10.10.18

Khí hậu: những năm sắp tới là những năm quan trọng nhất trong lịch sử chúng ta

PTKT: Cùng ngày với việc Williams Nordhauss được giải khoa học kinh tế của Ngân hàng Thuỵ Điển để tưởng nhớ Nobel, Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) trong báo cáo mới nhất cảnh báo thế giới về những thảm hoạ đang chờ nhân loại nếu không cương quyết hành động. Có thể tham khảo những bài PTKT đã đăng về biến đổi khí hậu tại đây.

ĐIỀU MÀ TÌNH TRẠNG KHÍ HẬU NÓNG LÊN Ở MỨC 1,5°C CÓ THỂ CỨU VÃN ĐƯỢC, THEO BÁO CÁO CỦA IPCC

Đó là mục tiêu đã được hội nghị COP 21 ấn định. Các nhà khoa học giờ đây đều biết điều gì sẽ xảy ra nếu đạt được mức đó... và nếu vượt mức đó.
ANDREYAKAZAKOV VIA GETTY IMAGES
Gần ba năm trước, tại hội nghị COP 21 [Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu 2015], 195 quốc gia đã ký Thỏa thuận Paris lịch sử. Họ cam kết hạn chế tình trạng khí hậu nóng lên “bên này ngưỡng 2°C” và “nỗ lực hạn chế tình trạng đó ở mức 1,5°C”.
Ngoại trừ vào thời điểm đó, chúng ta thực sự không biết cam kết đó hàm ý điều gì. Nói thực, cho dù đó là điều tốt hơn, thì chúng ta cũng không biết rõ điều đó sẽ làm giảm những hậu quả thê thảm của tình trạng khí hậu nóng lên đến mức nào. Cũng chẳng biết việc giới hạn ở mức 1,5°C có khả thi hay không. Vì thế, các quốc gia đã yêu cầu ủy ban IPCC [Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu], một cơ quan quốc tế tập hợp hàng ngàn nhà khoa học, nghiên cứu vấn đề này.
Báo cáo của họ được công bố vào hôm thứ hai này, ngày 8 tháng 10 [năm 2018]. Theo đó chúng ta biết rằng các hoạt động của con người đã gây ra tình trạng khí hậu tăng 1°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Nếu không có gì thay đổi, thì nhiệt độ trung bình sẽ tăng 1,5°C vào khoảng năm 2040. Nếu vượt quá mức 1,5°C, thì một số tác động sẽ “mang tính dài hạn hoặc không thể đảo ngược”, chẳng hạn như việc một số hệ sinh thái sẽ biến mất.
Tài liệu đã được các nước phê chuẩn vào hôm Thứ Bảy, bất chấp nỗ lực ngăn chặn của một số quốc gia, đặc biệt là Ả Rập Xê Út. “Trong báo cáo trước đây, không có sự khác biệt rõ ràng về tình trạng khí hậu nóng lên ở mức 1,5° hoặc 2°C”, theo lời giải thích của Joel Guiot, một trong những tác giả của tài liệu, một nhà nghiên cứu về cổ khí hậu học tại CNRS, cho trang mạng HuffPost.
Một vực thẳm 0,5 độ với những hậu quả rất cụ thể
Nhưng kể từ khi mục tiêu này đã được ấn định, các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đã bắt đầu nghiên cứu vấn đề một cách rất cụ thể. Khi lột bóc khoảng 6.000 nghiên cứu, các thành viên của ủy ban IPCC đã tóm tắt sự đồng thuận khoa học trên ba vấn đề.
Thứ nhất, thế giới sẽ trông như thế nào khi nhiệt độ tăng cao hơn 1,5°C hoặc 2°C. Kế đến là làm thế nào để hạn chế tình trạng khí hậu nóng lên ở mức 1,5°C: cả về mặt khoa học (thực hiện dạng giảm phát thải khí nhà kính nào, v.v.), lẫn kinh tế (những giải pháp thay đổi nào có thể cho phép thực hiện những giảm thiểu nói trên).
Trên hai vấn đề nói trên, các chuyên gia của IPCC bị giội cho gáo nước lạnh một cách hứng thú: kết quả hoàn toàn không mấy phấn khởi. Hiện tại, những cam kết của nhiều quốc gia khác nhau đã đẩy khí hậu tăng lên 3°C. Để khí hậu không vượt mức 1,5°C, thì việc phát thải khí nhà kính phải giảm 45% vào năm 2030 so với năm 2010 và phải bằng không từ nay đến năm 2050. Điều này hàm ý thực hiện những thay đổi về mặt công nghiệp, kinh tế và xã hội “chưa từng có tiền lệ về mặt quy mô, nhưng không nhất thiết về mặt thời gian”.
Một thách thức khổng lồ ở phạm vi toàn cầu, nhưng sẽ có những hiệu ứng rất rõ rệt, như nhắc nhở của ủy ban IPCC. Thực vậy, trong phần tóm tắt của báo cáo, chúng ta thấy có rất nhiều yếu tố giúp hiểu được những gì chúng ta có thể cứu vãn với một thế giới khi khí hậu tăng ở mức 1,5°C (và thật không may, không thể hết được). Và những gì chúng ta sẽ mất mát với một thế giới khi khí hậu tăng ở mức 2°C (chưa nói đến quỹ đạo hiện tại, thậm chí còn thảm khốc hơn). Dưới đây là một vài ví dụ cụ thể.
Sóng nhiệt và biến đổi khí hậu
Tình trạng nhiệt độ tăng tột bực, chẳng hạn như các đợt sóng nhiệt, sẽ cao hơn mức trung bình 3°C đối với tình trạng khí hậu nóng lên ở mức 1,5°C và sẽ cao hơn mức 4°C nếu khí hậu nóng lên ở mức 2°C. Ngoài ra, số ngày khí hậu rất nóng sẽ tăng ở hầu hết các vùng miền, đặc biệt ở các vùng nhiệt đới.
Các nguy cơ hạn hán, cũng như mưa lũ cực lớn ở bán cầu bắc và sự xuất hiện của hiện tượng lốc xoáy cũng tăng lên.
Mực nước biển
Joel Guiot (1953-)
Mực nước biển sẽ giảm 10 cm. Joel Guiot cho biết: “Đó là một mức giảm khoảng 20%, điều này có nghĩa là sẽ có thêm 10 triệu người bị ảnh hưởng bởi kịch bản nhiệt độ tăng lên 2°C”.
Vả lại chính vì để bảo vệ người dân sống ở các đảo và ở các vùng ngập lụt mà các quốc gia đã cam kết, tại hội nghị COP 21, nỗ lực hạn chế tình trạng khí hậu nóng lên ở mức 1,5°C thay vì 2°C như đã dự kiến lúc ban đầu.
Quần thể dân cư dễ bị tổn thương
"Việc giới hạn tình trạng khí hậu nóng lên ở mức 1,5°C, so với mức 2°C, có thể làm giảm số người phải đối mặt với những rủi ro liên quan đến khí hậu và nghèo đói lên đến nhiều trăm triệu người từ nay đến năm 2050,” các tác giả của báo cáo cho biết.
Việc tiếp xúc với nạn ô nhiễm không khí, ozone, sóng nhiệt, sốt rét và sốt xuất huyết cũng giảm theo.
Thiếu nước
Việc duy trì tình trạng khí hậu nóng thêm 1,5°C sẽ giúp làm giảm số người bị thiếu nước xuống 50%, dù con số nói trên có thể biến động rất lớn tùy theo vùng miền.
Ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh học
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng nhiều nghiên cứu phân tích đối với hơn 100.000 chủng loài. Với tình trạng khí hậu nóng lên thêm 2°C thay vì 1,5°C, thì gấp ba lần số côn trùng, gấp đôi số thực vật và động vật có xương sống sẽ mất đi hơn một nửa môi trường sinh sống của chúng.
Nói chung, chúng ta sẽ chứng kiến hệ sinh thái của ít nhất 50% đất đai bị điều chỉnh, nếu quản lý được việc hạn chế tình trạng khí hậu nóng thêm 1,5°C.
Tầng đất đóng băng vĩnh cửu
Tầng đất đóng băng vĩnh cửu [pergélisol trong tiếng Pháp, hay permafrost trong tiếng Anh] có thể bị đặc biệt ảnh hưởng bởi tình trạng khí hậu nóng lên. Những nơi này, khi tầng đất đóng băng quanh năm, nằm ở miền bắc hành tinh, chiếm 14 triệu km vuông. Và chúng đang tan chảy. Joel Guiot giải thích: “Chúng ta có thể cứu thêm 2 triệu km vuông không bị tan chảy, nếu duy trì được tình trạng khí hậu nóng lên ở mức dưới 1,5°C”.
Điều này rất quan trọng bởi vì “sự tan chảy của tầng đất đóng băng vĩnh cửu rất tiềm tàng nguy hiểm, bởi vì điều đó có thể dẫn đến việc giải phóng khí nhà kính được lưu trữ trong tầng đất”. Điều này sẽ càng làm cho tình trạng khí hậu nóng lên càng trầm trọng thêm.
Băng tan ở Bắc Cực
Băng tan ở Bắc Cực là một vấn đề quan tâm thường xuyên và có thể dẫn đến các thảm họa khác. Với tình trạng khí hậu nóng lên thêm 2°C, Bắc Băng Dương sẽ tan chảy hoàn toàn vào mùa hè (tất cả hoặc hầu như tất cả băng sẽ tan chảy) khoảng một lần mỗi 10 năm. Với kịch bản khí hậu nóng lên thêm 1,5°C, thì chu kỳ nói trên sẽ là bình quân một lần mỗi 100 năm.
Rạn san hô
Ở đây, chúng ta chủ yếu nói đến việc tránh điều tồi tệ nhất. Nếu tình trạng khí hậu nóng lên thêm 2°C, thì 99% các rạn san hô sẽ bị phá hủy. Nếu chúng ta quản lý không để vượt quá mức 1,5°C, thì chỉ có từ 70 đến 90% các rạn san hô sẽ biến mất.
Ngư nghiệp và nông nghiệp
Gregory Rozieres
Sự gia tăng nhiệt độ và độ axit của các đại dương từ sự gia tăng nhiệt độ đó cũng gây ra nhiều rủi ro cho cá. Và như vậy, rủi ro cho nghề đánh bắt cá và thực phẩm toàn cầu. Một lần nữa, tình trạng khí hậu nóng lên thêm 1,5°C thay vì 2°C sẽ giúp làm giảm phần nào các hiệu ứng này.
Một trong những mô hình được ủy ban IPCC đưa ra ước tính có 3 triệu tấn cá sẽ bị mất với kịch bản khí hậu nóng lên thêm 2°C, so với 1,5 triệu tấn cá bị mất với kịch bản khí hậu nóng lên ở mức 1,5°C.
Nhìn chung, mức độ sụt giảm của ngành sản xuất nông nghiệp sẽ càng nghiêm trọng hơn trong bối cảnh khí hậu nóng lên thêm 2°C.
Gregory Rozieres
Nhà báo về khoa học và công nghệ, phụ trách mục C'est Demain
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Illustration of temperature rise over time with uncertain future projections to 1,5°C or 2°C.

TẠI SAO ẤM LÊN NỬA ĐỘ TRÊN TOÀN CẦU LÀ CẢ MỘT VẤN ĐỀ LỚN

Trái đt đã m lên 1°C (1,8°F) k t thế k 19. Bây gi, mt báo cáo chính mi ca Liên Hip Quc đã xem xét các hu qu ca vic nhit đ nhy thêm 1,5 hoc 2°C nữa.
Na đ có th không có v nhiu. Nhưng như chi tiết báo cáo, ngay c s m lên đó có th khiến hàng chc triu người trên trái đt b các cơn sóng nhit, thiếu nước và ngp lt ven bin đe da đến tính mng. Na đ có th có nghĩa là s khác bit gia mt thế gii với các rn san hô và hin tưng băng bin mùa hè Bc Cc với mt thế gii không có chúng.

Bắc cực

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/01-Arctic-melting.gif
Tình trạng băng biển mùa hè Bắc Cực:
1,5°C
Hiện tượng băng biển sẽ vẫn còn trong hầu hết các mùa hè
2°C
Khả năng mùa hè không có băng cao gấp 10 lần
Na đ m lên thêm có th có nghĩa là tn tht môi trường sng ln hơn đi vi các loài gu Bc cc, cá voi, hi cu và chim bin. Tuy nhiên nhit đ m lên cũng có th có li cho nghề đánh bắt cá Bc Cc.

Nóng tột độ

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/Heat-wave-edit.gif
Số người trên thế giới hứng chịu các cơn sóng nhiệt nghiêm trọng (giống như đợt sóng bao trùm khu vực Đông Nam Châu Âu vào năm 2007) ít nhất cứ mỗi 5 năm 1 lần:
1,5°C
Khoảng 14% dân số thế giới
2°C
Khoảng 37% dân số thế giới
Cái nóng tột đs lan rộng hơn trên trái đt khi qu đt m lên 2°C so vi 1,5°C, trong đó các vùng nhit đi tri qua s gia tăng s ngày nóng “rt bt thường” ln nht.

Khan hiếm nước

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/Water.gif
Số người trong đô thị tăng thêm hứng chịu nạn hạn hán nghiêm trọng:
1,5°C
+350 triệu người trên trái đất
2°C
+411 triệu người trên trái đất

Khu vc Đa Trung Hi được kì vng s cho thy “s gia tăng mc độ khô hn mnh đc bit” khi thế gii m lên 2°C so vi 1,5°C.

Thực vật và động vật

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/Habitat-loss-2.gif
Các loài [động thực vật] sẽ mất thêm hơn một nửa phạm vi hoạt động của chúng [khi quả đất ấm lên 2°C so vi 1,5°C]:
1,5°C
6% côn trùng
8% cây
4% động vật có xương sống
2°C
18% côn trùng
16% cây
8% động vật có xương sống

Rạn san hô

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/Coral-reefs.gif
Tình trạng của các rạn san hô trên trái đất:
1,5°C
"hiện tượng san hô chết hàng loạt xảy ra rất thường xuyên"
2°C
Các rạn san hô “hầu như biến mất”

Mực nước biển tăng

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/Sea-level-edit.gif
Số người hứng chịu lũ lụt từ mực nước biển dâng cao vào năm 2100 (không thích nghi):
1,5°C
31 đến 69 triệu người trên trái đất
2°C
32 đến 80 triệu người trên trái đất
Na đ m lên có th có ý nghĩa [tiêu cc] đi vi các quc đo nhỏ bé, đc bit d b nh hưởng bi mc nước bin dâng cao và các tác đng ca biến đi khí hu khác.

Cây trồng

https://static01.nyt.com/newsgraphics/2018/09/28/ipcc-1-5-report/160f16aea85341d46e2200746d961c3be9b7e331/Crops.gif
Năng sut cây trng trên toàn cu d kiến ​​s thp hơn khi qu đt m lên 2°C so vi 1,5°C, đc bit là khu vc cn Sahara ca châu Phi, Đông Nam Á, cũng như ở khu vc Trung và Nam M.

Thay đổi nhỏ, tác động lớn

Báo cáo t Hi đng Liên Chính ph v Biến đi khí hu, do hàng trăm các nhà khoa hc t khp nơi trên thế gii biên son, cnh báo rng nhng mi nguy him này không còn xa hay mang tính gi thuyết na.
Các quc gia đã trì hoãn vic ct gim lượng khí thi nhà kính ca h quá lâu đến mc làm cho vic qu đt m lên 1,5°C (2,7°F) hin gi là gn như không th tránh khi. Vi tc độ ấm lên hin ti, thế gii s có kh năng vượt qua ngưỡng 1,5 đ từ nhng năm 2030 đến năm 2052, cũng nm trong vòng đi ca hu hết người ln và tr em còn sng ngày nay.
Và [kch bn qu đt m lên] 1,5 đlà kch bn tình hung-tt nht. Nếu không có s can thip cc nhanh và có lẽ là phi thc tế, tc làm cho qu đt gim lượng khí thi nhiên liu hóa thch xung mc không và loi b khí carbon dioxide [CO2] ra khi khí quyn, thì [kch bn qu đt m lên] 2°C (3,6°F) hoc cao hơn trong thế k này trông có v d xy ra hơn.
Mi khi trái đt m lên thêm na đ, các tác đng không đng đu s din ra trên khp hành tinh này. Mt s khu vc, chng hn như Bc Cc, s m lên nhanh gp 2-3 ln [so vi các khu vc khác]. Có th thy các khu vc Đa Trung Hi và Trung Đông lượng nước st gim 9% khi quả đất ấm lên 1,5 đ và st gim 17% khi ấm lên 2 đ, theo mt nghiên cu chính được trích dn trong báo cáo trên.
Carl-Friedrich Schleussner, người đng đu ngành Khoa hc Khí hu và các Tác đng ti Vin Climate Analytics [Phân tích Khí hu] và cũng là tác gi chính ca nghiên cu đó, nói: “Nếu bn đang nhìn vào khu vc này, vn đã khan hiếm nước và có nhiu bt n chính tr, na đ là đã to ra s khác bit rt ln. “Đó là mt li nhc nhtt lành rng không ai có tri nghim về [sự gia tăng] nhit đ trung bình toàn cu.”
Sự chênh lệch ca các hiện tượng thi tiết khc nghit như các cơn sóng nhit nghiêm trng hoc nhng trn mưa bão mnh cũng không tăng lên ging nhau khi tăng thêm na đ. Ví d, trên khp thế gii s ngày cc nóng có xu hướng tăng theo cp s nhân khi nhit đ trung bình toàn cu tăng lên.

Rủi ro về điểm bùng phát

Báo cáo trên cũng nhn mnh kh năng rng thm chí mt sự m lên va phi có th thúc đy c xã hi loài người và h sinh thái t nhiên vượt qua các ngưỡng nht đnh, khi đó nhng thay đi bt ng và tai hi có th xy ra.
Hãy nhìn vào các rn san hô, nơi cung cp thc phm và bo v b bin cho na t người trên trái đt. Trước nhng năm 1970, hu như chưa tng nghe thy rng nhit đ đi dương m lên đến ni nhng đám san hô sẽ bị ty trng và chết đi. Nhưng khi nhit đ trung bình toàn cu tăng thêm na đ trong khong thi gian đó, nhng hin tượng ty trng này đã tr thành hin tượng thường xuyên.
Vi s m lên na đ trên mc hin nay, báo cáo trên cho biết, các rn san hô nhit đi s phi đi mt vi “hin tượng san hô chết hàng lot rt thường xuyên”, mc dù mt s loi san hô có th thích nghi nếu đ thi gian. Nhưng khi toàn bộ quả đất ấm lên 2 đ, các rn san hô có nguy cơ biến mt hoàn toàn.
Không chc chn là khi nào nhng đim bùng phát đáng s khác s xy ra, chng hn như s tan rã không th đo ngược ca nhng tng băng ln trên đnh Greenland [Đan Mch] hay Tây Nam Cc. Nhưng báo cáo trên cnh báo rng nhng di băng này có th bt đu gây bt n khi quả đất m lên t 1,5 đến 2 đ, khiến mc nước bin trên thế gii dâng cao thêm vài feet trong nhiu thế k ti.
Báo cáo trên cũng cnh báo rng các khu vc d b tn thương, như nhiu nước châu Phi và các quc đo nh, có th phi vt ln đ đi phó vi nhiu tác đng. Như đi phó via màng tht bát, các cơn sóng nhit và s lan rng ca mui st rét khi chúng cùng hoành hành.
Kristie L. Ebi, giáo sư v Sc khe Cng đng ti Đi hc Washington và cũng là mt trong nhng tác gi chính ca mt chương v tác đng ca khí hu trong báo cáo trên, cho biết: Bn không ch thích nghi vi tng th mt, mà bn còn phi thích ng vi mi th thay đi cùng mt lúc.

Vượt khỏi 1,5 độ

Ti các cuc đàm phán v khí hu ca Liên Hp Quc ti Paris vào năm 2015, các nước ha hn s kìm giữ sự ấm lên của quả đất mc dưới 2 đvà đng ý theo đui các n lc đ hn chế s m lên 1,5 độ của quả đất. Lãnh đo ca các quc đo nh, như Qun đo Marshall và Maldives, cho rng mc tiêu [kìm giữ ở mức] thp hơn [tc hn chế s m lên 1,5 độ của quả đất] là cn thiết cho s sng còn ca h.
Ti thi đim này, tuy nhiên, c hai mc tiêu đu đang bt đu rt xa tm tay. Nếu bn thêm tt c các cam kết quc gia được đưa ra ti hi nghParis đ hn chế lượng khí thi, h s đưa thế gii đi đúng hướng m lên khong 3°C hoc hơn.
Gi quả đất m lên 1,5 đ, báo cáo trên cho biết, s đòi hi mt s chuyn đi đáng kinh ngc ca h thng năng lượng toàn cu ngoài nhng gì mà các nhà lãnh đo thế gii đang d tính hin nay. Sự phát thi khí nhà kính toàn cu s cn phi ct gim mt na ch trong 12 năm và xung mc không trước năm 2050. Đ giữ [quả đất m lên] dưới 2 đ, lượng khí thi phi gim xung mức không vào khong năm 2075. Hu như tt c các nhà máy than và các phương tin đt xăng trên hành tinh này s cn phi nhanh chóng được thay thế bng các la chn không-carbon.
Ngoài ra, báo cáo trên còn cho biết, thế gii s phi nhanh chóng phát trin và trin khai công ngh đ loi b hàng t tn khí carbon dioxide [CO2] ra khi khí quyn mi năm - s dng công nghệ đến nay vn chưa được kim tra quy mô ln.
Gary Yohe, mt nhà kinh tế môi trường ti Đi hc Wesleyan, nói “Quan đim ca tôi là [giữ quả đất m lên] 2 đlà khát vng và [giữ quả đất m lên] 1,5 đnc cười thay cũng là khát vng”. “Chúng là nhng mc tiêu tt đ nhm ti, nhưng chúng ta cn phi đi mt vi thc tế là chúng ta có th không đt được nhng mc tiêu này và chúng ta hãy bt đu suy nghĩ nghiêm túc hơn v tình hung khi qu đt m lên 2,5 đ hay 3 đ thì thế gii này có th trông như thế nào.”
----

V các tác gi

Brad Plumer
Nadja Popovich
Brad Plumer
Brad Plumer là mt phóng viên ph trách về các vấn đề biến đi khí hu, chính sách năng lượng và các vn đ môi trường khác cho nhóm phóng viên v khí hu ca t New York Times.
Nadja Popovich
Nadja Popovich là mt phóng viên và biên tp viên đ ha trong nhóm phóng viên v khí hu ca t New York Times.
Nguyn Vit Anh dch
Ngun: Why Half a Degree of Global Warming Is a Big Deal, Nytimes, Oct. 7, 2018.
 - - -

KHÍ HẬU: “NHỮNG NĂM SẮP TỚI SẼ LÀ NHỮNG NĂM QUAN TRỌNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ CỦA CHÚNG TA”

VIDEO. Báo cáo của ủy ban IPCC [Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu] nêu chi tiết về những rủi ro của tình trạng khí hậu nóng lên vượt mức 1,5°C, và kêu gọi một sự thay đổi nhanh chóng và “chưa từng có tiền lệ”.
Nguồn AFP

Thế giới sẽ phải tiến hành những biến đổi “nhanh chóng” và “chưa từng có tiền lệ” nếu muốn hạn chế tình trạng khí hậu nóng lên ở mức 1,5°C, các chuyên gia về khí hậu của LHQ (IPCC) nhấn mạnh, cảnh báo về những rủi ro dồn dập nếu vượt quá ngưỡng trên. Trong một báo cáo dài 400 trang, trong đó “bản tóm tắt gửi đến cho các nhà hoạch định chính sách” đã được công bố vào hôm thứ Hai, 8 Tháng 10, các nhà khoa học đã trình bày nhiều tác động đã diễn ra, và đặc biệt là mối đe dọa về tình trạng khí hậu nóng lên vượt quá 1,5°C (so với mức của thời kỳ tiền công nghiệp): nạn sóng nhiệt, sự tuyệt chủng của các chủng loài hoặc sự bất ổn của các vùng bán cầu băng cực, nguồn gốc của việc mực nước các đại dương tăng lên trong dài hạn.
Hans-Otto Pörtner
Mỗi độ khí hậu tăng thêm đều được coi trọng, đặc biệt là khi vượt quá 1,5°C sẽ làm tăng nguy cơ những thay đổi sâu sắc, thậm chí không thể đảo ngược, chẳng hạn như sự biến mất của một số hệ sinh thái”, theo giải thích của Hans-Otto Pörtner, đồng chủ tịch một phiên họp của ủy ban IPCC, một tổ chức tập hợp các nhà nghiên cứu và đại diện của các nước, vào tuần trước tại Hàn Quốc. Nếu thủy ngân tiếp tục tăng lên với tốc độ hiện tại, và dưới tác động của lượng phát thải khí nhà kính, nhiệt độ khí hậu sẽ đạt mức + 1,5°C từ năm 2030 đến năm 2052, theo báo cáo, dựa trên hơn 6.000 nghiên cứu. Và nếu các nước giữ lời giảm thiểu lượng phát thải [khí nhà kính] của họ trong khuôn khổ của thỏa thuận Paris vào năm 2015, thì nhiệt độ khí hậu sẽ là + 3°C vào cuối thế kỷ này.
Thế nên cần phải làm gì, trong khi năm 2017 vẫn còn chứng kiến ​​sự tăng trở lại lượng phát thải toàn cầu [khí nhà kính] gắn với nguồn năng lượngĐối với ủy ban IPCC, để duy trì mức 1,5°C, lượng khí thải CO2 phải giảm đáng kể từ nay đến trước năm 2030 (– 45% từ nay đến năm 2030) và thế giới phải đạt “mức cacbon trung lập vào năm 2050 (nói cách khác, cần phải ngăn chặn việc đưa thêm CO2 vào khí quyển nhiều hơn mức có thể loại bỏ).
“Tính khả thi
Valérie Masson-Delmotte
Các thành phố, các ngành công nghiệp, ngành năng lượng, ngành xây dựng... Tất cả các lĩnh vực đều được kêu gọi bắt tay vào việc “giảm sâu lượng phát thải [khí nhà kính]”: việc duy trì mức 1,5°C yêu cầu “một sự chuyển đổi nhanh chóng và một quy mô “chưa từng có”. Ủy ban IPCC nhấn mạnh đến ngành năng lượng – than đá, khí đốt, dầu hỏa, những thứ chịu trách nhiệm cho ba phần tư lượng phát thải [khí nhà kính]. Và đề xuất nhiều kịch bản được lượng hoá, kết hợp nhiều hành động khác nhau.Báo cáo gửi đến cho các nhà hoạch định chính sách những thông tin cần thiết để họ có thể đưa ra quyết định mà vẫn tính đến nhu cầu của dân cư, theo giải thích của bà Debra Roberts, người Nam Phi, một đồng chủ tịch khác của phiên họp này.Những năm sắp tới sẽ là những năm quan trọng nhất trong lịch sử của chúng ta”, bà nói.
Đối với nhà nữ khí hậu học Valérie Masson-Delmotte, cũng có mặt ở Incheon, báo cáo là “một nhận định sáng suốt và khó khăn: chính sách các bước nhỏ là không đủ”. “Báo cáo nói với chúng ta rằng: Nếu không hành động ngay bây giờ, thì chúng ta sẽ tiến đến một thế giới mà chúng ta sẽ phải quản lý khủng hoảng triền miên”, bà nói.Đã có những hành động đang diễn ra trên thế giới, nhưng cần phải tăng tốc lên. Câu hỏi thực về tính khả thi là câu này: liệu con người có sẵn lòng hành động chưa, và liệu có đủ ý chí chính trị tập thể chưa?”
“Liệu chúng ta có đến đích kịp thời không?”
Jim Skea (1953-)
Chúng tôi đã tìm xem liệu đã tập hợp đủ những điều kiện cần thiết để duy trì mức 1,5°C chưa”, theo lời tóm tắt của Jim Skea thuộc trường Imperial College of London.Vâng có đủ, các định luật về vật lý học và hóa học, cũng như các công nghệ, sự thay đổi lối sống và các nguồn đầu tư. Điều cuối cùng mà các nhà khoa học không thể trả lời là, liệu nó có khả thi về mặt chính trị và định chế hay không. Chúng tôi đã gửi thông điệp đến chính phủ các nước, chúng tôi đã cung cấp bằng chứng cho họ, để họ xem.” Liên minh các quốc đảo nhỏ, đi đầu trong cuộc chiến để ấn định mục tiêu 1,5 trong thỏa thuận Paris, vào hôm thứ hai, đã kêu gọi “các quốc gia văn minh có trách nhiệm [nhiều hơn] trong việc nâng cao nỗ lực giảm thiểu lượng phát thải [khí nhà kính].
Bản báo cáo chỉ ra rằng chúng ta chỉ còn có một cơ hội, mong manh nhất, để tránh những thiệt hại không thể tưởng tượng được đối với hệ thống khí hậu đang cho chúng ta sống,” Amjad Abdulla nói, “tin rằng các nhà sử học sẽ xem xét những kết luận này như là một thời điểm quyết định trong lịch sử con người”.Liệu chúng ta có đến đích kịp thời không? Không ai biết được,” theo lời của Kaisa Kosonen, người phụ trách vấn đề khí hậu của tổ chức Greenpeace.Giờ đây, điều quan trọng là liệu chúng ta có quyết định thử nghiệm không và có đặt thành mục tiêu ưu tiên không. Chỉ khi đó, chúng ta mới có cơ hội tự bảo vệ mình khỏi những tác động mà khoa học đã báo hiệu cho chúng ta.”
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Print Friendly and PDF