Ngân hàng trung ương
Central
bank
® Giải Nobel: MUNDEL, 1999
Ngân hàng trung ương được định nghĩa như định chế nằm ở trung tâm của hệ
thống thanh toán nhằm đảm bảo việc chi trả và kiểm soát sự bành trướng của cung
tiền. Đây là định chế được xem là có khả năng gìn giữ giá trị đồng tiền của một
nước.
Những ngân hàng lâu đời nhất, Ngân hàng Anh (1694), Ngân hàng Thuỵ Điển
(1666) hay mới hơn như Ngân hàng Pháp (1800) không được quan niệm như những
định chế trung ương mà chỉ như những viện phát hành giấy bạc ngân hàng và chiết
khấu những hối phiếu và lệnh phiếu, một phần những hoạt động này nhằm làm lợi
cho Nhà nước.
Chính như thế mà, để chỉ giới hạn ở trường hợp của Pháp, những nghiệp vụ
của Ngân hàng Pháp chủ yếu là phát hành giấy bạc vô danh trả ngay khi xuất
trình cũng như những lệnh phiếu, đối phần của những thương phiếu có đầy đủ ba
chữ kí. Hơn nữa, ngân hàng cũng có thể nhận kí gởi của các cá nhân và của những
cơ quan công cộng. Ngân hàng Pháp cam kết cung cấp một số dịch vụ khác nhau cho
Kho bạc, những dịch vụ này sau đấy đã phát triển dưới hình thức những ứng trước
tạm thời cho Kho bạc. Lúc đầu những nghiệp vụ chiết khấu phải là nguồn gốc cho
việc phát hành tiền tín dụng. Trong những năm đầu tồn tại của Ngân hàng Pháp,
tỉ phần của những ngân hàng trong những nghiệp vụ chiết khấu là vô cùng quan
trọng. Tỉ phần của chiết khấu trong toàn bộ những thương phiếu lên đến hơn 50% năm 1935 và chỉ
bị bãi bỏ vào năm 1970. Rồi đạo luật về tính độc lập của Ngân hàng Pháp năm
1993 đã gần như bỏ hẳn khách hàng tư nhân, cấm cung cấp tín dụng cho Nhà nước
và giao cho ngân hàng trung ương trách nhiệm về chính sách tiền tệ. Chính như
thế mà dần dần Ngân hàng Pháp, lúc ban đầu là một ngân hàng thương mại chiết
khấu đã thật sự biến thành một “ngân hàng trung ương” chịu trách nhiệm về sự an toàn và
trường tồn của toàn bộ hệ thống thanh toán cũng như về chính sách tiền tệ.
Vị thế, chức năng và ngay cả sự tồn tại của ngân hàng trung ương đều viện
dẫn đến lí thuyết tiền tệ. Một cuộc tranh luận rộng rãi bao giờ cũng đối lập
những người chủ trương free banking với những người chủ trương central
banking. Đối với những người theo quan niệm đầu thì một ngân hàng trung
ương là không cần thiết, qui tắc tiền tệ chủ yếu duy nhất là xác định một đơn
vị tính toán. Việc tập trung hoá là vô ích và chỉ có làm giảm trách nhiệm của
những nhà tác nghiệp ngân hàng. Ngược lại một hệ thống free banking đảm
bảo, do có cạnh tranh, một đồng tiền ổn định và có chất lượng, những ngân hàng
tồi bị loại khỏi thị trường và những ngân hàng tốt thu hút được vốn. Trong thực
tế trái lại, chính mô hình tập trung hoá đã tự khẳng định sau một quá trình
lịch sử dài. Mô hình này đã cho phép nêu bật những chức năng của một ngân hàng
trung ương, và ngày càng trao cho nó một cương vị độc lập nhiều hơn đối với
giới chức trách chính trị, thậm chí là “phi quốc hữu hoá” và ngay cả “địa phương hoá” nó như được dự
tính trong khuôn khổ của Liên hiệp tiền tệ châu Âu. Kết quả là có một đột biến
sâu sắc của chính ngay khái niệm ngân hàng trung ương và càng thêm sâu sắc khi
chính môi trường của ngân hàng trung ương đã bị sự toàn cầu hoá các thị trường
làm thay đổi.
Ngân hàng trung
ương, nhà phát hành giấy bạc ngân hàng và nhà quản lí những phương tiện bút tệ
Ngay từ cuối thế kỉ XIX, vai trò trung tâm của việc phát hành giấy bạc
ngân hàng bắt đầu nổi lên. Vai trò trung tâm này càng được khuếch đại tiếp sau
một quá trình tập huấn dài và đôi lúc đau đớn khi sự phát triển của bút tệ đã
dẫn đến việc tập trung hoá các thanh toán.
Vai trò của ngân hàng trung ương trong
việc phát hành giấy bạc ngân hàng. – Lúc ban đầu những ngân hàng phát hành
truyền thống chỉ khác những ngân hàng thương mại ở quy mô vốn mà chúng có khả
năng huy động. Giấy bạc ngân hàng nhanh chóng có lợi thế, so với trái phiếu
thương mại, là được đổi ngay, ngang giá, khi xuất trình và vô danh, tại những
quầy của các ngân hàng, để lấy tiền mặt. Nhưng ban đầu viện phát hành phải tuân
thủ ràng buộc chuyển đổi tiền giấy thành tiền kim loại giống như ngân hàng
thương mại phải hoàn trả những kí gởi bằng giấy bạc ngân hàng. Trong cả hai
trường hợp, đòi hỏi gắn với việc kinh doanh ngân hàng là giống nhau: nghĩa vụ
phải hoàn trả. Một loạt những qui định pháp lí đã góp phần phân biệt ngân hàng
thương mại với viện phát hành. Trước tiên là việc cho giấy bạc ngân hàng có
tính lưu thông bắt buộc trang bị cho nó một khả năng thanh toán không giới hạn;
những ngân hàng có đặc quyền phát hành được hưởng khả năng này. Chỉ cần là đặc
quyền này chỉ được trao cho một ngân hàng duy nhất để cho ngân hàng này trở
thành một “ngân hàng trung ương”: từ nay tất cả những ngân hàng khác đều
có nhu cầu mua hay vay tiền giấy được các khách hàng của mình yêu cầu.
Trên quan điểm của việc phát hành tiền giấy, việc hoàn tất quá trình tiến
hoá đến cương vị ngân hàng trung ương được tiến hành bằng quyết định lưu thông
bắt buộc của tiền qui định, qua đấy bằng việc miễn cho viện phát hành việc hoàn
trả tiền giấy bằng tiền kim loại đã cắt đứt mối quan hệ hợp đồng giữa nhà phát
hành tiền tín dụng và người nắm giữ đồng tiền này.
Vai trò của ngân hàng trung ương trong
việc quản lí những phương tiện thanh toán bằng bút tệ. – Tập trung hoá việc thanh toán đã tự khẳng định cùng với sự
can dự ngày càng tăng của bút tệ biến công cụ thanh toán (séc, chuyển khoản, …) thành một
phương tiện lưu thông tiền tệ đơn giản được ghi bằng một kí gởi trong một tổ
chức tín dụng. Kết quả là sự cần thiết của một tổ chức thanh toán đa phương. Tổ
chức này dưới sự chủ trì của một ngân hàng trung ương tỏ ra là hơn hẳn tổ chức
do những tổ chức tập thể tư nhân đảm nhận (kinh nghiệm free banking của
Hoa Kì vào thế kỉ XIX). Do đó sự nổi lên của ngân hàng trung ương ở trung tâm
của hệ thống bù trừ giữa những vị thế nợ và vị thế có và qua đấy ngân hàng
trung ương bước lên thứ hạng là tác nhân trung tâm của những thanh toán. Đó là
trường hợp của Hoa Kì lúc thành lập hệ thống Cục dự trữ liên bang vào năm 1913.
Ngày nay, các ngân hàng trung ương giữ một vai trò quan trọng trong những
hệ thống quyết toán tổng theo thời gian thực (Real Time Gross Settlent
hay RTGS), những hệ thống nằm ở trung tâm của những thiết kế thanh toán của các
nước thuộc Liên hiệp châu Âu. Kể từ 1997, hệ thống chuyển nhượng của ngân hàng
trung ương Pháp (TBF) là hệ thống thanh toán theo thời gian thực của Pháp. Hệ
thống này cho phép đảm bảo việc thanh toán không thể huỷ ngang và dứt khoát
trong ngày những thanh toán với số tiền lớn. Các hệ thống RTGS đảm bảo những
thanh toán không thể huỷ ngang và tức thì bằng tiền trung ương, khác với những
hệ thống bù trừ trong đó có một thời gian giữa lúc nhận thông tin về cuộc chi
trả và lúc thanh toán.
Ngân hàng trung
ương, người cho vay cuối cùng
Henry Thornton (1760-1815) |
Walter Bagehot (1826-1877) |
Khi đảm nhận vai trò trung tâm này trong hệ thống thanh toán, ngân hàng
trung ương đặt ra vấn đề rủi ro liên quan đến tính thanh khoản. Nói cách khác,
ngân hàng trung ương có phải đảm nhận rủi ro của người cho vay cuối cùng không?
Ngay từ 1802, H. Thornton đã đặt ra ra câu hỏi này: ông chỉ ra là Ngân hàng Anh
phải có trách nhiệm cung cấp thanh khoản cho những ngân hàng lành mạnh khi có
sự hoảng loạn ngân hàng. Bagehot sẽ là người công thức hoá học thuyết can thiệp
của Ngân hàng Anh (1866). Sự hỗ trợ tài chính của ngân hàng trung ương phải
đoán trước cuộc khủng hoảng thanh khoản và hỗ trợ này chỉ là tạm thời. Mục đích
duy nhất của việc hỗ trợ này là sự ổn định của hệ thống tài chính và không thể
hỗ trợ cho những tổ chức đã thất bại.
Cuộc tranh luận về chức năng người cho vay cuối cùng vẫn còn mang tính
thời sự vì đây là một giao dịch vi phạm những qui tắc của thị trường, miễn cho
ngân hàng mất khả năng thanh toán nghĩa vụ phải chi trả. Chỉ có thể biện minh
cho chức năng người cho vay cuối cùng trong chừng mực mà chức năng này cho phép
đảm bảo sự trường tồn của thị trường trước nguy cơ lây lan việc mất khả năng
thanh toán. Nhưng chức năng này cũng có thể khơi lên một rủi ro đạo đức vì
những đảm bảo nó cho được và do đó cũng khuyến khích việc mất khả năng thanh
toán, cho nên chức năng này cũng phải tạo ra việc không thể dự đoán được sự can
thiệp của nó. Trong thực tế, chức năng này hiếm khi được vận dụng trong thời kì
đương đại. Tuy nhiên, ở Nhật, tình trạng của hệ thống tài chính Nhật buộc các
giới chức công quyền và ngân hàng trung ương đòi hỏi phải có một hành động mạnh
được thể hiện trong thông báo ngày 25 tháng mười một 1997: “Chúng tôi, bộ
trưởng bộ tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương Nhật, muốn khẳng định lại
quyết tâm hoàn thành cam kết đảm bảo sự ổn định của những giao dịch liên ngân
hàng và bảo vệ hoàn toàn những kí gởi … Bởi thế chúng tôi nhất quyết đảm bảo có
đủ thanh khoản để ngăn chặn mọi sự chậm trễ trong việc chi trả những kí gởi và
trong những cam kết khác của các định chế tài chính”.
Như thế, nằm ở trung tâm của hệ thống thanh toán, và về nguyên tắc là
người cho vay cuối cùng, ngân hàng trung ương được hướng dẫn bởi một tính duy
lí không thể nào là tính duy lí của tối đa hoá lợi nhuận nhưng bởi một một tính
duy lí tập thể, điều này trao cho ngân hàng trung ương những trách nhiệm nặng nề,
đặc biệt là trách nhiệm trông chừng tính ổn định của hệ thống tài chính. Như
thế ngân hàng trung ương can dự vào chức năng theo dõi hệ thống tài chính. Ngân
hàng trung ương tất yếu được kết hợp với việc qui định hoá những tổ chức tín
dụng và góp phần kiểm soát những tổ chức này theo những phương thức khác nhau
tuỳ theo mỗi nước.
Ngân hàng trung
ương, nhà phát hành và nhà quản lí tiền trung ương
Thanh khoản ngân hàng đo tài sản sẵn có tức thì bằng tiền trung ương của
những tổ chức tín dụng. Cung và cầu thanh khoản của những tổ chức tín dụng và
của Kho bạc được thể hiện bằng tiền trung ương.
Những tổ chức này thực hiện những giao dịch mà việc thanh toán mỗi ngày
đều thông qua ngân hàng trung ương. Một số giao dịch chỉ đơn giản là những
chuyển nhượng tiền trung ương giữa các tổ chức (ví dụ những giao dịch liên ngân
hàng) mà không ảnh hưởng đến thanh khoản ngân hàng, một số khác có một hiệu ứng
thắt chặt hay mở rộng thanh khoản này: những giao dịch của khách hàng rút
tiền-kí gởi tiền giấy, giao dịch với Kho bạc, mua/bán ngoại tệ ở ngân hàng
trung ương. Ba loại giao dịch này hợp thành những “yếu tố độc lập
của thanh khoản ngân hàng” ngoài tầm kiểm soát của các giới chức tiền tệ. Còn có những “yếu tố chính trị” phản ảnh hành
động của ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng giữ tại ngân hàng trung
ương dưới dạng dự trữ bắt buộc một tỉ lệ biến đổi của những kí gởi họ nhận
được.
Thật thế, hai trường hợp có thể xảy ra. 1) Tiền trung ương là dồi
dào: các tổ chức tín dụng là “nằm ngoài ngân hàng” (hors banque). Đó là trường hợp ví dụ
khi ngân hàng trung ương tiền tệ hoá những số lượng quan trọng ngoại tệ hay
cung ứng nhiều cho Kho bạc. 2) Tiền trung ương là khan hiếm: các tổ chức
tín dụng được gọi là “nằm trong ngân hàng” (en banque). Những tổ chức tín dụng này
nợ một cách cấu trúc đối với ngân hàng trung ương. Tuy nhiên các tổ chức này có
thể có được thanh khoản bằng tiền trung ương bằng việc huy động từ ngân hàng
này một phần tài sản của họ.
Khi các tổ chức tín dụng “nằm trong ngân hàng” thì ngân hàng trung ương tiếp ứng các
tổ chức này bằng cách cho vay tiền trung ương để đối mặt với những nhu cầu
thanh khoản. Ngân hàng trung ương tái tài trợ các tổ chức tín dụng này và như
thế giữ một vai trò chủ yếu nhưng gián tiếp trong quá trình tạo sinh tiền tệ.
Chính những nhu cầu về tiền trung ương (tiền giấy, tài sản trong tài khoản ở
ngân hàng trung ương) cung cấp cho ngân hàng trung ương những phương tiện để
điều tiết việc tạo sinh thanh khoản bằng cơ chế những nghiệp vụ tái tài trợ các
tổ chức tín dụng và cho phép ngân hàng trung ương tiến hành một chính sách tiền
tệ.
Ngân hàng trung ương tiến hành chính sách này bằng cách hoặc tác động vào
lượng tiền được cung hoặc gián tiếp tác động vào giá của lượng tiền này. Trong
trường hợp đầu, ngân hàng trung ương có thể thay đổi lượng tiền trung ương được
phát hành bằng cách bơm những lượng tiền vào nếu đánh giá rằng thanh khoản ngân
hàng là không đủ hoặc rút bớt lượng tiền ra nếu cho rằng thanh khoản ngân hàng
là dư thừa. Như thế ngân hàng trung ương tiến hành một chính sách gọi là chính
sách cơ số tiền tệ. Chính sách này, dưới một dạng nghiêm ngặt, đã được Cục dự
trữ liên bang Mĩ vận dụng từ 1979 đến 1982 nhưng sau đó bị bỏ rơi vì gia tăng
mạnh của lãi suất mà chính sách này đã kéo theo. Ngân hàng trung ương, bằng
những can thiệp của mình, cũng có thể nhắm tác động vào giá của tiền trung
ương, nghĩa là vào lãi suất. Trong những năm 1980 các ngân hàng trung ương thường
theo một chính sách lãi suất.
Mỗi một ngân hàng trung ương có thể triển khai chính sách tiền tệ của mình
bằng cách: 1) Xác định một mục tiêu có tính hoạt động cho các lãi suất
trên thị trường tiền tệ (lãi suất chủ đạo hay những lãi suất điều chỉnh thanh
khoản ngân hàng). 2) Tiếp đấy vận dụng những nghiệp vụ thị trường mở hợp
thành bởi những can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường, thường là
dưới dạng chuyển nhượng tạm thời (pension). Có thể thỏa mãn nhu cầu tái tài trợ
của các tổ chức tín dụng bằng cách để các tổ chức này cạnh tranh nhau khi mời
thầu theo định kì được thông báo trước. Giao thầu được tiến hành trên cơ sở một
lãi suất do ngân hàng trung ương xác định trước hoặc trên cơ sở nhu cầu của các
tổ chức tín dụng. 3) Và có thể bằng cách đề nghị những điều kiện thường
xuyên cho phép các ngân hàng thương mại vay hay kí gởi vốn ở ngân hàng trung
ương với những lãi suất do ngân hàng trung ương ấn định trước. Bình thường
những can thiệp của ngân hàng trung ương ít xảy ra hơn khi có những điều kiện
thường xuyên xác định những lãi suất trần và sàn. 4) Hơn nữa, một hệ
thống những dự trữ bắt buộc, áp đặt những thanh khoản bằng tiền mặt cao hơn mức
trung bình mà các ngân hàng phải nắm giữ, cho phép hấp thụ dễ dàng hơn những
nhu cầu thanh khoản tạm thời, điều này có xu hướng làm giảm nhu cầu can thiệp
của ngân hàng trung ương.
Việc ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ một cách độc lập với
Nhà nước (ví dụ, ở Hoa Kì) hay không độc lập với Nhà nước (trường hợp thường
xảy ra ở châu Âu cho đến những năm 1990, ngoại trừ Đức) đòi hỏi phải ấn định
một mục tiêu cuối cùng và một chiến lược để đạt mục tiêu này.
Mục tiêu cuối cùng có thể là đơn nhất hay là một mục tiêu bội. Mục tiêu
đơn nhất, dưới dạng tính ổn định của giá cả như được qui định bằng pháp luật
trong trường hợp của Bundesbank (ngân hàng trung ương Đức – ND) (1957) hay
của Ngân hàng Pháp (1994). Ngược lại, Cục dự trữ liên bang (Fed) ở Hoa Kì, thể
theo điều 1 của Federal Reserve Act được tu chỉnh bởi đạo luật về toàn
dụng lao động và tăng trưởng cân bằng năm 1978, phải đảm bảo “toàn dụng lao
động, sự ổn định của giá cả và tính vừa phải của những lãi suất dài hạn”.
Một khi đã xác định mục tiêu cuối cùng, vấn đề đặt ra cho ngân hàng trung
ương là việc lựa chọn kiểu can thiệp: chính sách lèo lái tự động từ một qui tắc
hay chính sách tuỳ nghi.
Tránh việc viện đến một qui tắc máy móc, hầu hết các ngân hàng trung ương
công khai theo đuổi một chiến lược dựa trên một mục tiêu trung gian được lượng
hoá (monetary targeting), một mục tiêu lạm phát (inflation targeting)
hay qui chiếu về một tỉ giá hối đoái. Thử nghiệm của Hoa Kì rồi của châu Âu
(Đức, Pháp) cho thấy là những đại lượng tiền tệ tổng gộp không còn là một mục
tiêu trung gian nữa vì không quan sát được một quan hệ ổn định giữa biến thiên
của các đại lượng tổng gộp và biến thiên của tỉ suất lạm phát. Việc tự do hoá
tài chính và những đổi mới tài chính đi liền sau việc tự do hoá này đặt lại
thành vấn đề giả thiết của lí thuyết trọng tiền về một quan hệ ổn định giữa
cung tiền tệ và tổng sản phẩm danh nghĩa. Những biến thiên của đại lượng qui
chiếu là kết quả của những thay đổi về thuế khoá nhắm vào một số tài sản hay
của những thay đổi lãi suất ngắn hạn (đặc biệt ở Pháp là những thay đổi liên
quan đến những lãi suất bị quản chế).
Trước những khó khăn trong việc áp dụng chính sách monetary targeting,
một số nước chọn một mục tiêu lạm phát, nghĩa là một mục tiêu lạm phát được
thông báo trước (Vương quốc Anh, Canada). Trong khuôn khổ của hệ thống tiền tệ
châu Âu, một số nước có một nền kinh tế qui mô nhỏ và gắn chặt với ngoại thương
(Hà Lan, Bỉ, …) chọn việc neo tỉ giá hối đoái vào một tỉ giá danh nghĩa.
Tại Hoa Kì, Cục dự trữ liên bang tiến hành một chính sách tuỳ nghi và làm
cho các thị trường bị bất ngờ mà không qui chiếu về một qui tắc nào được xác
định trước. Chính như vậy mà quyết định của Fed ngày 15 tháng mười 1998 giảm
một phần tư điểm lãi suất chủ đạo rồi liên tiếp giảm thêm hai lần nữa trong những
tuần sau đã khiến mọi người bị bất ngờ.
Ngân hàng trung
ương, nay trở thành độc lập, chịu trách nhiệm chính sách tiền tệ
Edward C. Prescott (1940-) |
Finn E. Kydland (1943-) |
Sự tăng tốc chung của lạm phát vào cuối những năm 1970 (lạm phát hai con
số) đã kéo theo việc chỉnh lại trọng tâm của nhiệm vụ của ngân hàng trung ương
nhằm vào yêu cầu ổn định tiền tệ. Chuyển động giảm phát, được khởi động tại Hoa
Kì vào đầu những năm 1980, đã lan sang toàn bộ các nước công nghiệp, đảm bảo
cho khái niệm ổn định tiền tệ cuơng vị, rõ ràng hay ngầm ẩn, của một mục tiêu
cuối cùng của chính sách tiền tệ. Thế mà, theo những phân tích lí thuyết, tính
độc lập của ngân hàng trung ương đối với Nhà nước cho phép chống lạm phát một
cách hiệu quả. F. Kydland và E. Prescott (1977) rồi R. Barro (1983) làm rõ nguy
cơ “tiền hậu bất nhất trong thời gian” (time inconsistency) của những
quyết định tiền tệ của giới chức công quyền dẫn đến một rủi ro lạm phát.
Robert Barro (1944-) |
Tuy nhiên kinh nghiệm lịch sử cho thấy là có thể giảm tỉ suất lạm phát dù
cho tính độc lập của các ngân hàng trung ương không được thừa nhận. Giai đoạn
giảm phát, bắt đầu vào đầu những năm 1980, diễn ra trong tất cả các nước công
nghiệp mặc dù trong phần lớn những nước này (đặc biệt là Pháp, cho tới tận
1994) ngân hàng trung ương là không độc lập. Trong thực tế, tính độc lập của ngân
hàng trung ương, một điều bình thường trong một nước theo cấu trúc liên bang
(Hoa Kì, Đức, Canada), kể từ đầu những năm 1990, có xu hướng lan rộng khi đối
mặt với quá trình toàn cầu hoá và đổi mới ngày càng tăng của các thị trường tài
chính. Do đó, có những thay đổi gần đây của những điều lệ của nhiều ngân hàng
trung ương, và đặc biệt là ở Pháp (1994), Anh (1997) và Nhật (1997).
Ngân hàng trung
ương và những chức năng đang thay đổi
Biến hoá của khái niệm ngân hàng trung ương và qua đó vai trò của ngân
hàng này vẫn chưa chấm dứt. Diễn tiến này không được xác định rõ ràng trong
lĩnh vực kiểm tra giá của những tài sản và trong lĩnh vực tỉ giá hối đoái.
Báo cáo của Ngân hàng thanh toán quốc tế năm 1997 đã làm rõ là ngân hàng
trung ương cần phải quan tâm đến diễn tiến của giá những tài sản tài chính.
Những chuyển động quá đáng và kéo dài so với những cơ bản dẫn đến những hiện
tượng “bong bóng” cho các bên tham gia trên các thị trường và làm rối việc truyền
đạt những xung lực của chính sách tiền tệ.
Còn về tỉ giá hối đoái, phải phân biệt giữa việc xác định chế độ tỉ giá và
chính sách đối với những biến động trên các thị trường ngoại hối. Trong tất cả
các nước, chế độ tỉ giá đều thuộc thẩm quyền của những giới chức chính trị.
Việc thay thế, ví dụ, một chế độ tỉ giá cố định bằng một chế độ tỉ giá linh
hoạt không thuộc thẩm quyền của ngân hàng trung ương. Những mức điều chỉnh quan
trọng giữa các đồng tiền là đối tượng của những tuyên bố cuối cùng trong những
buổi họp của các bộ trưởng tài chính của các nước G7 với sự tham gia của những
thống đốc của các ngân hàng quốc gia của những nước có liên quan (thoả thuận
Plaza vào tháng chín 1995, thoả thuận Louvre tháng hai 1987, lời kêu gọi tái
lập có trật tự các tỉ giá vào tháng tư 1995 nhằm điều chỉnh sự lên giá quá đáng
của đồng yen).
Một khuôn khổ mới
của ngân hàng trung ương: hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu
Hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu. – Hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB) gồm một ngân
hàng trung ương mới (ECB) và các ngân hàng trung ương quốc gia (NCB). Hệ thống
kiểu liên bang này dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành tố của hệ thống
cũng như sự độc lập của những thành tố này đối với các giới chức công cộng.
Độc lập của ESCB: do duy chỉ ECB là có quyền xây dựng chính sách tiền tệ
của EMU nên ECB hoàn toàn độc lập, điều này nhằm bảo đảm, dưới mắt các thị trường,
tính đáng tin cậy của ECB. Cũng giống như tính độc lập của những ngân hàng
trung ương quốc gia, tính độc lập của ECB được xác định như sau: ECB không nhận
lệnh của bất kì định chế quốc gia hay định chế châu Âu nào, ECB không phải bù
cho thâm hụt hay ứng trước bất kì kiểu tín dụng nào khác cho những định chế của
EMU hay cho bất kì cơ quan công cộng nào khác. ECB là định chế châu Âu duy nhất
kiểm soát trực tiếp một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô trên toàn bộ vùng
euro.
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa ECB và các NCB: đây là kết quả của sự tham gia
góp vốn (3 tỉ euro) cũng như việc chuyển nhượng một phần những dự trữ ngoại
hối (50 tỉ euro) của các NCB vào việc thành lập ECB.
Tính liên bang của ESCB: có thể gọi hệ thống này là một hệ thống liên bang
trong chừng mực mà những quyết định tiền tệ được tập trung ở cấp ECB trong lúc
việc thi hành được phân tán ở cấp những ngân hàng quốc gia khác nhau. Duy chỉ ECB
mới có quyền phát hành tiền giấy bằng euro; Hội đồng thống đốc ra những quyết
định về chính sách tiền tệ (biến thiên của những lãi suất chủ đạo và những tỉ
suất dự trữ bắt buộc). Các hội đồng của các ngân hàng quốc gia độc lập (ví dụ
Hội đồng chính sách tiền tệ Pháp, Hội đồng của Bundesbank) đã chuyển, ngày 1
tháng giêng 1999, quyền ra quyết định tiền tệ cho Hội đồng các thống đốc của ECB.
Hội đồng này gồm có một ban lãnh đạo có sáu thành viên, kể từ tháng 2 năm 1998,
do các nguyên thủ quốc gia hay thủ tướng của các nước thành viên bổ nhiệm cũng
như mười một thống đốc các ngân hàng quốc gia của các nước này.
Các NCB đảm bảo việc thực thi những quyết định của ECB. Chúng buộc phải
đảm bảo sự hoạt động tốt của những hệ thống thanh toán, đặc biệt là những RTGS
(TBF trong trường hợp của Ngân hàng trung ương Pháp) để có thể nuôi dưỡng hệ
thống TARGET nối kết những RTGS với nhau.
Một thiết kế thực dụng về chính sách
kinh tế. – Như mọi hệ thống tiền tệ, hệ thống mới
được đặc trưng bằng nhà chức trách lãnh đạo nó, chiến lược và những công cụ của
những giới chức này. Chức trách tiền tệ là ECB do Hội đồng các thống đốc lãnh
đạo.
a) Mục tiêu và chiến lược của ESCB: Hội
đồng đã xác định chính sách tiền tệ cho toàn bộ vùng euro có tính đến mục tiêu
cuối cùng được ấn định trong hiệp định Maastricht, sự ổn định của giá cả (điều
105, đoạn 1). Mục tiêu này được Hội đồng các thống đốc định nghĩa, vào tháng
mười 1998, như là “tiến triển dưới 2% trên một năm của chỉ số giá cả trong vùng euro”. Chỉ số được xem
xét là chỉ số giá tiêu dùng điều hoà (HICP).
Hội đồng các thống đốc chủ yếu có lựa chọn giữa hai chiến lược, hoặc hướng
dẫn những can thiệp bằng những mục tiêu trung gian lượng hoá như ở Đức và ở
Pháp (đại lượng tiền tệ tổng gộp được xác lập trên bình diện châu Âu) hoặc sử
dụng một mục tiêu lạm phát như ở Vương quốc Anh. Hội đồng cũng có thể, như hệ
thống Cục dự trữ liên bang Hoa Kì, tiến hành một chính sách tuỳ nghi dựa trên
một loạt những chỉ báo đơn giản được xác lập trên bình diện châu Âu.
Hội đồng muốn tiếp tục theo những chiến lược rõ ràng, có lẽ nhằm tránh mọi
sự bất trắc về những ý đồ của mình. Chọn một mục tiêu lạm phát có thể cung cấp
một điểm neo danh nghĩa rõ ràng cho các tác nhân kinh tế: nhưng một tỉ suất
biến thiên của chỉ số giá cả, đối với những tác nhân này, là gợi cảm hơn những
biến thiên của những đại lượng tổng gộp. Tuy nhiên, dù đã lượng hoá mục tiêu
cuối cùng song Hội đồng không công bố dự báo lạm phát, do không muốn biến dự
báo này thành một công cụ cơ bản.
Mong muốn tiếp tục một chính sách liên tục so với những định hướng chung
của Ngân hàng Pháp và Bundesbank, Hội đồng trước tiên nói rõ là chọn chính sách
theo dõi một đại lượng tổng gộp rộng, M3 (M3 gồm có tiền tín dụng cũng như
những kí gởi không kì hạn, kí gởi có kì hạn dưới hay bằng hai năm, kí gởi hoàn
trả với thời hạn báo trước bằng hoặc dưới ba tháng, trợ cấp, những trái quyền
có thời hạn dưới hay bằng hai năm, và cuối cùng là những OPVCN tiền tệ và những
công cụ của thị trường tiền tệ. Đại lượng tổng gộp M3 cho vùng euro là rộng hơn
đại lượng được xây dựng cho chính sách tiền tệ Pháp), được điều hoà cho toàn bộ
EMU và vừa khẳng định rằng đại lượng tổng gộp này là một “giá trị qui chiếu” chứ không phải
là một mục tiêu trung gian theo nghĩa hẹp. Cho năm hoạt động đầu tiên của ESCB,
giá trị qui chiếu của tăng trưởng của cung tiền tệ được ấn định là 4,5%. Việc ấn định
giá trị này được tiến hành trong khuôn khổ của một giả thiết trượt giá thấp hơn
2% một năm, có tính đến tăng trưởng tiềm tàng (xu thế tăng trưởng của GDP
thực tế) cũng như tiến hoá dự kiến của vận tốc lưu thông của tiền tệ được ước
lượng là giảm trong dài hạn trung bình từ 0,5% đến 1%. Xu thế tăng
trưởng hàng năm của vùng euro được ước lượng là 2-2,5%. Cuối cùng các
thành viên của Hội đồng đã quyết định là việc theo dõi giá trị qui chiếu được
bổ sung bằng việc theo dõi một số chỉ báo kinh tế và tài chính nhằm đánh giá
những rủi ro đối với sự ổn định của giá cả trong vùng euro.
b) Những công cụ của ESCB: ESCB có ba
kiểu công cụ được các ngân hàng trung ương quốc gia triển khai để thực thi
những quyết định của Hội đồng các thống đốc: những nghiệp vụ thị trường mở,
những điều kiện tiếp cận thường xuyên những đối phần tiền tệ và những dự trữ
bắt buộc.
1) Nghiệp vụ thị trường mở: Những
nghiệp vụ thị trường mở giữ một vai trò hàng đầu trong việc điều tiết tiền tệ
và có nhiều loại. Phương thức gọi thầu đều đặn về tiền trung ương euro là công
cụ chủ yếu của việc tái tài trợ và lèo lái những lãi suất ngắn hạn. Những tín
dụng cung cấp bằng kênh này chủ yếu là dưới dạng những thoả thuận mua lại (giao
dịch chứng khoán có cam kết) hay dưới dạng những khoản cho vay có bảo đảm theo
định kì hàng tuần. Những tín dụng này có kì hạn là hai tuần. Cũng có những
phương thức tái tài trợ với kì hạn dài hơn (ba tháng). Cuối cùng những nghiệp
vụ tinh chỉnh và những nghiệp vụ gọi là cấu trúc bổ sung cho thiết kế này.
2) Những điều kiện tiếp cận thường
xuyên những đối phần tiền tệ: Ngoài những phương thức thị trường này, các
tổ chức tín dụng của ESCB còn có hai điều kiện tiếp cận thường xuyên trong vòng
hai mươi bốn tiếng đồng hồ, một điều kiện tái tài trợ cận biên và một điều kiện
nhận lại những kí gởi. Điều kiện thứ nhất nhằm cho vay tiền ngân hàng trung
ương bằng euro để thoả mãn những nhu cầu thanh khoản tạm thời theo một lãi suất
trần, điều kiện thứ hai mà lãi suất là lãi suất sàn của thị trường liên ngân
hàng cung cấp khả năng đầu tư thặng dư ngân quĩ. Việc sử dụng những điều kiện
này thuộc thẩm quyền của các bên đối tác. Hai công cụ này giới hạn hành lang
biến động giá của tiền tệ mỗi ngày. Lãi suất áp dụng tại những quày này có giá
trị chỉ báo về định hướng lâu dài của chính sách tiền tệ. Như thế hệ thống can
thiệp gồm có ba lãi suất chủ đạo: một lãi suất tái tài trợ đều đặn thường xuyên
nằm giữa một lãi suất cao liên quan đến một khả năng cho những tổ chức tín dụng
vay thường xuyên và một lãi suất thấp đảm bảo nhận lại thanh khoản.
Hội đồng các thống đốc quyết định sử dụng kể từ 4 tháng giêng 1999 làm lãi
suất tái tài trợ đều đặn lãi suất 3% được các ngân hàng trung ương quốc gia ấn định vào cuối
tháng mười hai 1998 cho những can thiệp của các ngân hàng này. Hội đồng cũng đã
ấn định lãi suất của những điều kiện thường xuyên: mức cao là 4,5 % và mức thấp là
2%. Bằng cách cho biến thiên ba lãi suất chủ đạo, Hội đồng có thể tác động
đến những điều kiện tái tài trợ của các tổ chức tín dụng của vùng euro.
3) Dự trữ bắt buộc: Toàn bộ thiết
kế được bổ sung bằng một hệ thống những dự trữ bắt buộc được trả lãi. Bằng cách
thực hiện hệ thống dự trữ bắt buộc này ECB cho thấy là muốn giữ khoảng cách với
thực tiễn fine tuning (tinh chỉnh) của Hoa Kì, theo đó Cục dự trữ liên
bang can thiệp để ấn định mức thanh khoản. Được hình thành từ những trung bình
trên một thời kì nhất định, những thanh khoản này cho phép giảm bớt những biến
động quá đột ngột của các lãi suất ngắn hạn. Thiết lập những dự trữ bắt buộc
cũng còn là cách để ESCB làm tăng sự phụ thuộc của những tổ chức tín dụng vào
ESCB. Ngày 8 tháng bảy 1998, Hội đồng các thống đốc quyết định là những tổ chức
tín dụng giao cho các ngân hàng trung ương quốc gia từ 1,5 đến 2,5% số kí gởi, và
vào tháng mười tỉ số này được ấn định là 2%. Lãi suất được trả là trung bình của
những lãi suất gọi thầu của thời kì dự trữ.
Hệ thống chính sách tiền tệ này gồm có những công cụ đơn giản và dễ đọc.
Chúng nằm trong một sự nối tiếp nhất định của những công cụ được hầu hết các
ngân hàng trung ương quốc gia sử dụng, và đặc biệt là những công cụ đã được
Bundesbank và Ngân hàng trung ương Pháp thử nghiệm.
Chính sách tỉ giá hối đoái. – Những định hướng
chiến lược đã được Hội đồng các thống đốc quyết định không coi tỉ giá hối đoái
là một mục tiêu cuối cùng. Tuy nhiên tỉ giá hối đoái là một yếu tố để suy nghĩ
vì là một dữ liệu sẵn có và dễ đọc trong lúc những dữ liệu thống kê khác, hiện
thời, là khó nắm bắt cho toàn thể mười một nước. Hơn nữa tính đáng tin của ngân
hàng trung ương quốc gia, cần thiết cho việc bảo vệ đồng tiền quốc gia, nay
được chuyển lên cấp của ECB.
Do các giới chức trách chịu trách nhiệm về chế độ tỉ giá hối đoái nên Hội
đồng kinh tế tài chính của Liên hiệp châu Âu (15 nước), nếu trường hợp xảy ra,
đàm phán những hiệp định kiểu những hiệp định kí sau thế chiến thứ hai tại
Bretton Woods. Còn đối với những định hướng chung cho một chính sách tỉ giá hối
đoái kéo theo một khả năng tác động vào các tỉ giá, cần phân biệt trường hợp
của một sự can thiệp trực tiếp bằng mua hay bán ngoại tệ với trường hợp của một
sự can thiệp gián tiếp bằng việc thay đổi những lãi suất chủ đạo. Giả thiết đầu
dẫn đến việc cầu viện đến trách nhiệm của ECB trong khuôn khổ của những định
hướng chung do Hội đồng kinh tế tài chính vạch ra. Trong trường hợp thứ hai,
quyết định chỉ thuộc về trách nhiệm của Hội đồng các thống đốc của ECB.
Dưới chế độ tỉ giá hối đoái thả nổi, những công cụ của chính sách tỉ giá
hối đoái có vẻ là giới hạn. Không thể ấn định tỉ giá hối đoái bằng nghị định,
tỉ giá hối đoái của đồng euro, cũng như của những đồng tiền khác, là kết quả
của cung và cầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy là tỉ giá hối đoái chịu sự
chi phối của những nhân tố quyết định cơ bản trong dài hạn. Những nhân tố quyết
định này có xu hướng kéo tỉ giá hối đoái về giá trị cân bằng của nó, một giá
trị được định nghĩa như mức tương hợp với cân bằng đối nội (mức sản xuất cho
phép sử dụng hết năng lực sản xuất và tỉ suất thất nghiệp bằng với NAIRU) cũng
như với cân bằng đối ngoại (mức bền vững của cán cân thanh toán). Tuy nhiên
những “mất cân bằng” vẫn có thể tỏ ra dai dẳng và đòi hỏi phải có những chỉnh
sửa. Để có hiệu quả, những chỉnh sửa này kéo theo một hành động đồng bộ nhằm
vào những lãi suất chủ đạo lẫn những can thiệp trên thị trường ngoại hối, được
nhấn mạnh bằng những tuyên bố thích hợp của các giới chức chính trị và tiền tệ.
Trước những nguy cơ thất thường của các tỉ giá hối đoái, nhiều lời kêu gọi
được gióng lên ủng hộ một sự phối hợp quốc tế có thể đi đến việc ấn định những
vùng mục tiêu cho đồng euro và một vài đồng tiền khác. Việc chấp nhận những “vùng mục tiêu” có vẻ không thực
hiện được do những vấn đề mà việc định nghĩa mang tính hoạt động những vùng này
đặt ra cũng như do việc hoàn chỉnh những phương tiện có khả năng đảm bảo việc
tôn trọng những vùng này. Các ngân hàng trung ương không nhìn một cách thuận
lợi một tỉ giá hối đoái cố định tước mất đi một phần biên độ hành động của họ
trong chừng mực mà các ngân hàng này sẽ buộc phải thay đổi những lãi suất chủ
đạo độc lập với những yêu cầu của tình thế của vùng nhằm mục tiêu duy nhất là bảo
vệ tỉ giá các đồng tiền. Chính vì thế mà suy nghĩ hướng nhiều hơn đến một “kiến trúc mới của
hệ thống tiền tệ quốc tế”, đến việc củng cố sự hợp tác giữa những khối tiền tệ chính
(đôla, euro, yen) trong nội bộ của hệ thống tiền tệ quốc tế. Chính trong khuôn
khổ của những chiến lược hợp tác này mà các ngân hàng trung ương mới đảm nhận
một vai trò thiết yếu trong một vũ trụ tài chính toàn cầu hoá.
Phụ lục 1
Những
đại lượng tổng gộp tiền tệ
Những đại lượng tổng gộp là những đại lượng do các giới chức tiền tệ xác
định, cho phép đo lượng tiền tệ có khả năng được chi tiêu. Như thế người ta cố
gắng nắm bắt tiền tệ dưới dạng một kho những thành tố khác nhau hợp thành biểu
trưng thống kê của tiền tệ, nghĩa là cung tiền tệ. Việc nắm bắt này là kết quả
của những qui ước có thể xét lại với thời gian và biến đổi tuỳ theo nước. Khái
niệm cung tiền tệ được sử dụng cho việc xác định chính sách tiền tệ. Các giới
chức tiền tệ phải cố gắng tìm ra những đại lượng tiền tệ tổng gộp có tương quan
nhất với những đại lượng tổng gộp kinh tế như tổng sản phẩm trong nước và chi
tiêu thuần trong nước nhằm tính vận tốc lưu thông của tiền tệ và đảm bảo việc
theo dõi những diễn tiến tiền tệ.
Những đại lượng tiền tệ tổng gộp phải gồm có, ngoài những phương tiện
thanh toán ra, tất cả những đầu tư mà các tác nhân kinh tế xem như một dự trữ
sức mua sẵn sàng tức thì vì chúng dễ dàng được chuyển đổi thành phương tiện
thanh toán và không có nguy cơ quan trọng mất giá trị của vốn. Cách tiếp cận
rộng này về những đại lượng tiền tệ tổng gộp đã trở nên cần thiết do có nhiều
sáng tạo đổi mới tiền tệ mở rộng, ví dụ
ở Pháp kể từ 1984, gam đầu tư (chứng khoán nợ thương thảo được, OPVCM:
organisms de placement collectif en valeurs mobilières [tổ chức đầu tư chứng
khoán}, thuật ngữ này bao phủ toàn bộ những SICAV (sociétés d’investissement à
capital variable) [công ti đầu tư với vốn biến đổi} và những FCP (fonds communs
de placement) [quĩ đầu tư tập thể}). Từ nay gam này cung cấp cho các tác nhân
kinh tế một continuum kì hạn và, song song đó, một continuum những mức rủi ro.
Tóm lại, những đại lượng tiền tệ tổng gộp liệt kê những phương tiện thanh
toán và những tài sản thương thảo được “không rủi ro”. Những đại lượng
này đi từ định nghĩa hẹp nhất đến định nghĩa rộng nhất, bằng việc hợp nhất các
sản phẩm.
Lãnh thổ được chọn để tính các đại lượng tổng gộp, những khu vực phát hành
và nắm giữ tiền tệ cũng như những loại công cụ sử dụng được chỉ rõ trong hai
danh sách dưới đây cho những đại lượng của Ngân hàng (trung ương) Pháp.
Những đại lượng tổng gộp sau có mặt trong cả hai danh sách:
M1 gộp toàn thể những phương tiện thanh toán: một mặt tiền tín dụng và
tiền lẻ, mặt khác bút tệ (kí gởi không kì hạn). Định nghĩa của M1 là giống nhau
trong cả hai danh sách.
M2 trong đại lượng tổng gộp của Ngân hàng (trung ương) Pháp bao gồm cả
những tài khoản tiết kiệm không kì hạn và trong danh sách ECB được mở rộng ra
cho cả những kí gởi có kì hạn ban đầu thấp hơn hay bằng hai năm.
M3 hơn nữa còn gồm cả những chứng khoán được xem là những “đầu tư tiền tệ”.
Phụ lục 2
Từ những
đại lượng tiền tệ tổng gộp của Ngân hàng trung ương Pháp đến đại lượng tiền tệ
tổng gộp của ECB
Ngân hàng
trung ương Pháp (có hiệu lực cho đến tháng mười hai 1998)
|
Ngân hàng
trung ương châu Âu (có hiệu lực từ tháng giêng 1999)
|
|||
Lãnh thổ
|
||||
Pháp và Monaco
|
Vùng euro:
trong đó có: Pháp, Monaco, các tỉnh hải ngoại, Mayotte và Saint-Piere-et
Miquelon
|
|||
Khu vực phát hành tiền tệ
|
||||
Tổ chức tín
dụng và OPCVM
Kho bạc và Bưu
điện
|
Tổ chức tín
dụng và OPCVM tiền tệ (thể chế tài chính tiền tệ)
Kho bạc và Bưu điện
ở cương vị người thu nhận kí gởi
|
|||
Khu vực nắm giữ tiền tệ
|
||||
Tác nhân phi
tài chính
Quĩ quốc gia
đường cao tốc và quĩ quốc gia viễn thông
|
Tác nhân phi
tài chính
Những trung
gian tài chính khác
|
|||
Loại công cụ
|
||||
Bằng quan Pháp
trừ trường hợp nói khác
Tiền giấy và
tiền kim loại trong lưu thông
+ Kí gởi không
kì hạn
= M1
+ Tài khoản
tiết kiệm không kì hạn theo chế độ đặc biệt
= M2
+ Chứng khoán OPVCM tiền tệ
+ BMTN có kì
hạn ban đầu thấp hơn hay bằng hai năm
|
Bằng ngoại tệ
trừ trường hợp nói khác
Tiền giấy và
tiền kim loại trong lưu thông (euro)
+ Kí gởi không
kì hạn
= M1
+ Kí gởi hoàn
trả với thời hạn báo trước bằng hoặc dưới ba tháng
+ Kí gởi có kì
hạn ban đầu thấp hơn hay bằng hai năm mọi ngoại tệ
+ Trợ cấp
= M2
+ Chứng khoán
OPVCM tiền tệ
|
|||
▶ AGLIETTA M., “Genèse
des banques centrales et légitimité de la monnaie”, Annales ESC, mai-juin 1992. – BARRO R., “Inflation and economic growth”, NBER, n0
5326, October 1995. – BARRO R. & GORDON D., “Rules, discretion and
reputation in a model of monetary policy”, Journal of
Monetary Economics, July 1983. – BASSONI M. &
CARTAPANIS A., “Autonomie
des banques centrals et performances macroéconomique: un réexamen”, Revue économique, mars 1995. – BLINDER, “Central
banking in theory and practice”, Marshall Lecture, Cambridge,
May 1995. – BOISSIEU C. DE, Monnaie et économie, Paris, Économica,
1998. – BRUNEEL D., “La monnaie”, Revue Banque, 1992. – CECHETTI S., “Inflation indicators and
inflation policy”, NBER, n0 51624, 6 June 1995. – CHAINEAU A., Mécanismes
et politique monétaire, Paris, PUF, 1996. – DWYER, “Rules
and discretion in monetary policy”, Revue de la Fed Saint-Louis,
May-June 1993. – ESTRELLE A & MISKHIN F., “Is there a role for
monetary aggregates in the conduct of monetary policy?”, NBER Working Paper, Nov. 1996. – FLOUZAT D., Économie
contemporaine, t. II, Les phénomènes monétaires, 1997; L’euro, Les éditiens Milan, 1998. – FRIEDMAN B. M. & HAHN F., Handbook in Monetary
Economics, Amsterdam, North-Holland, 1990. – HARDY D., “How often
should a central bank intervene?”, Working Paper 97/24, IMF. – PATAT J.-P., Monnaie,
institutions financières et politique monétaire, Paris, Économica, 1993. – SAINT-MARC M.
& BECKERMAN, L’euro, Paris, PUF, Que sais-je, 1999. – TAYLOR J. B., “Discretion
versus policy rules in practice”, Carnegie-Rochester Conferences
Series in Public Policy, 1993, n0 39. – Coll.: Banque
centrale européenne (BCE), La politique monétaire unique en phase III, sept.
1998, Bulletin mensuel. Banque de France, La politique monétaire à l’heure des marchés
de capitaux; Rapports adressés au Président de la République et au Parlement
par J.-C. Trichet, gouverneur, Bulletins de la Banque de France; Notes d’information dont
n0 112, La politique monétaire du système européen de banque
centrale (communication J.-C. Trichet) – INSTITUT MONÉTAIRE
EUROPÉEN (IME), Rapport sur la convergence; mars 1998; Rapports annuels.
– OCDE, Perspectives économiques, 1998, n0 64.
Denise FLOUZAT-OSMONT D’AMILLY
Giáo sư ưu tú đại học Panthéon-Sorbonne (Paris 1), cựu thành
viên Hội đồng chính sách tiền tệ (Paris)
Nguyễn Đôn Phước dịch
® Chính sách tiền tệ; Dự kiến; Đại
lượng tổng gộp tiền tệ; Lãi suất; Thị trường tiền tệ; Tỉ giá hối đoái; Tiền tệ;
Tiêu chí hội tụ của các nền kinh tế.
Nguồn: Dictionnaire des sciences économiques,
sous la direction de Claude Jessua, Christian Labrousse, Daniel Vitry, PUF,
Paris, 2001