TƯƠNG LAI CỦA AI PHỤ THUỘC VÀO SỰ LỰA CHỌN CỦA CHÚNG TA
Daron Acemoğlu [*]
![]() |
“Chúng ta luôn có cơ hội đưa ra những lựa chọn cốt yếu … Vấn đề hiện tại là chúng ta đang từ bỏ lựa chọn này và để lại cuộc tranh luận về kỷ nguyên tương lai của AI cho một số cá nhân. Xã hội, người lao động, các công đoàn phải tham gia vào cuộc tranh luận về AI.”
Thuyết trình của Giải Nobel kinh tế 2024, Daron Acemoğlu.
trong loạt bài lí thuyết về Sức mạnh của AI
Để tiếp tục cuộc đối thoại trí tuệ do tạp chí Le Grand Continent thực hiện với UNESCO, sau bài giảng tuyệt vời của Dipesh Chakrabarty năm ngoái, chúng tôi xin xuất bản bài đầu tiên trong Hội thảo Albert Hirschman, do Gabriela Ramos và chương trình MOST phát động, với tựa đề “Tiến bộ công nghệ có thể tạo ra sự thịnh vượng được chia sẻ chăng?”, do người đoạt giải Nobel kinh tế năm 2024 Daron Acemoğlu phát biểu tại Paris vào ngày 8 tháng 10.
Phiên bản tiếng Anh tại đường dẫn của Groupe d’etudes géopolitiques.
Tiến bộ công nghệ có thể mang lại sự thịnh vượng được chia sẻ chăng? Thay vào đó, có lẽ chúng ta nên hỏi: Khi nào tiến bộ công nghệ có thể mang lại sự thịnh vượng được chia sẻ? Để cố gắng trả lời câu hỏi này, tôi sẽ bắt đầu từ cuốn sách cuối cùng chúng tôi viết với Simon Johnson, Quyền lực và Sự tiến bộ/Power and Progress[1].
Không khó để hiểu tại sao chúng ta lại bị ám ảnh bởi tiến bộ công nghệ đến vậy. Phần lớn nhân loại sống khỏe mạnh hơn, thịnh vượng và thoải mái hơn so với tiêu chuẩn của 300 năm trước đây: không cần phải nỗ lực nhiều để bị ấn tượng bởi những gì công nghệ và sự đổi mới đã mang lại.
Nhưng chúng tôi sẽ cho thấy rằng bức tranh tổng thể này ẩn chứa những biến thể thú vị hơn và giàu bài học hơn cho thời đại chúng ta đang sống. Trong lịch sử về sự thịnh vượng do tiến bộ công nghệ mang lại, hiếm có điều gì là tự động hoặc không thể tránh khỏi. Về cơ bản, sự thịnh vượng tùy thuộc các thể chế, loại tiến bộ công nghệ và những ai kiểm soát nó.
Những vấn đề này thậm chí còn quan trọng hơn khi chúng ta đang trải qua thời kỳ mà một số người coi là thời đại đổi mới, thời đại chúng ta được bao quanh mỗi ngày bởi các sản phẩm mới của trí tuệ nhân tạo, ứng dụng mới và vật dụng mới lạ. Trong thực tế, theo hầu hết các số liệu cho phép đo lường sự đổi mới, chúng ta đang chứng kiến một sự bùng nổ thực sự - như được chứng minh bằng dữ liệu liên quan đến việc nộp đơn xin cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ, vốn đã tăng gấp bốn lần từ đầu những năm 1980 đến nay. Đáng chú ý hơn nữa, sự gia tăng này được thúc đẩy bởi những lĩnh vực mà nhiều người coi là cơ bản, chẳng hạn như truyền thông, công nghệ thông tin hoặc điện tử, mà nhiều lĩnh vực kinh tế khác ngày nay phụ thuộc và tất nhiên là AI – và đặc biệt là AI tạo sinh – lĩnh vực đang tràn đầy trí tưởng tượng ở hai bên bờ Đại Tây Dương.
Ta chỉ cần nhìn vào Hoa Kỳ để nhận thấy nỗi ám ảnh về AI của Châu Âu: bên kia Đại Tây Dương, sự hâm mộ đối với những vấn đề này đã đạt đến mức cao hơn nhiều. Trong thời đại đổi mới, những đột phá về AI và những tiến bộ công nghệ đáng kinh ngạc, những vấn đề trọng tâm chiếm giữ tâm trí nhiều người: Ai sẽ được hưởng lợi từ những công nghệ này? Liệu chúng có đi kèm với sự thịnh vượng chung không? Ai thực sự kiểm soát chúng?
Những vấn đề này phần nào là trung tâm vì nếu chúng ta nhìn vào lịch sử, có những ranh giới rất rõ ràng kết nối việc kiểm soát công nghệ với cách phân phối lợi nhuận – và đặt ra câu hỏi liệu sự kiểm soát công nghệ có mang lại lời lãi hay không. Những vấn đề này cần phải có vai trò trung tâm nhất trong các cuộc tranh luận công khai và trong kinh tế học.
Tuy nhiên, trong kinh tế học có một loại “định lý dân gian/folk theorem”[2]. Giống như hầu hết các định lý của mọi người, nó chứa đựng một phần sự thật và rất nhiều sự đơn giản hóa hoặc sai sự thật. Cùng với các nguồn gốc lạc quan khác mang tính cấu trúc về công nghệ, nó đã định hình cách nhiều người, các nhà hoạch định chính sách, nhà báo, những người tạo ra dư luận trên khắp thế giới và ở Hoa Kỳ nghĩ về tiến bộ công nghệ và AI. Như thường thấy với các định lý vốn là một phần của văn hóa hoặc văn hóa dân gian, nó thậm chí còn không có tên. Với Simon Johnson, chúng tôi đã cố gắng mang lại cho nó một cái tên: “đoàn xe nhạc cổ xúy cho năng suất/productivity bandwagon ”. Theo định lý này, tiến bộ công nghệ sẽ dẫn đến, bằng cách này hay cách khác, thông qua một quá trình tự động, tới sự thịnh vượng được chia sẻ.
Productivity bandwagon là gì?
Nếu lý thuyết này đúng, nó không miễn cho chúng ta đặt ra những câu hỏi nhất định về ai sẽ kiểm soát công nghệ và ai sẽ được hưởng lợi nhiều nhất - hoặc ít hơn một chút. Đại khái, nó nói với chúng ta rằng chúng ta không nên sợ công nghệ và chúng ta nên mở rộng vòng tay chào đón nó, bởi vì có rất nhiều khả năng nó sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Vậy “productivity bandwagon” là gì? Sinh viên Sorbonne vẫn học được điều này trong các khóa học cử nhân hoặc thạc sĩ: khi công nghệ được cải thiện, kiến thức và khả năng thực hiện mọi việc của chúng ta cũng được cải thiện.
![]() |
Dây chuyền sản xuất xe Golf ở nhà máy Volkswagen ngày 10 tháng 5 năm 1979. Đức. Châu Âu. © Klaus Rose/SIPA |
![]() |
Dây chuyền sản xuất xe Golf ở nhà máy Volkswagen ngày 10 tháng 5 năm 1979. Đức. Châu Âu. © Klaus Rose/SIPA |
Nếu lý thuyết này được áp dụng vào quá trình sản xuất, điều này có nghĩa là khi năng suất tăng lên, chúng ta có thể thu được nhiều sản phẩm hơn, nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn từ cùng một lượng đầu vào vì chúng ta có năng lực tốt hơn, kiến thức tốt hơn và công nghệ tốt hơn. Từ đó, một tập hợp các nguồn lực cũng dẫn đến những cải thiện cho người lao động - về mức lương cao hơn và thu nhập tiềm năng. Đây là một khía cạnh then chốt vì hầu hết chúng ta vẫn nhận được phần lớn thu nhập của mình từ thị trường lao động - nếu thị trường năng động, tiền lương sẽ cao. Đây là nền tảng vững chắc cho sự thịnh vượng được chia sẻ.
Làm thế nào có thể giải thích được mối liên hệ giữa tăng năng suất và lợi ích cho người lao động? Ngoài ra, chúng ta cũng có thể hỏi là khi công nghệ được cải tiến thì liệu năng suất có tăng lên chăng - bởi vì có những trường hợp kiến thức được cải tiến được sử dụng cho các mục đích khác ngoài việc tăng năng suất. Nhưng hãy gạt câu hỏi đó sang một bên và tập trung vào vấn đề chính: năng suất tăng và người lao động được hưởng lợi.
Lập luận kinh tế cơ bản là như sau: khi các công ty có phương tiện để sản xuất nhiều hơn, chúng muốn phát triển và thuê thêm công nhân để có thể sản xuất nhiều hơn. Động thái này làm tăng cầu lao động và các quá trình của thị trường lao động sẽ dẫn đến mức lương cao hơn.
Lập luận này thực ra chứa đựng hai khẳng định: một mặt, nếu năng suất tăng, các công ty sẽ muốn tuyển dụng thêm nhân công; mặt khác, cầu lao động này theo cách này hay cách khác cũng tác động thành mức lương cao hơn.
Hai khẳng định này không phải là không có lý. Có rất nhiều ví dụ, kể cả trong thế kỷ 20, khi cả hai đều phát huy tác dụng: việc tăng năng suất bằng cách nào đó đều kéo theo một cầu lao động lớn hơn, điều này sẽ được thể hiện qua các mức lương cao hơn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tìm thấy những ví dụ trái ngược với mỗi khẳng định trên.
Dưới đây là những gì chúng tôi sẽ cố gắng phát triển và giải thích, bằng cách cố gắng hiểu khi nào cơ chế thịnh vượng chung hoạt động.
Hãy bắt đầu với giả định thứ hai - ý tưởng cho rằng một cầu lao động lớn hơn không dẫn đến các mức lương cao hơn. Hai ví dụ minh họa cho điều này – mặc dù chúng ta có thể tưởng tượng ra những ví dụ khác, có lẽ cũng quan trọng đối với thời đại của chúng giống như những tiến bộ công nghệ kỹ thuật số mà chúng ta biết ngày nay.
Quyền lực đóng một vai trò mấu chốt trong cách thức phân bổ lợi ích và trong sự thành công của giai đoạn này để nâng cao năng suất.
Daron Acemoğlu
Trước hết, trong thời Trung cổ, thường bị coi là “thời đại đen tối”, thật sự không đen tối đến vậy về mặt kỹ thuật: bằng chứng là những tiến bộ ấn tượng trong nông nghiệp. Thật vậy, cối xay gió đã thay đổi quy trình sản xuất một cách đáng kể, tăng năng suất của một số công việc nhất định lên hơn mười, thậm chí là hai mươi lần. Kết quả là gì? Giới quý tộc và giáo sĩ cao cấp đã chiếm đoạt hết mọi lời lãi và đời sống của nông dân hầu như không mấy được cải thiện. Khi ta nghĩ về điểm này, thì nó có vẽ khá logic: nông dân phải gánh chịu một mối quan hệ cưỡng bức thông qua chế độ nông nô và thông qua các khoản thuế họ phải trả cho địa chủ. Quan trọng hơn, chính những địa chủ đã hoàn toàn độc quyền về cối xay gió nên họ không chỉ có thể ngăn cản bất kỳ ai mở cối xay gió của riêng mình mà thậm chí còn buộc mọi người phải sử dụng cối xay gió của họ. Trong những điều kiện như vậy, kiểu quy trình cạnh tranh trên thị trường lao động vốn cần thiết để tăng cầu lao động dẫn đến mức lương cao hơn sẽ không thể phát huy tác dụng.
Ví dụ thứ hai thậm chí còn nổi bật hơn: máy tẽ hạt bông (cotton gin) do Eli Whitney thiết kế. Vào giữa những năm 1700, miền Nam của vùng đất sau này sẽ trở thành Hoa Kỳ là một khu vực không được ưu đãi về mặt kinh tế, còn lạc hậu so với nhiều vùng khác của đất nước. Khí hậu thuận lợi và có đủ lao động để phát triển một số loại cây trồng có lợi nhuận cao - chẳng hạn như bông. Nhưng bông trồng ở miền Nam không thể được làm sạch bằng phương pháp thông thường, đòi hỏi phải có một loại máy mà người ta đã mất khá nhiều thời gian để hoàn thiện.
Cuối cùng, một số nguyên mẫu cũng đã được thiết kế, trong đó có mẫu được cấp bằng sáng chế của Eli Whitney. Những người đương thời và các nhà sử học đều đồng ý rằng cỗ máy của Whitney đã biến đổi hoàn toàn miền Nam nước Mỹ, dẫn đến sự tăng trưởng đáng kế của sản lượng bông. Thật vậy, Mỹ đã trở thành nước xuất khẩu bông lớn nhất thế giới, đóng vai trò dẫn đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp cùng với ngành dệt may của Anh. Nhiều khối tài sản khổng lồ đã được tạo dựng nhờ sự gia tăng hàng xuất khẩu rất lớn này. Tuy vậy, công nhân hoàn toàn bị loại khỏi phong trào này vì họ là những người Mỹ da đen bị bắt làm nô lệ, không có khả năng đòi hỏi mức lương cao hơn trong các thị trường lao động cạnh tranh. Khi các địa chủ muốn công nhân làm việc nhiều hơn, họ chỉ cần dùng đến biện pháp cưỡng bức. Một số lượng lớn nô lệ đã được chuyển đến miền Nam, nơi có các đồn điền trồng bông, và điều kiện sống của họ thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn đối với đa số.
![]() |
Hai ví dụ này minh họa tầm quan trọng của môi trường thể chế hay nói một cách rõ ràng hơn là vai trò của quyền lực. Đây chính là nguồn gốc của từ “quyền lực” trong Quyền lực và Sự tiến bộ/Power and Progress, tựa đề cuốn sách của chúng tôi.
Quyền lực đóng một vai trò mấu chốt trọng trong cách thức phân phối các lợi ích và trong sự thành công của giai đoạn này để nâng cao năng suất. Quyền lực có nhiều kênh – nhưng không chỉ là kênh thể chế. Quyền lực cũng đóng một vai trò cốt yếu trong việc định hướng sự đổi mới.
Cách mạng công nghiệp và tự động hóa
Những ví dụ lịch sử này có thực sự xác đáng trong thời đại kỹ thuật số không?
Khi nói rằng chúng ta sống trong điều kiện tốt hơn nhiều so với 300 năm trước, chúng ta cũng không cần phải quay lại thời đại cối xay gió - mà nên về thời điểm bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, khoảng từ những năm 1750, khi nhiều công nghệ tiên tiến hơn bắt đầu được sử dụng trong các nhà máy.
Một cách tóm tắt đơn giản về Cách mạng Công nghiệp Anh là nói rằng mọi người đều được hưởng lợi từ nó - kể cả người lao động - và do đó không có gì phải lo sợ công nghệ. Nhưng một sự khảo sát kỹ lưỡng hơn câu chuyện này sẽ vẽ ra một bức tranh phức tạp hơn. Trước hết, trong phần lớn thời gian đó - khoảng một trăm năm - công nhân cũng không khá giả lắm. Và điều này chính xác có liên quan đến những gì chúng tôi đã đề cập ở trên: quyền lực.
Rất thường xuyên, giai cấp công nhân không có lựa chọn nào khác: các công đoàn bị đàn áp, họ không thể được đại diện; do đó thương lượng tập thể là không thể; luật pháp rất chống đối người lao động. Ví dụ, có những người bị đưa vào tù chỉ vì đã rời bỏ người chủ của họ và tìm kiếm công việc tốt hơn.
Nhưng còn có điều gì đó sâu sắc hơn liên quan đến bản chất của công nghệ.
Những công nghệ đầu tiên của cuộc cách mạng công nghiệp tương ứng với điều mà ngày nay chúng ta gọi là tự động hóa - nghĩa là tạo ra máy móc và thuật toán để thực hiện các công việc trước đây do công nhân thực hiện.
Những ví dụ mà chúng tôi đã liệt kê cho thấy rằng loại hình tự động hóa này không nhất thiết có tác dụng giải phóng sức mạnh của productivity bandwagon. Điều này thực sự không có gì đáng ngạc nhiên: giả thuyết mà chúng tôi đã đề cập ở trên, theo đó việc tăng năng suất sẽ khuyến khích tuyển nhiều lao động hơn, tự nó không có gì là không thể chối cãi.
Trong kinh tế học, chúng ta học rằng các công ty sẽ sẵn sàng trả lương cho người lao động. Số lượng lao động các công ty có thể tuyển dụng sẽ gắn liền quan với đóng góp của lao động vào sản xuất - điều mà các nhà kinh tế học gọi là năng suất cận biên. Ngược lại, khi chúng ta nói rằng năng suất tăng lên, chúng ta đang nói về số lượng được sản xuất ra so với số lượng lao động - tương ứng với năng suất trung bình. Có nhiều lý do để cho rằng năng suất trung bình và năng suất cận biên biến động cùng nhau: cái này tăng, cái kia cũng tăng. Nhưng cũng có nhiều lý do để cho rằng không phải như vậy.
Một lời đùa cợt giúp chúng ta nắm bắt được bản chất của vấn đề này, đó là tầm nhìn không tưởng hoặc viễn tưởng về tương lai: nhà máy của tương lai sẽ có hai nhân viên - một người đàn ông và một con chó. Người đàn ông ở đó để cho chó ăn. Con chó ở đó để đảm bảo rằng người đàn ông không chạm vào máy móc.
Đây có thể là một ý tưởng không tưởng. Nhưng đó không hẳn là tin tốt cho lao động nói chung. Bản chất của lời đùa cợt này là cái productivity bandwagon không hoạt động: ta có thể tăng năng suất của mình biến nhà máy trông ngày càng giống nhà máy vừa mô tả. Máy móc ở nhà máy này ngày càng được cải tiến. Bây giờ nó có thể sản xuất gấp đôi. Nhưng ta không cần người hay con chó - chúng hoàn toàn thừa thãi.
Nếu năng suất tăng gấp đôi, sẽ không có nhà máy nào vội vàng thuê thêm người và chó.
![]() |
Dây chuyền sản xuất xe Golf trong nhà máy Volkswagen ở Wolfburg ngày 10 tháng 5 năm 1979. © Klaus Rose/SIPA |
Dây chuyền sản xuất xe Golf trong nhà máy Volkswagen ở Wolfburg ngày 10 tháng 5 năm 1979. © Klaus Rose/SIPA
Điều mà ví dụ cơ bản trên minh họa là máy móc loại bỏ nhu cầu về công nhân và đào sâu khoảng cách giữa năng suất cận biên và năng suất trung bình. Và đó chính xác là những gì đã xảy ra trong nửa đầu cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh – một thời kì cõ lẽ đã kéo dài từ 90 đến 100 năm.
Mãi đến cuối những năm 1840, chúng ta mới bắt đầu thấy lương tăng đều đặn và điều kiện làm việc được cải thiện, tương ứng – và đây không phải là ngẫu nhiên – với việc công nhận các công đoàn. Đây là một lịch sử vừa mang tính công nghệ vừa mang tính thể chế.
Chúng ta có thể không quan tâm đến lịch sử này vì cho rằng nó đã thuộc về quá khứ; một số nhà hiền triết (guru) chuyên về công nghệ có thể đã sử dụng cuộc cách mạng công nghiệp để biện minh cho lý thuyết của họ – từ nay chúng ta có thể quên họ đi, chúng ta đang sống ở một thời đại khác.
Có phải thời đại chúng ta đang sống thực sự rất khác đến thế sao? Đúng và không. Thực sự có những điểm tương đồng và khác biệt đáng kể, đặc biệt rõ ràng vào những năm 1950, 1960 và 1970 ở Hoa Kỳ, Pháp, Đức và nhiều quốc gia khác.
Chúng ta có thể khảo sát các dữ liệu ở Hoa Kỳ bằng cách xem xét các mức lương được điều chỉnh theo lạm phát đối với nam giới và nữ giới và đối với năm nhóm trình độ học vấn, từ những người lao động bỏ học trung học đến những người có trình độ đại học.
Dữ liệu sử dụng trong các biểu đồ trên được chuẩn hóa về số 0 để chúng ta có thể theo dõi mức tăng lũy tiến của tiền lương thực tế. Chúng ta thấy bắt đầu từ năm 1963 – khi chuỗi dữ liệu bắt đầu – và cho đến từ giữa đến cuối những năm 1970, chúng ta chứng kiến một thời kỳ thịnh vượng chung đáng chú ý. Tất cả 10 nhóm dân số đều có thu nhập thực tế tăng và tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh.
Nếu chúng ta mở rộng chuỗi dữ liệu này với các nguồn dữ liệu khác, đi ngược trở lại những năm 1940, chúng ta sẽ thấy sự tăng trưởng thậm chí còn nhanh hơn đối với các nhóm dân số có trình độ học vấn thấp nhất. Đây là thời kỳ tăng trưởng tương đối bình đẳng, với mức đáy của phân phối tiền lương tăng lên rất nhanh. Tăng trưởng trung bình từ năm 1949 đến năm 1975 ở Hoa Kỳ là khoảng 2,5 điểm phần trăm mỗi năm, được điều chỉnh theo lạm phát, có nghĩa là thu nhập thực tế sẽ tăng gấp đôi trong 30 năm. Với tốc độ tăng trưởng như vậy, việc gia nhập tầng lớp trung lưu là khá dễ dàng.
Đây là sự trải nghiệm về thịnh vượng chung mà nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Phương Tây, đã trải qua. Ở Pháp, ba thập kỷ này thật “vinh quang”, nhưng chúng cũng đã diễn ra ở những nơi khác trên thế giới. Khoảng năm 1980, có lẽ sớm hơn một chút, chúng ta bắt đầu thấy một quỹ đạo rất khác: sự khác biệt đáng chú ý giữa phần trên và phần dưới của bậc thang. Lý do tại sao chúng ta có thể quan tâm đến dữ liệu lũy tiến là vì chúng cho phép chúng ta thấy rằng thu nhập thực tế của những người tốt nghiệp trung học và những người đã bỏ học đã giảm trong giai đoạn này. Trong khoảng ba mươi năm, một bộ phận lớn dân chúng, thay vì được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, đã chứng kiến thu nhập thực tế của họ, được điều chỉnh theo lạm phát, giảm sút. Có những điểm tương đồng ở các quốc gia khác, đặc biệt là Vương quốc Anh, nơi sự bất bình đẳng rõ rệt xảy ra đồng thời với những sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ có tính đột phá và của xã hội.
Nhưng quỹ đạo này không giống nhau ở mọi nơi.
Nếu chúng ta nhìn vào những gì xảy ra ở Thụy Điển trong cùng thời kỳ - hoặc ít nhất là trong nửa sau của thời kỳ này - sự bất bình đẳng về tiền lương thực sự đang có xu hướng giảm. Thụy Điển cũng bị tác động bởi những công nghệ và sự toàn cầu hóa tương tự, nhưng bức tranh phức tạp hơn nhiều. Bất bình đẳng về tiền lương giảm ngay cả khi bất bình đẳng tổng thể đang gia tăng, một phần là do những thay đổi về giờ làm việc, về thu nhập từ tư bản và các yếu tố khác có thể bị ảnh hưởng hoặc không bị ảnh hưởng bởi toàn cầu hóa.
Ý tưởng mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là có những quyết định khác nhau do các quốc gia đưa ra sẽ quyết định ai thắng và ai thua. Như vậy, chúng tôi lại quay trở lại câu hỏi ban đầu: làm thế nào để đảm bảo sự thịnh vượng và tăng trưởng chung? Tại sao mức tăng trưởng thu nhập ở Hoa Kỳ, Châu Âu và Vương quốc Anh lại được phân bổ tương đối đồng đều trong những thập kỷ sau Thế chiến II? Điều này thể hiện như thế nào trong nửa sau thế kỷ 19, trong cuộc Cách mạng Công nghiệp Anh? Và điều này đã bị đảo ngược như thế nào vào những năm 1980?
Tự động hóa không phải là một hiện tượng mới mà chúng ta khám phá cùng với công nghệ kỹ thuật số.
Daron Acemoğlu
Lập luận của chúng tôi gắn liền với hai trụ cột của cơ chế thịnh vượng chung đã được nhấn mạnh. Trước hết, quyền lực được phân bổ đồng đều giữa người lao động và các công ty - hoặc ít nhất là không quá bất bình đẳng - để tránh những tình huống mà chúng ta đã trải qua dưới chế độ nông nô ở Châu Âu vào thời Trung Cổ hoặc dưới chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ. Sau đó là có một định hướng công nghệ không chỉ tự động hóa mà còn tạo ra những khả năng công nghệ mới nhằm tăng năng suất lao động và sự đóng góp của lao động vào quá trình sản xuất. Chẳng hạn, đây là những gì chúng ta quan sát được trong ngành công nghiệp ô tô ở Hoa Kỳ, ngành mà ngay từ những năm 1910 đã đặt nền móng cho sự phát triển sau chiến tranh.
Henry Ford đi tiên phong về dây chuyền lắp ráp, máy điện, năng suất cao và sản xuất đại trà. Tại nhà máy của ông ở River Rouge, bang Michigan, ông đã triển khai cách bố trí “phẳng” cho phép ô tô di chuyển trên toàn bộ sàn. Máy điện phi tập trung thực hiện các công việc mà trước đây chỉ có công nhân mới có thể làm được.
Tự động hóa không phải là một hiện tượng mới mà chúng ta khám phá cùng với công nghệ kỹ thuật số. Những gì chúng ta nhận thấy ở nhà máy Ford là tự động hóa đã gắn liền với rất nhiều công việc kỹ thuật mới cho công nhân. Những người trong ảnh thực hiện các chức năng thiết yếu trong khi những người khác, ở đằng sau, thậm chí còn nhiều hơn, đảm nhiệm công việc sửa chữa, bảo trì, kế toán, những công việc từ kỹ thuật đến văn phòng. Đây là lý do tại sao khi quá trình sản xuất đại trà bắt đầu, việc làm trong các nhà máy của Ford và trong ngành công nghiệp ô tô đã bùng nổ. Tự động hóa được kết hợp với các công nghệ khác để tạo ra các công việc mới cho người lao động, khiến cho người lao động được phân công lại vào các hoạt động mang tính kỹ thuật hơn và được trả lương cao hơn khi một số hoạt động trước đây do họ thực hiện đã được các máy móc đảm nhiệm.
Sự cân bằng giữa các công việc mới và tự động hóa mang tính tổ chức và công nghệ: cần phải có các công nghệ cần thiết để đạt được cân bằng này – vậy điều quan trọng là định hướng của công nghệ và tổ chức.
Henry Ford đưa ra quyết định này không phải vì ông là bạn của người lao động – hoàn toàn không phải vậy - mà vì ông hiểu rằng tăng năng suất lao động là cách tốt nhất để tăng kết quả của chính mình. Ông ấy không phải là người duy nhất. Ngành công nghiệp ô tô cũng là nơi có hoạt động công đoàn sôi nổi.
![]() |
“Hình ảnh trên cho thấy cuộc đình công của công nhân ngành công nghiệp ôtô (United Auto Workers tại) một nhà máy của General Motors vào năm 1937.” |
Hình ảnh trên cho thấy cuộc đình công của công nhân ngành ô tô (Công Đoàn Thống Nhất Ngành Ô Tô/United Auto Workers) tại một nhà máy của General Motors vào năm 1937. Trước đó đã có những cuộc đình công tại các nhà máy của Ford. Sự củng cố các công đoàn đã đóng một vai trò cốt yếu trong việc người lao động được hưởng một phần công bằng trong sự gia tăng năng suất. Từ ngành ô tô, những năm sau đó, công đoàn được mở rộng sang các ngành khác.
Hai lực lượng này tương tự nhau một cách đáng chú ý khi xem xét giai đoạn thứ hai của Cách mạng Công nghiệp Anh, vốn cũng chứng kiến sự chuyển đổi trọng tâm của công nghệ, từ tự động hóa thuần túy sang các phương pháp tăng năng suất lao động và sự cân bằng phân bổ quyền lực trong các nhà máy và xã hội.
Nếu đây là hai trụ cột của sự thịnh vượng chung thì ta cũng có thể khẳng định rằng chính sự thất bại của chúng là nguồn gốc của sự gia tăng đáng kể về bất bình đẳng và tính chất rất ít được chia sẻ của tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ và nhiều nước công nghiệp hóa khác trên thế giới suốt bốn thập kỷ qua.
Hình ảnh trên cho thấy một nhà máy sản xuất ô tô ngày nay trông như thế nào. Tự động hóa đã tiến triển rất nhiều nhưng chúng ta không thấy công nhân như ở nhà máy Ford. Chỉ có một người duy nhất, và người đó có lẽ có bằng tiến sĩ. Thật vậy, trong khi tự động hóa trong các nhà máy ô tô có tiến bộ vượt bậc thì số lượng lao động chân tay đảm bảo sản xuất lại giảm đáng kể do máy móc đã hướng tới mục tiêu tự động hóa mà không có sự thay đổi nào về các công nghệ khác tạo ra những công việc mới cho công nhân. Đây có thể không phải là một lập luận thường được đưa ra, vì tình trạng bất bình đẳng gia tăng ở Hoa Kỳ thường được giải thích bởi các yếu tố tiềm ẩn khác.
Cách chúng ta sử dụng và phát triển công nghệ cũng như cách chúng ta tổ chức xung quanh công nghệ phần lớn tùy thuộc vào một loạt các quyết định. Chính trong sự chằng chịt này mà sự hiểu biết về hoạt động của các thể chế và quyền lực trở nên cốt yếu.
Daron Acemoğlu
Để làm nổi bật tầm quan trọng của tự động hóa, chúng ta có thể trình bày một tập hợp dữ liệu khác, dựa trên nghiên cứu của chúng tôi với Pascual Restrepo, trong đó chúng tôi xem xét những thay đổi về bất bình đẳng tiền lương ở Hoa Kỳ liên quan đến tự động hóa. Trong hình bên dưới, mỗi điểm đại diện cho một nhóm dân số nhất định. Thay vì hiển thị chuỗi theo thời gian trên trục tung, chúng tôi vẽ biểu đồ của sự thay đổi về thu nhập thực tế cho từng nhóm dân số từ năm 1980 đến năm 2016.
Gần một nửa số điểm nhỏ hơn số 0. Điều này cho thấy rõ bản chất bất bình đẳng của tăng trưởng kinh tế. Nói một cách khác: Khoảng một nửa số nhóm dân số không thực sự được hưởng lợi từ sự phát triển mạnh mẽ của thời đại kỹ thuật số. Đáng chú ý hơn nữa, chúng tôi trình bày trên trục hoành thước đo tự động hóa của chúng tôi, về cơ bản là phần công việc mà một nhóm dân số từng thực hiện đã được tự động hóa. Đối với nhiều nhóm có trình độ học vấn thấp, chẳng hạn như những người tốt nghiệp trung học, đặc biệt là nam thanh niên, phần lớn công việc là những công việc chân tay trong các công ty như Ford hay General Motors. Nhìn chung, chúng ta thấy rằng tự động hóa đào sâu sự bất bình đẳng gia tăng và chịu trách nhiệm về khoảng 60 đến 70% sự phát triển của bất bình đẳng về tiền lương.
Cách chúng ta sử dụng và phát triển công nghệ cũng như cách chúng ta tổ chức xung quanh công nghệ phần lớn tùy thuộc vào một loạt các quyết định. Chính trong sự chằng chịt này mà sự hiểu biết về hoạt động của các thể chế và quyền lực trở nên cốt yếu. Về vấn đề này, chúng ta có thể phân tích hai xu hướng bắt nguồn từ những biến đổi lớn đã xảy ra kể từ những năm 1980.
Xu hướng thứ nhất tương ứng với một sự thay đổi mà nhìn lại có vẻ không thể tránh khỏi nhưng không nên bị đánh giá thấp: trong bốn mươi năm, phong trào công đoàn ở Hoa Kỳ đã suy yếu đáng kể. Hẳn là, nếu chúng ta phân tích về lâu dài, quá trình phi công nghiệp hóa đã bắt đầu gây nên một quá trình làm suy yếu các nghiệp đoàn. Nhưng chính một quyết định chính trị đã thực sự chuyển hướng hoàn toàn xu hướng này. Mùa hè năm 1981, Tổng thống Ronald Reagan quyết định sa thải hơn 10.000 nhân viên kiểm soát không lưu đình công. Nhiều công ty khác làm theo ông và có đường lối cứng rắn hơn nhiều đối với người lao động, đẩy nhanh sự suy yếu sức mạnh của nghiệp đoàn ở Hoa Kỳ.
Một xu hướng khác có vẻ quan trọng không kém. Nó cho chúng ta thấy rằng chỉ nghiên cứu công nghệ và quyền lực thôi là chưa đủ: những ý tưởng và chuẩn mực biện minh cho hành động của các CEO, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp hoặc một số chính trị gia có ảnh hưởng đặc biệt đã đóng một vai trò đáng kể. Điều này được chứng minh bằng ví dụ của Henry Ford và mô hình mà ông đã phát triển, có lẽ là một cách vô tình, và được các nhà kinh tế học thể chế đầu thế kỷ 20 gọi là “chủ nghĩa tư bản phúc lợi/welfare capitalism”. Các công ty hoạt động tốt và sau đó chia sẻ lợi ích với những người lao động cho mình; họ chia sẻ lợi ích vì các nghiệp đoàn buộc họ phải làm như vậy, đồng thời, họ tin rằng việc chia sẻ lợi ích sẽ thúc đẩy người lao động.
Một hệ tư tưởng thay thế khác đã xuất hiện vào những năm 1980. Cũng giống như nhiều cuộc cách mạng tư tưởng, nó không thể được tiếp diễn như là một sự tiếp nối mang tính tuyến tính. Tuy nhiên, nhân vật Milton Friedman vẫn đáng được trích dẫn vì ông đã thể hiện điều đó rất nhiều. Văn bản có ảnh hưởng nhất của ông không được xuất bản trên một tạp chí khoa học mà trên Tạp chí New York Times Magazine. Ông khẳng định rằng trách nhiệm xã hội duy nhất của doanh nghiệp là tăng giá trị của cổ đông. Điều này dẫn đến một hệ quả rõ ràng: các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải được khuyến khích giảm chi phí nhân công, nhân tố quan trọng nhất trong các chi phí. Ý tưởng này rất đơn giản: tại sao phải trả nhiều tiền hơn nếu ta không bị bắt buộc phải làm như vậy? Hệ quả logic của điều này là các cổ đông sẽ có nhiều tiền hơn và mong muốn giảm chi phí lao động. Tất nhiên, hệ quả hợp lý là tự động hóa. Đây là lý do tại sao chúng ta có thể nói rằng ý thức hệ doanh nghiệp sẽ dẫn đến tự động hóa nhiều hơn một cách máy móc. Các nghiệp đoàn mạnh có thể là bức tường thành chống lại xu hướng này, nhưng chúng đang suy yếu và do đó không thể có tham vọng đưa ra sự phản kháng được xây dựng đầy đủ.
Tự động hóa đào sâu sự bất bình đẳng gia tăng và chịu trách nhiệm cho khoảng 60 đến 70% của sự phát triển của bất bình đẳng về tiền lương.
Daron Acemoğlu
Hai xu hướng trên kết hợp lại tạo nên một làn sóng ồ ạt.
Tuy nhiên, có một xu hướng thứ ba có lẽ cũng quan trọng không kém: ta có thể tự động hóa bao nhiêu tùy thích mà không gặp phải sự cản trở nào, nhưng nếu không có đủ công cụ kỹ thuật, ta sẽ không đạt được nhiều thành công.
Thế mà, đặc biệt là vào cuối những năm 1970 và 1980, một ngành công nghiệp đã sẵn sàng cung cấp những công cụ này. Chính trong ngành công nghiệp này chúng ta tìm thấy ma trận của một trạng thái tinh thần đặc biệt lan tỏa ngày nay. Để hiểu AI – và nói chung hơn là những gì mà sự phát triển công nghệ kỹ thuật số được cho là thực hiện được – chúng ta không thể bỏ qua điểm này.
Tại sao thay thế con người
Để hiểu điều này, chúng ta phải quay lại suy nghĩ của Alan Turing, người tiên phong của tin học đương đại. Turing, vốn là một nhà toán học, đã cố gắng khái niệm hóa những gì máy móc nên làm, những gì chúng có thể làm và cách so sánh hành động của chúng với hành động của tâm trí con người. Ông đi đến kết luận rằng máy tính hoạt động hoặc lẽ ra phải hoạt động giống như trí óc con người - hoặc thậm chí có lẽ trí óc con người đã hoạt động giống như những chiếc máy tính mà ông đã hình dung. Nếu chúng ta đi theo quan điểm này, điều đáng mong muốn là máy tính, các công cụ kỹ thuật số, trong quá trình phát triển của chúng, sẽ đảm nhận ngày càng nhiều công việc do con người thực hiện.
Turing tin rằng bộ não con người về cơ bản không khác gì một cỗ máy Turing. Ý tưởng này đã dẫn đến một hệ quả: cuối cùng, nếu ta có một cỗ máy Turing phổ quát, nó có thể thực hiện tất cả các nhiệm vụ nhận thức mà bộ não con người thực hiện. Rõ ràng đây là quan điểm mà cộng đồng đang nghiên cứu AI đã nhiệt tình chấp nhận mà không có bất cứ phản ứng nào.
Nhóm nhỏ gồm các người đáng kính/gentlemen đã khai sinh ra lĩnh vực AI tại Hội nghị Dartmouth năm 1956 đã chấp nhận quan điểm này: đối với họ, AI là nhánh nhằm phát triển trí thông minh tự trị của các cỗ máy. Mục tiêu của họ là phát triển những cỗ máy có khả năng hoàn thành các công việc như con người, một cách tự chủ như con người, nghĩa là không cần sự can thiệp từ bên ngoài.
Ý tưởng mạnh mẽ này có hai hệ quả. Một mặt, nếu máy móc đã có khả năng làm những việc như con người và được cải tiến dần thì chúng nên được giao nhiều công việc hơn được rút khỏi hoạt động của con người. Mặt khác, xu hướng này cũng sẽ không tạo ra động lực tự nhiên để khuyến khích con người hoàn thành những công việc mới và mở rộng khả năng, hành động của mình.
Vấn đề là quan điểm này, ít nhất là trước thời đại AI, đã không đạt được sự thành công. Kỷ nguyên đổi mới vẫn đang đứng trước ngưỡng cửa của chúng ta, được thúc đẩy của các công cụ kỹ thuật số, nhưng việc tăng năng suất đã không xảy ra. Nếu chúng ta xem xét thước đo ưa thích của các nhà kinh tế học về năng suất – tăng trưởng của tổng năng suất các nhân tố (TFP) – thì thời đại kỹ thuật số có tốc độ tăng trưởng năng suất chậm hơn nhiều so với những thập kỷ trước. Hiện tượng này không chỉ giới hạn ở Hoa Kỳ mà còn xảy ra ở các nước công nghiệp phát triển khác.
Hàng ngày chúng ta chọn loại thể chế mà chúng ta đang sống.
Daron Acemoğlu
Việc sử dụng tự động hóa quá đáng là có vấn đề do những hiệu ứng tái phân phối của tự động hóa: nếu nó bị lạm dụng – bằng cách thay thế các công việc do con người thực hiện bằng những công việc mà máy móc có thể thực hiện – ta sẽ không thu được lợi ích về năng suất, tạo ra một kiểu tự động hóa lười biếng mà ta có thể gọi là sự “tự động hóa vừa phải/so-so automation”: tất nhiên, cuối cùng các công ty cũng sẽ kiếm được thêm vài đô la vì họ tiết kiệm được chi phí nhân công, nhưng sẽ không cách mạng nào trong năng suất nếu không có sự cải thiện chất lượng sản phẩm — hơi giống dịch vụ khách hàng tự động hoặc máy tính tiền mà không hoạt động.
AI sẽ thay đổi điều này? Tôi không nghĩ vậy. Đây là lý do tại sao nói về công nghệ kỹ thuật số và AI như một hiện tượng kinh tế đơn giản là chưa đủ. Chúng là những công cụ thông tin, có nghĩa là chúng ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội của chúng ta, bao gồm cả sự tham gia dân chủ và chính trị.
![]() |
Cuộc đình công tự phát tại nhà máy Ford ở Cologne từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 8 năm 1973. © Klaus Rose/SIPA |
Cuộc đình công tự phát tại nhà máy Ford ở Cologne từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 8 năm 1973. © Klaus Rose/SIPA
Giám sát chỉ là một khía cạnh trong việc AI và các công cụ liên quan khác, đặc biệt là các công cụ nhận dạng khuôn mặt, sẽ ảnh hưởng đến bối cảnh chính trị như thế nào. Bối cảnh rộng hơn thế nhiều, bởi vì nó liên quan đến việc kiểm soát một thứ cơ bản: thông tin. Mọi người, ít nhất là ở Phương Tây, đều nhận ra bản chất có vấn đề của hệ thống tín dụng xã hội đã được triển khai ở Trung Quốc, nơi ta phải kiểm tra điểm của mình trước khi có thể thanh toán và mua vé tham dự một buổi biểu diễn hoặc đi tàu điện ngầm.
Nhưng những gì chúng ta có ở đây cũng không thực sự tốt hơn nhiều.
Thay vì trao cho Đảng Cộng sản độc quyền kiểm soát thông tin, chúng ta để các công ty tư nhân thu thập, xử lý và kiểm soát thông tin. Nếu ta tuân theo lý luận này - rằng không có sự chồng chéo cần thiết, không có sự liên kết hoàn toàn giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của người lao động và toàn xã hội - tại sao các công ty phải sử dụng đến biện pháp kiểm soát thông tin sâu rộng và khổng lồ này? Đây là một vấn đề đòi hỏi một cuộc thảo luận rộng lớn hơn nhiều.
Làm thế nào để chuyển hướng?
Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận bằng điều gì đó đáng khích lệ hơn một chút. Sau khi nhấn mạnh những vấn đề liên quan đến những thay đổi hướng của sự đổi mới, chúng tôi không muốn tạo ấn tượng rằng đây là một cái bẫy mà ta không thể thoát ra được. Chúng ta luôn có cơ hội đưa ra những lựa chọn cốt yếu. Hàng ngày chúng ta chọn loại thể chế mà chúng ta đang sống. Chúng ta chọn hướng đổi mới - hoặc ít nhất, về mặt lý thuyết, chúng ta có tiếng nói về hướng đó. Vấn đề hiện tại là chúng ta đang từ bỏ sự lựa chọn này và để lại cuộc tranh luận về tương lai của AI cho một vài cá nhân. Xã hội, người lao động, các công đoàn phải tham gia vào cuộc tranh luận về AI. Đây là một vấn đề mấu chốt. Chủ nghĩa tư bản xã hội không tự nó ra đời. Nó được xây dựng bởi các công đoàn và các tổ chức xã hội dân sự trung gian. Không thể xây dựng sự thịnh vượng chung nếu tất cả các công cụ kỹ thuật số đều thúc đẩy tự động hóa và sự tập trung thông tin vào tay một số công ty lớn.
Cần phải có một sự lựa chọn. Điều rất thú vị cần lưu ý là ở mỗi giai đoạn của cuộc cách mạng kỹ thuật số, mọi người, không phải là những người không quan trọng, đều nghĩ rằng có thể và chắc chắn rằng các công cụ kỹ thuật số sẽ đóng vai trò phi tập trung hóa và dân chủ hóa.
Vào đầu kỷ nguyên máy tính cá nhân được phổ biến rộng rãi, nhà hoạt động chính trị và nhà công nghệ Ted Nelson tin rằng các công ty lớn đang giết chết công nghệ vì họ khai thác nó sai cách. Ông cho rằng có thể có một con đường khác. Ted Nelson chưa bao giờ tạo ra bước đột phá về công nghệ, nhưng theo tôi, một số người khác đã và đang tạo ra những hình mẫu tốt hơn nhiều cho các loại AI mà chúng ta mong muốn.
Vào thời điểm Alan Turing đang phát triển tầm nhìn của mình về máy tính và tương lai của chúng, nhà toán học và kỹ sư nổi tiếng, Norbert Wiener, đang tạo ra những công trình đáng chú ý. Ngay từ năm 1949, ông đã lo ngại về quá trình tự động hóa công việc của robot cũng như những ảnh hưởng đến người lao động và tiền lương. Trong nghiên cứu của mình, Norbert Wiener đã trình bày một tầm nhìn khác về những gì công nghệ nên làm. Chúng ta có thể gọi nó bằng khái niệm “tính hữu dụng của máy/machine usefulness”, để đối chiếu nó với trí thông minh của máy. Máy móc phải phục vụ con người và hoạt động của con người. Norbert Wiener, bản thân là một kỹ sư lý thuyết, chưa bao giờ đề xuất các công nghệ để đạt được điều này, nhưng một số người khác đã làm điều này. Douglas Engelbart và các học trò của ông, trong những năm 1950 và 1960, đã đạt được nhiều tiến bộ như phát minh ra chuột, máy tính theo yêu cầu, siêu liên kết, siêu văn bản... mà ngày nay chúng ta coi là đương nhiên, bởi vì chúng cấu trúc nên thế giới của chúng ta. Những công cụ này không phải là kết quả của tầm nhìn rằng chúng ta nên tự động hóa mọi thứ bằng mọi giá. Ngược lại, chúng cho thấy khả năng bổ sung giữa con người và máy móc.
Máy móc phải phục vụ con người và hoạt động của con người.
Daron Acemoğlu
Joseph Carl Robnett Licklider, người có thể được coi là cha đẻ của Internet vì ông đã xây dựng và ủng hộ sự phát triển của nó trong ARPA, cũng có ý tưởng tương tự. Ông nói về nó với một thuật ngữ cần được lấy lại: sự cộng sinh giữa người và máy/man machine symbiosis. Đây là những nhà tư tưởng đã nghĩ đến sự chuyển hướng. Bằng cách theo họ, chúng ta có thể phát triển các công cụ theo cách cho phép con người làm được nhiều hơn chứ không phải ít hơn.
AI, nếu được thiết kế mà không chỉ giới hạn trong tự động hóa, có thể đi theo hướng này. Là một công cụ thông tin, nó có thể trao quyền cho nhiều người hơn là tìm cách thay thế họ.
Tuy nhiên, đây không phải là hướng chúng ta đang đi. Làm thế nào để nói lên điều gì đó không giống như điều mơ tưởng? Tôi hiểu rằng người ta có thể nghĩ rằng mọi thứ diễn ra như thể tôi đã mặc nhiên khẳng định rằng tất cả những thiên tài vĩ đại của Thung lũng Silicon không biết điều gì là tốt nhất cho tất cả chúng ta, cho xã hội và cho các thể chế của chúng ta và rằng chúng tôi, những nhà phân tích, những người đứng ngoài sự phát triển, không thể có một tầm nhìn khác về những gì có lẽ đáng mong muốn hơn... Quy định của chính phủ và áp lực xã hội có thể thay đổi cục diện. Nhiều nhà kinh tế học sẽ nói rằng đây là lý luận viển vông, nhưng nó không hề viển vông như người ta tưởng.
Một ví dụ minh họa rất rõ điều này: lĩnh vực năng lượng. Trong nhiều thập kỷ, chúng ta xây dựng càng ngày càng nhiều công nghệ dựa trên nhiên liệu hóa thạch. Các kỹ sư triển khai chúng đã không tính đến việc rằng, mặc dù công nghệ nhiên liệu hóa thạch mang lại lợi nhuận rất lớn cho họ, nhưng chúng lại không tốt cho xã hội. Đã cần phải có các cuộc đàm phán, quy định, hành động của một số chính phủ, trợ cấp cho đổi mới xanh và áp lực từ xã hội để thay đổi cục diện. Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, năng lượng tái tạo đắt gấp 20 lần để sản xuất điện. Nhưng chúng ta đã được hưởng lợi từ những tiến bộ công nghệ to lớn và học hỏi qua thực tiễn.
Ngày nay, chúng rẻ hơn nhiên liệu hóa thạch để sản xuất điện.
Con đường của chúng ta không đã được vạch ra. Chúng ta vẫn có thể chuyển hướng.
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: “Le futur de l’IA dépend de nos choix”, Le grand continent, 17.10.2025
Chú
thích: [1]
Bài viết này là bản phiên âm được điều chỉnh của bài giảng khai mạc Albert Hirschman, do chương trình Quản lý Chuyển đổi Xã hội của UNESCO phát động vào ngày 8 tháng 10 tại UNESCO ở Paris. Hội nghị Albert Hirschman tiêu biểu cho một phương thức mới được thiết kế nhằm thúc đẩy đối thoại về những thách thức toàn cầu cấp bách và xúc tác sự khảo sát trí tuệ trong khoa học xã hội cho các thế hệ nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, nhà hoạt động và nhà hoạt động xã hội dân sự trong tương lai. Thông qua hội nghị thường niên này, UNESCO cung cấp một nền tảng cho các trí thức cấp cao và các nhà nghiên cứu nổi tiếng từ nhiều lĩnh vực khác nhau để thảo luận về các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh liên ngành. [2]
Định lý dân gian/Folk Theorem. Chúng tôi sử dụng bản dịch của Bernard Guerrien được một số nhà lý thuyết trò chơi sử dụng. Thuật ngữ này chỉ định một định lý phổ biến mà không thể quy nó cho một tác giả cụ thể. Đôi khi nó còn được dịch là “định lý dân gian”. Xem Eulalia Damaso, “Dịch giả đối mặt với một lĩnh vực chuyên môn”, ASp, 11-14 | 1996, 181-193. (NDT)