truyền thống, các hành vi phân chia, kèm theo các biện pháp trừng phạt pháp lý, kèm theo các hiệu ứng xã hội” [Sociologie générale 2: 700]. Do đó, Nhà nước có quyền giải quyết các cuộc đấu tranh giành độc quyền về bạo lực biểu tượng chính đáng. Bằng cách tạo ra thành phần quý tộc của riêng mình, được hệ thống trường học chính đáng hóa, Nhà nước cũng góp phần tái tạo sự bất bình đẳng giữa các giai cấp xã hội.

Bourdieu hoàn thành việc xây dựng lý thuyết của mình về bạo lực biểu tượng trong tác phẩm Méditations pascaliennes: “Như vậy, quyền lực có thể tự khẳng định mình như thế, như là một bạo lực không tên, như một sự độc đoán vốn là như vậy, không cần phải được biện minh; và kinh nghiệm cho thấy rằng nó chỉ có thể tồn tại được dưới vỏ bọc của luật pháp, rằng sự thống trị chỉ có thể áp đặt lâu dài trong chừng mực mà nó đạt được sự công nhận, vốn chỉ là sự thiếu hiểu biết về tính độc đoán của nguyên tắc của nó” [MP: 150]. Trong định nghĩa này xuất hiện ba thành tố trong hoạt động của bạo lực biểu tượng: sự thiếu hiểu biết về tính độc đoán của sự thống trị; sự công nhận sự thống trị này là chính đáng; sự nội tâm hoá sự thống trị bởi kẻ bị thống trị. Ba thành tố này diễn ra đồng thời: chính sự thừa nhận tính chính đáng của sự thống trị dẫn đến sự thiếu hiểu biết về tính độc đoán của nó và sự nội tâm hóa mối quan hệ thống trị bởi những người bị thống trị.

Thay vì đặt câu hỏi về phương thức vận hành của sự thống trị, Bourdieu [MP: 249-250] gợi ý rằng nên bắt đầu từ nhận định của hiện tượng học, nhưng cũng khôi phục khía cạnh chính trị mà hiện tượng học đã đặt trong dấu ngoặc đơn: tại sao thế giới lại hiển nhiên như vậy? Đâu là nền tảng của việc người bị thống trị tuân theo trật tự đã được thiết lập và tức là tán thành chính nguyên tắc của sự thống trị họ? Câu trả lời của Bourdieu được ghi nhận trong sự liên tục của truyền thống duy lý, từ Kant đến Ernst Cassirer qua Émile Durkheim và Marcel Mauss: nó nằm trong các phạm trù nhận thức về thế giới và các nguyên tắc phân loại vốn tạo đặt nền tảng cho quan niệm chung về thế giới cho cả kẻ thống trị và kẻ bị trị, do đó đảm bảo “sự tuân thủ theo lề thói logic”, theo thuật ngữ của Durkheim và Mauss. Tuy nhiên, tiếp nối Durkheim và Mauss trong văn bản tạo lập của họ về “các hình thức phân loại nguyên thủy” [1903], Bourdieu nhắc lại rằng các thể loại này không có gì là tự nhiên, rằng chúng có nguồn gốc xã hội và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với cấu trúc xã hội. Những thể loại này đã được thuần hóa thông qua một quá trình lịch sử vốn bao hàm chứng quên hẳn mang tính tập thể về nguồn gốc xã hội của chúng, tức là sự không hiểu biết về chúng, khiến cho chúng được coi là hiển nhiên. Việc công nhận tính chính đáng là kết quả của quá trình lịch sử về sự thuần hóa các phạm trù tư tưởng và các sơ đồ phân loại, cũng như việc khắc sâu chúng thông qua giáo dục dưới hình thức niềm tin.

Những kẻ bị trị đồng lõa

Định nghĩa này giúp vượt lên trên thế đôi ngả giữa sự ép buộc và sự đồng thuận. Không phải là ý thức sai lệch, theo nghĩa của Marx, cũng như không phải là sự tự nguyện tàn thành tính chính đáng, theo Weber: “bạo lực biểu tượng là sự ép buộc chỉ được thiết lập thông qua sự tán thành mà kẻ bị thống trị không thể không dành cho kẻ thống trị (tức là cho sự thống trị) khi anh ta chỉ có, để suy nghĩ về nó và suy nghĩ về bản thân mình hoặc hơn thế nữa, để suy nghĩ về mối quan hệ của anh ta với kẻ thống trị, những công cụ kiến ​​​​thức mà anh ta có chung với kẻ thống trị vốn chỉ là hình thức được sáp nhập của cấu trúc của mối quan hệ thống trị, làm cho mối quan hệ này được coi là tự nhiên” [MP: 245-246].

Nhưng không phải chỉ cần giải cấu trúc các phạm trù này, về giới tính, chủng tộc, quốc gia, giai cấp, để tiêu diệt sự thống trị là đủ. Về vấn đề này, Bourdieu phê phán cả truyền thống duy lý lẫn các lý thuyết về sự giải phóng của chủ nghĩa Mác (“sự nhận thức”), của chủ nghĩa hiện sinh hay của chủ nghĩa nữ quyền vốn minh họa cho điều mà Bourdieu gọi là “thành kiến ​​kinh viện” [MP: 130, 205 ]. Điều này cũng có giá trị đối với các sơ đồ phân loại và nhận thức thế giới. Mặc dù chúng là những sự thiết kế mang tính xã hội, nhưng những sơ đồ này được khắc ghi trong tính khách quan của các thể chế, các sự vật và các cơ thể. Đây là lý do tại sao việc giải cấu trúc chúng để giải thoát chúng ta khỏi chúng là chưa đủ.

Hiệu lực của bạo lực biểu tượng bắt nguồn từ tập tính, nghĩa là từ sự khắc ghi của nó vào cơ thể. Việc người bị thống trị tán thành trật tự đã được thiết lập là sản phẩm của “sự sáp nhập các sự phân loại, đã được tự nhiên hóa, mà sản phẩm chính là bản thể xã hội của chính anh ta” [MP: 246]. Không phải là một hành động tự do và tự nguyện thừa nhận tính chính đáng như Weber mong muốn, hay thậm chí là kết quả của tính hiệu quả của bộ máy tuyên truyền, như Marx giải thích (và sau đó là Louis Althusser), sự tán thành còn bị quy định bởi giáo dục và thậm chí bởi sự nội tâm hóa sự thống trị ngay cả trong cơ thể. Không gì tiết lộ quá trình sáp nhập này của mối quan hệ thống trị này rõ hơn các dấu hiệu mà cơ thể biểu lộ: bối rối, đỏ mặt, cảm xúc, nói lắp đối lập với sự thoải mái của kẻ thống trị [MP: 244; La Distinction: 229]. Quán tính này của cơ thể được thuần hóa chống lại mọi sự giải cấu trúc mang tính học thuật nhất về các phạm trù xã hội đã được sáp nhập. Sức ỳ này đa phần là cơ sở cho sự tuân thủ và sự phục tùng của những người bị thống trị đối với trật tự đã được thiết lập. Điều này không có nghĩa là không thể lật đổ quan hệ quyền lực. Sự phục tùng của kẻ bị thống trị đối với kẻ thống trị có thể tạo ra nỗi đau khổ xã hội – hiện tượng được mô tả trong La Misère du monde – nhưng cũng tạo ra sự nổi dậy mà, trong những điều kiện nhất định, có thể dẫn đến hành động lật đổ [MP: 245 ].

Các mối quan hệ xã hội giữa hai giới mang lại một thực địa rất tốt để thử thách lý thuyết về bạo lực biểu tượng. Dựa trên các cuộc điều tra được thực hiện ở Kabylie, Bourdieu cho thấy, trong La Domination masculine, rằng sự đối lập nam tính/nữ tính là một trong những nguyên tắc cơ bản của sự phân chia thế giới: nó làm nền tảng cho các phạm trù vũ trụ thần thoại về nhận thức về không gian và thời gian, cũng như cho những sự đối lập chính tổ chức đời sống xã hội: văn hóa/tự nhiên, công cộng/riêng tư, chủ động/thụ động. Hoàn toàn không phải là biểu hiện của sự khác biệt sinh học, bản sắc giới tính hay “giới tính” là những bản sắc được xây dựng về mặt xã hội được sáp nhập qua quá trình uốn nắn cơ thể. Các cậu bé được dạy những cách thể hiện nam tính, danh dự và thống trị; dành cho các bé gái, là những biểu hiện của nữ tính, khiêm tốn, phục tùng. Được thuần hóa như vậy, sự độc đoán về văn hóa mang dáng dấp của tự nhiên. Dĩ nhân vi trung luận “chính đáng hóa mối quan hệ thống trị bằng cách ghi khắc nó trong bản chất sinh học mà bản thân cũng là một thiết kế xã hội đã được sáp nhập” [DM: 40]. Trong các xã hội đương đại, những bản sắc giới tính này được tái sản xuất không chỉ bởi giáo dục gia đình, mà còn bởi các định chế, trước hết là Nhà thờ, Nhà nước và Trường học. Bằng cách biến việc trao đổi phụ nữ thành cơ sở của sự trao đổi giữa những người đàn ông, Claude Lévi-Strauss đã che khuất khía cạnh chính trị của hành động nền tảng này của đời sống xã hội, được triển khai qua sự thể chế hóa bạo lực đối với phụ nữ bị coi là vật thể. Cách tiếp cận này một lần nữa giúp vượt lên trên vấn đề đồng thuận/ép buộc thường là nền tảng cho các cuộc tranh luận về sự thống trị của nam giới. Bạo lực biểu tượng đòi hỏi sự phục tùng đồng lõa của những người phụ nữ bị thống trị, vốn không phải là kết quả của một hành động tự do và tự nguyện, mà là sự sáp nhập quan niệm về thế giới lấy nam tính làm trung tâm. Không có gì tiết lộ những cơ chế này tốt hơn cái logic về sự việc phụ nữ tự loại mình khỏi không gian công cộng.

Do đó, khái niệm bạo lực biểu tượng là một sự đóng góp quan trọng vào việc suy ngẫm về các cơ chế thống trị và các phương thức chính đáng hoá của chúng. Trách nhiệm của nhà xã hội học là phê phán để vạch trần cơ chế này, điều sẽ giúp suy nghĩ hoặc suy nghĩ lại về hành động nhằm làm đứt đoạn sự kéo dài của chúng.

Gisèle Sapiro

Giám đốc nghiên cứu tại CNRS và tại EHESS

CHÚ THÍCH:

1964 [H] Les Héritiers. Les étudiants et la culture (avec J.-C. Passeron), Paris, Minuit.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1997 [MP] Méditations pascaliennes, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2003.

1998 [DM] La Domination masculine, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2002.

2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

2016 [SG 2] Sociologie générale, vol. 2, éd. établie par P. Champagne et J. Duval, avec la collaboration de F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

[PB 1977e] “Sur le pouvoir symbolique, Annales. Économies, Sociétés, Civilisations, vol. 32, no 3, p. 405-411.

ADHÉSION, ALTHUSSER, ARBITRAIRE, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL SYMBOLIQUE, CASSIRER, CATÉGORIE(S), CLASSE(S), CLASSE(S) DOMINANTE(S), CORPS, DOMINATION, DOMINATION MASCULINE (LA), DROIT, DURKHEIM, ÉDUCATION, ÉTAT, FAUSSE CONSCIENCE, FORCE, FORME, GENRE, HABITUS, HÉRITIERS (LES), HONNEUR, HUME, IMPOSITION, INCORPORATION, INSTITUTION(S), INTÉRIORISATION, KABYLIE, KANT, LÉGITIMATION, LÉVI-STRAUSS, LUTTES, MARXISME, MAUSS, MÉCONNAISSANCE, MÉDITATIONS PASCALIENNES, MISÈRE DU MONDE (LA), NATURALISATION, PASSERON, PERCEPTION, PHÉNOMÉNOLOGIE, POUVOIR SYMBOLIQUE, RECONNAISSANCE, REPRODUCTION (LA), SCHÈME(S), SENS COMMUN, STRUCTURE(S), VISION DU MONDE, WEBER

* * *

ETAT

[NHÀ NƯỚC]

Nhà nước hiện diện trong xã hội học của Pierre Bourdieu nhiều hơn là danh sách các tác phẩm dành riêng cho nó một cách rõ ràng. Giống như trong thế giới xã hội, Nhà nước xuất hiện thông qua các phạm trù nhận thức và các điều kiện của thực tiễn, trong sự phân bổ các vị trí xã hội và sự chính đáng hóa chúng, nghĩa là vượt xa các hình thức được thiết lập trong các bộ máy hành chính, không thể là thế giới giới hạn của xã hội học về Nhà nước. Vậy nên, Bourdieu giải thích rằng việc chuẩn bị bài giảng của ông tại Collège de France về chủ đề này là cơ hội để tiết lộ điều mà bản thân ông cho đến lúc đó vẫn chưa xác định được và thậm chí còn chưa được trình bày một cách rõ ràng: một phần quan trọng trong sự nghiệp xã hội học của ông liên quan, dù gián tiếp hay ngầm định, đến Nhà nước, được xác định là không gian tập trung vốn và quyền lực và là không gian đấu tranh đặc thù, nơi diễn ra sự điều chỉnh các cấu trúc xã hội và các cấu trúc tinh thần.

Vai trò của Nhà nước trong sự tái sản sinh trường của quyền lực

Việc phân tích các phương thức tái sản sinh trường của quyền lực đã đặc biệt dẫn đến việc xác định những gì sự tuyển chọn và sự công nhận “thành phần tinh hoa” nợ Nhà nước ở nước Pháp đương thời [La Noblesse d’État]. Những người nắm giữ quyền lực (kinh tế, trí tuệ, chính trị, v.v.) chưa bao giờ lại cần đến nhà trường nhiều đến thế, và đặc biệt là các Trường Lớn/Grandes Écoles (“trường học của quyền lực”), nói cách khác là của Nhà nước, để đạt tới các chức vụ mà họ chiếm giữ và chính đáng hóa việc họ chiếm giữ chúng. Thật vậy, “Quý tộc nhà nước”, kế thừa quý tộc mặc áo choàng là sản phẩm của “cái ma thuật Nhà nước” trao uy quyền thông qua bằng cấp. Giới quý tộc này, được tô điểm bằng đức tính xuất sắc trong học tập để khiến mọi người quên đi sự tuyển chọn và sự di truyền xã hội vốn vẫn là quy tắc cốt lõi của nó (giới quý tộc), đã phải xây dựng Nhà nước để tự xây dựng mình: khẳng định với "nghĩa vụ công cộng" sự vô tư và lợi ích tập thể phù hợp với kẻ thống trị, tổ chức dưới vỏ bọc của "chủ nghĩa nhân tài qua trường học” sự tái sản sinh chính mình cùng với và đồng thời với sự công nhận của nó, đầu tư vào các vị trí trong bộ máy Nhà nước để chuyển đổi tốt hơn số vốn đã được tích lũy trong khu vực tư nhân. Xã hội học về trường quyền lực và các bộ phận thống trị của trường quan liêu góp phần rộng rãi hơn vào việc phân tích quyền lực biểu tượng của Nhà nước, vốn công nhận những người nắm giữ những vị trí thống trị và cho phép tái sản sinh chúng về phương diện xã hội.

Nếu điều này xuất hiện rõ ràng hơn trong các công trình về chính trị [PB 1981a], các trường học của quyền lực [NÉ], hoặc các hình thức khốn khổ xã hội liên quan đến sự rút lui của Nhà nước [La Misère du monde], thì các nghiên cứu cũ hơn như nghiên cứu về sự thống trị của thực dân ở Algérie [Le Déracinement] hay vai trò của hệ thống trường học trong việc chính đáng hóa sự tái sản sinh xã hội [La Reproduction] đã đóng góp gián tiếp cho xã hội học về Nhà nước. Một cách rộng hơn, chúng ta có thể nhìn thấy ngược lại rằng sự phân tích về Nhà nước như một siêu trường nắm giữ độc quyền về bạo lực biểu tượng, là kết quả hợp lý của một chương trình nghiên cứu đặc biệt tập trung vào sự hình thành của các trường, các mối quan hệ mà chúng duy trì và chiều kích biểu tượng của các mối quan hệ thống trị.

Sự thành hình của Nhà nước về phương diện xã hội

Tác phẩm Sur l’État (2012) xác định rõ và hệ thống hóa những phân tích mà Pierre Bourdieu đưa ra về “đối tượng không thể hình dung được” này [SÉ: 13]. Cuốn sách này được xuất bản sau khi Bourdieu mất, cung cấp những công cụ hữu ích cho việc xây dựng xã hội học đối tượng “Nhà nước” đang gặp phải những trở ngại đáng kể. Thật vậy, Nhà nước, nhà sản xuất tiêu biểu các phạm trù tư tưởng, đặc biệt liên quan đến chính Nhà nước, và “nhà sản xuất chính các công cụ để xây dựng hiện thực xã hội” [SÉ: 226], đặt sự nghiệp nhà xã hội học trong nguy cơ “bị suy nghĩ bởi một Nhà nước mà anh ta nghĩ là anh ta đang suy nghĩ (về)” [PB 1993a: 49]. Tư duy về Nhà nước thông qua các phạm trù Nhà nước, như các luật sư làm [PB 1986d; 1991d], thật sự là góp phần vào việc chính đáng hóa Nhà nước hơn là vào việc phân tích nó [SÉ: 13-16]. Do đó, việc phân tích sự thành hình của Nhà nước không chỉ cấu thành một đối tượng mà còn là một điều kiện tiên quyết về mặt nhận thức luận và một công cụ quý giá để đoạn tuyệt: bằng cách tái lập quá trình hình thành của Nhà nước, nhà xã hội học tự tạo cho mình những phương tiện để vạch trần những đặc trưng riêng của Nhà nước và tính đặc thù của “cái lý của Nhà nước” [PB 1993a; 1997c; SÉ: đặc biệt là 221-224]. Trong sự tiếp nối có phê phán các công trình của Weber và Elias, Bourdieu đề xuất phân tích sự thành hình này như một quá trình tích lũy nhiều loại vốn (vốn sức mạnh thể chất, vốn tài chính, vốn thông tin) mà Nhà nước dần dần giành được độc quyền (độc quyền bạo lực thể chất chính đáng, độc quyền thu thuế và phát hành tiền tệ, độc quyền các nguồn thông tin, chẳng hạn như thông qua thống kê). Khi làm như vậy, Bourdieu quay lưng với “thuyết chức năng của cái tốt nhất”, coi Nhà nước như là thể chế của sự tiến bộ và lợi ích chung, và “thuyết chức năng của cái tồi tệ nhất”, ngược lại chỉ coi Nhà nước như là một bộ máy cưỡng bức phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.

Từ việc phê phán chéo các công trình lịch sử thực nghiệm và các lý thuyết xã hội học về quá trình xây dựng Nhà nước, Bourdieu phát triển cách tiếp cận của riêng mình, ít giống với lịch sử của Nhà nước hơn là một mô hình phân tích về sự xuất hiện của nó [SÉ: 110-237, 294-347, 371-437; phân tích này đã được thảo luận bởi Charle 2014; Deloye 2014; Genet 2014; Sez 2014]. Lấy Pháp và Anh làm những trường hợp điển hình, Bourdieu trình bày chi tiết các năng động đã dẫn từ Nhà nước các triều đại đến Nhà nước quan liêu. Ngoài quá trình độc quyền hóa quyền lực và tập trung nhiều nguồn vốn, quá trình chuyển đổi từ cái này sang cái kia được thực hiện qua hai quá trình không thể tách rời: “sự phi di sản hóa/dépatrimonialisation” và “sự phi cá nhân hóa/dépersonnalisation” [Lenoir 2012]. Quá trình thứ nhất, phân biệt tài sản của nhà vua với tài sản của vương miện, đất đai của nhà vua và lãnh thổ quốc gia, là yếu tố cấu thành tài sản Nhà nước, công cộng và phi cá nhân, đối lập với tài sản cá nhân và tư nhân. Từ đó, một lĩnh vực công cộng được hình thành, cũng là lĩnh vực chính thức. Quá trình phi cá nhân hóa trên thực tế biến lý thuyết về “hai cơ thể của nhà vua” được Ernst Kantorowicz phân tích thành hiện thực: cơ thể chính trị không còn bị lẫn lộn với con người của nhà vua, người hiện thân nó một cách tạm thời. Luật pháp và sự tách biệt giữa luật dân sự và luật công góp phần tạo nên trật tự mới này [Voutat 2014]. Như vậy, đây là cách hình thành “cái lý của Nhà nước”, một lối suy nghĩ đặc trưng của phương thức thống trị chính đáng của Nhà nước quan liêu. Với sự tập hợp các quá trình cấu thành quá trình chuyển đổi từ Nhà nước các triều đại sang Nhà nước quan liêu, chúng ta phải cộng thêm một quy trình thiết yếu, đó là sự hình thành của trường quan liêu. Các cuộc đấu tranh giữa các triều đại và sự loại trừ những người làm việc cho Nhà nước khỏi các phương thức tái sản sinh của các triều đại đã dẫn đến sự hình thành của một nhóm viên chức đặc thù, những người đặt tính chính đáng của mình trên năng lực chớ không còn trên sự kế thừa [PB 1997c].

Nhà nước như một siêu trường 

Những viên chức này phục vụ Nhà nước và nhờ đó mà có địa vị, quyền lực và uy tín, dần tạo thành một không gian đặc thù, được trang bị với các thể chế riêng, các quy tắc riêng, một loại vốn đặc thù. Trường quan liêu này, nơi diễn ra các cuộc đấu tranh mà cái cược là quyền lực của Nhà nước, tạo nên không gian xã hội đặc trưng của Nhà nước. Nó được xây dựng bằng sự khẳng định các nguyên tắc, chẳng hạn như tính không vụ lợi hoặc khái niệm về dịch vụ công, đồng thời chính đáng hóa các viên chức cùng với Nhà nước. Như Bourdieu đã chỉ ra đối với các trường khác (đặc biệt là pháp lý hoặc nghệ thuật), và chống lại tầm nhìn mác xít về sự thể hiện trực tiếp các lợi ích giai cấp, các lợi ích xã hội được chuyển dịch thành logic đặc thù của trường quan liêu và của các sự cạnh tranh nội bộ của nó (giữa các bộ, chẳng hạn), điều khiến các lợi ích này được che giấu và nhận được tính chính đáng bằng cách làm cho chúng xuất hiện như là sản phẩm của hoạt động tự trị của trường được cho là phục vụ lợi ích chung.

Được cấu thành như một không gian cạnh tranh đặc thù (trường quan liêu), tuy nhiên Nhà nước không thể bị thu gọn trong không gian này. Thật vậy, trường quan liêu cũng chỉ là một thành tố của trường quyền lực, mà những tác nhân “đấu tranh để giành quyền lực trên Nhà nước” [SÉ: 313]. Thậm chí, ở phạm vi rộng hơn, Nhà nước tạo thành một “siêu trường” (“Nhà nước là siêu”, Bourdieu nói). Thuật ngữ này về cơ bản chủ yếu chỉ ba điều. Thứ nhất, Nhà nước góp phần rất trực tiếp vào quá trình phân hóa các không gian xã hội, qua đó hình thành các trường tự trị. Chẳng hạn, trong số những yếu tố khác, trường văn học được hình thành nhờ vào sự thống nhất ngôn ngữ trong không gian dân tộc do Nhà nước thực hiện và bằng việc thành lập các thể chế như Viện Hàn Lâm Pháp, cũng do Nhà nước thành lập. Tương tự như vậy, chống lại sự đối lập thông thường giữa Nhà nước và thị trường, Bourdieu cho thấy rằng chính Nhà nước, thông qua sự thống nhất tiền tệ, các cơ sở hạ tầng (đường sá, kênh rạch) đã tạo điều kiện cho sự lưu thông hàng hóa, hay thậm chí là cho sự an ninh được đảm bảo bởi quân đội và cảnh sát, đã tạo điều kiện khiến sự thành hình của thị trường trở nên khả thi, và do đó, cho sự vận hành được trường kinh tế [Les Structures sociales de l’économie]. Nếu Nhà nước là siêu, thì đó chính là do nó can thiệp vào hoạt động của các trường khác nhau, đặc biệt thông qua các quy tắc mà nó đặt ra hoặc các tài nguyên mà nó phân phối, kể cả trong các tình huống dường như không đáng kể và hoàn toàn riêng tư, như sự tương tác để mua một ngôi nhà trên thực tế được cấu trúc rất chặt chẽ bởi những quy định của Nhà nước về tín dụng [PB 1990c]. Đổi lại, các viên chức cập nhật các quy tắc này do Nhà nước đưa ra vốn tạo nên Nhà nước, giống như khi người bán áp đặt trên người mua các tiêu chuẩn ứng xử kinh tế được quy định bởi các quy định tín dụng. Cuối cùng, Nhà nước là siêu vì nó có quyền can thiệp vào việc bảo tồn, tái sản sinh và chuyển đổi (“tỷ giá hối đoái”) các loại vốn khác nhau, mà Nhà nước thực thi chẳng hạn khi nó xác định các trình độ giáo dục cần thiết để tiếp cận các vị trí nghề nghiệp nhất định [Réponses: 90]. Do đó, quyền lực Nhà nước trong việc điều hòa các mối quan hệ giữa các loại vốn khác nhau, và do đó, mối quan hệ giữa các trường khác nhau, là một vấn đề đối với tất cả các trường: mỗi trường đều “muốn hành động trên siêu trường này để chiến thắng […] các trường khác” [SÉ: 489].

Độc quyền về bạo lực biểu tượng chính đáng

Việc tính đến ba cấp độ này, hoặc các không gian quan hệ (trường quan liêu, trường quyền lực, siêu trường), hoàn toàn đoạn tuyệt với quan niệm chung về Nhà nước như một tổng thể thể chế khép kín, được truyền tải cả trong các định nghĩa pháp lý cũng như trong diễn ngôn thông thường vốn đối lập nó với “xã hội dân sự”. Quan niệm mang tính quan hệ này, cho phép chúng ta loại bỏ các quan niệm bản chất luận và chức năng luận, đã dẫn Bourdieu tới việc hoàn thiện công thức nổi tiếng của Weber, bổ sung thêm tính độc quyền của bạo lực biểu tượng chính đáng vào định nghĩa về Nhà nước. Tạo ra các nguyên tắc phân chia thế giới (đặc biệt là thông qua ngôn ngữ), nắm giữ các nguồn lực có khả năng chính đáng hóa chúng (chẳng hạn như sự giám định khoa học), các vectơ cho phép chúng được khắc sâu vào trí não (chẳng hạn như trường học), các phương tiện cưỡng ép cho phép hiện thực hóa chúng (với luật pháp), Nhà nước thực thi quyền lực biểu tượng cho phép nó thực hiện những gì nó mô tả, hoặc thậm chí tự nhiên hóa các hình thái lịch sử mà nó đã xây dựng, chẳng hạn như gia đình [PB 1993e]. Bằng cách góp phần vào việc sản xuất và tái tạo trật tự biểu tượng, Nhà nước đảm bảo “tính tuân thủ logic” mà Durkheim đã đề cập [PB 1977e: 407]. Bằng cách này, chứ không chỉ thông qua sự cưỡng bức, Nhà nước đảm bảo duy trì trật tự xã hội.

Lý thuyết này mở ra nhiều con đường cho nghiên cứu thực nghiệm. Trong cuốn Sur l’État, Bourdieu đưa ra những ví dụ, với vẻ bề ngoài tầm thường, cho phép Nhà nước được phi thiêng liêng hóa. Đó cũng vì, trái ngược với truyền thống pháp lý hoặc triết học về các định nghĩa trừu tượng về Nhà nước, Bourdieu nắm bắt nó từ những gì nó làm: hành vi của Nhà nước. Thông qua văn bản mẫu phân loại cá nhân, con dấu cấp phép, quốc tịch hoặc bằng tốt nghiệp, những hành vi bổ nhiệm này được tiến hành, cùng với những điều khác, khẳng định những gì là thông qua các loại hạng của Nhà nước và những gì mà quyền lực của Nhà nước khiến cho chúng có hiệu lực và được thi hành.

Mở rộng phân tích về ma thuật Nhà nước này, Bourdieu nhiều lần quay lại phát minh về mặt tổ chức là các ủy ban chính thức, nơi đối đầu được quy định giữa các quan điểm, nơi phát triển một quan điểm tích hợp tất cả chúng và trở thành quan điểm chính đáng, quan điểm của Nhà nước. Qua đó, ông đưa ra ví dụ về một xã hội học thực nghiệm về “tư tưởng Nhà nước”, mà ông đã đóng góp từ lâu trước đó trong công trình của mình về việc hình thành hệ tư tưởng thống trị [PB 1976b]. Trong Sur l’État, ông đặc biệt dựa trên cuộc điều tra của mình về “chính sách nhà ở” [SSÉ], cho thấy nó xuất phát từ cấu trúc các vị trí, quan hệ quyền lực và liên minh của các tác nhân của các bộ phận khác nhau trong trường quan liêu và rộng hơn từ các “viên chức có hiệu năng”. Do đó, Bourdieu mở ra con đường rộng rãi hơn cho môn xã hội học về các chính sách của Nhà nước, dựa trên việc phân tích không gian quan hệ trong đó chúng phát sinh [Dubois 2014a; 2014b]. Đây là một trong nhiều phần mở rộng có thể có của Sur l’État vốn, qua sự kết thúc bằng câu hỏi về sự rút lui của Nhà nước và các chính sách tân tự do, mời gọi chúng ta tiếp tục phân tích, ngay cả khi chỉ để thể hiện một quá trình trái ngược với quá trình khẳng định liên tục quyền lực Nhà nước được chứng minh trong cuốn sách này.

Vincent Dubois

Giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Strasbourg

CHÚ THÍCH:

1992 [R] Réponses. Pour une anthropologie réflexive (avec L. Wacquant), Paris, Seuil.

1993 [MM] La Misère du monde (et al.), Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1998.

1989 [NÉ] La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.

2000 [SSÉ] Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014.

2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

[PB 1986d] La force du droit. Éléments pour une sociologie du champ juridique”, ARSS, no 64, p. 5-19.

[1991d] “Les juristes, gardiens de l’hypocrisie collective”, in F. CHAZEL et J. COMMAILLE (éd.), Normes juridiques et régulation sociale, Paris, Librairie générale de droit et de jurisprudence, p. 95-99.

[PB 1993a: 49] Esprits d’État. Genèse et structure du champ bureaucratique”, ARSS, no 96-97, p. 49-62.

[PB 1993e] À propos de la famille comme catégorie réalisée”, ARSS, no 100, p. 32-36.

[PB 1997c] Le champ économique, ARSS, no 119, p. 48-66.

[PB 1997e] Que faire? Entretien sur la loi Debré” (avec A. Desplechin), Les Inrockuptibles, no 93.

ACCUMULATION, ALGÉRIE, APPAREIL, AUTORITÉ, CAPITAL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CATÉGORIE(S), CHAMP, CHAMP BUREAUCRATIQUE, CHAMP DU POUVOIR, CHAMP ÉCONOMIQUE, CHAMP JURIDIQUE, CLASSE(S) DOMINANTE(S), COLLÈGE DE FRANCE, COMMISSION, CONCENTRATION, CONSÉCRATION, CONSTRUCTION DE L’OBJET, CONVERSION DE CAPITAUX, DÉRACINEMENT (LE), DÉSINTÉRESSEMENT, DIFFÉRENCIATION, DOMINATION, DROIT, DURKHEIM, ELIAS, FONCTIONNAIRE, FONCTIONNALISME, FORCE, FORME, GRANDES ÉCOLES, HISTOIRE, IDÉOLOGIE, INSTITUTION(S), INTÉGRATION, LANGUE, LÉGITIMATION, LITTÉRATURE, LOGEMENT, LUTTE(S), MARCHÉ, MARXISME, MISÈRE DU MONDE (LA), NATURALISATION, NÉOLIBÉRALISME, NOBLESSE, NOBLESSE D’ÉTAT (LA), NORME(S), ORDRE SOCIAL, PERCEPTION, PERFORMATIF, POINT DE VUE, POSITION(S), POUVOIR SYMBOLIQUE, PRATIQUE, RECONNAISSANCE, RECONVERSION, RÈGLE, RELATIONNELLE (APPROCHE), REPRODUCTION (LA), RUPTURE ÉPISTÉMOLOGIQUE, SOCIOGENÈSE, SOCIOLOGIE HISTORIQUE, STRUCTURE(S), STRUCTURES SOCIALES DE L’ÉCONOMIE (LES), SUR L’ÉTAT, TITRE(S), VIOLENCE SYMBOLIQUE, WEBER

* * *

SENS PRATIQUE (LE) 

[CẢM THỨC THỰC TIỄN]

Được NXB Éditions de Minuit xuất bản năm 1980, tác phẩm đồ sộ này đề cập và hệ thống hóa lý thuyết về thực tiễn mà Pierre Bourdieu bắt đầu phát triển trong cuốn Esquisse d’une théorie de la pratique do NXB Droz xuất bản năm 1972. Tác phẩm này gồm có hai quyển, quyển “Critique de la raison théorique” và quyển “Logiques pratiques”, với phần mở đầu trong đó Bourdieu trở lại các điều kiện hình thành lý thuyết thực tiễn này ở Algérie trong chiến tranh, với những tài liệu tham khảo quan trọng - Claude Lévi-Strauss, Jacques Berque, André Nouschi, Émile Dermenghem, Charles-André Julien -, những người đã đoạn tuyệt với thuyết vị chủng đang chiếm ưu thế trong dân tộc học, và cả những giới hạn gặp phải trong việc áp dụng phương pháp cấu trúc vào thế giới Kabyle. Sự không thích đáng của các cách tiếp cận hiện có để thuật lại thực tại được quan sát đã dẫn ông đến việc phân tích những sự lệch lạc ​​do lý tính lý thuyết gây ra khi lí tính này cố gắng tư duy về thực tiễn: khoảng cách với đối tượng ít nằm ở khoảng cách giữa các truyền thống văn hóa hơn là ở “khoảng cách giữa hai mối quan hệ với thế giới, lý thuyết và thế giới thực tiễn” [SP: 30], và khoảng cách này cũng không phải là nét đặc thù của các đối tượng của dân tộc học.

Chính vì vậy mà tác phẩm Le Sens pratique, đảo ngược thứ tự trình bày của L’Esquisse vốn đặt các nghiên cứu thực nghiệm trước cuộc thảo luận lý thuyết, đã mở đầu với một phần mang tính khoa học luận nhằm chỉ ra những sự lệch lạc ​​này. Trong lời nói đầu, tranh cãi về sự đối lập nhị phân giữa chủ quan luận và khách quan luận vốn cấu trúc nên cuộc tranh luận về cách tiếp cận thích đáng trong khoa học xã hội, Bourdieu dành một chương cho mỗi lựa chọn này để chỉ ra cả những ưu điểm và những hạn chế của mỗi trường hợp.

Nếu khách quan luận có công trong việc đoạn tuyệt với trải nghiệm cơ bản/sơ đẳng về thế giới xã hội bằng cách nghiên cứu các mối quan hệ khách quan làm nền tảng cho trải nghiệm này, thì khách quan luận phải trả giá bằng việc che khuất trải nghiệm này và tính tiền phản tư của nó. Sự che khuất này dẫn đến sự lệch lạc mang tính duy trí thức khi trong chừng mực là dẫn đến việc áp dụng các phạm trù được sự phân tích xây dựng cho thực tại qua việc tạm gác sang một bên các điều kiện đặc thù của thực tiễn thông thường, chẳng hạn như trường hợp khẩn cấp và các tình huống cụ thể trong đó thực tiễn được triển khai. Các các tùy chọn, các khả thể không bao giờ hiện ra trước các tác nhân với tính hệ thống đặc trưng của sự phân tích thông thái. Để minh họa lập luận của mình, Bourdieu trở lại với các ví dụ được phát triển trong l’Esquisse: ngôn ngữ học cấu trúc vốn biến ngôn ngữ thành đối tượng thay vì lời nói, và nhân học cấu trúc vốn chuyển từ các sự hợp thức sang các quy tắc mà không đặt câu hỏi về logic của hành động bị quy giản về sự thực hiện. Nhân học tưởng tượng của chủ nghĩa chủ quan, được thảo luận ở chương 2, được hiểu thông qua triết học của Sartre vốn là hình thức cực đoan nhất của chủ quan luận với những ám chỉ đến thuyết tương tác và lý thuyết về tác nhân duy lý, có điểm chung là xu hướng coi thực tiễn như là các chiến lược được định hướng rõ ràng hướng tới mục đích được chủ thể xác định một cách có ý thức.

Chương 3, có tựa đề “Cấu trúc, tập tính, thực tiễn”, trình bày phiên bản hoàn chỉnh nhất của lý thuyết về tập tính. Chống lại xu hướng của khách quan luận hiện thực hóa các mối quan hệ khách quan mà nó xây dựng lại và chống lại chủ quan luận phủ nhận bất kỳ hình thức nào quyết định hành động mà nằm ở bên ngoài hành động, Bourdieu đề xuất xem xét các thực tiễn và các biểu tượng là sản phẩm của một quá trình nội tâm hóa các cấu trúc bởi các cá nhân dưới dạng những thiên hướng/tâm thế. Những hệ thống thiên hướng hợp thành tập tính là “những nguyên tắc tạo nên và tổ chức các thực tiễn và các biểu tượng có thể thích ứng một cách khách quan với mục tiêu của chúng mà không cần giả định một ý thức rõ ràng về các mục tiêu và khả năng làm chủ các thao tác cần thiết để đạt được những mục tiêu này, sự ý thức làm chủ trên được “điều hòa” và được “thực hiện một cách đều đặn” mà hoàn toàn không phải là sản phẩm của việc tuân theo các quy tắc, và, tất cả những điều này, được phối hợp một cách tập thể mà không phải là sản phẩm của tài tổ chức của một người chỉ huy dàn nhạc” [SP: 88-89 ].

Chương 4 dành cho niềm tin thực tiễn, niềm tin mà Bourdieu định nghĩa là một “trạng thái của cơ thể” [SP: 115]. Tư cách thành viên trong một trường và cảm quan về cuộc chơi mà nó bao hàm là minh họa tốt nhất cho trạng thái này. Là sản phẩm của sự gặp gỡ giữa một tập tính và một trường, cảm quan về cuộc chơi là một hình thức mẫu mực của cảm thức thực tiễn. Thật vậy, không giống như các trò chơi, nơi có các quy tắc rõ ràng, hoạt động của các trường xã hội dựa trên niềm tin, illusio (xem mục illusio trong Từ điển quốc tế Bourdieu giải thích khái niệm này), vốn là nguồn gốc của một sự đầu tư đôi khi được mô tả như một thiên hướng. Là sự hiện thực hóa lý thuyết trò chơi, cảm quan về trò chơi cũng là “sự phủ định tư cách lý thuyết của lý thuyết này“ [SP: 136], như Bourdieu giải thích trong chương sau (chương 5) dành cho logic của thực tiễn. Bằng cách có một cái nhìn khái quát và đồng đại (qua các sơ đồ, bảng biểu, bản đồ) về một thực tại cố hữu về thời gian, lý tính học thuật đã che khuất tính đặc thù của thực tiễn, mà đặc trưng là cấu trúc thời gian của nó (tính không thể đảo ngược, nhịp điệu, nhịp độ) và các khả năng về lối chơi chiến lược mà nó (thực tiễn) cung cấp với thời gian, cũng như một logic về sự mơ hồ làm rối bất kỳ nỗ lực tái thiết logic hoàn hảo nào.

Sự tác động của thời gian là chủ đề của chương 6: tác động này gắn liền với sự bất định chi phối thực tiễn trong một thế giới tuân theo các quy luật xác suất và làm nảy sinh nhiều loại chiến lược khác nhau, như được minh họa bằng các ví dụ về sự thách thức và sự đáp trả, hoặc về quà tặng và quà đáp lại. Chính tác động của thời gian làm cho mối quan hệ trao đổi không thể nhận ra được trong trường hợp thứ hai khoác cho nó vẻ bề ngoài của sự vô tư. Hoạt động hóa thể này thiết lập nền kinh tế của những tài sản mang tính biểu tượng được Bourdieu phát triển ở chương 7. Bác bỏ duy kinh tế luận quy sự trao đổi về lợi ích vật chất, ông đưa vào lại chiều kích biểu tượng mà, theo ông, không thể tách rời khỏi logic kinh tế. Thật vậy, vốn biểu tượng cấu thành một loại tín dụng theo nghĩa rộng, dựa trên niềm tin của nhóm. Trong nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa, khi mà sự tái sản sinh phương thức thống trị không được đảm bảo, quyền lực chính trị nảy sinh ra từ sự bất đối xứng trong trao đổi, tức là từ sự tái phân phối phô trương, nhưng cũng từ một tập hợp các chiến lược hướng tới sự thống trị con người, thông qua các cơ chế đặc thù của bạo lực biểu tượng, như Bourdieu giải thích ở chương 8. Trong chương tiếp theo, ông đề cập lại vấn đề khách quan luận, thôi thúc chúng ta tái sáp nhập mối quan hệ chủ quan với thế giới vào việc nghiên cứu thực tại. Sự thật khách quan của các mối quan hệ xã hội nằm ở tương quan lực lượng khách quan cũng như ở hình thức bị phủ nhận mà tương quan lực lượng khoác lên dưới bức màn của tính chính đáng. Trong chương này, Bourdieu thảo luận khái niệm của Weber về “các nhóm vị thế”, mà ông không coi như là một hình thức tập hợp khác về các giai cấp, nhưng như là “các giai cấp thống trị bị phủ nhận, hoặc nếu ta muốn, được thăng hoa và do đó, được chính đáng hóa” [SP: 241].

Quyển thứ hai tập hợp ba nghiên cứu có giá trị mẫu mực để minh họa logic đặc thù của thực tiễn. Là một phiên bản được soạn lại của một bài báo đăng trên tạp chí Annales [PB 1972a], bài nghiên cứu đầu tiên cho thấy rằng tính đều đặn trong hành vi hôn nhân của người nông dân vùng Béarn không nên được phân tích như là kết quả của sự tuân theo một cách máy móc quy tắc thừa kế xác định người anh cả là người thừa kế, mà như các chiến lược tái sản xuất, cũng giống như việc thừa kế đất đai được giao cho người anh cả, nhắm mục tiêu bảo vệ tính toàn vẹn của di sản. Điều này được chứng minh qua sự tồn tại của một số loại chiến lược (ví dụ, việc để lại di sản cho con gái khi không có con trai). Nghiên cứu thứ hai bắt đầu từ sự không phù hợp của ngôn ngữ về quy định và quy tắc để nghiên cứu về trường hợp hôn nhân với người em họ, thách thức quy tắc ngoại hôn mà nhân học cấu trúc đặt ra, để tra vấn “các cách sử dụng mối quan hệ họ hàng trong xã hội” tùy vào những lợi ích kinh tế và biểu tượng có liên quan. Với tựa đề "Con quỷ của sự tương tự", chương cuối tiết lộ những giới hạn của phương pháp cấu trúc khi nó được áp dụng cho những sơ đồ thực tiễn không có tính hệ thống cũng như sự mạch lạc mà lý thuyết muốn gán cho chúng.

Trong phụ lục của tác phẩm này, Bourdieu đăng lại nghiên cứu về ngôi nhà Kabyle, “La maison ou le monde renversé” [PB 1970b], được viết cho Mélanges offerts à Claude Lévi-Strauss và tái bản trong cuốn Esquisse d’une théorie de la pratique, và cho nó một quy chế đặc biệt như là sự minh họa cho một suy nghĩ có trước đây của ông về phương pháp cấu trúc, được ông áp dụng ở đây một cách xuất sắc, và như một lời giới thiệu về những nghiên cứu phức tạp hơn được trình bày trong Le Sens pratique.

Được xuất bản bằng ít nhất sang mười ba ngôn ngữ và mười bốn quốc gia, tác phẩm này là một trong mười tựa sách của nhà xã hội học được dịch nhiều nhất.

Gisèle Sapiro

Giám đốc nghiên cứu tại CNRS và tại EHESS

Thư mục:

1972 [ETP] Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.

1980 [SP] Le Sens pratique, Paris, Minuit, rééd. 1989.

[PB 1970b] “La maison kabyle ou le monde renversé”, in J. POUILLON et P. MARANDA (éd.), Échanges et communications. Mélanges offerts à Claude Lévi-Strauss à l’occasion de son 60e anniversaire, Paris/La Haye, Mouton, p. 739-758.

[PB 1972a] “Les stratégies matrimoniales dans le système de reproduction, Annales. Économies, Sociétés, Civilisations, vol. 27, no 4-5, p. 1105-1127.

ADHÉSION, ALGÉRIE, ANALOGIE, ANTHROPOLOGIE, BIENS SYMBOLIQUES, CAPITAL SYMBOLIQUE, CATÉGORIE(S), CHAMP, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CORPS, CROYANCE, DÉNÉGATION, DÉSINTÉRESSEMENT, DISPOSITION(S), DOMINATION, DON, ESQUISSE D’UNE THÉORIE DE LA PRATIQUE, ETHNOCENTRISME, GROUPE(S), HABITUS, ILLUSIO, INTERACTIONNISME, INTÉRIORISATION, JEU(X), LANGUE, LÉGITIMATION, LÉVI-STRAUSS, LINGUISTIQUE, LOGIQUE(S), MAISON, MÉCONNAISSANCE, MÉTHODE, MINUIT, OBJECTIVISME, PRATIQUE, PROBABILITÉ(S), RÈGLE, RÉGULARITÉS, RELATION(S) OBJECTIVE(S), REPRODUCTION, SARTRE, SCHÈME(S), STRATÉGIE(S), STRUCTU RALISME, STRUCTURE(S), SUBJECTIVISME, TEMPS, TRANSSUBSTANTIATION, VÉRITÉ, VIOLENCE SYMBOLIQUE, WEBER

* * * 

POUVOIR

[QUYỀN LỰC]

AUTORITÉ, CHAMP DU POUVOIR, DOMINATION

 

POUVOIR SYMBOLIQUE

[QUYỀN LỰC BIỂU TƯỢNG]

Khái niệm quyền lực biểu tượng xác định lại khái niệm cổ điển về quyền lực tinh thần, vốn đã được phân biệt với quyền lực thế tục kể từ Auguste Comte. Trong L’Idéologie allemande, Karl Marx và Friedrich Engels cũng phân chia giai cấp thống trị thành lao động trí óc và lao động thể chất. Lấy cảm hứng từ sự phân chia ba thành phần được Adalbéron de Laon xây dựng vào thời Trung Cổ giữa các oratores (người cầu nguyện), bellatores (người chiến sĩ) và các laboratores (người lao động), Georges Dumézil trong nhân học và Georges Duby trong sử học cũng đã ghi nhận sự phân công lao động thống trị này vào một bộ ba bao gồm cả những người bị trị. Theo Pierre Bourdieu, sự phân công lao động như vậy phải được hiểu theo nghĩa quyền lực thế tục “chỉ có thể tự khẳng định mình về lâu dài với điều kiện là được công nhận là chính đáng […]” [ Sociologie générale 2: 1011]. Quyền lực biểu tượng biểu thị quyền lực “ma thuật” được vốn biểu tượng trao cho [SG 2: 975], và được thực thi thông qua các hình thái biểu tượng như ngôn ngữ, tôn giáo, huyền thoại, khoa học và văn hóa (theo nghĩa nhân học, từ phong cách sống đến các sản phẩm văn hóa). Khái niệm này cho phép chúng ta hiểu “rằng chúng ta có thể tác động lên các cơ thể từ xa và tạo ra cảm xúc từ xa” [SG 2: 863].

Một quyền lực vô hình

Bourdieu lý thuyết hóa khái niệm này trong một bài báo xuất bản năm 1977 trên tạp chí Annales [PB 1977e], lấy từ một bài diễn thuyết tại Đại học Chicago vào tháng 4 năm 1973. Trong một bối cảnh trí tuệ mà khái niệm “quyền lực” đã trở thành trung tâm (sự tố cáo về các hình thái uy quyền và quyền lực khác nhau là trung tâm của phong trào tháng 5 năm 68, và lý thuyết mác xít về sự thống trị khi đó được phổ biến rộng rãi trong các ngành khoa học xã hội), và vấn đề được đặt ra là về nguồn gốc của nó (từ trên hay từ dưới, từ kẻ thống trị hay người bị thống trị), Bourdieu cố gắng, như ông giải thích, nghiên cứu nó dưới những hình thái ít thấy nhất của nó, những hình thái bị che giấu bởi hiện tượng của sự thừa nhận.

Trong khi lý thuyết Mác xít quy giản các hiện tượng văn hóa và tôn giáo thành không gì khác hơn là một kiến ​​trúc thượng tầng, phản ánh các quan hệ sản xuất, Bourdieu thừa nhận chúng có một sự tự chủ nhất định. Thật vậy, tuy không phải là người theo chủ nghĩa duy tâm, quan niệm của ông về quyền lực biểu tượng được ghi nhận trong truyền thống duy lý tân Kant, vốn coi, trái ngược với truyền thống theo chủ nghĩa kinh nghiệm, rằng quan niệm về thế giới được cấu trúc bởi các phạm trù nhận thức giúp cho việc giao tiếp trở nên khả thi, một truyền thống được thể hiện, trong xã hội học bởi Émile Durkheim và Marcel Mauss trong bài viết “De quelques formes primitives de classifications/Về một số hình thức phân loại nguyên thủy” (1903), và trong triết học bởi triết lý về các hình thái biểu tượng của Ernst Cassirer. Sự phê phán tương tự đối với chủ nghĩa kinh nghiệm làm nền tảng cho giả thuyết duy văn hóa của Edward Sapir và Benjamin Lee Whorf về vai trò quyết định của ngôn ngữ trong nhận thức (được gọi là “giả thuyết Sapir-Whorf”). Những cấu trúc này, mà truyền thống tân Kant nhấn mạnh sức mạnh cấu trúc như một modus operandi/phương thức thao tác làm nền tảng cho sản xuất văn hóa, cũng là những cấu trúc mang tính cấu trúc như phân tích của chủ nghĩa cấu trúc đã chỉ ra bằng cách tập trung vào cái opus operatum/tác phẩm như nó được trình bày cho công chúng. Chính đặc điểm có cấu trúc này cho phép giải mã chúng: các hệ thống biểu tượng là công cụ giao tiếp và kiến ​​thức. Những phạm trù này, hình thái hoặc ngôn ngữ được chia sẻ này thiết lập cơ sở cho sự giao tiếp như là một sự chia sẻ về ý nghĩa và sự hiểu biết tức thời về thế giới. Đây là điều mà Durkheim gọi là “chủ nghĩa tuân thủ logic”. Tuy nhiên, Durkheim cũng nhấn mạnh chức năng chính trị của các hệ thống biểu tượng này, thông qua chức năng “sáp nhập xã hội” của chúng: “chúng tạo ra sự đồng thuận khả thi về thế giới xã hội góp phần cơ bản vào việc tái tạo trật tự xã hội”; Bourdieu tóm tắt sự sáp nhập “logic” là điều kiện của sự sáp nhập “đạo đức” [PB 1977e: 408].

Thật vậy, tiếp nối Karl Marx và Max Weber, Bourdieu nhắc lại rằng những phạm trù này không trung lập mà đảm nhận các chức năng tư tưởng và thiết lập nền tảng cho các cơ chế của sự thống trị. Hệ tư tưởng, khác với huyền thoại trong các xã hội không có giai cấp, phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị gây bất lợi cho giai cấp bị thống trị. Nền văn hóa đoàn kết cũng là nền văn hóa chia rẽ, bằng cách phân cấp các nhóm xã hội. Tuy nhiên, đối với Bourdieu, các khái niệm mác xít về “ý thức lệch lạc” (Lukács) hay “bộ máy tư tưởng của Nhà nước” (Althusser) mang tính giản lược và không đủ để giải thích các cơ chế thông qua đó quyền lực biểu tượng được thực thi. Quyền lực biểu tượng không phải chỉ do cán cân quyền lực bất bình đẳng giữa các nhóm, tùy thuộc vào các loại vốn khác nhau. Cách tiếp cận của ông lấy cảm hứng từ lý thuyết về tính chính đáng của Weber, mà Bourdieu sử dụng dưới hình thức phê phán, trong khuôn khổ lý thuyết về sự thống trị mang tính biểu tượng.

Đối với Bourdieu, sức mạnh của quyền lực biểu tượng nằm ở sự sáp nhập của nó vào cơ thể, dưới hình thức các thiên hướng tạo nên tập tính. Sức mạnh này được quan sát thấy đặc biệt trong những trao đổi ngôn ngữ, kết quả của sự gặp gỡ giữa những tập tính ngôn ngữ và các thị trường mang lại ý nghĩa cho chúng, như ông đã thể hiện trong bộ sưu tập Langage et pouvoir symbolique (mà một phiên bản đầu tiên đã được xuất bản vào năm 1982 với tựa đề Ce que parler veut dire). Thật vậy, ngôn ngữ vừa là nơi diễn đạt lẽ thường, tức chính xác là các sơ đồ nhận thức và phân loại được giáo dục khắc sâu, vốn làm nền tảng cho “xu hướng logic theo lề thói”, vừa là nơi của sự tách biệt giữa các nhóm xã hội, giữa kiến ​​thức thiêng liêng và kiến thức phàm tục. Là nơi tương tác giữa tư duy và cơ thể, nó vừa là phương tiện giao tiếp chính vừa là phương tiện thực thi sự thống trị hàng ngày thông qua “bạo lực biểu tượng”. Thế mà, cái bạo lực nhẹ nhàng này được thực thi với sự “đồng lõa mang tính cấu trúc” của kẻ bị thống trị do thực tế là họ chia sẻ các sơ đồ nhận thức và đánh giá của kẻ thống trị, và do đó họ đã sáp nhập sự thấp kém của mình như là điều tự nhiên khi đối mặt với tính chính đáng mà họ thừa nhận nơi những người thống trị. Theo nghĩa này, quyền lực này là “một dạng bái vật giáo” [Sociologie générale 2: 833, 820]. Hiệu quả của bạo lực này là do nó không được công nhận như thế: “Quyền lực biểu tượng là quyền lực cấu thành nên cái là thông qua sự phát biểu, khiến mọi người nhận thấy và tin tưởng, xác nhận hoặc biến đổi quan niệm về thế giới và, do đó, hành động đối với thế giới, và chính thế giới, một sức mạnh gần như kỳ diệu có thể đạt được cái tương đương với những gì có thể đạt được bằng vũ lực (thể chất hoặc kinh tế), nhờ vào tác dụng huy động đặc thù, chỉ được thực thi nếu nó được công nhận và do đó bị không bị coi là độc đoán.” [PB 1977e: 410] Hình thái tiêu biểu nhất của nó là thẩm quyền pháp lý, có được một quyền năng thực hiện vốn có của luật pháp [Méditations pascaliennes: 222].

Sự được mất của đấu tranh

Không thể bị quy giản vào các lợi ích của giai cấp thống trị, quyền lực biểu tượng là sự được mất của quyền lực trong nội bộ của giai cấp thống trị, giữa các bộ phận thống trị (chủ sở hữu vốn kinh tế và chính trị) và các bộ phận bị thống trị (chủ sở hữu vốn văn hóa), và giữa các chuyên gia về sản xuất biểu tượng, đối đầu nhau trong trường sản xuất ý thức hệ để áp đặt và chính đáng hóa định nghĩa của mình về thế giới, thông qua “các công cụ kiến ​​thức và biểu đạt” (phân loại, nguyên tắc phân loại, hệ thống phân cấp, v.v.) [PB 1977e: 409]. Trong bài giảng ngày 26 tháng 5 năm 1982 tại Collège de France, Bourdieu bắt đầu suy ngẫm về "logic đặc thù của các cuộc đấu tranh để phân loại", để hiểu "nền tảng của quyền tự chủ của cuộc đấu tranh này nằm ở đâu, tức là nguyên tắc quyền lực biểu tượng như là quyền tự trị tương đối so với các dạng quyền lực khác, chẳng hạn như quyền lực kinh tế hay quyền lực của bạo lực chỉ mang tính thể chất. Sự được mất trong cuộc đấu tranh về phân loại sản sinh ra sự áp đặt chính đáng về thế giới xã hội, phương thức biểu tượng về thế giới xã hội có khả năng có uy thế và cùng lúc tự xác minh được” [Sociologie générale 1: 112-113] . Những cuộc đấu tranh này, để giành “sự độc quyền của bạo lực biểu tượng chính đáng”, được phân xử bởi Nhà nước [SG 2: 702], vốn là chủ thể nắm giữ nó, như Bourdieu đã định nghĩa trong bài giảng ngày 16 tháng 6 năm 1982 [SG 1: 186] sau đó trong khóa học Sur l’État từ năm 1989. Nếu “quyền lực biểu tượng phi thường nhất là nói lên cái gì là cái gì” [SG 2: 141], thì quyền lực biểu tượng, với tư cách là một quyền lực huy động, cũng là điều có thể góp phần phi tự nhiên hóa các phân loại và biểu tượng thống trị, bằng cách bộc lộ tính độc đoán của chúng và bằng cách khuyến khích những người bị thống trị “nâng cao khát vọng của họ” vượt lên trên những cơ may khách quan của họ. Tuy nhiên, sự thao túng như vậy của các nhà lãnh đạo chính trị và các bộ máy công đoàn, đặc biệt là trong những thời điểm khủng hoảng, có thể khiến những khát vọng này trở nên “điên rồ, nguy hiểm, không tưởng theo thuyết ngàn năm, và có tính tự sát” [SG 2: 308]. Bởi vì quyền lực biểu tượng vẫn là một quyền lực bị thống trị, sự chuyển đổi các biểu tượng về các cơ may phải dẫn đến hành động biến đổi những cơ may này một cách khách quan: “Quyền lực biểu tượng chỉ có thể thực sự biến đổi các cấu trúc thông qua sự huy động mà nó tạo ra bằng cách biến các hành động bị ngầm loại bỏ như là những hành động không thể hình dung được, tức là những hành động bất khả thi, thành những hành động có thể hình dung được.” [SG 2: 309] Xã hội học tham gia vào những cuộc đấu tranh này trong khi vẫn duy trì tính đứng ở bên ngoài bằng cách mô tả chúng [SG 2: 703].

Gisèle Sapiro

Giám đốc nghiên cứu tại CNRS và tại EHESS

CHÚ THÍCH:

1997 [MP] Méditations pascaliennes, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2003.

1988 [OPMH] L’Ontologie politique de Martin Heidegger, Paris, Minuit.

2012 [SÉ] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

2015 [SG 1] Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et all., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

2016 [SG 2] Sociologie générale, vol. 2, éd. établie par P. Champagne et J. Duval, avec la collaboration de F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

[PB 1977e] “Sur le pouvoir symbolique”, Annales. Économies, Sociétés, Civilisations, vol. 32, no 3, p. 405-411.

ALTHUSSER, APPAREIL, AUTORITÉ, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CAPITAL POLITIQUE, CAPITAL SYMBOLIQUE, CASSIRER, CATÉGORIE(S), CHAMP, CHAMP DE PRODUCTION IDÉOLOGIQUE, CLASSE(S), CLASSE(S) DOMINANTE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), COMMUNICATION, CORPS, CRISE, CULTURE, DISPOSITION(S), DIVISION DU TRAVAIL, DOMINATION, DROIT, DUBY, DURKHEIM, ÉTAT, FAUSSE CONSCIENCE, FÉTICHE, FORCE, HABITUS, HIÉRARCHIE, IDÉOLOGIE, IMPOSITION, INTÉGRATION, INTÉRIORISATION, LANGAGE ET POUVOIR SYMBOLIQUE, LANGUE, LÉGITIMATION, LOGIQUE(S), LUTTE(S), MAI 68, MARXISME, MAUSS, MÉCONNAISSANCE, MODUS OPERANDI, OPUS OPERATUM, ORDRE SOCIAL, PERCEPTION, PERFORMATIF, RECONNAISSANCE, REPRÉSENTATION(S), SCHÈME(S), SOCIOLOGIE GÉNÉRALE, STRUCTURE(S), SUR L’ÉTAT, SYSTÈME, TRANSFORMATION(S), VIOLENCE SYMBOLIQUE, VISION DU MONDE, WEBER

Phạm Như Hồ dịch

Nguồn: Dictionnaire international Bourdieu, CNRS É ditions, Paris, 2020.

Print Friendly and PDF