CÔNG TRÌNH CỦA ADAM SMITH CÓ THỂ GIÚP GIẢI QUYẾT
KHOẢNG CÁCH KỸ NĂNG CỦA VƯƠNG QUỐC ANH RA SAO
Một bức tượng của Adam Smith tại Đại học Glasgow. Đại học Glasgow, ảnh Tác giả cung cấp |
Việc
giải quyết vấn đề năng suất của Vương quốc Anh sẽ đòi hỏi đầu tư công dài hạn
vào giáo dục chất lượng nhằm thu hẹp khoảng cách kỹ năng và thúc đẩy bình đẳng
– một kế hoạch mà nhà kinh tế học thế kỷ 18 Adam Smith chắc chắn sẽ đồng ý.
Smith
– người mà chúng ta
làm kỷ niệm 300 năm trong năm nay – là người tiên phong về kinh tế học. Ông
là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất mà thế giới từng chứng kiến và là
cựu sinh viên của Đại học Glasgow. Adam Smith đã gắn liền với giáo dục
trong suốt cuộc đời của mình; đầu tiên, với tư cách là một học sinh tại
Glasgow ở tuổi 14, và sau đó là một giảng viên, giáo sư, Praeses (phó
hiệu trưởng không chính thức) và hiệu trưởng của trường đại học.
Tác phẩm vĩ đại đầu tiên của Smith, Lý thuyết về những tình cảm đạo đức (1759), đặt nền tảng triết học cho kiệt tác của ông, cuốn sách Của cải của các dân tộc (1776). Mặc dù đôi khi cuốn sách này được mô tả một cách sai trái như thể nó lập luận rằng thị trường nên hoạt động theo lối không bị kiểm soát, nhưng đây là một đóng góp tinh tế hơn nhiều cho tư duy kinh tế.
Tác
phẩm nhấn mạnh cách chuyên môn hóa lao động – tức là khi một công nhân tập
trung vào việc phát triển một kỹ năng cốt lõi – là chìa khóa để thúc đẩy cái mà
ngày nay chúng ta hiểu là “năng suất” và sự thịnh vượng công nghiệp. Nó giải
thích làm thế nào hành vi tư lợi có thể dẫn đến hoạt động hiệu quả của thị trường
từ quan điểm của xã hội. Nó cũng thảo luận về những ràng buộc đối với
thương mại tự do, chẳng hạn như thuế quan và các rào cản thương mại khác, mang
lại lợi ích cho người bán chứ không phải cho người tiêu dùng.
Bất
chấp những thực tế rất khác của giáo dục hồi thế kỷ 18 (so với hiện nay), Smith
có lẽ sẽ có nhiều nhận xét về hệ thống giáo dục ngày nay và làm thế nào các trường
đại học có thể giải quyết các vấn đề từ khả năng tiếp cận, việc cung cấp dịch vụ
công, khoảng cách kỹ năng, cho đến thách thức kinh tế rộng lớn hơn là năng suất
kém.
Hãy
xem xét về khả năng tiếp cận giáo dục. Người cố vấn của Smith, Francis Hutcheson, đã
vận động để các lớp học tại Đại học Glasgow được dạy bằng tiếng Anh thay vì
tiếng La-tinh. Và sự
đồng thuận chung giữa các học giả nghiên cứu về Smith là Smith ủng hộ
đóng góp của khu vực công cho giáo dục, mặc dù vào thế kỷ 18, điều này liên
quan đến việc cung cấp giáo dục tiểu học.
Smith
cũng biện
hộ cho giáo dục phổ cập. Ông tin rằng, để bù đắp những tác động có hại
của sự tha hóa do phân công lao động gây ra, giáo dục phải mở ra cho tất cả người
lao động.
Trong
suốt cuộc đời mình, Smith đã chứng kiến những cải cách đối với giáo dục đại
học ở Glasgow: bổ nhiệm các giáo sư luật mới, các trường y mới và mở rộng sang
các môn học mới như hóa học và thực vật học. Điều này đã kích hoạt thời kỳ Khai
sáng Scotland, đặt nền móng cho một số phát minh vĩ đại nhất mà loài người
chưa từng thấy trước đó.
Smith
hiểu tầm quan trọng của đổi mới công nghệ trong việc thúc đẩy cải tiến kinh tế
này. Ông ấy là người cùng thời với James Watt, một nhà
sản xuất nhạc cụ tại Đại học Glasgow, người đã cải
tiến động cơ hơi nước, nhân tố chính thúc đẩy Cách mạng Công nghiệp.
Joseph
Black, sau này là giáo sư y khoa ở Glasgow, là một người cùng thời khác và
là bạn của Smith và Watt. Ông đã phát triển khái
niệm về nhiệt ẩn [latent heat]. Đây là chìa khóa để hiểu được nhiệt động lực học,
và ông cũng nâng cao hiểu biết của chúng ta về tính chất của các chất khí trong
hóa học.
Ngày
nay, phần lớn kiến thức vẫn đang được chuyển giao từ trường đại học sang
ngành công nghiệp thông qua sinh viên mới tốt nghiệp. Mặc dù khó đo lường
nhưng đây là yếu tố then chốt để hỗ trợ các hoạt động đổi mới của doanh nghiệp.
Ấn bản đầu tiên của Của cải của các dân tộc, kiệt tác của Smith. Kjell Leknes / Shutterstock |
Vấn
đề năng suất
Sự chậm
chạp trong tăng trưởng năng suất gần đây ở Anh và một số nền kinh tế
tiên tiến khác đến từ nhiều nguyên nhân phức tạp. Nhưng hầu hết các nhà
kinh tế đều đồng ý rằng phát triển vốn con người là một phần của giải pháp.
Theo Báo
cáo chính sách tiền tệ tháng 8 năm 2022 của Ngân hàng Trung ương Anh, nhu cầu lao động cao
hơn mức trước đại dịch, nhưng nguồn cung lại thấp hơn mức
trước đại dịch. Các chính phủ đều nhận
thức rõ về khoảng cách kỹ năng này, nhưng việc thu hẹp khoảng cách này sẽ
đòi hỏi tư duy dài hạn và đầu tư công bền vững vào giáo dục. Thành công sẽ
không chỉ phụ thuộc vào số lượng nguồn cung giáo dục mà còn cả chất lượng.
Điều
này được nhấn mạnh trong các nghiên cứu gần đây hơn về tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, nhà kinh tế
Robert Barro của Harvard đã
công bố một nghiên cứu vào năm 2013 sử dụng dữ liệu về điểm kiểm tra của
sinh viên từ các
nước OECD “giàu” và “nghèo” để đánh giá mối liên hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và giáo dục. Ông nhận thấy điểm kiểm tra môn khoa học có tỷ lệ thuận
với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, để tăng trưởng kinh tế bền vững thì chất
lượng giáo dục quan trọng hơn nhiều so với số lượng giáo dục.
Trong
bối cảnh này, việc chuẩn bị lực lượng lao động cho các công nghệ mới có ý nghĩa
quan trọng. Người lao động cần được cung cấp thông tin và trang bị tất cả
các kỹ năng cần thiết, cũng như cơ hội để trau dồi những kỹ năng này xuyên suốt
thời gian làm việc. Smith đã nhận ra tầm quan trọng của điều này như một động
lực thúc đẩy sự đoàn kết
và gắn kết xã hội trong Thời kỳ Khai sáng của Scotland. Trong thế
kỷ 21, các công nghệ mới tiếp tục xuất hiện với tiềm năng biến đổi thế giới việc
làm: từ trí tuệ nhân tạo đến công nghệ y tế và điện toán
lượng tử.
Làm
việc với công nghệ
Làm
thế nào những công nghệ này kết hợp với đầu vào lao động cũng quan trọng đối với
năng suất và bình đẳng. Các nhà kinh tế của MIT Daron Acemoğlu và Simon
Johnson thảo luận về điều này trong cuốn
sách mới của họ Power & Progress: The Thousand-Year Struggle
Over Technology and Prosperity (tạm dịch: Quyền lực và Tiến bộ: Cuộc đấu
tranh hàng nghìn năm vì công nghệ và sự thịnh vượng). Trong khi Smith
tin rằng đầu tư vốn (các máy móc tốt hơn) sẽ tự động dẫn đến tiền lương thực tế
cao hơn thông qua năng suất, thì Acemoğlu và Johnson cho rằng trong kỷ nguyên
tiến bộ công nghệ hiện nay có thể không có mối tương quan tốt lành như vậy. Họ
cho rằng cần có các thể chế mạnh mẽ để đảm bảo phân phối của cải một cách công
bằng.Một bức tượng của Adam Smith
ở Đại học Glasgow,
nơi ông vừa học vừa giảng dạy.
Chris Allan/Shutterstock
Các trường đại học cũng có thể đóng vai trò là các tổ chức then chốt. Họ có thể giúp thúc đẩy sự phát triển công nghệ theo hướng mà Acemoğlu và Johnson gọi là “tính hữu ích của máy móc” [machine usefulness]. Về bản chất, điều này có nghĩa là đảm bảo rằng các công nghệ mới như AI không thay thế con người mà sẽ bổ sung cho lao động để tăng năng suất.
Và
khi những công nghệ này thúc đẩy sự thay đổi
công nghệ thiên về kỹ năng, thay vì dựa vào các đóng góp riêng lẻ, thì
đầu tư công vào giáo dục và kỹ năng là cần thiết. Nếu không, bất
kỳ sự tăng trưởng nào cũng sẽ gây ra bất bình đẳng thu nhập lớn hơn.
Smith
cũng là một triết gia đã phát triển lý luận đạo đức cho giáo dục phổ cập và
giáo dục công. Đối với Smith, ủng hộ giáo dục và học tập suốt đời sẽ giúp
tạo điều kiện thuận lợi cho sự dịch chuyển xã hội. Là một học giả, một
công dân và một nhà giáo dục, quan điểm của Smith vang vọng qua nhiều thế kỷ. Niềm
tin cơ bản của ông về giá trị của giáo dục đối với xã hội sẽ tiếp tục đứng vững
trước thử thách của thời gian.
Tác
giả
Anton Muscatelli |
Hiệu
trưởng và Phó Viện trưởng, Đại học Glasgow
Tuyên
bố công khai
Anton
Muscatelli trước đây đã nhận được tài trợ nghiên cứu từ UKRI và Ủy ban châu Âu.
Huỳnh Thị Thanh Trúc
dịch
Nguồn: How
the work of Adam Smith could help solve the UK skills gap, The Conversation, Aug 8, 2023.
---
Bài có liên quan:
- Adam Smith như thể bạn chưa bao giờ đọc ông
- Kỷ niệm 300 năm ngày sinh của Adam Smith
- Adam Smith, người cha của chủ nghĩa tư bản tự do
- Điều cánh hữu đã hiểu sai về Adam Smith
- Smith, “bàn tay vô hình” và tự do thương mại