14.8.22

Thời đại thái cực 1914 (13): “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (13)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

Phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

Phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ hai

THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

Chương 13

“CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN TỒN”

“Cách mạng tháng Mười không những đã tạo ra sự kiện lịch sử là phân chia thế giới khi nó kiến lập nhà nước và xã hội hậu – tư bản chủ nghĩa đầu tiên, mà nó còn tách bạch học thuyết Marx khỏi các phong trào chính trị XHCN. […] Sau Cách mạng tháng Mười, các chiến lược và viễn tượng XHCN bắt đầu dựa trên một mô hình chính trị cụ thể hơn là trên sự phân tích chủ nghĩa tư bản”.

Göran THERBORN (1985, tr. 227)

 

“Ngày nay, các nhà kinh tế học […] hiểu rõ các phương thức hiện tồn của sự vận hành kinh tế hơn trước đây rất nhiều – phương thức hiện tồn đối lập với phương thức hình thức. Họ biết là có một “nền kinh tế thứ hai”, thậm chí một “nền kinh tế thứ ba”, và cả một mớ hỗn độn những thực tiễn bán chính thức khá phổ biến, mà nếu không có chúng, thì không tài nào một nền kinh tế có thể vận hành được.

Moshe LEWIN, trong Kerblay (1983, tr. XXII)

 

I

 

Vào đầu thập niên 1920, khi cuộc thế chiến và cuộc nội chiến đã tàn lụi, khi máu trên các tử thi và trên những vết thương đã đông đặc, thì Đế quốc Nga Chính thống giáo của triều đại Sa hoàng trước năm 1914 lại trỗi dậy, gần như nguyên vẹn – chỉ khác là nó đặt dưới chính quyền của những người Bolshevik, và nó lao vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn thế giới. Trong tất cả các đế chế cha truyền con nối hay tôn giáo đã tồn tại từ xưa, Đế quốc Nga là đế quốc duy nhất còn tồn tại sau Thế chiến thứ Nhất. Cuộc Chiến tranh Thế giới 1914-1918 này đã đánh sập Đế chế Ottoman, mà quốc vương cũng là giáo chủ của mọi người Islam, và cả Đế chế Habsburg có quan hệ đặc biệt với Giáo hội Công giáo Roma. Cả hai đế chế này đã sụp đổ trong chiến bại. Nếu nước Nga còn tồn tại dưới hình thái một thực thể đa dân tộc duy nhất, trên lãnh thổ mênh mông, từ biên giới Ba Lan phía Tây tới gần Nhật Bản phía Đông, chắc chắn là nhờ có Cách mạng tháng Mười, bởi vì những lực li tâm đã làm tan rã các đế chế khác, đến cuối thập niên 1980, đã nổi lên hay tái hiện ở Liên Xô, khi hệ thống cộng sản, nhân tố gắn kết sự tồn tại của liên bang từ năm 1917, đã buông tay từ nhiệm. Tương lai chưa biết sẽ ra sao, nhưng vào đầu thập niên 1920, Nga là nhà nước thống nhất, cực kì nghèo nàn và lạc hậu – hơn cả nước Nga Sa hoàng – nhưng to lớn “hoành tráng”: trong những thập niên giữa hai cuộc Đại chiến, người cộng sản vẫn luôn khoe khoang “1/6 diện tích thế giới”, với nhiệm vụ lịch sử là xây dựng một xã hội mới, đối nghịch với chủ nghĩa tư bản.

Đến năm 1945, biên giới của khu vực thế giới li khai với chủ nghĩa tư bản toàn cầu lại được mở rộng một cách ngoạn mục. Ở châu Âu, khu vực này bây giờ bao gồm toàn bộ vùng đất ở phía Đông một giới tuyến, đại để, đi từ sông Elbe (Đức) xuống biển Adriatic, lại có thêm tất cả bán đảo Balkan trừ Hi Lạp và phần đất nhỏ bé của Thổ Nhĩ Kì nằm ở châu Âu. Từ nay, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Nam Tư, Romania, Bulgaria và Albania, tất cả đều nằm trong khu vực XHCN, cũng như phần đất nước Đức do Hồng quân chiếm đóng sau chiến tranh và từ năm 1949 trở thành CHDC Đức. Từ 1939 đến 1945, Liên Xô đã thu hồi hay thụ đắc phần lớn các lãnh thổ mà nước Nga mất đi sau Thế chiến thứ Nhất và Cách mạng 1917, cộng thêm một hai lãnh thổ thuộc Đế chế Habsburg. Trong khi đó, Viễn Đông trở thành vùng đất bành trướng mạnh mẽ của khu vực XHCN tương lai, với thắng lợi của các chế độ cộng sản ở Trung Quốc (1949), một phần Triều Tiên (1945), và ở cả Đông Dương thuộc Pháp cũ (Việt Nam, Lào, Campuchia) trong cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975). Cương vực cộng sản sau đó còn mở rộng thêm nữa sang Tây bán cầu – ở Cuba (1959) và trong thập niên 1970 ở Châu Phi – nhưng, đại để, khu vực XHCN trên trái đất đã định hình năm 1950. Do tầm cỡ dân số Trung Quốc, các nước XHCN bao gồm gần 1/3 dân số thế giới, trong khi mà dân số trung bình của các quốc gia XHCN – không kể Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam (58 triệu người [1990 dân số Việt nam là 70 triệu người, chú thích của ND]) – không có gì đặc biệt quan trọng: dân số các nước này từ 1,8 triệu (người Mông Cổ) đến 36 triệu (người Ba Lan).

Trong những năm 1960, từ ngữ của hệ tư tưởng Soviet gọi chung chế độ các nước này dưới cái tên “chủ nghĩa xã hội hiện tồn”: thành ngữ này khá mập mờ, hàm ý hay gợi ý có thể có những hình thái khác của chủ nghĩa xã hội, thậm chí tốt đẹp hơn nữa kia, nhưng trên thực tế, đó là hình thái duy nhất có thể vận hành. Cuối thập niên 1980, châu Âu chứng kiến sự sụp đổ của các hệ thống kinh tế - xã hội ấy, và cùng với chúng, là các chế độ chính trị. Ở phương Đông, các hệ thống chính trị còn duy trì, song công cuộc tái cấu trúc kinh tế được thực hiện ở những cấp độ khác nhau, trên thực tế là thủ tiêu chủ nghĩa xã hội như nó đã tồn tại, đặc biệt ở Trung Quốc. Ở các nơi khác, đây đó những chế độ mô phỏng “chủ nghĩa xã hội hiện tồn” cũng đã sụp đổ, hoặc cũng chẳng tồn tại thêm bao lâu nữa.

Nhận xét đầu tiên cần nêu ra, về địa bàn XHCN trên thế giới, là hầu như trong suốt thời gian tồn tại, nó hợp thành một tiểu vũ trụ khép kín và li khai về kinh tế cũng như chính trị với phần còn lại của thế giới. Quan hệ của nó với nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa hay do chủ nghĩa tư bản của các nước phát triển chế ngự hết sức là đơn sơ. Ngay ở điểm đỉnh của mậu dịch quốc tế trong Thời đại Hoàng kim, chỉ có 4% xuất khẩu của các nước thuộc nền kinh tế thị trường là hướng sang các nước “kinh tế có kế hoạch”; và, trong thập niên 1980, phần xuất khẩu của Thế giới sang các nước XHCN cũng chẳng cao gì hơn. Tỉ trọng xuất khẩu của các nước XHCN sang các nước khác tương đối cao hơn, nhưng tổng khối lượng xuất khẩu không cao, và trong những năm 1960 (năm 1965) 2/3 mậu dịch quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa là trao đổi giữa họ với nhau[115] (UN International Trade, 1983, I, tr. 1046).

Do những nguyên nhân hiển nhiên, luồng di chuyển dân cư từ thế giới “thứ nhất” sang thế giới “thứ hai” rất hạn chế, mặc dầu từ những năm 1960 trở đi, một số nước Đông Âu đã bắt đầu khuyến khích du lịch đại chúng. Sự di cư hay du lịch sang các nước không XHCN bị kiểm soát chặt chẽ; có lúc, hầu như không thể. Hệ thống chính trị của các nước XHCN, chủ yếu sao chép từ mô hình Liên Xô, các nước khác hầu như không có nước nào như thế. Chúng dựa trên một đảng duy nhất, cực quyền và tôn ti trên dưới chặt chẽ; đảng nắm độc quyền nhà nước – đôi khi thay thế cả nhà nước –, quản lí một nền kinh tế kế hoạch hóa, dễ bảo, và bắt buộc mọi người dân phải tuân phục hệ tư tưởng mác-xít lê-ni-nít (ít nhất về mặt lí thuyết). Sự cách li hay tự cách li của “phe XHCN” (đây là danh từ của Liên Xô, áp đặt từ cuối thập niên 1940 trở đi) từ những năm 1970 và 1980 trở đi, từng bước bị rạn nứt. Tuy nhiên, tình trạng không biết gì về nhau, không hiểu nhau giữa hai thế giới lên tới mức lạ thường, trong một thời đại diễn ra cả một cuộc cách mạng trong lãnh vực du hành và truyền bá thông tin. Trong suốt những thời gian dài, các nước này để lọt rất ít thông tin ra ngoài, và cũng ngăn chặn thông tin từ các nước khác vào. Ngoài các chuyên gia, ngay những công dân có học và sáng suốt ở Thế giới thứ Nhất cũng khó mà hiểu nổi ý nghĩa những điều mà họ trông thấy hoặc nghe thấy tại những nước mà quá khứ và hiện tại khác xa nước họ, lại thêm ngôn ngữ bất đồng.

Vladimir Lenin (1870-1924)

Nguyên nhân sâu xa của sự chia cách làm hai “phe” hẳn là chính trị. Thật vậy, sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga Soviet coi chủ nghĩa tư bản là kẻ thù phải tiêu diệt bằng cách mạng thế giới ngay khi có cơ hội. Cách mạng không xảy ra, Liên Xô bị cô lập, bao quanh là cả một thế giới tư bản chủ nghĩa trong đó nhiều chính phủ cường quốc lớn mạnh nhất muốn ngăn chận việc thành lập trung tâm của sự sách động quốc tế, và sau đó, tiêu diệt nó ngay khi nào có khả năng. Chỉ một việc là mãi đến năm 1933 Liên Xô mới được Hoa Kỳ công nhận về mặt ngoại giao cũng đủ chứng tỏ rằng ngay từ đầu, nhà nước này bị xếp vào loại Paria. Thêm vào đó, trong khi mà Lenin, một người hết sức thực tế, sẵn sàng nhượng bộ rất nhiều để tiếp nhận đầu tư của nước ngoài, đổi lấy sự hỗ trợ của họ để phát triển nền kinh tế của nước Nga, thì rốt cuộc không có nước nào đáp ứng. Vì vậy Liên Xô non trẻ buộc phải đi vào con đường phát triển độc lập, hầu như biệt lập đối với nền kinh tế thế giới bên ngoài. Ngược đời thay, điều này nhanh chóng sẽ cung cấp cho Liên Xô một luận điểm về tư tưởng mạnh mẽ. Dường như Liên Xô không bị suy suyển gì trong cuộc Đại Khủng hoảng kinh tế đã tàn phá nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sau cuộc phá sản tài chính phố Wall năm 1929.

Một lần nữa, chính trị lại làm cho Liên Xô thêm cô lập trong thập niên 1930, và sau năm 1945, khối Liên Xô mở rộng còn bị cô lập hơn nhiều nữa. Chiến tranh Lạnh đã đóng băng các quan hệ kinh tế và chính trị giữa hai phe. Trên thực tế, toàn bộ các mối quan hệ quốc tế – ngoại trừ những quan hệ không mấy quan trọng (và những quan hệ không ai muốn công khai thừa nhận) – đã bị bộ máy nhà nước của cả hai phe kiểm soát nghiêm nhặt. Thương mại giữa hai khối tùy thuộc vào quan hệ chính trị. Phải đợi sang những năm 1970 và 1980 mới thấy những dấu hiệu hội nhập của nền kinh tế “phe XHCN” vào nền kinh tế thế giới. Ngày nay nhìn lại, với khoảng cách thời gian, người ta có thể thấy rõ rằng, đối với “chủ nghĩa xã hội hiện tồn”, đó là khởi đầu của sự cáo chung. Đứng về mặt lí thuyết mà nói, sau cuộc thế chiến và cuộc nội chiến, không có lí do gì ngăn cản nền kinh tế Liên Xô đặt quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế thế giới. Thật vậy, giữa nền kinh tế kế hoạch hóa và nền kinh tế kiểu phương Tây, có thể có những liên hệ mật thiết: thí dụ năm 1983, 1/4 nhập khẩu của Phần Lan là từ Liên Xô, và Phần Lan cũng xuất sang Liên Xô một bộ phận tương ứng. Song, nhà sử học không quan tâm tới cái “phe XHCN” lẽ ra có thể có, mà quan tâm tới “phe XHCN” như nó đã thực sự tồn tại.

Sự kiện cốt lõi là các nhà lãnh đạo mới của nước Nga Soviet, là đảng Bolshevik, không bao giờ nghĩ rằng nước Nga sẽ phải sống trong sự cô lập, và tất nhiên, lại càng không chờ đợi rằng nước Nga sẽ trở thành hạt nhân của một nền kinh tế tập thể tự cung tự cấp (“chủ nghĩa xã hội trong một nước duy nhất”). Những điều kiện mà Marx hay đồ đệ của ông cho là thiết yếu để kiến lập một nền kinh tế XHCN hoàn toàn thiếu vắng trên dải đất mênh mông ấy, hầu như đồng nghĩa với sự lạc hậu về kinh tế và xã hội ở châu Âu. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx giả định chức năng của một cuộc cách mạng ở Nga là châm ngòi cho sự bùng nổ cách mạng ở các nước công nghiệp tiên tiến nhất, là nơi hội đủ những điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vận hội ấy dường như đã tới ở thời điểm 1917-1918, xác minh quyết định của Lenin là huy động đảng Bolshevik cướp chính quyền vì chủ nghĩa xã hội, một quyết định bị phản đối mạnh mẽ, ít nhất trong giới mác-xít. Đứng ở quan điểm của Lenin, Moskva chỉ có thể là bộ tư lệnh tạm thời của chủ nghĩa xã hội, trong khi chờ đợi Berlin đảm nhiệm chức năng thủ đô thường trực. Không phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ chính thức của Quốc tế Cộng sản, được thành lập năm 1919 dưới hình thái một bộ tham mưu của cách mạng thế giới, là, và tiếp tục là tiếng Đức, không phải tiếng Nga.

Nikita Khrushchev (1894-1971)
Harold Macmillan (1894-1986)

Khi thấy rằng nước Nga Soviet, trong một thời gian có thể dài lâu, là nước duy nhất tiến hành thành công cách mạng vô sản, thì đường lối logic (và duy nhất có tính thuyết phục) đối với người Bolshevik là nhanh chóng thay đổi đất nước lạc hậu thành một xã hội tiên tiến. Để đạt được mục đích ấy, con đường duy nhất hiển nhiên là tiến công toàn diện vào tình trạng lạc hậu về văn hóa của quần chúng nổi tiếng là u mê, mù chữ, mê tín, đồng thời đẩy mạnh công cuộc hiện đại hóa kĩ thuật và cách mạng công nghiệp. Do đó, chủ nghĩa cộng sản theo kiểu Liên Xô chủ yếu sẽ là một cương lĩnh nhằm biến đổi những nước lạc hậu thành những nước tiên tiến. Giữa Thời đại Tai họa, sự chủ tâm vào tăng trưởng kinh tế cực nhanh không phải là không có hấp lực ngay ở trong thế giới tư bản chủ nghĩa phát triển, vào lúc mà thế giới này tuyệt vọng tìm mọi cách khôi phục lại năng động kinh tế của mình. Sự hấp dẫn còn lớn hơn nữa đối với những khu vực ngoài Bắc Mỹ và Tây Âu, vì đại bộ phận khu vực này gần gũi với cảnh ngộ nông nghiệp lạc hậu của nước Nga. Cung cách phát triển của Nga xem ra rất phù hợp với các nước này: kế hoạch hóa tập trung, đặt trọng tâm là nhanh chóng xây dựng công nghiệp cơ bản và cơ sở hạ tầng cần thiết cho một xã hội công nghiệp hiện đại. Moskva không những là một mô hình hấp dẫn hơn Detroit hay Manchester vì lập trường chống chủ nghĩa đế quốc, mà dường như đó còn là một mô hình thích hợp hơn, nhất là đối với những nước thiếu vốn tư nhân, không có một nền công nghiệp tư nhân mà động lực là tìm kiếm lợi nhuận. Hiểu trong ý nghĩa đó, “chủ nghĩa xã hội” trở thành nguồn cảm hứng cho một số nước thuộc địa cũ đã trở thành độc lập sau Thế chiến thứ Hai, mà chính quyền lại không chấp nhận chính thể cộng sản (xem ch. 12). Vì các nước chấp nhận chính thể này cũng là những nước lạc hậu và nông nghiệp (ngoại trừ Tiệp Khắc, nước CHDC Đức sau này, và trong một chừng mực nhất định, Hungaria), phương thức Liên Xô có vẻ thích hợp với họ, nên các nhà lãnh đạo mới lên cầm quyền đã hào hứng chọn lựa con đường xây dựng kinh tế này. Hơn nữa, phương thức này tỏ ra có hiệu quả. Trong thời gian giữa hai cuộc Thế chiến, và nhất là trong thập niên 1930, tỉ số tăng trưởng kinh tế của Liên Xô cao hơn tất cả các nước khác, trừ Nhật Bản. Trong 15 năm sau ngày Thế chiến thứ Hai kết thúc, nền kinh tế của các nước trong “phe XHCN” đã tăng trưởng nhanh hơn hẳn các nước phương Tây, đến mức mà những nhà lãnh đạo Liên Xô như Nikita Khrushchev tin tưởng thành thật rằng đường biểu diễn đồ thị của sự tăng trưởng sẽ tiếp tục theo đà, và trong một tương lai có thể dự đoán, chủ nghĩa xã hội sẽ vượt qua chủ nghĩa tư bản; của đáng tội, thủ tướng Anh Harold Macmillan cũng nghĩ như vậy. Và, trong những năm 1950, không hiếm nhà quan sát cũng tự hỏi điều này có khả năng hiện thực tới đâu.

Nikolai Bukharin (1888-1938)
Friedrich Engels (1820-1895)

Điều khá kì khôi, là tuy sự kế hoạch hóa là điều mặc nhiên trong một nền kinh tế xã hội hóa, thì trong các trước tác của Marx và Engels, tuyệt nhiên không tìm ra chỗ nào phân tích về kế hoạch hóa – cũng như không thấy nghiên cứu gì về công nghiệp hóa nhanh chóng dựa trên ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Trước năm 1917, các nhà XHCN – mác-xít hay không mác-xít – quá bận tâm với việc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản để nghiền ngẫm về bản chất nền kinh tế sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. Và, sau tháng Mười, chính Lenin đã nhúng chân vào vùng nước sâu của chủ nghĩa xã hội – nói theo hình tượng của ông – cũng tránh trầm mình vào vùng nước lạ. Chính cuộc khủng hoảng do cuộc nội chiến đã đưa đẩy sự việc theo dòng chảy của nó. Nó đã dẫn tới quốc hữu hóa toàn bộ các ngành công nghiệp trong năm 1918, tới “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” qua đó nhà nước Bolshevik buộc phải chiến đấu một mất một còn chống phản cách mạng và sự can thiệp của nước ngoài, cố gắng huy động mọi tài lực để đạt mục đích. Mọi nền kinh tế chiến tranh, ngay ở các nước tư bản chủ nghĩa, đều đòi hỏi phải kế hoạch hóa và sự kiểm soát của nhà nước. Thật vậy, quan niệm của Lenin về kế hoạch hóa dựa theo kinh tế chiến tranh 1914-1918 của Đức – mà ta đã thấy, đó không phải là mô hình tốt nhất của thời đó về kế hoạch. Vì những lí do nguyên tắc, các nền kinh tế chiến tranh theo kiểu cộng sản đương nhiên là muốn thay thế quyền sở hữu và quản lý tư bằng quyền sở hữu và quản lý công, và bỏ qua thị trường và cơ chế giá cả, nhất là các công cụ ấy chẳng ích lợi khi phải ứng phó từng ngày từng giờ để huy động lực lượng đất nước. Thậm chí có những người cộng sản lí tưởng chủ nghĩa, như Nikolai Bukharin, tìm thấy trong bối cảnh nội chiến cơ hội để vạch ra cấu trúc vĩ đại của một cõi Không tưởng cộng sản chủ nghĩa, và trong nền kinh tế đen tối của cuộc khủng hoảng, trong sự thiếu thốn thường trực và phổ biến, sự phân phối không qua tiền tệ các nhu yếu phẩm theo tem phiếu – bánh mì, áo quần, vé xe buýt – họ hình dung ra lí tưởng xã hội khắc kỉ của mình. Thực ra, khi chế độ Soviet đã kết thúc thắng lợi các cuộc đấu tranh 1918-1920, thì mọi người đều thấy không thể tiếp tục “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” như vậy nữa, mặc dầu trong thời chiến tranh, không thể nào làm khác. Trước hết, vì người nông dân chắc chắn sẽ nổi loạn nếu lương thực, nguồn sống mà họ làm ra, bị trưng thu bằng vũ trang; vì người công nhân sẽ nổi loạn vì quá kham khổ; sau nữa, đó dứt khoát không phải là phương pháp hiệu quả để khôi phục một nền kinh tế hầu như đã bị phá hủy hoàn toàn. Từ 4,3 triệu tấn năm 1913, sản xuất công nghiệp luyện kim năm 1920 tụt xuống 200.000 tấn.

Bình sinh là người thực tế, năm 1921 Lenin đã phát động đường lối kinh tế mới, NEP, trở lại thị trường và, nói đúng theo câu chữ của Lenin, rút lui từ “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” về “chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Đó cũng chính là lúc – nền kinh tế vốn lạc hậu của nước Nga, khi đó tụt xuống còn 10% so với mức tiền chiến (xem ch. 2) – mà nhà cầm quyền Liên Xô nhận thức rõ nhà nước nhất thiết phải đẩy mạnh và kế hoạch hóa công cuộc công nghiệp hóa. Trong khi chính sách NEP dẹp bỏ chủ nghĩa cộng sản thời chiến, thì sự kiểm soát của Nhà nước và cưỡng bức vẫn là mô hình duy nhất có thể sử dụng để điều hành một nền kinh tế xã hội hóa về mặt quyền sở hữu cũng như về quản lí. Năm 1920, cơ quan phụ trách kế hoạch nhà nước đầu tiên, Ủy ban Nhà nước phụ trách điện khí hóa nước Nga (GOELRO) có nhiệm vụ đương nhiên là hiện đại hóa công nghệ, nhưng Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (Gosplan), thành lập năm 1921, lại có những mục tiêu phổ quát hơn. Dưới tên gọi không đổi này, nó tiếp tục cho đến ngày tàn của Liên Xô. Trong thế kỉ XX, Gosplan đã trở thành thủy tổ và nguồn cảm hứng cho tất cả các định chế nhà nước có mục đích hoạch định kế hoạch kinh tế, thậm chí giám sát các nền kinh tế về mặt vĩ mô.

Joseph Stalin (1878-1953)
Leon Trotsky (1879-1940)

NEP đã trở thành trung tâm một cuộc thảo luận say mê ở Nga trong những năm 1920, rồi sau đó vào những năm 1980 đầu thời kì Gorbachev, song với những nguyên do trái nghịch nhau. Trong thập niên 1920, người ta coi đó rõ ràng là một thất bại của chủ nghĩa cộng sản, hay ít nhất, đối với những đạo quân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường vòng, rời xa con đường chính, nên bằng cách này hay cách khác, cũng phải quay trở lại. Những người thuộc xu hướng triệt để, thí dụ như những người ủng hộ Trotsky, thì chủ trương phải nhanh chóng chấm dứt NEP và phát động phong trào công nghiệp hóa ồ ạt: chủ trương này cuối cùng đã được thực hiện dưới thời Stalin. Những người ôn hòa thì đứng về phía Bukharin là người đã từ bỏ tinh thần cực đoan những năm cộng sản thời chiến, họ ý thức sâu sắc về những ràng buộc chính trị và kinh tế là bối cảnh hành động của chính quyền Bolshevik trong một nước mà nét chủ đạo là nền kinh tế nông nghiệp nông dân trước cách mạng. Cho nên họ chủ trương cải tổ từng bước. Sau khi bị tai biến năm 1922, trở thành tê liệt (chỉ còn sống cho tới đầu năm 1924), Lenin không phát biểu được đầy đủ ý kiến của mình, nhưng trong thời gian còn phát biểu được, dường như Lenin cũng chủ trương tiến hành từng bước. Còn về sau, trong thập niên 1980, các cuộc tranh luận diễn ra dưới dạng thức nhìn lại quá khứ, xem có con đường nào thay thế chủ nghĩa Stalin để xây dựng chủ nghĩa xã hội sau thời kì NEP hay không: một con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thật sự khác con đường của phái hữu và của phái tả Bolshevik những năm 1920. Với khoảng cách thời gian, Bukharin trở thành một nhân vật “tiền-Gorbachev”.

Các cuộc tranh luận ấy không còn ý nghĩa nữa. Với khoảng cách thời gian, người ta có thể thấy rõ rằng luận điểm ban đầu biện minh cho quyết định thành lập chính quyền XHCN ở Nga không còn đứng vững ngay từ ngày “cách mạng vô sản” đã thất bại trong cuộc giành chính quyền ở Đức. Tệ hại hơn nữa, nước Nga sau cuộc nội chiến còn bị tàn phá và tụt hậu so với thời Sa hoàng. Sa hoàng, giai cấp quý tộc, tiểu quý tộc và giai cấp tư sản tất nhiên không còn nữa. Hai triệu người đã di cư, khiến cho Liên Xô mất đi một phần quan trọng lực lượng cán bộ có học. Và cũng mất đi luôn cuộc phát triển công nghiệp của thời kì Sa hoàng và phần đông thợ thuyền trong công nghiệp, nền tảng chính trị và xã hội của đảng Bolshevik. Cách mạng và nội chiến đã hoặc giết chết hoặc phân tán giới thợ thuyền, số còn lại được chuyển công tác từ nhà máy sang bộ máy nhà nước và bộ máy đảng. Còn lại là một nước Nga chìm đắm trong quá khứ, một khối bất di bất dịch những người nông dân sống trong những cộng đồng làng xã mới tái lập, và đi ngược lại chủ trương mác-xít trước đó, cách mạng đã chia ruộng đất cho họ, hay đúng hơn, năm 1917-1918, cách mạng đã chấp nhận sự chiếm hữu và phân chia của nông dân, coi đó là cái giá phải trả cho sự thắng lợi và sống còn của mình. Về nhiều mặt, NEP là một thời kì hoàng kim ngắn ngủi cho nước Nga nông dân. Đảng Bolshevik như treo lơ lửng ở trên đầu khối quần chúng nông dân và chẳng còn đại diện cho tầng lớp nào cả. Vốn là người sáng suốt, Lenin thừa nhận rằng Đảng Bolshevik chỉ đạt được một mục tiêu duy nhất là: nắm chính quyền và chính quyền có khả năng tồn tại và được chấp nhận. Ngoài ra, chẳng có gì khác. Thực tế mà nói, nước Nga được cai trị bằng một khối hỗn độn những phần tử quan liêu lớn bé đủ loại, trình độ học vấn và khả năng trung bình kém thời trước.

Thử hỏi chính quyền Soviet, bị các chính phủ tư bản nước ngoài cô lập và tẩy chay, không chấp nhận việc truất hữu tài sản và đầu tư của họ ở Nga, có những khả năng chọn lựa gì? Thành công chói sáng của NEP là đã đưa nền kinh tế Liên Xô thoát khỏi hoang tàn của năm 1920. Năm 1926, sản xuất công nghiệp Soviet nói chung đã trở lại mức độ tiền chiến, phải nói là không cao gì cho lắm. Liên Xô vẫn chủ yếu là nước nông thôn không khác gì năm 1913 – dân số nông thôn vẫn là 82% (Bergson/Levine, 1983, tr. 100; Nove, 1969), và thực ra chỉ có 7,5% dân số ở tuổi lao động là làm việc ở ngoài khu vực nông nghiệp. Khối nông dân to lớn ấy chịu bán gì cho thành thị, muốn mua gì của thành thị, họ muốn tiết kiệm theo tỉ lệ nào, có bao nhiêu người sẵn sàng rời ruộng đất để chấp nhận cuộc sống khổ cực ở thành thị thay vì có cái ăn ở thôn quê – đó là những tham số quy định tương lai kinh tế Nga, bởi vì ngoài các khoản thuế má, Liên Xô không có một nguồn đầu tư và nhân lực nào khác. Không xét tới các mặt chính trị gì khác, có thể nói nếu tiếp tục chính sách NEP thì giỏi lắm cũng chỉ có thể công nghiệp hóa với nhịp độ khiêm nhường. Thêm nữa, chừng nào sự phát triển công nghiệp chưa đạt được một quy mô lớn hơn hẳn, thì người nông dân chẳng thấy ở thành phố có cái gì đáng mua, họ thà giữ lương thực thặng dư để ăn và nấu rượu nhật nhẹt còn hơn. Hiện tượng này, thường được gọi là “cuộc khủng hoảng những cái kéo”, là cái dây thòng lọng sẽ thắt cổ NEP. 60 năm sau, một cuộc khủng hoảng “kéo” lại tái diễn, lần này không phải là nông dân mà là công nhân vô sản, và nạn nhân là chính sách perestroika của Gorbachev. Người công nhân hỏi tăng năng suất làm gì, lĩnh thêm nhiều lương làm gì nếu không có hàng hóa tiêu thụ để mà mua? Nhưng làm sao sản xuất ra hàng tiêu thụ nếu không tăng năng suất?

Thành thử không thể có khả năng NEP – tức là một tốc độ tăng trưởng kinh tế cân đối, dựa trên kinh tế thị trường nông dân dưới sự cai quản của nhà nước giữ vai trò chỉ huy – trở thành một chiến lược bền vững. Và đối với một chính thể thiết tha với chủ nghĩa xã hội, thì những luận điểm chính trị theo chiều hướng đối nghịch tất nhiên có sức nặng to lớn. Chẳng phải NEP làm cho những lực lượng còn yếu ớt của xã hội tương lai phải lệ thuộc vào sản xuất nhỏ, vào tiểu doanh nghiệp, mầm mống tái sinh của chủ nghĩa tư bản mà cách mạng vừa lật đổ đó sao? Tuy vậy, đảng Bolshevik cũng đã đắn đo trước cái giá phải trả nếu đi theo con đường khác, tức là con đường công nghiệp hóa cưỡng bách: nói khác đi, một cuộc cách mạng thứ hai, lần này không phát động từ dưới lên, mà phải được áp đặt từ trên xuống.

Stalin, người chủ trương thời kì sắt thép sau đó ở Liên Xô, là một nhà độc tài hung tợn, tàn ác và táng tận lương tâm hiếm có, nếu không nói độc nhất vô nhị. Ít ai đã thi hành chính sách khủng bố với quy mô tràn lan như vậy. Chắc chắn rằng với một lãnh tụ Liên Xô khác, nhân dân Liên Xô bớt đau khổ hơn, và con số nạn nhân ít đi hơn. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của thời đó, bất luận một chính sách hiện đại hóa nhanh chóng nào cũng khắt khe, cũng ắt phải có tính cưỡng bức nhất định, bởi vì nó phải áp đặt trên đại chúng nhân dân, buộc nhân dân phải hy sinh lớn lao. Ngoài ra, nền kinh tế tập trung và tuân phục, vận hành thông qua những “kế hoạch”, có tính chất một chiến dịch quân sự hơn là một công trình kinh tế. Mặt khác, cũng giống như một chiến công quân sự có chính nghĩa và được lòng dân, chủ trương công nghiệp hóa cuồng nhiệt của những kế hoạch năm năm đầu tiên (1929-1941), đòi hỏi “máu, gian khổ, mồ hôi, nước mắt” của nhân dân lại được hưởng ứng. Churchill là người hiểu điều này: sự hy sinh có thể là động cơ thúc đẩy. Nói thì khó tin, nhưng chế độ Stalin biến nông dân trở lại thành nông nô bị buộc chặt vào ruộng đất, và làm cho khá nhiều mảng của nền kinh tế phụ thuộc vào nhân công ở các trại tù giam giữ từ 4 tới 13 triệu người (Goulag; Van der Linden, 1993), chắc chắn được sự ủng hộ rộng rãi, tất nhiên không phải của giới nông dân (Fitzpatrick, 1994).

Nền “kinh tế kế hoạch hóa” của các kế hoạch 5 năm thay thế NEP từ năm 1928 tất nhiên là một công cụ thô sơ: giản đơn rất nhiều so với những tính toán tinh tế của các nhà kinh tế học tiên phong của Gosplan trong những năm 1920, và những tính toán này so với các công cụ kế hoạch hóa của các chính phủ và các đại công ti vào cuối thế kỉ XX còn sơ sài hơn nữa. Tham vọng của nền kinh tế này là tạo dựng hơn là quản lí những ngành công nghiệp, và nó dành ưu tiên tuyệt đối cho công nghiệp nặng và sản xuất năng lượng, nền tảng của mọi nền kinh tế công nghiệp: than, luyện kim, điện khí, dầu mỏ… Do tài nguyên đặc biệt phong phú của Liên Xô, đó là sự chọn lựa logic và thuận tiện. Như trong một nền kinh tế chiến tranh – mà kinh tế kế hoạch hóa của Liên Xô là một kiểu kinh tế chiến tranh – các chỉ tiêu sản xuất có thể, và trên thực tế, thường được hoạch định bất kể giá thành và khả năng sinh lợi, tiêu chuẩn duy nhất là có thể đạt mục tiêu hay không, và bao giờ đạt mục tiêu. Và cũng như trong mọi nỗ lực tuyệt vọng, phương pháp hiệu quả nhất để đạt mục tiêu đặt ra trong thời hạn quy định là ban hành những hiệu lệnh khẩn cấp mà hậu quả là một cuộc tổng động viên. Hình thái quản lí tự nhiên của nó là khủng hoảng. Thế là nền kinh tế Liên Xô đi vào nền nếp là một tập hợp những lề thói thông thường, điểm xuyết đều đặn bằng những cú sốc gần như thành định chế, từ trên dội xuống. Về sau này, Nikita Khrushchev sẽ hoài hơi tìm kiếm một cách khác hơn là “hò hét” mệnh lệnh để vận hành bộ máy (Khrushchev, 1990, tr. 18). Trước đó, Stalin cố tình sử dụng kĩ thuật “đột kích” là đặt ra những chỉ tiêu phi hiện thực để buộc cấp dưới phải nỗ lực phi thường.

Thêm nữa, một khi các chỉ tiêu được đặt ra, còn phải được quán triệt và phổ biến – đến tận những trạm tiền tiêu xa xôi ở giữa châu Á – thông qua những viên chức, cán bộ, chuyên viên kĩ thuật và công nhân, là những người không có kinh nghiệm, đào tạo kém, quen thuộc với cái cày gỗ hơn là với máy móc, ít nhất trong thế hệ thứ nhất. (Đi thăm Liên Xô vào đầu thập niên 1930, họa sĩ biếm họa David Low đã vẽ một cô gái nông dân ở nông trang tập thể, “thẫn thờ ngồi vắt (sữa) một cái máy cày”). Kết quả của tình hình này là Liên Xô không có những thiết bị cải tiến tối tân nhất, trừ ở cấp lãnh đạo tối cao, và chính vì thế, cấp lãnh đạo này lại phải tập trung hóa cao độ. Giống như Napoléon và bộ tham mưu của ông trước đây đã phải khắc phục những yếu kém kĩ thuật của các thống chế quân đội – chủ yếu là quân nhân cơ sở chưa hề được đào tạo đã được đề bạt tại trận – các quyết định ngày càng tập trung ở cấp tối cao của chế độ Soviet. Sự siêu tập trung của Gosplan thay thế cho sự khan hiếm cán bộ. Hậu quả tiêu cực của phương thức này là sự quan liêu hóa quá mức của bộ máy kinh tế cũng như trong các lãnh vực khác của hệ thống[116].

Chừng nào nền kinh tế còn ở trình độ tạm đủ để tồn tại và chỉ phải đặt nền móng cho một nền công nghiệp hiện đại, thì hệ thống đơn sơ này (cơ bản được hình thành từ những năm 1930) còn vận hành suôn sẻ. Tự nó có thể tạo ra mức độ linh hoạt nhất định, tất nhiên cũng đơn giản. Vạch ra một loạt chỉ tiêu không nhất thiết sẽ tác động tới các chỉ tiêu khác như trong trường hợp phức tạp của một nền kinh tế hiện đại. Thật ra, đối với một nước lạc hậu và sơ khai, hoàn toàn không có ngoại viện, cuộc công nghiệp hóa cưỡng bách đã mang lại những kết quả ấn tượng, mặc dầu có nhiều lãng phí và trục trặc. Trong vòng vài năm thôi, nó đã biến Liên Xô thành một nước công nghiệp lớn, hơn hẳn nước Nga dưới thời Sa hoàng, có khả năng tồn tại và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Đức mặc dầu tạm thời bị chiếm mất những vùng lãnh thổ với 1/3 dân số, và trong nhiều lãnh vực, mất đi một nửa cơ sở công nghiệp. Thêm vào đó, phải nói ít có nước nào mà dân chúng có khả năng hay chấp nhận hi sinh đến mức như vậy trong nỗ lực chiến tranh (xem Milward, 1979, tr. 92-97) hay trong những năm 1930. Tuy nhiên, nếu hệ thống giữ tiêu thụ của dân chúng ở mức thấp nhất – năm 1940, kinh tế Liên Xô chỉ sản xuất được xấp xỉ hơn một đôi giầy cho mỗi người dân –, nó cũng đã bảo đảm được tối thiểu xã hội đó. Nó bảo đảm cho mỗi công dân công ăn việc làm, lương thực, quần áo và chỗ ở với giá mua hay giá thuê có kiểm soát (nghĩa là được nhà nước trợ cấp), hưu bổng, chăm lo y tế và sự bình đẳng tương đối; sau khi Stalin chết đi, tình hình này thay đổi khi chế độ cung cấp cho giới nomenklatura những ưu đãi đặc biệt ở ngoài vòng kiểm soát. Về giáo dục, chế độ tỏ ra rất hào phóng. Biến đổi một nước mà đa số người dân mù chữ thành một nước Liên Xô hiện đại dẫu sao cũng là một kì công. Đối với hàng triệu người dân nông thôn, thì ngay trong những lúc khó khăn nhất, sự phát triển của Liên Xô đã mở ra những chân trời mới, bứt họ ra khỏi bóng tối và ngu dốt, mang lại ánh sáng và tiến bộ, đó là không nói tới sự thăng tiến cá nhân, sự đề bạt trên đường công danh, cho nên đối với họ, bảng tổng kết là tích cực. Vả lại, họ cũng không biết có chế độ nào khác.

Tuy nhiên, thành tựu này không bao gồm nông nghiệp và những người sống vì nông nghiệp, vì cuộc công nghiệp hóa đã được thực hiện trên lưng giai cấp nông dân bị bóc lột. Cũng chẳng có gì có thể nói thêm để biện minh cho chính sách nông dân và nông nghiệp của Liên Xô, ngoài một điều là, trái với điều mà người ta thường nói, nông dân không phải là những người duy nhất chịu đựng sức nặng của sự “tích lũy ban đầu XHCN” (chữ dùng của một người thuộc xu hướng Trotsky và ủng hộ chính sách này[117]). Công nhân cũng đã phải chia sẻ gánh nặng ấy để tạo ra khối lượng tài nguyên dành cho tái đầu tư.

Nông dân – nghĩa là đa số nhân dân – không những bị xếp vào một quy chế pháp lí và chính trị hạng nhì, ít nhất cho đến Hiến pháp 1936 (thật ra không bao giờ được thi hành); không những phải đóng thuế nặng hơn và hưởng an sinh ít hơn, mà chính sách nông nghiệp cơ bản (thay thế chính sách NEP), nghĩa là tập thể hóa cưỡng bức trong khuôn khổ những hợp tác xã và nông trường, từ đầu trở đi, là cả một tai họa. Kết quả đầu tiên của chính sách này là sản lượng ngũ cốc bị giảm, đàn gia súc mất đi một nửa, gây ra nạn đói lớn trong những năm 1932-1933. Tập thể hóa đã làm giảm năng suất vốn đã thấp của nông nghiệp Nga, mãi đến năm 1940 mới tìm lại được mức độ thời NEP, rồi sau những tai họa của Thế chiến thứ Hai, đến 1950 mới trở lại mức ấy (Tuma, 1965, tr. 102). Người ta đã cố gắng bù đắp việc giảm năng suất bằng cách cơ khí hóa ồ ạt, nhưng nói chung là vô hiệu. Ngay sau chiến tranh, tình hình bước đầu khả quan, Liên Xô đã có một sản lượng thặng dư để xuất khẩu (song chưa bao giờ trở lại vị trí nước xuất khẩu lớn về lương thực như nước Nga dưới thời Sa hoàng), nhưng sau đó không đủ để nuôi dân. Kể từ đầu thập niên 1970, Liên Xô phải mua lượng thực trên thị trường ngũ cốc quốc tế, có khi phải nhập tới 1/4 nhu cầu toàn dân. Nếu không có sự nới nhẹ hệ thống tập thể, cho phép nông dân có mảnh đất cá thể – năm 1938 là 4% diện tích canh tác – để sản xuất lương thực bán ra thị trường, thì người tiêu thụ ở Liên Xô có lẽ chỉ có bánh mì đen mà ăn. Tóm lại, Liên Xô đã từ bỏ một nền nông nghiệp nông dân không hiệu quả để lập ra một nền nông nghiệp tập thể không hiệu quả mà giá thành lại cao.

Điều này phản ánh hoàn cảnh chính trị và xã hội của nước Nga Soviet nhiều hơn là phản ánh bản thân chủ trương của đảng Bolshevik. Chính sách hợp tác hóa và tập thể hóa, kết hợp với canh tác tư nhân ở mức độ nhất định – như ở các kibbutz bên Israel, mà tính chất cộng sản còn cao hơn mọi thứ ở Liên Xô – có thể mang lại kết quả, trong khi một nền nông nghiệp nông dân thuần túy nhiều khi chỉ thành công trong việc moi trợ cấp của công quyền nhiều hơn là khai thác tài nguyên từ ruộng đất[118]. Còn ở Liên Xô thì rõ ràng chính sách nông nghiệp đã thất bại hoàn toàn. Mà lại được nhiều nước XHCN khác bắt chước, ít nhất vào ban đầu.

Còn một khía cạnh phát triển khác của Liên Xô cũng khó bênh vực: nạn quan liêu hóa quá mức do chính quyền tập trung tạo ra, mà ngay Stalin cũng không trị nổi. Thật vậy, có người đã nghiêm chỉnh gợi ý rằng vào cuối những năm 1930, chính sách Đại Khủng Bố của Stalin là một cố gắng vô vọng “để phá tan cái mê hồn trận của bộ máy quan liêu, và quỷ kế của nó để tránh né sự kiểm soát và chỉ thị của chính phủ” (Lewin, 1991, tr. 17), ít nhất để ngăn chận nó trở thành giai cấp cầm quyền “hóa thành xương” [?] mà cuối cùng người ta đã chứng kiến dưới thời Brejnev. Mỗi cố gắng nhằm làm cho bộ máy hành chính uyển chuyển hơn, hiệu lực hơn đều dẫn tới kết quả là nó phình to và trở thành cần thiết, không sao bỏ đi được. Tới cuối thập niên 1930, ở Liên Xô, cứ 2 công nhân thì có 1 công chức hành chính (Lewin, 1991). Dưới thời Stalin, tầng lớp trên của giới cán bộ lãnh đạo là “những nô lệ đầy quyền lực, luôn luôn đứng bên bờ tai họa. Quyền uy và chế độ ưu đãi của họ chỉ bị đe dọa bởi cái chết có thể ập tới bất cứ lúc nào”. Sau thời Stalin, hay đúng hơn, sau khi truất phế Nikita Khrushchev, “thủ trưởng” cuối cùng, thì chế độ Liên Xô không còn gì có thể ngăn cản được sự trì trệ.

Khuyết tật thứ ba của chế độ – cái đã dẫn tới sự chìm tàu – là sự thiếu uyển chuyển, thiếu linh động. Hệ thống Liên Xô được tổ chức để bảo đảm sự tăng trưởng liên tục của sản xuất của cải mà thuộc tính và chất lượng đã được định sẵn từ trước, nhưng lại không có một cơ chế nội bộ cho phép thay đổi số lượng (tăng thì được) hay chất lượng, cũng không có chỗ cho sáng kiến canh tân. Thật vậy, chế độ Soviet chẳng biết làm gì với những phát minh, và khác hẳn phức hợp quân sự - công nghiệp, nó không biết áp dụng phát minh trong kinh tế dân sự[119].

Còn người tiêu thụ, vì không có thị trường nên không thể biết họ ưa thích gì; hệ thống kinh tế, và cả hệ thống chính trị như ta sẽ thấy sau này, thì không có thiên hướng nào thuận lợi cho họ. Tốt nhất thì có thể bảo rằng nhờ tăng trưởng kinh tế, hệ thống ấy sẽ sản xuất thêm nhiều hàng tiêu dùng, trong khi mà cấu trúc công nghiệp vẫn dành ưu tiên cho sản phẩm thiết bị. Vả lại, hệ thống phân phối rất tồi tệ, nhất là tổ chức dịch vụ coi như không có gì, nên mức sống chỉ có thể nâng cao – từ thập niên 1940 đến thập niên 1970, có tiến bộ trông thấy – nhờ “kinh tế ngoài lề” (nói khác đi, “chợ đen”) khá phổ biến và tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt là từ cuối những năm 1960. Đã nói kinh tế ngoài lề là không thể tìm hiểu qua các tài liệu chính thức, nên ta chỉ có thể ức đoán; tuy nhiên, tới cuối thập niên 1970, người ta ước tính là người dân thành thị ở Liên Xô tiêu khoảng 20 tỉ rúp để mua hàng tiêu thụ do khu vực tư nhân cung cấp và cho các dịch vụ y tế, pháp luật, cộng thêm vào đó là khoảng 7 tỉ rúp cho tiền “boa” tức là để “bôi trơn” nhiều thứ công việc (Alexeev, 1990). Ở thời đó, con số này tương ứng với tổng kim ngạch nhập khẩu.

Tóm lại, hệ thống Soviet được hoạch định với mục đích nhanh chóng công nghiệp hóa một đất nước tụt hậu và kém phát triển, với giả định là người dân chấp nhận một mức sống bảo đảm những điều kiện xã hội tối thiểu và một mức sống vật chất cao hơn thềm sống sót một chút (điều này tùy thuộc vào sự tăng trưởng dư thừa của một nền kinh tế đặt trọng tâm vào công nghiệp hóa). Dù thiếu hiệu quả và ít sinh lợi tới đâu, hệ thống này cũng đã đạt được mục tiêu của nó. Năm 1913, với 9,4% dân số thế giới, Đế chế Sa hoàng chiếm 6% tổng số “thu nhập quốc gia” của thế giới và 3,6% sản lượng công nghiệp. Năm 1986, với dân số chưa tới 6% dân số toàn cầu, Liên Xô đạt được 14% “thu nhập quốc gia” của thế giới và 14,6% sản lượng công nghiệp, còn tỉ trọng sản lượng nông nghiệp chỉ nhỉnh hơn một chút (Bolotin, 1987, tr. 148-152). Nước Nga đã trở thành một cường quốc công nghiệp, nhờ đó mà giành được vị trí siêu cường và giữ được vị trí này trong suốt gần nửa thế kỉ. Tuy nhiên, trái với hi vọng của người cộng sản, cỗ máy động cơ của sự phát triển kinh tế Liên Xô được thiết kế theo một cung cách mà, khi chiếc xe đã chạy được một quãng đường, mỗi lần người cầm lái nhấn ga tăng tốc, chiếc xe lại có chiều hướng chậm lại. Sự hụt hơi nằm ngay trong động lực của bộ máy. Vậy mà, sau năm 1944, nó lại trở thành mô hình kinh tế của những nước mà dân số tổng cộng lên tới 1/3 nhân loại.

Tuy nhiên, cách mạng Soviet cũng đã triển khai một hệ thống chính trị rất đặc biệt. Các phong trào quần chúng khuynh tả châu Âu, trong đó có những phong trào công nhân và XHCN mà đảng Bolshevik là một thành phần, được nuôi dưỡng bởi hai truyền thống chính trị: một là truyền thống dân chủ đầu phiếu (đôi khi dân chủ trực tiếp), hai là truyền thống của những nỗ lực cách mạng tập trung, hướng về hành động kế thừa từ thời Jacobin của Cách mạng Pháp. Các phong trào công nhân và XHCN quần chúng, nổi lên hầu như khắp nơi ở châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, bất luận là các chính đảng, công đoàn, hợp tác xã hay những tổ chức kết hợp các hình thái đó, đều là những đoàn thể hết sức dân chủ trong tổ chức nội bộ cũng như trong khát vọng chính trị. Sự thật là khi chưa có hiến pháp được thông qua bằng đầu phiếu rộng rãi, họ là những lực lượng chủ yếu đưa ra yêu sách về hiến pháp, và khác những người chủ nghĩa Vô chính phủ, người mác-xít rất thiết tha với hoạt động chính trị. Chế độ chính trị của Liên Xô, sau đó lan truyền ra thế giới XHCN, đã đoạn tuyệt dứt khoát với khía cạnh dân chủ của các phong trào XHCN, tuy về mặt lí thuyết, vẫn khẳng định một cách hàn lâm là mình thiết tha với dân chủ[120]. Chế độ Liên Xô còn đi xa hơn di sản Jacobin, vì mặc dù chủ trương cách mạng phải nghiêm minh và hành động quyết liệt, phái Jacobin không bao giờ tán thành độc tài cá nhân. Tóm lại, chính thể Liên Xô là một chế độ cực quyền, còn nền kinh tế là một nền kinh tế kế hoạch hóa.

Phần nào, sự diễn biến này cũng phản ánh lịch sử của đảng Bolshevik; mặt khác, nó phản ánh lịch sử những cuộc khủng hoảng và các lựa chọn về ưu tiên của chính quyền Soviet non trẻ; một mặt khác nữa, nó phản ánh những đặc dị của cựu tu sĩ chủng viện xứ Georgia (Gruzia), con trai ông thợ giầy bợm rượu, đã trở thành nhà độc tài Liên Xô, lấy bí danh là “con người thép”: J. V. Stalin (1879-1953). Mô hình lê-nin-nít của “đảng tiên phong” – với đội ngũ lãnh đạo hiệu quả bao gồm những nhà cách mạng “chuyên nghiệp” được tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ do một ban lãnh đạo tập trung đề ra – hàm chứa tính cực quyền mà nhiều nhà mác-xít Nga cũng đã nêu rõ ngay từ đầu. Tổ chức như thế thì còn cái gì có thể ngăn cản không cho đảng “thay thế” quần chúng mà đảng tự nhận là lãnh đạo? Những ủy ban (được bầu ra) gồm những người hoạt động tích cực hay những đại hội thường kì nói lên ý kiến của mình? Ban thường vụ của Ban chấp hành trung ương? Hay, cuối cùng là lãnh tụ duy nhất, trên nguyên tắc là người được bầu ra, sẽ thay thế cho mọi người khác? Thật ra, việc Lenin không muốn làm nhà độc tài, hoặc không đủ thế lực để độc tài, hoặc đảng Bolshevik, cũng như mọi tổ chức tư tưởng phái tả, vận hành như một học hội tranh luận triền miên hơn là như một bộ tham mưu quân sự, việc đó không ngăn ngừa được nguy cơ tiềm thể. Và nguy cơ đó trở nên cận kề sau Cách mạng tháng Mười khi người Bolshevik, từ con số vài nghìn, trở thành một đảng quần chúng, với hàng trăm nghìn, rồi hàng triệu đảng viên “chuyên nghiệp” (thoát li), viên chức hành chính, cán bộ, kiểm soát viên, cả một đại dương nhận chìm những người “Bolshevik kì cựu” và những đảng viên xã hội trước 1917, như Lev Trotsky, đã gia nhập đảng Bolshevik. Số đông đảng viên này hoàn toàn xa lạ với văn hóa chính trị truyền thống của phái tả. Họ chỉ tâm niệm một điều là “đảng nói là đúng”, muốn bảo vệ cách mạng thì phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên.

Dù những người Bolshevik thời trước cách mạng có thái độ ra sao trong các vấn đề dân chủ (trong đảng và ngoài đảng), tự do ngôn luận, tự do dân sự cũng như về sự khoan hòa, hoàn cảnh những năm 1917-1921 đã buộc đảng Cộng sản vốn thiết thân với mọi hành động cần thiết (hay có vẻ như cần thiết) để duy trì một quyền lực còn non yếu, đành phải đấu tranh sống còn, phải tổ chức một hình thái chính quyền ngày càng độc tài. Khởi đầu không phải là một chính quyền độc đảng, và nguyên thủy không bác bỏ mọi hình thức đối lập, trong quá trình đấu tranh thắng lợi trong cuộc nội chiến, chính quyền Soviet đã trở thành một chế độ cực quyền độc đảng, với một bộ máy an ninh mạnh mẽ, thi hành chính sách khủng bố đối với các phần tử phản cách mạng. Cũng dứt khoát tương tự, đảng từ bỏ dân chủ nội bộ, cấm chỉ các xu hướng và phe phái trong đảng (năm 1921). Nguyên tắc “tập trung dân chủ” trên thực tế đã trở thành “tập trung” đơn thuần, dẹp bỏ luôn nội quy của mình. Đại hội “thường niên” không họp thường kì nữa, rồi trở thành bất kì, lâu lâu mới họp dưới thời Stalin. Trong những năm NEP, không khí không chính trị đã thông thoáng hơn, tuy vẫn còn tâm lí đảng là một thiểu số bị bao vây, đảng thuận chiều lịch sử nhưng ngược chiều đối với quần chúng và hiện thực Nga. Quyết định phát động cách mạng công nghiệp đương nhiên bắt buộc chính quyền phải áp đặt quyền lực của mình, có lẽ còn bạo liệt hơn cả thời kì nội chiến, bởi vì bộ máy cho phép nó sử dụng quyền lực liên tục đã lớn mạnh hơn nhiều. Đó cũng là thời điểm biến mất những yếu tố phân quyền cuối cùng, đó là khoảng cách tuy cứ nhỏ dần, nhưng cũng đã tồn tại giữa chính quyền Soviet và đảng. Sự lãnh đạo chính trị duy nhất của đảng từ nay tập trung trong tay đảng quyền lực tuyệt đối, mọi việc đều do đảng quyết định.

Chính trong giai đoạn này dưới thời Stalin mà chế độ đã trở thành bộ máy cực quyền đòi kiểm soát đời sống và tư tưởng của người công dân về mọi phương diện – từ nay trở đi, cuộc sống của họ tùy thuộc vào sự thực hiện các mục tiêu của chế độ do lãnh tụ tối cao đề ra và hoạch định. Đó chắc chắn không phải là trù tính của Marx, Engels và cũng không phải là thực tiễn của Đệ Nhị Quốc tế (mác-xít) và phần lớn các đảng thuộc tổ chức này. Như Karl Liebnecht, cùng với Rosa Luxemburg, đã trở thành lãnh tụ cộng sản Đức trước khi bị những sĩ quan phản động ám sát cùng với bà, cũng không nhận mình là người mác-xít, mặc dầu cha ông là nhà sáng lập đảng Xã hội - Dân chủ Đức. Những người tự gọi là “austro-marxist” (mác-xít Áo), tuy gắn bó với tư tưởng của Marx, không ngần ngại đi theo con đường riêng của họ, và mặc dầu Eduard Bernstein, nhà tư tưởng mác-xít chính thức bị quy chụp là “xét lại”, không ai không coi ông là một người Xã hội – Dân chủ chân chính. Vả lại, Bernstein vẫn là một trong những nhà xuất bản chính thức các tác phẩm của Marx và Engels. Không một nhà lãnh đạo XHCN nào trước năm 1917 lại có thể quan niệm ra một nhà nước XHCN trong đó mọi công dân buộc phải suy nghĩ cùng một điều, nói chi đến việc phải coi lãnh đạo là người không thể sai lầm, y hệt Giáo hoàng (vả lại, đối với họ, “giáo hoàng” mác-xít là một điều không thể tưởng tượng được).

Cùng lắm, người ta chỉ có thể nói rằng, đối với những người đi theo chủ nghĩa xã hội mác- xít, đó là một sự dấn thân cá nhân nồng nhiệt, một khối ước vọng và tín điều, có một vài nét hao hao như một thứ tôn giáo thế tục (nhưng cũng chẳng nặng nề gì hơn hệ tư tưởng của những nhóm “thập tự chinh” phi XHCN); nói rõ hơn, thì thế này: một khi nó trở thành phong trào đại chúng, thì học thuyết tinh tế của Marx trở thành, trong trường hợp khá nhất, một thứ sách giảng đạo, và trong trường hợp dở nhất, một thứ biểu tượng về lập trường và lòng trung thành, như một ngọn cờ để người ta đứng chào. Như những người XHCN minh mẫn ở Trung Âu từ lâu đã nhận xét, các phong trào quần chúng ấy còn có xu hướng chiêm ngưỡng, thậm chí tôn sùng, các lãnh tụ của họ, dù phải nói thêm là thiên hướng ấy thường hay bị hạn chế bởi cái tật cãi cọ và ganh đua trong các đảng phái tả. Việc xây lăng Lenin ở Hồng trường, nơi di hài tẩm liệm của lãnh tụ vĩ đại được trưng bày cho tín đồ đời đời chiêm ngưỡng chẳng dính dáng gì tới truyền thống cách mạng Nga: đó rõ ràng là một cố gắng sử dụng hấp lực của các vị thánh đạo và di cốt của họ đối với nông dân lạc hậu, để lôi cuốn họ nghiêng về phía chính quyền Soviet. Ta cũng có thể nói rằng, tới một mức độ nhất định, trong đảng Bolshevik mà Lenin xây dựng, sự chính thống và bất dung được nuôi dưỡng vì những lí do thực tiễn, chứ không phải là những giá trị tự nó. Như một tướng lĩnh tài ba, Lenin – vốn là người ưa hoạch định những kế hoạch hành động – không muốn trong hàng ngũ đảng có những cuộc tranh luận có thể cản trở hiệu quả thực tiễn. Thêm nữa, như mọi thiên tài thực tiễn khác, Lenin chắc mẩm mình nắm vấn đề hơn mọi người nên không muốn phí phạm thời gian xem xét những ý kiến khác mình. Là một người mác-xít chính thống, thậm chí toàn thống, ông cho rằng sửa đổi một văn kiện lí luận cách mạng chỉ tạo cơ hội cho những phần tử thỏa hiệp và cải lương. Thực ra, Lenin không ngại ngùng sửa đổi quan điểm của Marx, thêm thắt vào đó những ý kiến cá nhân của mình, mà vẫn thề thốt là mình tuyệt đối trung thành với sư phụ. Trước 1917, phần lớn thời gian của Lenin là lãnh đạo và thay mặt cho một thiểu số bị bao vây trong phái tả của Nga, và ngay trong giới Xã hội - Dân chủ Nga, ông nổi tiếng là không bao giờ khoan dung sự bất đồng; và ngược lại, ngay khi tình hình biến chuyển, Lenin sẵn sàng tiếp nhận các đối thủ, nhanh chóng như trước đó ông sẵn sàng tố cáo họ; và sau Cách mạng tháng Mười, bao giờ ông cũng chọn thảo luận hơn là dựa vào uy quyền của mình ở trong đảng. Vả lại, Lenin đã từng thấy lập trường của mình gặp sự phản đối. Nếu còn sống, chắc Lenin cũng sẽ tiếp tục tố cáo các đối thủ; và, cũng như trong thời nội chiến, sự bất dung thực tiễn của ông hầu như vô hạn. Nhưng không có gì chứng tỏ là ông dự định, ngay cả chấp nhận cái thứ tôn giáo thế tục, tư và công chập một, phổ quát và cưỡng bách, đã được triển khai sau khi Lenin từ trần. Chắc Stalin cũng không chủ định làm việc này. Có lẽ ông ta cứ để tự nó phát triển cái mà ông cho là dòng chủ lưu của một nước Nga nông dân lạc hậu với truyền thống cực quyền và chính thống giáo. Dù sao đi nữa, cái tôn giáo ấy cũng không thể phát triển nếu không có Stalin, cũng như nó không thể được áp đặt (hay sao chép) lên các nước XHCN khác.

Nhưng cũng cần nêu ra đây một nhận xét: trong mọi chế độ độc đảng và không có đảng nào thay thế được, thì khả năng độc tài bao giờ cũng tiềm tàng. Trong một chính đảng tổ chức trên nền tảng tôn ti chặt chẽ và tập trung như đảng Bolshevik của Lenin, độc tài là một khả năng có xác suất. Và sự bất di bất dịch chỉ là một tên gọi khác của một niềm tin sắt đá trong đầu óc những người Bolshevik: không được để cho Cách mạng bị lật đổ, sinh mệnh của Cách mạng nằm trong tay họ chứ không ai khác. Thật vậy, người Bolshevik cho rằng một chế độ tư sản có thể tính đến sự thất bại của một chính quyền bảo thủ và sự chấp chính của một chính phủ liberal, bởi vì tính chất tư sản của xã hội không có gì thay đổi; trái lại, nó không thể chấp nhận một chế độ cộng sản, và cũng như thế, một chế độ cộng sản không thể chấp nhận bị lật đổ bởi một lực lượng sẽ thiết lập lại trật tự cũ. Người cách mạng, kể cả những người XHCN cách mạng, không phải là những người dân chủ theo nghĩa đầu phiếu, bởi vì họ tin tưởng sắt đá rằng mình hành động vì lợi ích của “nhân dân”. Tuy nhiên, cho dù chúng ta chấp nhận rằng đảng là một độc quyền chính trị với “vai trò lãnh đạo” khiến cho khả năng chế độ Soviet trở thành dân chủ cũng khó khăn như Giáo hội Công giao muốn trở nên dân chủ, điều đó cũng không nhất thiết đưa tới một chế độ độc tài cá nhân. Chính J. Stalin đã biến chế độ chính trị cộng sản thành chế độ quân chủ không cha truyền con nối[121].

Lùn[122], xảo quyệt, thiếu tự tin, tàn ác, sống về đêm và đa nghi như Tào Tháo, Stalin hệt như một nhân vật trong Cuộc đời của các hoàng đế La Mã Caesar của Suetonius hơn là một nhân vật chính trị của thời hiện đại. Ngoại hình không có gì đáng để ý, thậm chí tầm thường – một “đám mây xam xám”, nói như hình tượng của một người quan sát đương thời (Sukhanov) năm 1917 – Stalin lại biết hòa hoãn và thủ đoạn để đi lên tột đỉnh; nhưng, tất nhiên, tài năng đã đưa Stalin lên tới sát gần đỉnh cao ngay từ trước Cách mạng. Ông đã ở trong chính phủ đầu tiên được thành lập sau tháng Mười, với cương vị Ủy viên (phụ trách các vấn đề) dân tộc. Cuối cùng, khi đã trở thành thủ lĩnh không ai tranh cãi của Đảng, và, trên thực tế, của cả nhà nước, Stalin vẫn không có được cái dấu ấn hiển nhiên của thiên mệnh, cái hấp lực và vẻ tự tin toát ra của một Hitler, làm cho y trở thành người sáng lập và thủ lãnh của đảng, khiến cho đám thân cận hết mực trung thành mà không cần o ép. Còn Stalin phải lãnh đạo đảng, cũng như chỉ huy tất cả những gì trong tầm tay của quyền lực cá nhân bằng khủng bố và khiếp đảm.

Khi tự biến mình thành một thứ Sa hoàng thế tục, người bảo vệ sự chính thống thế tục, biến người sáng lập của sự nghiệp chính thống thành một ông thánh thế tục, mà người ta sắp hàng rồng rắn ở ngoài điện Kremlin để chiêm ngưỡng thi hài, Stalin chứng tỏ tài ba thực sự về “PR” (giao tiếp công cộng, quảng cáo). Đối với một bầy đàn nông dân và mục đồng mà não trạng còn là não trạng thế kỉ XI của phương Tây (trung cổ), đó là phương cách hữu hiệu nhất để củng cố tính chính đáng của chế độ mới; tương tự như thế, cuốn giáo lí sơ lược và giáo điều trong đó Stalin quy giản “chủ nghĩa Marx-Lenin” là tài liệu lí tưởng để phổ biến những ý tưởng cho “thế hệ đầu tiên mới biết đọc biết viết”[123]. Và trong chính sách khủng bố của Stalin, không nên chỉ thấy sự phô trương quyền lực cá nhân không giới hạn của một bạo chúa. Chắc chắn là Stalin thích thú với quyền lực của mình, với sự khiếp sợ mà ông gây ra, với uy quyền cho sống thì sống cho chết thì chết. Cũng không thể nghi ngờ rằng Stalin thờ ơ với những đặc quyền vật chất gắn liền với vị trí của mình. Nhưng, cho dù về mặt tâm lí cá nhân, Stalin có những biểu lộ loạn trí tới mức nào, thì chính sách khủng bố của Stalin, đứng về mặt lí luận mà nói, là một công cụ sách lược thuần lí, cũng như sự thận trọng của Stalin mỗi khi ông nắm bắt được tình thế. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là tránh được những rủi ro – thái độ này thực ra cũng phản ánh sự thiếu tự tin vào khả năng đánh giá tình hình (nói như văn chương Bolshevik, là “phân tích tình hình một cách mác-xít”), vốn là sở trường của Lenin. Người ta chỉ có hiểu rõ ý nghĩa của sự nghiệp kinh khủng này nếu thấy đây là sự theo đuổi ngoan cường, không ngừng nghỉ mục tiêu không tưởng về một xã hội cộng sản, mà Stalin đã xác nhận trở lại trong tác phẩm cuối cùng của mình, được công bố vài tháng trước khi chết (Stalin, 1952).

Ở Liên Xô, chính quyền là cái duy nhất mà người Bolshevik đã giành được bằng cuộc Cách mạng tháng Mười. Đó cũng là công cụ duy nhất mà họ có trong tay để làm thay đổi một xã hội phải đương đầu với muôn ngàn khó khăn liên tiếp không ngừng. Đó là luận điểm, thậm vô lí, của Stalin: theo luận điểm này, phải đẩy mạnh đấu tranh giai cấp trong nhiều thập niên sau khi “giai cấp vô sản nắm chính quyền”. Bảo đảm duy nhất cho thắng lợi cuối cùng là quyết tâm sử dụng một cách có hệ thống và không thương tiếc chính quyền đó để đập tan những chướng ngại có thể ngăn cản quá trình cách mạng.

Ba nhân tố giải thích sự lệch hướng vô lí và giết người của một đường lối dựa trên giả thiết ấy.

Đầu tiên là niềm tin sắt đá của Stalin: chỉ Stalin mới biết đi đường nào và chỉ Stalin mới đủ quyết tâm đi theo con đường đó. Không thiếu những nhà chính trị và những viên tướng nghĩ rằng không ai thay thế được mình, nhưng chỉ những người nắm trong tay quyền lực tuyệt đối mới khiến được người khác cũng tin như vậy. Cho nên, các cuộc thanh trừng trong thập niên 1930, khác những đợt khủng bố trước đó, nhắm thẳng vào đảng và những người lãnh đạo, đã bắt đầu khi mà những người Bolshevik dày dạn nhất (trong đó có những người đã ủng hộ Stalin chống lại những phái đối lập trong những năm 1920 và đã thực tâm ủng hộ cuộc Nhảy vọt lớn để hợp tác hóa và tiến hành Kế hoạch năm năm) thấy rằng những sự tàn nhẫn bạo ngược của giai đoạn đã qua và những hi sinh mà nó đòi hỏi đã vượt quá mức chịu đựng của họ. Chắc nhiều người trong họ còn nhớ rằng Lenin đã từ chối không chịu để Stalin kế vị vì y quá tàn bạo. Năm 1934, Đại hội 17 của Đảng CSLX (b) cho thấy rõ có sự chống đối khá đông đảo đối với cá nhân Stalin. Điều này có thực sự đe dọa quyền lực của Stalin hay không? Ta sẽ không thể biết, vì từ năm 1934 đến năm 1939, từ 4 đến 5 triệu đảng viên và cán bộ đảng đã bị bắt vì lí do chính trị, trong đó từ 400 đến 500 nghìn người bị giết không xét xử; tại Đại hội 18, họp vào mùa xuân 1939, chỉ còn 37 người sống sót trong số 1.827 đại biểu đã tham dự đại hội trước (Kerblay, 1983, tr. 245).

Carl von Clausewitz (1780-1831)

Cuộc khủng bố này có tính chất vô nhân đạo chưa từng thấy ở chỗ nó không còn giới hạn (quy ước hay không quy ước) nào nữa. Không phải do niềm tin rằng cứu cánh vĩ đại biện minh cho mọi phương tiện cần thiết để đạt được mục đích (có lẽ điều này Mao Trạch Đông cũng nghĩ như thế), hay là vì những hi sinh mà thế hệ đương thời phải gánh chịu, dù to lớn tới đâu, cũng không tài nào so sánh được với lợi ích cho những thế hệ tương lai. Mà chính là việc áp dụng nguyên tắc chiến tranh tổng lực từng giờ từng phút. Có lẽ vì tố chất “duy ý chí” đã khiến nhiều người mác-xít ngần ngại Lenin mà họ coi là “đồ đệ của Blanqui” hay thuộc “phái Jacobin”, chủ nghĩa Lenin tư duy chủ yếu bằng ngôn ngữ quân sự: biểu hiện khá rõ ràng là việc Lenin khâm phục Clausewitz, mặc đầu ngôn từ chính trị Bolshevik không mang dấu ấn nào. “Ai thắng ai?” là châm ngôn cơ bản của Lenin: mọi cuộc đấu tranh được quan niệm là một cuộc chơi mà tổng số là không, kẻ thắng thì được tất, người thua mất tất. Ngay các Nhà nước “liberal”, như ta thấy, cũng đã tiến hành hai cuộc chiến tranh thế giới trong tinh thần ấy. Họ không lùi bước trước giới hạn nào khi áp đặt những đau khổ cho thường dân “bên địch” trong cuộc Thế chiến thứ Nhất, thậm chí cả cho quân đội của nước mình. Thật vậy, những biện pháp “trả đũa” lên đầu từng khối dân chúng dựa trên những căn cứ định từ trước, đã trở thành nhân tố hữu cơ của nghệ thuật chiến tranh: thí dụ như trong Thế chiến thứ Hai, người ta đã đưa vào trại tập trung tất cả các công dân Mỹ gốc Nhật, tất cả những người Đức và Áo sinh sống ở Anh, viện cớ kẻ địch có thể ẩn náu trong số người đó. Hiện tượng này nằm trong bối cảnh chung là những tiến bộ về dân sự của thế kỉ XIX đã bị khựng lại, và sự tái hiện của sự dã man, xuyên suốt cuốn sách này như một sợi chỉ đen.

May thay, có những đối trọng ở các quốc gia hợp hiến, nhất là các nước dân chủ có Nhà nước pháp quyền và tự do báo chí. Đối trọng không hề có trong những nước quyền lực tuyệt đối, ngay như trong trường hợp những công ước có tính chất chế tài rồi cũng được phát triển, cho dù vì nhu cầu của sự sống còn và cũng vì quyền lực tổng tài cũng mang mầm mống tự hủy hoại. Hệ quả logic của chế độ cực quyền là bệnh paranoia (hoang tưởng). Sau khi Stalin chết đi, những người kế tục ông đã mặc nhiên thỏa thuận với nhau để chấm dứt thời đại đổ máu, dù rằng, cho đến thời kì Gorbachev, họ vẫn để công việc ước tính những tổn thất về con người của mấy chục năm chế độ Stalin cho những người li khai, ở trong nước, cho các nhà nghiên cứu và nhà báo, ở nước ngoài. Từ nay, những người Liên Xô có chức quyền có thể chết tự nhiên trên giường của mình, có người tuổi rất cao. Vào cuối thập niên 1950, khi các trại gulag đã thả hết tù nhân, thì xét theo những tiêu chuẩn phương Tây, Liên Xô còn là một xã hội vẫn hành hạ công dân, nhưng không còn bỏ tù và giết hại ở một quy mô ồ ạt bất thường nữa. Sự thật là trong thập niên 1980, tỉ số tù nhân Liên Xô thấp hơn Hoa Kỳ: 268 tù nhân trên số 100.000 người dân, trong khi ở Mỹ là 426 (Walker, 1991). Hơn nữa, trong những năm 1960 và 1970, Liên Xô trở thành một xã hội trong đó người dân thường ít rủi ro bị giết – trong một vụ tội phạm, trong một cuộc nội chiến, hay trong chiến tranh với một nước khác – hơn là ở nhiều nước châu Á, châu Phi hay châu Mỹ. Song Liên Xô vẫn còn là một nước công an trị, xã hội vẫn còn là một xã hội cực quyền. Tóm lại, xét theo bất cứ tiêu chuẩn hiện thực nào, Liên Xô vẫn còn là một xã hội không có tự do. Người công dân chỉ nhận được thông tin chính thức được phép hay được “làm ngơ” – mọi thứ thông tin khác, về mặt kĩ thuật mà nói, vẫn bị pháp luật trừng trị, cho đến ngày chính sách glasnost (trong suốt) của Gorbachev được thực thi –, và quyền tự do đi lại vẫn còn lệ thuộc vào giấy phép của nhà đương cục; hạn chế này ngày càng nặng tính hình thức, nhưng vẫn rất hiện thực khi người dân muốn ra khỏi biên giới, dù chỉ để đi sang một nước “XHCN” anh em. Về các mặt này, Liên Xô thua xa nước Nga Sa hoàng. Hơn nữa, trong khi mà Nhà nước pháp quyền cơ bản đã được tôn trọng trong các vấn đề đời sống thường ngày, thì chế độ quản chế hành chính, nghĩa là độc đoán, hay lưu dày ở trong nước, vẫn còn tồn tại.

Có lẽ sẽ không bao giờ có thể tính được cái giá về con người của mấy thập niên sắt thép ở Nga, bởi vì ngay cả những thống kê chính thức về số người bị tử hình và số người bị giam cầm trong Gulag – như hiện có hoặc có thể sẽ được tham khảo – cũng không phản ánh hết được những mất mát; thêm vào đó, các con số ước tính cũng biến thiên rất nhiều tùy theo quan điểm. Có người đã viết: “Nghịch lí ma quái là chúng ta biết nhiều về thương vong của đàn súc vật ở Liên Xô thời đó hơn là về con số những đối thủ đã bị tàn sát” (Kerblay, 1983, tr. 26). Chỉ một việc là bãi bỏ điều tra dân số năm 1937 cũng đã tạo ra những chướng ngại không thể vượt qua. Dẫu sao, bất luận theo giả thiết nào[124], con số nạn nhân trực tiếp và gián tiếp cũng lên tới 8 chữ số chứ không phải 7. Trong điều kiện ấy, giữ lại con số ước tính thận trọng, gần 10 triệu hơn là 20 triệu, hay một con số lớn hơn, cũng không phải là vấn đề: bất luận thế nào, đó cũng là một sự thật ô nhục, không gì có thể giảm khinh hay biện bạch. Tôi chỉ cần thêm, không bình luận, dân số tổng cộng của Liên Xô năm 1937 có lẽ là 164 triệu người, tức là sụt đi 16,7 triệu so với dự báo dân số của Kế hoạch năm năm lần thứ hai (1933-1938).

George Orwell (1903-1950)

Chế độ Liên Xô, dù thô bạo và độc tài tới đâu, không phải là một chế độ “toàn trị”, nếu ta dùng từ ngữ thời thượng của những người phê phán chủ nghĩa cộng sản sau Thế chiến thứ Hai, nhưng lại do chủ nghĩa phát-xít Italia đặt ra để mô tả mục tiêu của nó. Cho đến cuối Thế chiến, từ ngữ này hầu như chỉ được sử dụng để phê phán chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa Nazi. Nó chỉ định một hệ thống tập trung, bao gồm mọi lãnh vực của cuộc sống: không chỉ kiểm soát vật lí toàn bộ dân chúng, sự độc quyền về tuyên truyền và giáo dục của chế độ toàn trị còn ép buộc dân chúng phải “nội tâm hóa” các giá trị của nó. Với tác phẩm 1984 (xuất bản năm 1949), George Orwell là người đã thể hiện rõ nhất cái hình ảnh của xã hội toàn trị đối với phương Tây: một xã hội trong đó quần chúng bị tẩy não dưới con mắt cú vọ của “Anh Cả”, chỉ có độc mỗi một người đôi lúc thoát ra khỏi nhãn quang của hắn.

Đó là điều mà chắc chắn Stalin đã mong muốn thực hiện, dù cho đó là một tham vọng ghê tởm đối với Lenin và những người Bolshevik lão thành, không nói chi tới Marx. Nếu mục đích chỉ là thượng đế hóa con người lãnh tụ (mà sau này người ta đã ngượng ngập nói nhẹ là “tệ sùng bái cá nhân”), hay ít ra, mô tả lãnh tụ như kết tính của mọi tố chất, thì phải nói Stalin phần nào đã thành công, như Orwell đã nhạo báng. Điều nghịch lí là tình trạng đó chẳng phải do quyền lực tuyệt đối của Stalin. Ở ngoài các nước “XHCN”, bao nhiêu người cộng sản đã chân thành khóc lóc khi nghe tin Stalin mất năm 1953 đều là những người đã tự nguyện gia nhập phong trào, và đối với họ, Stalin là biểu tượng, là nguồn cảm hứng. Ngược lại với người nước ngoài, mọi người Nga đều biết họ đã trải qua những khổ đau như thế nào. Tuy nhiên, trong một ý nghĩa nào đó, Stalin là biểu hiện một phần của chính họ vì ông ta đã là lãnh tụ quyền uy và chính đáng của đất nước Nga mà ông đã hiện đại hóa: và gần hơn, ông ta là thống soái của họ trong một cuộc chiến tranh thực sự là cuộc kháng chiến toàn dân, ít nhất đối với những người dân của vùng Đại Nga.

Song về tất cả các mặt khác, chế độ Liên Xô không phải là “toàn trị”, vì vậy dùng từ ngữ này có phần hàm hồ. Chính thể Liên Xô còn lâu mới “kiểm soát tư tưởng” được một cách hiệu quả, nói chi đến “giáo hóa”, trái lại, nó đã phi chính trị hóa nhân dân tới một mức đáng ngạc nhiên. Các học thuyết chính thức của chủ nghĩa Mác-Lê hầu như không có âm hưởng gì đối với phần đông dân chúng, bởi vì chúng không mang lại lợi ích gì thiết thực, trừ phi người nào muốn đi vào hoạn lộ, tất phải biết làm chủ mớ tri thức đặc thù ấy. Ở quảng trường Đỏ thủ đô Budapest, sau 40 năm tuyên huấn ở một nước Hung chính thức theo chủ nghĩa Marx, người ta đặt câu hỏi cho người qua đường Karl Marx là ai:

“Đó là một nhà triết học Liên Xô. Ông ta có người bạn là Engels. Còn gì nữa nhỉ. À, ông ta chết rất già.

– Giọng phụ nữ: Một chính khách, tất nhiên rồi. Và, ông biết đấy, ông ta dính tới tay gì nhỉ, Lenin, phải rồi, Lenin, tác phẩm Lenin, ừ đúng rồi, ông ta dịch tác phẩm Lenin ra tiếng Hung đấy.”.

Garton ASH, 1990, tr. 261

Đối với đa số công dân Liên Xô, phần lớn những lời tuyên bố công cộng đều tới từ cấp thượng đỉnh, dù đó là những tuyên bố chính trị hay về tư tưởng, có lẽ họ cũng không tìm hiểu một cách có ý thức, trừ khi nó liên quan tới những vấn đề thường ngày của họ – điều này hiếm khi nào xảy ra. Chỉ có giới trí thức bắt buộc phải quan tâm trong một xã hội xây dựng trên và quanh một hệ tư tưởng tự nhận là thuần lí và “khoa học”. Điều trớ trêu, việc chế độ cần tới trí thức, và cho những trí thức không biểu lộ sự bất đồng hưởng những ưu quyền và lợi ích đáng kể, chính việc đó lại tạo ra một không gian xã hội vượt ra ngoài vòng kiểm soát của nhà nước. Chỉ có chính sách khủng bố quyết liệt như dưới thời Stalin mới triệt để khóa miệng được những đầu óc không quan phương. Ở Liên Xô, trí tuệ lại xuất hiện ngay khi tảng băng của sự khiếp sợ bắt đầu giải đông – Băng tan (1954) là đầu đề cuốn tiểu thuyết luận đề của Ilya Ehrenburg (1891-1967), một trong những tài năng đã sống sót – trong những năm 1950. Trong những năm 1960 và 1970, sự bất đồng đã chiếm lĩnh sân khấu Liên Xô dưới hình thái được làm ngơ một cách mập mờ của chủ nghĩa cộng sản cải lương và của xu hướng li khai trí thức, chính trị và văn hóa toàn diện. Chính thức mà nói, thì Liên Xô vẫn là “một khối thống nhất”, nói theo cách quen thuộc của người Bolshevik. Trong những năm 1980, tình hình nói trên trở nên hiển nhiên.

 

II

 

Các quốc gia cộng sản xuất hiện sau Thế chiến thứ Hai, nghĩa là tất cả các nước cộng sản ngoài Liên Xô, đều ở dưới quyền thống trị của những đảng Cộng sản đã được đào tạo hay nhào nặn rập khuôn theo Liên Xô, nghĩa là theo kiểu Stalin. Trong chừng mực nào đó, điều này cũng đúng cho cả ĐCS Trung Quốc là đảng, dưới sự cầm đầu của Mao Trạch Đông, đã giành được sự tự chủ thực sự đối với Moskva trong những năm 1930. Điều này có lẽ không đúng lắm đối với những nước sinh sau đẻ muộn của “phe XHCN” ở Thế giới thứ Ba: Cuba của Fidel Castro, và những nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin yểu mệnh hơn, xuất hiện trong những năm 1970, các nước này, về mặt chính thức, có xu hướng đồng nhất hóa với mô hình Liên Xô. Tại tất cả các nước kể trên, ta gặp hệ thống chính trị độc đảng với những cơ cấu quyền lực hết sức tập trung; một chân lí trí thức và văn hóa do quyền lực chính trị quyết định và ban bố; một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung; và, di sản rõ nét nhất của truyền thống Stalin, những lãnh tụ tối cao với những đặc tính “đã được hoạch định từ trước”. Thật ra, ở những nước bị quân đội và những cơ quan mật vụ Liên Xô trực tiếp chiếm đóng, chính phủ bản địa buộc phải rập khuôn mô hình Liên Xô, chẳng hạn như tổ chức những vụ xét xử lớn và thanh trừng đảng viên theo kiểu Stalin – điều mà họ chẳng tự nhiên hăng hái chút nào. Ở Ba Lan và Đông Đức họ còn tránh cả việc tổ chức những phiên tòa ngụy tạo, và không có nhà lãnh đạo nào bị xử tử hay trao nộp cho cơ quan mật vụ Liên Xô. Ngược lại, sau khi tuyệt giao với Tito, những nhà lãnh đạo địa phương đã bị tử hình ở Bulgaria (Traycho Kostov), Hungary (Laszlo Rajk), và trong năm cuối đời Stalin, người ta chứng kiến một cuộc xử án đông đảo, không ai tin nổi, lại sặc mùi kì thị Do Thái, làm tiêu hao hàng ngũ những người lãnh đạo cộng sản Tiệp Khắc. Phiên tòa này có lẽ liên quan tới bệnh paranoia tâm thần đa nghi ngày càng nặng của bản thân Stalin. Trong tình trạng suy sụp thân xác và tâm thần, Stalin tính trừ khử cả những đệ tử trung thành nhất.

Ở châu Âu, thiết lập được những chế độ mới sau thập niên 1940 là nhờ thắng lợi của Hồng quân, nhưng chỉ có bốn nước là do áp đặt bằng sức mạnh: Ba Lan, khu vực Hồng quân chiếm đóng ở Đức, Romania (nơi mà phong trào cộng sản bản địa chỉ có vài trăm người, phần đông là người dân tộc thiểu số), và về thực chất, cả Hungary. Tại Nam Tư và Albania, sự ra đời của chế độ mới chủ yếu là một hiện tượng nội tại; ở Tiệp Khắc, tỉ lệ 40% phiếu bầu cho đảng Cộng sản trong cuộc tuyển cử năm 1947 chắc chắn phản ánh sức mạnh của đảng ở thời điểm đó; và ở Bulgaria, ảnh hưởng cộng sản cũng nhờ óc thân Nga của mọi người dân. Tại Trung Quốc, Triều Tiên và Đông Dương thuộc Pháp cũ, – chính xác hơn, do sự chia cắt của Chiến tranh Lạnh, ở miền bắc các nước này – chính quyền cộng sản được thành lập hoàn toàn không nhờ quân đội Liên Xô[*], dù rằng, sau năm 1949, các nước cộng sản nhỏ nhận được sự viện trợ của Trung Quốc trong một thời gian. Những nước mới thêm về sau của “phe XHCN”, bắt đầu từ Cuba, đều đi theo con đường riêng, dù rằng, ở châu Phi, các phong trào giải phóng tiến hành chiến tranh du kích đã nhận được viện trợ to lớn của Liên Xô.

Tuy nhiên, ngay ở những nước mà chính quyền cộng sản do Hồng quân áp đặt, chính thể mới ban đầu cũng có được tính chính đáng tạm thời và, trong một thời gian, được ủng hộ thực sự. Như đã thấy ở chương 5, lí tưởng xây dựng một thế giới mới trên hoang tàn toàn diện của thế giới cũ đã tạo được sự hứng khởi của nhiều thanh niên và trí thức. Dù đảng và chính phủ không được lòng dân, nhiệt tâm và ý chí của cả hai trong công cuộc tái thiết hậu chiến cũng phải làm cho số đông dân chúng đồng ý nếu không đồng tâm. Sự thật, khó có thể phủ nhận thành tựu của các chính quyền mới trong công cuộc này. Ở trên, ta đã thấy tại các nhà nước nông nghiệp lạc hậu, người cộng sản thiết tha với sự nghiệp công nghiệp hóa, mong muốn tiến bộ và hiện đại hóa, điều này được sự ủng hộ ở cả ngoài hàng ngũ đảng viên. Ai có thể ngờ rằng những nước như Bulgaria và Nam Tư lại tiến nhanh, thậm chí có thể tiến nhanh hơn thời kì tiền chiến? Bảng tổng kết chỉ hoàn toàn tiêu cực khi Liên Xô chiếm đóng và cưỡng đoạt những khu vực không lạc hậu, hay ít nhất có những thành phố phát triển, như những vùng bị sát nhập trong thời kì 1939-1940 hay trong vùng quân đội Liên Xô chiếm đóng ở Đức (từ năm 1949 trở thành CHDC Đức), mà trong một thời gian sau năm 1945, Liên Xô đã cướp của để xây dựng đất nước mình.

Về mặt chính trị, các nước cộng sản, với chính quyền do nội lực hay bị áp đặt, đã bắt đầu họp thành một khối duy nhất do Liên Xô đứng đầu. Vì tình đoàn kết chống phương Tây, khối này được sự ủng hộ của chế độ cộng sản đã chiếm lĩnh Trung Quốc năm 1949 – mặc dầu ảnh hưởng của Moskva trên ĐCS Trung Quốc chẳng còn mấy từ ngày Mao Trạch Đông trở thành lãnh tụ không ai tranh cãi vào giữa thập niên 1930. Mao tiếp tục đi theo con đường của mình tuy vẫn tuyên bố trung thành với Liên Xô và Stalin, rất thực tế, tránh không làm căng thêm với đảng anh em khổng lồ, thực sự độc lập, ở phương Đông. Cuối thập niên 1960, khi Khrushchev làm xấu đi quan hệ Xô-Trung, thì nổ ra cuộc đổ vỡ, Trung Quốc phản đối vị trí lãnh đạo của Liên Xô trên phong trào cộng sản quốc tế, mặc dầu không được thành công. Đối với các quốc gia và các đảng Cộng sản trong khu vực quân đội Liên Xô chiếm đóng ở châu Âu, Stalin không khoan nhượng như thế: bởi vì quân đội của ông còn có mặt ở Đông Âu, và cũng bởi vì ông nghĩ những người cộng sản bản địa sẽ trung thành với Moskva và với bản thân ông. Năm 1948, hẳn Stalin rất bất ngờ khi các nhà lãnh đạo Nam Tư, vốn dĩ trung thành tới mức Belgrade trước đó mấy tháng đã được chọn làm chỉ huy sở của Quốc tế Cộng sản mới được tái lập khi nổ ra Chiến tranh Lạnh (mang tên chính thức là Kominform), đã cưỡng lại các chỉ thị của Moskva tới mức công khai đoạn tuyệt, và khi Liên Xô, vượt qua đầu Tito, kêu gọi lòng trung thành của những phần tử cộng sản Nam Tư “tốt”, mà chẳng được mấy ai hưởng ứng. Theo đúng cung cách của mình, Moskva đã phản ứng bằng cách triển khai những cuộc thanh trừng và vụ án lớn ra các nước chư hầu còn lại.

Tuy nhiên, sự li khai của Nam Tư không có tác động gì tới phần còn lại của phong trào cộng sản. Sự phân tán chính trị của khối Liên Xô đến năm 1953, khi Stalin chết, mới bắt đầu, nhất là từ khi có những lời tuyên bố chính thức công kích thời kì Stalin nói chung, và công kích chính Stalin một cách thận trọng hơn tại Đại hội XX của ĐCS Liên Xô, năm 1956. Mặc dầu những bài này dành cho đối tượng nội bộ Liên Xô được chọn lọc kĩ càng – các đại biểu cộng sản nước ngoài bị mời ra khi Khrushchev đọc bản báo cáo mật – nhưng chẳng mấy lúc tiếng đồn lan truyền là khối thống nhất Liên Xô rạn nứt. Ngay lập tức, khu vực châu Âu dưới sự thống trị của Liên Xô bị tác động. Chỉ trong vòng vài tháng, ở Ba Lan, một ban lãnh đạo mới, chủ trương cải tổ, được Moskva lặng lẽ chấp nhận (chắc nhờ có lời khuyên của Bắc Kinh), và ở Hungary, cách mạng bùng nổ. Tại Budapest, một chính phủ mới đứng đầu là một người cộng sản chủ trương cải tổ, Imre Nagy, tuyên bố chấm dứt chế độ độc đảng – điều này lẽ ra người Liên Xô cũng có thể dung hợp (trong nội bộ ý kiến của họ cũng phân tán) – đồng thời lại tuyên bố Hungary rút ra khỏi Hiệp ước Warsaw và Hungary sẽ theo đường lối trung lập – điều mà Moskva không thể dung thứ. Tháng Mười Một 1956, quân đội Liên Xô đập tan cuộc cách mạng.

Việc liên minh phương Tây không lợi dụng khai thác cuộc khủng hoảng to lớn này (ngoài việc khai thác trong tuyên truyền) chứng tỏ sự ổn định của mối quan hệ Đông-Tây. Cả hai phe đều mặc nhiên thừa nhận biên giới hai vùng ảnh hưởng, và trong những năm 1950 và 1960, xem ra không một biến đổi cách mạng nào đã có thể khuấy rối thế quân bình này, ngoại trừ Cuba[125].

Trong những chế độ mà sinh hoạt chính trị bị kiểm soát nhãn tiền, rất khó phân ranh giữa diễn tiến chính trị và phát triển kinh tế. Thành ra, ở Ba Lan và Hungary, chính phủ không thể làm khác hơn là nhượng bộ về kinh tế đối với người dân vốn tỏ ra không mấy phấn khởi với chủ nghĩa cộng sản. Tại Ba Lan, nông nghiệp được phi tập thể hóa, nhưng rồi cũng không khấm khá hơn; thêm nữa, còn phải mặc nhiên thừa nhận sức mạnh chính trị của một giai cấp công nhân đã trở nên lớn mạnh do phát triển tăng tốc của công nghiệp nặng. Xét cho cùng, chính phong trào công nhân ở Poznan đã phát động các biến cố 1956. Từ ấy, và cho đến sự toàn thắng của Solidarnosc (công đoàn Đoàn kết) vào cuối thập niên 1980, sự kiện chỉ chế ngự đời sống chính trị và kinh tế Ba Lan là sự đụng đầu giữa một bên là một “trọng khối” không thể cưỡng lại, tức là chính quyền, và một bên là một vật thể bất di bất dịch, tức là giai cấp công nhân, ban đầu không có tổ chức, và theo thói thường, liên minh với trí thức, sau đó tạo thành một phong trào chính trị, đúng như lời tiên tri của Marx. Ngoại trừ một điều, một điều mà người mác-xít phải đau buồn chứng kiến, là hệ tư tưởng của phong trào ấy không chống chủ nghĩa tư bản mà chống chủ nghĩa xã hội. Có ý nghĩa là việc các cuộc xung đột ấy nổ ra do chính phủ Ba Lan cứ lâu lâu lại tìm cách giảm bớt khoản trợ cấp bù giá cho các nhu yếu phẩm bằng cách tăng giá. Những biện pháp này làm nổ ra những cuộc đình công, đình công thường dẫn tới khủng hoảng nội các, rồi chính quyền phải lùi bước. Ở Hungary, những nhà lãnh đạo do Liên Xô áp đặt sau khi dập tắt cuộc cách mạng 1956 lại là những người thực sự muốn cải cách và có khả năng cải cách. Đứng đầu là Janos Kadar (1912-1989), họ tiến hành chính sách tự do hóa chế độ (có lẽ với sự ủng hộ của những lực lượng Liên Xô có ảnh hưởng), hòa giải với dân chúng, và, trên thực tế, thực hiện những mục tiêu của năm 1956 trong giới hạn mà Liên Xô chấp nhận được. Đứng về mặt này, phải nói chính quyền Hungary đã thành công đáng kể, cho đến thập niên 1980.

Tình hình Tiệp Khắc không như thế. Đất nước này trở thành ù lì về mặt chính trị sau những cuộc thanh trừng quyết liệt thập niên 1950, tuy sau đó cũng thử nghiệm vài bước rụt rè nhằm phi Stalin hóa. Có hai nguyên nhân khiến cho, sang nửa sau thập niên 1960, quá trình ấy lại lan rộng như vết dầu loang. Người Slovakia (kể cả đảng bộ Slovakia của ĐCS) chưa bao giờ ưng thuận giải pháp nhà nước hai dân tộc, và họ luôn luôn âm ỉ chống đối trong nội bộ đảng. Không phải ngẫu nhiên mà sau một cuộc chính biến trong đảng, người được đưa lên làm tổng bí thư lại là người Slovak: Alexander Dubcek.

Vả lại trong những năm 1960, càng ngày càng khó cưỡng lại những áp lực thúc đẩy phải cải tổ kinh tế và ít nhiều điều chỉnh hệ thống cực quyền theo kiểu Liên Xô cho hợp lý và uyển chuyển hơn. Như sẽ thấy, các áp lực này xuất hiện trong toàn bộ khối Soviet. Quá trình phi tập trung hóa về kinh tế, tự nó không có tính chất bùng nổ về chính trị, đã trở thành bùng nổ khi nó liên kết với đòi hỏi tự do hóa về mặt trí thức, và hơn nữa, về mặt chính trị. Ở Tiệp Khắc, đòi hỏi ấy mạnh hơn nơi nào khác: bởi vì tại đây, chủ nghĩa Stalin đã thống trị quá lâu và quá thô bạo, thêm vào đó, nhiều người cộng sản (nhất là những trí thức trong một đảng đã từng được quần chúng thực sự ủng hộ trong và sau thời đất nước bị quân Nazi chiếm đóng) bị bức xúc bởi sự tương phản giữa những khát vọng cộng sản mà họ còn ấp ủ và thực tại của chế độ. Như thường xảy ra ở châu Âu thời Nazi chiếm đóng, nơi nào đảng Cộng sản trở thành trung tâm của phong trào kháng chiến, nó đã lôi cuốn được những thanh niên say mê lí tưởng, sự dấn thân của họ vào thời đó hết sức trong sáng, vô tư. Thí dụ như một người bạn của tác giả, vào đảng Tiệp Khắc năm 1941: thử hỏi dấn thân lúc đó, thì ngoài hi vọng và nguy cơ bị tra tấn và bị giết, còn gì khác đâu?

Và, như một quy luật bất biến – do cơ cấu của các nhà nước cộng sản – cuộc cải tổ bắt đầu từ trên xuống, nghĩa là ngay trong nội bộ đảng. Tiếp theo và song đôi với giai đoạn manh nha rồi sôi sục chính trị - văn hóa, “Mùa Xuân Praha” năm 1968 xảy ra cùng lúc với cuộc bùng nổ to lớn của phong trào sinh viên cấp tiến đã nói ở phần trên (xem ch. 10): đó là một trong những biến cố rất hiếm đã vượt qua các đại dương và giới tuyến phân cách chế độ xã hội, và đã tạo ra những cuộc vận động xã hội đồng hiện, chủ yếu xoáy quanh giới sinh viên, từ California và Mexico cho đến Ba Lan, Nam Tư. Cho dù “Cương lĩnh Hành động” của ĐCS Tiệp Khắc đã từ bỏ chuyên chính vô sản độc đảng để tiến tới dân chủ đa đảng (nguy ở chỗ đó), sém một chút thôi, lẽ ra nó cũng được Liên Xô chấp nhận. Nhưng “Mùa Xuân Praha” đã biểu lộ và khoét sâu những rạn nứt của khối cộng sản Đông Âu, đe dọa sự nhất quán của nó. Một mặt, các chế độ cứng rắn, không được nhân dân ủng hộ, như Ba Lan và Đông Đức, sợ tấm gương Tiệp Khắc sẽ gây ra tình trạng bất ổn định, đã công kích mạnh mẽ cuộc thử nghiệm Praha, mặt khác, phần lớn các đảng Cộng sản châu Âu, những nhà cải cách ở Hungary, và ở bên ngoài khối Đông Âu, chế độ cộng sản độc lập của Tito ở Nam Tư, và cả Romania nữa – từ năm 1965, vì những động cơ dân tộc chủ nghĩa, Romania đứng đầu là Nicolae Ceaucescu (1918-1989), là người về mặt nội trị không hề cải cách chút nào, để lấy khoảng cách với Moskva – đã nhiệt liệt ủng hộ Tiệp Khắc. Tito và Ceaucescu đều đi thăm Praha, được dân chúng đón chào như những anh hùng. Sau một thời gian ý kiến phân tán và do dự, lúc đó Moskva quyết định dùng vũ lực để lật đổ chế độ Praha. Sự can thiệp này, trên thực tế, là hồi chuông báo tử của phong trào cộng sản quốc tế mà trung tâm là Moskva, năm 1956 đã lao đao như ta biết. Song nó vẫn giữ được sự nhất thống của khối Đông Âu trong 20 năm nữa, tất nhiên duy nhất vì sự đe dọa can thiệp vũ trang của Liên Xô. Từ đó, dường như ngay các nhà lãnh đạo các đảng Cộng sản thực sự cũng không còn tin tưởng vào việc họ làm nữa.

Trong lúc đó, và độc lập với yếu tố chính trị, đòi hỏi cải tổ, thay đổi hệ thống kinh tế dựa trên kế hoạch hóa tập trung theo kiểu Liên Xô trở nên ngày càng bức thiết. Một mặt, nền kinh tế phát triển của các nước không XHCN tăng trưởng và lớn mạnh chưa từng thấy (xem ch. 9), khoét rộng thêm khoảng cách vốn đã lớn giữa hai chế độ (Hiện tượng này hiển hiện ở nước Đức chia đôi, với hai chế độ sống chung cạnh nhau). Mặt khác, tỉ lệ tăng trưởng của kinh tế các nước XHCN (cho đến cuối thập niên 1950 đã vượt các nước phương Tây) nay có những dấu hiệu rõ rệt không còn hơi sức. GDP Liên Xô, với tỉ số tăng trưởng 5,7% hàng năm trong thập niên 1950 (nhanh gần bằng 12 năm đầu tiên của thời kì công nghiệp hóa, 1928-1940), tụt xuống 5,2% trong những năm 1960, xuống 3,7% nửa đầu thập niên 1970, 2,6% nửa sau, rồi 2% trong năm năm cuối cùng trước khi Gorbachev lên cầm quyền (1980-1985) (Ofer, 1987, tr. 1778). Ở Đông Âu, tình hình cũng tương tự như thế. Tại hầu hết các nước Đông Âu, đặc biệt ở Liên Xô dưới sự chỉ đạo của thủ tướng Alexei Kossyghin, đã diễn ra liên tiếp những cố gắng làm thông thoáng bộ máy kinh tế, chủ yếu bằng cách phi tập trung hóa. Trừ trường hợp Hungary, các cuộc cải cách ấy hầu như không đạt kết quả nào đáng kể, trong nhiều trường hợp bị bỏ dở, hay trong trường hợp Tiệp Khắc, không tiến hành được vì những lí do chính trị. Là một thành viên đứng ở ngoại vi phe XHCN, Nam Tư cũng chẳng thành công gì hơn khi nước này, vì chống chủ nghĩa Stalin, thay thế kinh tế kế hoạch hóa bằng một mạng lưới hợp tác xã tự quản. Khi nền kinh tế thế giới lâm vào một thời kì bất trắc mới trong thập niên 1970, không ai, bên Đông hay bên Tây, còn có thể nghĩ rằng kinh tế của “chủ nghĩa xã hội hiện tồn” sẽ bắt kịp hay vượt qua kinh tế các nước không XHCN, thậm chí đạt được cùng tốc độ. Tuy tình hình không vững chãi như trước, song trước mắt không ai quan ngại gì cho tương lai của nó. Tình trạng này, chắc mấy lúc nữa, sẽ thay đổi.

Nguyễn Ngọc Giao dịch

Maisons-Alfort, Val-de-Marne, Pháp

Nguồn: Dịch giả gởi trực tiếp cho PTKT, 07.2021.




Chú thích:

[115] Nói chính xác, những con số này chỉ liên quan tới Liên Xô và các nước liên kết với Liên Xô, song cũng cho ta một ý niệm đại để về quy mô.

[116] “Nếu phải cho chỉ thị tương đối ràng cho từng nhóm sản phẩm cho từng đơn vị sản xuất, không có kế hoạch hóa đa cấp, thì tất yếu trung ương sẽ bị đè nặng dưới một khối lượng công việc khổng lồ” (Dyker, 1985, tr. 9).

[117] Trong ngôn ngữ mác-xít, “tích lũy ban đầu” thông qua truất hữu và chiếm đoạt là điều tất yếu để chủ nghĩa bản tích lũy được số vốn ban đầu, sau đó mới tiếp tục quá trình tích lũy tự sinh của nó.

[118] Chẳng hạn như Hungary, nông nghiệp được tập thể hóa khá cao, trong nửa đầu thập niên 1980 đã xuất khẩu nông sản nhiều hơn cả nước Pháp, với diện tích nông nghiệp Hung lớn hơn diện tích nông nghiệp Pháp khoảng 1/4; giá trị xuất khẩu nông nghiệp Hung gấp đôi Ba Lan (trong khi diện tích canh tác Ba Lan rộng gấp 3 lần diện tích canh tác của Hung). Cũng như Pháp, Ba Lan không có nông nghiệp tập thể (FAO Production, 1986, FAO Trade, vol. 40, 1986).

[119] “Chỉ có độ 1/3 các phát minh được áp dụng trong kinh tế, và trong trường hợp được áp dụng, các phát minh cũng ít khi được phổ biến rộng rãi” (Vernikov, 1989). Câu này hình như nói về tình hình năm 1986.

[120] Cho nên, chủ trương tập trung cực quyền rất đặc trưng của các đảng Cộng sản vẫn duy trì tên gọi “tập trung dân chủ”, và trên giấy tờ, Hiến pháp Liên Xô năm 1936 vẫn là một bản hiến pháp dân chủ tiêu biểu, dành chỗ cho các cuộc bầu cử đa đảng, rộng rãi không kém gì Hiến pháp Hoa Kỳ. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, văn bản này chủ yếu do Nikolai Bukharin soạn thảo: với cách một nhà cách mạng lão thành của thời trước 1917, Bukharin tin tưởng rằng bản hiến pháp này phù hợp với một xã hội XHCN.

[121] Sự tương đồng với chế độ quân chủ xuất phát từ xu hướng của một vài nước tiến dần tới tình trạng cha truyền con nối – một xu hướng không thể nào tưởng tượng nổi đối với những người xã hội và cộng sản trước kia. Hai ví dụ điển hình là Bắc Triều Tiên và Romania.

[122] Người viết những trang này đã trông thấy thi hài được tẩm liệm của Stalin trong lăng ở Hồng trường trước khi nó được mang đi vào năm 1961. Còn nhớ rõ mình kinh ngạc khi trông thấy con người uy quyền ghê gớm như thế lại thấp bé chừng ấy. Có ý nghĩa là việc các cuốn phim và hình ảnh bao giờ cũng được xếp đặt để che đậy việc Stalin chỉ cao 1,60 m.

[123] Và không phải chỉ cho thế hệ này. Dù dối trá và khiếm khuyết về trí tuệ đến đâu, cuốn Lịch sử đảng Cộng sản Liên Xô (1939) là một tuyệt phẩm đứng về mặt sư phạm.

[124] Về những bất trắc của phương pháp tiếp cận này, xem Kosinski, 1987, tr. 151-152.

[125] Trừ trường hợp Bắc Triều Tiên (nhận xét của ND).



[*] Trừ trường hợp Bắc Triều Tiên (nhận xét của ND).

Print Friendly and PDF