29.5.22

Thời đại thái cực 1914 (10): Cách mạng xã hội, 1945-1990

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (10)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

Phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

Phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ hai

THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

Chương 10

CÁCH MẠNG XÃ HỘI, 1945-1990

 

“Lily: Bà tôi hay kể về thời Khủng hoảng. Anh cũng có thể tìm đọc về thời kì này nữa. Roy: Họ cứ lải nhải là được ăn no mặc ấm như vậy, mình phải bằng lòng lắm rồi, chứ hồi những năm 1930, người ta chết đói, không có công ăn việc làm, v.v. và v.v.

***

Bucky: Tôi không hề sống thời Khủng hoảng, nên không quan tâm. Roy: Nghe họ nói thì anh không thể nào chịu nổi cuộc sống thời đó đâu. Bucky: Nhưng mà tao có sống thời đó đâu mà nói”.

Stud. TERKEL,

Hard Times (1970, tr. 22-23)

Khi ông [tướng De Gaulle] lên nắm chính quyền, ở Pháp có một triệu đầu máy truyền hình. […] Khi ông rời chính quyền, có 10 triệu đầu máy. […] Nhà nước nào chẳng là sân khấu trình diễn. Nhưng Nhà nước – kịch hôm qua không phải là Nhà nước – truyền hình hôm nay.

Régis DEBRAY (1994, tr. 60)

 

I

 

Khi người ta đứng trước một cái gì mà quá khứ chưa chuẩn bị cho họ, thì họ thường tìm cách đặt cho nó một cái tên gọi, mặc dù chưa biết định nghĩa như thế nào, hiểu ra sao. Vào phần tư thứ ba của thế kỉ XX, chúng ta thấy giới trí thức đã tiến hành như vậy. Cái từ “khóa” là tiền tố “sau”, ở phương Tây người ta dùng chữ Latin là “post”, [chúng tôi sẽ dùng chữ Hán là “hậu”, chú thích của ND] đặt trước nhiều từ ngữ mang dấu ấn tinh thần của thế kỉ XX. Thế giới, hay đúng hơn, những khía cạnh khu biệt của nó, đã trở thành hậu công nghiệp, hậu hiện đại, hậu cấu trúc luận, hậu mác-xít, hậu Gutenberg, và trăm thứ hậu khác. Cũng như trong một đám tang, chữ “hậu” này tương đương với tờ giấy khai tử, bản thân nó không phản ánh sự đồng thuận nào về cuộc sống sau cái chết, có hay không có, có thì như thế nào… Thế là sự biến đổi ngoạn mục nhất, nhanh chóng nhất và phổ quát nhất trong lịch sử loài người đã đi vào ý thức những bộ óc có trí tuệ đã từng sống qua thời kì ấy như vậy đó. Chủ đề của chương sách này chính là sự biến đổi đó.

Cái mới của sự biến đổi này là ở tốc độ rất cao và tính phổ quát của nó. Vẫn biết, những khu vực đã phát triển của thế giới, tức là các vùng Trung Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ, thêm vào đó là một vùng nhỏ, tứ chiếng, giàu mạnh ở ngoài hai lục địa này, từ lâu đã sống trong một thế giới đổi thay, với những diễn tiến về kĩ thuật và canh tân về văn hóa liên tục. Đối với những khu vực này, cuộc cách mạng của xã hội loài người là sự tăng tốc hay khuếch đại của một cuộc vận động mà trên nguyên tắc họ đã biết rồi. Xét cho cùng, vào giữa thập niên 1930, người dân New York ngẩng đầu lên đã thấy ngôi nhà chọc trời, Empire State Building (1934), mãi đến thập niên 1970 mới bị phá kỉ lục về chiều cao (mà cũng chỉ thua 30 mét thôi). Nhưng ngay ở những khu vực này, cũng phải có thời gian mới nhận thức được rằng sự tăng trưởng vật chất định lượng đã biến thành đảo lộn định tính trong cuộc sống, và thêm một thời gian nữa mới ý thức được quy mô của sự biến đổi ấy. Còn đối với phần lớn các khu vực trên thế giới, đây là cả một cuộc động đất xảy ra một cách đột ngột. Đối với 80% nhân loại, thời đại Trung cổ đã đột ngột kết thúc vào những năm 1950. Hơn thế nữa, có lẽ người ta cảm nhận nó đã kết thúc vào những năm 1960.

Về nhiều phương diện, những ai đã nghiệm sinh những diễn tiến ấy trên thực địa cũng không đo lường được quy mô, bởi vì họ cảm nhận chúng như một hiện tượng tiệm tiến, hoặc cho đó là những đổi thay trong cuộc sống của những cá nhân, dù ngoạn mục tới đâu, cũng không được cảm nhận như là những cuộc cách mạng thường trực. Trong đầu óc người ta, tại sao việc nông dân quyết định ra thành phố tìm việc lại thể hiện một biến đổi lâu dài hơn là việc người Anh hay người Đức – nam cũng như nữ – đã tham gia quân đội hay một ngành kinh tế chiến tranh trong cuộc đại chiến thế giới? Dù điều ấy có xảy ra chăng nữa, ý định của người trong cuộc không phải là thay đổi hẳn nếp sống. Chỉ những người ngoài cuộc nhìn vào, thỉnh thoảng quan sát cảnh quan biến đổi, mới đo được quy mô của quá trình này. Chẳng hạn như thành phố Valencia ở Tây Ban Nha, cảnh quan đầu những năm 1980 có còn gì là Valencia năm 1950, khi người viết những dòng này đặt chân tới đây lần cuối cùng? Một nông dân đảo Sicilia bên Italia – hay chính xác hơn, một tay cướp ở đảo này, phải ở tù 20 năm, bắt đầu từ thập niên 1950 – đến khi mãn hạn tù, sẽ ngơ ngác tới đâu khi anh ta trở lại vùng Palermo, không ai nhận ra nữa sau cơn sốt xây cất bất động sản. “Khi xưa là vườn nho, nay mọc lên những palazzi, khách sạn siêu sao”, anh ta tâm sự với tôi, cái đầu lắc lắc kinh ngạc. Thật vậy, sự đổi thay nhanh tới mức người ta có thể đo thời gian lịch sử bằng những thời đoạn ngắn hơn nhiều. Chưa đầy 10 năm (1962-1971) là thời đoạn chia cách thành phố Cusco (thủ đô lịch sử của Peru) nơi người đàn ông sống ven thành phố còn mặc quần áo cổ truyền của người Indian, với thành phố Cusco mà đa số người dân đã khoác bộ cholo, nghĩa là Âu phục. Cuối thập niên 1970, phần lớn những người bán hàng ở chợ làng Mexico đều tính tiền bằng những cái máy tính bỏ túi của Nhật Bản mà đầu thập niên 1970 họ chưa biết là cái gì.

Những độc giả tuổi chưa cao và ít đi lại để có thể chứng kiến lịch sử chuyển động như vậy từ năm 1950 trở đi sẽ không thể nào tái lập lại những nghiệm sinh này, dù rằng từ năm 1960 trở đi (từ lúc mà thanh niên phương Tây khám phá ra khả năng đi du lịch ở Thế giới thứ Ba, không những thế, đó còn là “đúng mốt” nữa) chỉ cần mở to mắt là có thể quan sát được sự biến đổi của thế giới. Bất luận thế nào, nhà sử học không thể tự thỏa mãn với những hình ảnh và giai thoại, dù hình ảnh và giai thoại có ý nghĩa đến đâu. Họ có nhu cầu xác định và đo đếm.

Karl Marx (1818-1883)

Sự biến đổi xã hội nổi bật nhất và nặng hậu quả nhất của nửa sau thế kỉ XX, đánh dấu sự đoạn tuyệt vĩnh viễn với quá khứ, là cái chết của giai cấp nông dân. Bởi vì, từ thời đại đồ đá mới, đa số con người sống nhờ ruộng đất, chăn nuôi và nghề cá. Trừ nước Anh ra, cho đến giữa thế kỉ XX, nông dân và tá điền vẫn là thành phần đông đảo trong dân số ở tuổi lao động, ngay cả ở các nước công nghiệp. Tới mức, trong những năm 1930, khi người viết sách này còn đang đi học, việc giai cấp nông dân không chịu biến mất vẫn còn là một luận điểm được đưa ra để chống lại lời tiên đoán của Marx về sự tiêu vong đó. Xét cho cùng, cho đến chiều hôm trước của Thế chiến thứ Hai, thì ngoài nước Anh ra, chỉ có một nước công nghiệp duy nhất mà nông nghiệp và ngư nghiệp sử dụng chưa tới 20% dân số, là nước Bỉ. Ngay ở Đức và Hoa Kỳ, hai nước công nghiệp lớn nhất thế giới, là nơi mà dân số nông nghiệp tiếp tục giảm đều, tỉ số nông dân đại để còn ở mức 25% dân số ở lứa tuổi lao động. Ở Pháp, Thụy Điển và Áo, tỉ số nông dân vẫn còn ở mức giữa 35% và 40%. Còn ở các nước nông nghiệp lạc hậu – ví dụ ở châu Âu như Bulgaria và Romania – thì cứ 5 người dân, có 4 người làm đồng ruộng.

Nhưng chúng ta hãy ngừng lại để xem xét điều gì đã diễn ra ở phần tư thứ ba của thế kỉ. Có lẽ không có gì lạ nếu sang đầu thập niên 1980, trên 100 người Anh hay người Bỉ, chỉ có 3 người còn ở trong nông nghiệp, nghĩa là xác suất để một người Anh bình thường gặp mặt một người đã từng làm ruộng ở Ấn Độ hay ở Bangladesh lớn hơn xác suất để người Anh ấy gặp một cựu nông dân Anh. Dân số nông nghiệp ở Mỹ cũng đã giảm xuống mức 3%, nhưng do quá trình giảm thiểu này đã diễn ra trong một thời gian dài, nó không làm cho người ta ngạc nhiên bằng điều này: một tỉ số nông dân nhỏ bé như vậy đã cung cấp cho nước Mỹ và cho thế giới một khối lượng lương thực chưa từng thấy. Điều mà trong thập niên 1940, ít ai có thể tiên đoán rằng 40 năm sau, ở phía tây “bức màn sắt”, không còn một nước nào mà tỉ số nông dân vượt quá 10%, ngoại trừ trường hợp Cộng hòa Ireland (tỉ số nông dân ở đây nhỉnh hơn 10% một chút) và hai nước ở bán đảo Iberia. Nhưng ngay ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, năm 1950 nông dân còn chiếm gần một nửa dân số, mà 30 năm sau, chỉ còn 14,5 và 17,6%, việc ấy tự nó cũng rất có ý nghĩa. Dân số nông dân ở Tây Ban Nha đã giảm đi một nửa trong vòng 20 năm bắt đầu từ 1950, Bồ Đào Nha cũng vậy, bắt đầu từ 1960 (ILO, 1990, bảng 2A; FAO, 1989).

Đó là những con số ấn tượng. Ví dụ như ở Nhật Bản, năm 1947, tỉ số nông dân là 52,4%, đến năm 1985 còn 9% – tức là hai mốc thời gian một đời người: năm một người lính trẻ trở về từ mặt trận Đại chiến Thế giới và năm anh ta trở về đời sống dân sự. Xin kể thêm một câu chuyện thực về Phần Lan mà tác giả được biết. Đó là chuyện một cô gái nhà nông, làm việc ở nông trại, đời chồng đầu tiên là một nông dân. Trước khi đứng tuổi, cô trở thành một trí thức “đại đồng”, rồi một nữ chính khách. Năm 1940, khi cha cô tử trận vào mùa đông trong cuộc kháng chiến chống Nga, để lại vợ góa con thơ ở nông trại, thì 57% người dân Phần Lan sống về nghề nông hay nghề rừng. Khi cô ăn mừng sinh nhật 45 tuổi, tỉ số nông dân tụt xuống dưới mức 10%. Như thế thì, đối với người Phần Lan, tuổi trẻ làm việc ở nông trại, rồi sau đó làm những ngành nghề hoàn toàn khác, có gì tự nhiên hơn?

Mao Trạch Đông (1893-1976)

Tuy nhiên, nếu như tiên đoán của Marx về sự tiêu vong của giai cấp nông dân do cuộc công nghiệp hóa đang trở thành hiện thực ở các nước đang công nghiệp hóa mạnh mẽ, điều thực sự đáng ngạc nhiên là sự suy giảm của dân số nông nghiệp ở những nước mà Liên Hợp Quốc tìm cách che đậy tình trạng thiếu phát triển bằng cách tạo ra những mỹ từ để thay thế những từ “tụt hậu” hay “nghèo khó”. Trong thập niên 1960, giữa lúc mà những chàng thanh niên tả khuynh chan chứa lạc quan muốn đưa sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng bằng chiến lược Mao Trạch Đông, lấy việc động viên nông thôn làm cơ sở để bao vây thành thị, là thành lũy của những lực lượng muốn cố thủ nguyên trạng, thì hàng triệu người nông dân bỏ làng mạc lên thành phố định cư. Ở châu Mỹ Latin, tỉ số nông dân đã giảm đi một nửa trong vòng 20 năm tại Colombia (1951-1973), Mexico (1960-1980) – và gần như thế tại Brasil (1960-1980). Nó giảm tới 2/3, hay gần như thế, ở Cộng hòa Dominica (1960-1981), Venezuela (1961-1981) và Jamaica (1952-1981). Tại tất cả các nước vừa kể tên, trừ Venezuela, nông dân chiếm một nửa dân số ở tuổi lao động, thậm chí chiếm đa số tuyệt đối, khi Thế chiến thứ Hai kết thúc. Nhưng ngay từ những năm 1970, ở châu Mỹ Latin (ngoại trừ những nước rất nhỏ ở Trung Mỹ và Haiti) không còn nước nào mà nông dân không phải là thiểu số. Tại các nước Islam phía tây, tình hình cũng tương tự như thế. Tại Algeria, tỉ số nông dân từ 75% giảm xuống, còn 20%; ở Tunisia từ 68% xuống 23% trong vòng chưa tới 30 năm: tình hình ở Morocco không kém phần ngoạn mục, trong vòng 10 năm (1971-1982) nông dân trở thành thiểu số. Vào giữa thập niên 1950, gần một nửa dân số Syria và Irak còn sống bằng nghề nông. Trong vòng 20 năm, tỉ số nông dân Syria giảm đi một nửa, tỉ số Irak giảm xuống mức dưới 1/3. Từ 55% dân số là nông dân vào giữa thập niên 1950, tới giữa thập niên 1980 Iran chỉ còn 29%.

Cũng trong thời gian đó, cố nhiên nông dân ở phần đất châu Âu nông nghiệp cũng ngừng làm đồng ruộng. Trong những năm 1980, ngay những nước thuần nông nghiệp ở miền đông và đông nam châu lục cũng chỉ còn giữ 1/3 nhân công làm nghề nông (Romania, Ba Lan, Nam Tư, Hi Lạp), có nước còn ít hơn: Bulgaria năm 1985 chỉ còn 16,5%. Ở châu Âu và Trung Đông hay vùng lân cận, chỉ còn một thành lũy nông dân là Thổ Nhĩ Kì: tại đây, tỉ số nông dân cũng giảm đi, nhưng vào giữa thập niên 1980, cũng vẫn còn giữ đa số tuyệt đối.

Trên trái đất, chỉ có ba vùng chủ yếu vẫn là làng mạc và đồng ruộng: Hạ Sahara châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á, và Trung Quốc. Chỉ ở những vùng này mới còn những quốc gia đã tránh được sự suy sụp của nhà nông, và suốt mấy thập niên khuấy động, những người sống về trồng trọt và chăn nuôi vẫn chiếm một tỉ lệ không thay đổi trong dân số: hơn 90% ở Nepal, gần 70% ở Liberia, gần 60% ở Ghana, thậm chí – điều này cũng hơi lạ – vẫn chiếm khoảng 70% ở Ấn Độ trong suốt 25 năm sau ngày độc lập, và đến năm 1981 cũng không giảm đi là bao (66,4%). Cũng phải nói là các khu vực mà nông dân chiếm đa số này, cho đến cuối thời kì chúng ta đang bàn, là nơi sinh sống của một nửa loài người. Tuy nhiên, ở các vùng ven, cũng đã có xu hướng phân tán dưới sức ép của phát triển kinh tế. Bao quanh khối nông dân vững bền của Ấn Độ là những nước mà dân số nông nghiệp giảm sút trông thấy: Pakistan, Bangladesh và Sri Lanka là nơi từ lâu nông dân không còn là đa số; cũng như trong những năm 1980, Malaysia, Philippines và Indonesia, và tất nhiên những nước công nghiệp mới ở Đông Á là Đài Loan và Hàn Quốc mà năm 1961, 60% dân số vẫn còn làm nghề nông. Thêm vào đó, ở phía nam châu Phi, đa số nông dân của nhiều nước chỉ là một ảo giác về các khu Bantoustan. Nghề nông ở đây, chủ yếu là công việc phụ nữ, là mặt nổi của một nền kinh tế mà về thực chất, tùy thuộc khá nhiều vào tiền gửi về quê của nhân công nam giới di cư lên các thành phố của người da trắng hay ở các vùng mỏ miền nam.

Sự di cư từ nông thôn này, đông đảo và thầm lặng, diễn ra trên phần lớn đất liền và cả các hải đảo[78], có một điều lạ lùng là nguyên nhân của nó chỉ một phần do những tiến bộ của nông nghiệp, ít nhất ở những vùng nông nghiệp lâu đời. Ngoại trừ một hai biệt lệ (xem ch. 9), các nước công nghiệp phát triển đã trở thành những nước làm ra sản phẩm nông nghiệp lớn trên thị trường thế giới, trong khi tỉ số nông dân thực thụ của những nước ấy vẫn cứ giảm xuống đều đặn, đôi khi xuống tới mức nực cười. Đó hiển nhiên là kết quả của một sự bùng nổ năng suất bình quân tính theo đầu người trong một nền nông nghiệp huy động nhiều tiền vốn. Khía cạnh nhãn tiền là khối lượng máy móc mà từ nay người nông dân (đàn ông hay đàn bà) của những nước giàu và phát triển có trong tầm tay để sử dụng: nhờ đó, đã trở thành hiện thực giấc mơ sung túc kinh qua một nền nông nghiệp cơ giới hóa đã được thể hiện qua những bức ảnh tuyên truyền của nước Cộng hòa Soviet non trẻ, với những công nhân ngực trần nở nang lái máy cày – giấc mơ mà nền nông nghiệp Liên Xô lại không đạt được. Ít dễ thấy hơn, nhưng cũng rất có ý nghĩa, là những thành tựu to lớn của ngành hóa học nông nghiệp, của ngành chăn nuôi có tuyển lựa và công nghệ sinh học. Nhờ thế, nông nghiệp không cần số lượng nhân công mà trước đó, trong thời kì tiền công nghệ học, phải huy động vào mỗi vụ mùa, và cũng không cần số hộ nông dân suốt năm chăm lo đồng áng như trước. Và khi cần, các phương tiện chuyên chở hiện đại cho phép huy động nhân công mà không phải giữ họ tại chỗ ở nông thôn. Tương tự như thế, trong những năm 1970, người nuôi cừu ở Pertshire (Scotland) khám phá ra giải pháp kinh tế là thuê máy cắt lông cừu nhập khẩu từ New Zealand cho vụ mùa ngắn ngày, tất nhiên mùa này không trùng với mùa cắt lông cừu ở nam bán cầu.

Cuộc cách mạng nông nghiệp tuy không đồng đều nhưng cũng diễn ra ở những vùng nghèo trên thế giới. Sự thực mà nói, nếu không có thủy lợi và sự thâm nhập của khoa học thông qua “cách mạng xanh”[79] – cho dù hậu quả lâu dài của nó còn là vấn đề phải tranh cãi – thì phần lớn các nước Nam Á và Đông Nam Á đã không thể nào nuôi sống số dân tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, nói chung, Thế giới thứ Ba và một số vùng của Thế giới thứ Hai (trước đây hay vẫn còn là XHCN) không còn tự túc về lương thực nữa, đừng nói gì đến sản xuất dư thừa nhiều nông sản để xuất khẩu như người ta có thể chờ đợi ở những nước nông nghiệp. Trong trường hợp khả quan nhất, các nước này được khuyến khích trồng trọt loại nông sản có thể xuất khẩu ra thị trường của thế giới phát triển, còn nông dân vẫn tiếp tục làm ruộng theo những phương pháp cũ đòi hỏi nhiều sức người, hoặc phải nhập lương thực thặng dư mà phương bắc bán ra với giá không đủ vốn. Họ không có lí do thích đáng nào để từ bỏ một nền nông nghiệp cần tới lao động của họ, ngoại trừ lí do này: sự bùng nổ dân số có thể làm cho ruộng đất trở thành khan hiếm. Nhưng những vùng mà nông dân bỏ đi, như ở châu Mỹ Latin, lại thường là những vùng ít người và biên giới thì mở cửa, nên lại lôi cuốn một số nhỏ nông dân tới đây chiếm đất hay khẩn hoang – những người này họp thành cơ sở chính trị cho những phong trào du kích cục bộ như ở Columbia hay Peru. Ngược lại, ở châu Á những vùng mà nông dân vẫn tồn tại tương đối lại là những vùng đông dân nhất thế giới, với mật độ từ 100 đến 800 người/km2 (ở Nam Mỹ, mật độ bình quân là 16 người/km2).

Nông thôn vơi người đi, thì thành thị đông người hơn. Trong nửa sau thế kỉ XX, thế giới đã đô thị hóa hơn hẳn các thời kì lịch sử khác. Đến giữa thập niên 1980, dân số thành thị đã lên tới 42%, và lẽ ra đã chiếm đa số nếu không có khối lượng dân số nông thôn ở Trung Quốc và Ấn Độ (chiếm 3/4 dân số nông thôn châu Á) (Population, 1984, tr. 214). Nhưng ngay ở trung tâm những vùng nông thôn, người ta vẫn bỏ ra thành phố, nhất là những thành phố lớn. Ở Kenya, từ 1960 đến 1980, dân số đô thị đã nhân đôi, cho dù đến năm 1980, mới chỉ đạt mức 14,2%; nhưng hiện nay, cứ 10 người dân thành thị Kenya, 6 người sống ở thủ đô Nairobi, cách đây 20 năm, chỉ có 4 người. Ở châu Á, những đô thị lớn, hàng triệu người dân – thường là các thủ đô – mọc lên như nấm: Seoul, Teheran, Karachi, Jakarta, Manila, New Delhi, Bangkok: năm 1980, dân số của các đô thị này đều từ 5 triệu đến 8,8 triệu, tới năm 2000 sẽ lên từ 10 triệu đến 13,5 triệu. Năm 1950, trừ Jakarta, không có thủ đô nào trong số nói trên có dân số trên 1,5 triệu người (World Resources, 1986). Sự thật là đến cuối thập niên 1980, những đô thị lớn nhất thế giới đều là những đô thị ở Thế giới thứ Ba: Cairo, Mexico City, São Paulo và Thượng Hải với số dân vượt mức 10 triệu. Bởi có một điều nghịch lí là trong khi thế giới phát triển vẫn đô thị hóa cao hơn thế giới nghèo (trừ một số khu vực ở châu Mỹ Latin và khu vực Islam) thì những đô thị lớn ở thế giới phát triển lại suy sút. Các đô thị này đã phát triển tột độ trong nửa đầu thế kỉ XX, nhưng sau đó quá trình di cư ra ngoại ô hay ra những vệ tinh ngoại ô đã tăng tốc, và trung tâm thành phố về đêm trở thành những vỏ ốc rỗng ruột, khi những người lao động, những thương gia và những người đi giải trí buổi tối đã về nhà. Từ năm 1950 trở đi, trong khi dân số thành phố Mexico đã tăng gấp 5 lần sau ba thập niên, thì New York, London và Paris đã giảm dân số, không còn đứng trong danh sách những đại đô thị, ít nhất cũng tụt xuống bảng hai.

Điều khá kì lạ là tuy thế có sự hội tụ giữa Cựu Thế giới và Tân Thế giới. Một “thành phố lớn” tiêu biểu ở các nước phát triển trở thành một vùng dân cư đô thị liên kết, thường quần tụ chung quanh một hay nhiều khu trung tâm – hành chính hay doanh nghiệp – từ xa cũng nhận ra bởi những dãy tòa nhà đồ sộ hay những tháp chọc trời – trừ những thành phố như Paris không cho phép xây tháp chọc trời[80]. Bắt đầu từ thập niên 1960 trở đi, một cuộc cách mạng trong vận chuyển công cộng sẽ làm nổi bật sự nối kết giữa các trung tâm đó với nhau hoặc sự bùng nổ phương tiện tư nhân dưới áp lực của sự bành trướng khối lượng ô tô. Kể từ cuối thế kỉ XIX, khi những tuyến xe điện và những tuyến xe điện ngầm được khánh thành, chưa bao giờ những tuyến đường mới, những mạng lưới xe lửa tốc hành khu vực lại được xây dựng tại nhiều đô thị như vậy: từ Wien đến San Francisco, từ Seoul đến Mexico. Song song với quá trình nói trên là cuộc phi tập trung hóa, qua đó đa phần các cộng đồng hay phức hợp ngoại ô có những khu thương mãi và giải trí riêng, đặc biệt là những đại trung tâm thương mại ngoại vi (shopping malls) – xu hướng mà người Mỹ đã đi tiên phong.

Mặt khác, đô thị ở Thế giới thứ Ba, tuy được trang bị bằng những mạng lưới vận chuyển công cộng (thường cũ kĩ và ít ỏi) và vô vàn những chiếc xe buýt tư nhân xập xệ và tắc xi “tập thể”, tất nhiên là những thành phố tản mạn, thiếu cấu trúc. Không thể khác được vì đó là những quần thể từ 10 tới 20 triệu dân – nhất là khi được xây dựng bắt đầu từ những khu nhà ổ chuột hay trên những bãi đất hoang đã bị lấn chiếm. Người dân ở các đô thị này phải mất hàng giờ để di chuyển tới chỗ làm và trở về nhà (có được một chỗ làm đều đặn là quý lắm rồi), hay là đi hành hương ở những nơi nghi lễ công cộng như Sân vận động Macaranã của Rio de Janeiro (200 nghìn chỗ), nơi người dân thành phố tôn thờ chư thần futebol (bóng đá). Nhưng, thực ra, các quần thể đô thị ở Cựu Thế giới và Tân Thế giới đều từng bước mang hình thái của những tập hợp cộng đồng trên nguyên tắc – và ở phương Tây, đã trở thành chính thức – tự lập, cho dù ở phương Tây giàu sang, ít nhất ở các khu ngoại ô, có nhiều không gian xanh hơn phương Đông và phương Nam, nghèo nàn, chen chúc. Trong khi ở các khu nhà nghèo và ổ chuột, con người phải cộng sinh với những bầy đàn chuột, gián, thì những vùng no man’s land (đất không người) kì dị nằm giữa thành phố và vùng nông thôn bao quanh di tích của “trung tâm thành phố” ở thế giới phát triển đã trở thành thuộc địa của động vật sống trong rừng: chồn, cáo, raccoon.

 

II

 

Ngoạn mục không kém và phổ biến hơn hẳn sự suy sút và sụp đổ của nông dân, là sự phát triển của những ngành nghề đòi hỏi trình độ trung học và đại học. Giáo dục tiểu học phổ thông, nghĩa là cơ bản xóa nạn mù chữ là nguyện vọng của hầu hết các chính phủ trên thế giới, nên đến cuối thập niên 1980, chỉ có những nhà nước trung thực nhất hoặc nghèo khó nhất mới thừa nhận rằng trong dân chúng còn có một bộ phận mù chữ hoặc mờ chữ. Chỉ có khoảng mươi nước – trừ Afghanistan, đều ở châu Phi – thừa nhận rằng số người dân biết đọc biết viết không tới 20%. Và công cuộc xóa nạn mù chữ đã đạt được những tiến bộ vượt bực, nhất là ở các nước cách mạng có chính quyền cộng sản – các nước này đã có những thành tựu vượt bậc, tuy đôi khi họ quá lạc quan, tuyên bố đã “thanh toán” nạn mù chữ trong một thời gian ngắn đến mức khó tin. Nhưng bất luận nạn mù chữ được giải quyết tới mức nào, nhu cầu về trung học và nhất là đại học đã gia tăng một cách khác thường. Cũng như số người đã học xong hay còn học ở hai cấp này.

Sự bùng nổ số sinh viên nổi bật ở cấp đại học là cấp mà trước đó, trừ ở Hoa Kỳ, số sinh viên hầu như không đáng kể. Trước Thế chiến thứ Hai, ngay ở Đức, Pháp và Anh – ba nước lớn nhất, giàu nhất và có nền giáo dục phát triển nhất, dân số tổng cộng là 150 triệu người – số sinh viên không quá 150.000 người, tức là 0,1% dân số. Tới cuối thập niên 1980, số sinh viên lên tới hàng triệu ở Pháp, CHLB Đức, Italia, Tây Ban Nha và Liên Xô (đó là chỉ đơn cử vài nước châu Âu), không kể Brasil, Ấn Độ, Mexico, Philippines, và tất nhiên Hoa Kỳ là nước đi tiên phong về giáo dục đại học đại chúng. Ở thời điểm cuối thập niên 1980, tại những nước có cao vọng, tỉ lệ sinh viên lên tới 2,5% toàn thể dân số – kể cả nam phụ lão ấu – có trường hợp lên tới 3%. Không hiếm có những nước mà ở lứa tuổi 20-24, tỉ số sinh viên lên tới 20%. Ngay ở những nước bảo thủ về mặt này như Anh và Thụy Sĩ, số sinh viên cũng lên tới 1,5%. Mặt khác, có vài nước chưa phát triển nhiều về kinh tế nhưng tỉ lệ sinh viên lại khá cao: Ecuador (3,2%), Philippines (2,7%) hay Peru (2%).

Tiến trình này không những mới mẻ mà còn rất đột ngột. “Điều ngạc nhiên là tới giữa thập niên 1960, số sinh viên ở châu Mỹ Latin lại ít ỏi như vậy” (Liebman, Walker, Glazer, 1972, tr. 35), đó là nhận xét của những nhà nghiên cứu người Mỹ trong thập niên 1960; họ cho rằng tình trạng này có liên hệ với mô hình đại học dành cho giới thượng lưu mà Trung Mỹ và Nam Mỹ chọn theo châu Âu. Mặc dầu là số sinh viên hàng năm đã tăng gần 8%. Sự thật là phải từ thập niên 1960 trở đi, sinh viên mới trở thành một lực lượng xã hội cũng như chính trị quan trọng hơn bao giờ hết: năm 1968, các cuộc bùng nổ toàn cầu của phong trào sinh viên cấp tiến biểu lộ nhiều điều hơn cả những con số thống kê. Nhưng cũng không thể làm ngơ trước những con số. Chỉ riêng châu Âu là khu vực giáo dục phát triển, từ 1960 đến 1980, số sinh viên đã nhân gấp 3 hay gấp 4 ở những nước tiêu biểu, nhưng đã nhân gấp 4 hay 5 lần ở CHLB Đức, Ireland và Hi Lạp; gấp 5 hay 7 lần ở Phần Lan, Iceland, Thụy Điển và Ý; 7 hay 9 lần ở Tây Ban Nha và Na Uy (Burloui, UNESCO, 1983, tr. 62-63). Thoạt nhìn, cũng hơi lạ khi thấy xu hướng đổ xô vào các trường đại học lại không nổi lên ở các nước XHCN vốn rất tự hào về giáo dục đại chúng – đó là không nói tới trường hợp kì dị của Trung Quốc dưới thời Mao: Người Cầm lái Vĩ đại đã hủy bỏ hầu như toàn bộ nền đại học trong cuộc Cách mạng Văn hóa (1966-1976). Trong những năm 1970 và 1980 các nước XHCN gặp nhiều rối ren, càng ngày càng tụt hậu so với phương Tây. Tính theo tỉ lệ phần trăm, số sinh viên Hungary và Tiệp Khắc thua kém hầu hết các nước châu Âu khác.

Nhưng nếu xem xét kĩ hơn, có thật như vậy chăng? Có lẽ không. Đúng là tới đầu thập niên 1980, giáo dục đại học đã phát triển mạnh mẽ, kết quả là ít nhất 7 nước đã có trên 100.000 nhà giáo cấp đại học. Tình trạng này xuất phát từ sức ép của người tiêu thụ, đó là điều mà hệ thống của các nước XHCN không đáp ứng được. Đối với những nhà quyết định kế hoạch và giới công quyền, thì hiển nhiên là nền kinh tế hiện đại đòi hỏi ngày càng nhiều người quản lí hành chính, nhà giáo và nhân viên kĩ thuật. Đào tạo những người này ở đâu? Theo truyền thống, các trường đại học và các trường cao đẳng vẫn là nơi đào tạo nhân sự cho bộ máy hành chính công cộng và cho các nghề chuyên môn. Vì thế, và đứng về quan điểm dân chủ, nhất thiết phải phát triển mạnh mẽ nền giáo dục đại học, nhưng sự bùng nổ dân số sinh viên đã vượt hẳn tầm cỡ của mọi kế hoạch hợp lí.

Khi có khả năng lựa chọn hoặc khi có vận hội, các gia đình đều sốt sắng cho con học đại học vì đó là con đường tốt nhất để bảo đảm thu nhập khấm khá và một vị trí cao hơn trong xã hội. Giữa thập niên 1960 các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã điều tra ở châu Mỹ Latin: từ 79 đến 95% sinh viên được hỏi đều tin tưởng rằng nhờ vào học đại học, trong vòng 10 năm, họ sẽ gia nhập được một giai cấp xã hội cao hơn. Số sinh viên cho rằng nhờ đại học, vị trí kinh tế của họ sẽ vượt xa trình độ của gia đình họ thì chỉ ở khoảng từ 21 đến 38% (Liebman, Walker, Glazer, 1972). Đúng thế, tốt nghiệp đại học sẽ mang lại cho họ thu nhập cao hơn những người không có bằng cấp; và ở những nước giáo dục kém phát triển, bằng cấp là bảo đảm có chỗ trong bộ máy nhà nước, nghĩa là có vị trí quyền lực, sinh lợi, làm giàu. Tất nhiên phần đông sinh viên đều xuất thân từ những gia đình tương đối khá giả – nếu không làm sao có thể lo cho con cái đến tuổi lao động có thể học thêm nhiều năm? – nhưng không nhất thiết là phải giàu có. Cha mẹ thường chấp nhận hi sinh. Người ta thường nói phép lạ về giáo dục ở Hàn Quốc là nhờ những con bò mà những gia đình tiểu nông bán đi để nuôi con ăn học với hi vọng chúng trở thành nho sĩ. Trong vòng tám năm, từ 1975 đến 1983, số sinh viên Hàn Quốc đã nhảy vọt từ 0,8% lên 3% dân số. Ai đã từng là người đầu tiên trong gia đình bước chân tới trường đại học có thể hiểu được động cơ thúc đẩy những gia đình Hàn Quốc. Nhờ cuộc bột phát kinh tế toàn cầu mà vô vàn gia đình thanh bạch – những thành phần “cổ cồn trắng”, viên chức, tiểu thương tiểu chủ, nông dân, và ở phương Tây, cả những công nhân chuyên nghiệp – đã có thể nuôi con ăn học. Dưới dạng này hay dạng kia, nhà nước phúc lợi phương Tây đã trợ cấp nhiều cho sinh viên – mở đầu là học bổng của chính phủ Mỹ cấp cho những thanh niên phục viên sau năm 1945 muốn đi học – cho dù đa số cũng sẽ sống một cuộc đời hoàn toàn không có gì là xa hoa. Tại những nước dân chủ và bình đẳng, những người đỗ tú tài thường có quyền vào học cấp cao, đến mức năm 1991 ở Pháp việc thi tuyển vào đại học vẫn bị coi là đi ngược lại hiến pháp (quyền này hoàn toàn không có trong các nước XHCN). Thanh niên đua nhau vào đại học, khiến chính quyền – ngoài Hoa Kỳ, Nhật Bản và một vài nước khác, đại đa số các trường đại học là trường công chứ không phải là trường tư – phải mở ra nhiều cơ sở mới để tiếp nhận. Điều này rất rõ trong thập niên 1970 là thời kì mà số trường đại học trên thế giới đã tăng hơn gấp đôi[81]. Và, đương nhiên, đông đảo các thuộc địa cũ vừa độc lập trong những năm 1960 cũng muốn mở ra các trường đại học: đó là một biểu tượng của nền độc lập, quan trọng ngang tầm với quốc kì, công ti hàng không hay quân đội.

Augusto Pinochet (1915-2006)
Raymond Aron (1905-1983)

Khối lượng sinh viên và giảng viên đại học lên tới hàng triệu, hay ít nhất là hàng trăm nghìn ở khắp các nước trên thế giới, ngoại trừ những nước quá nhỏ hoặc quá lạc hậu. Họ ở tập trung trong các “học khu”, “campus” thường biệt lập với thành phố; đó cũng là một nhân tố mới trong sinh hoạt văn hóa và chính trị. Khối sinh viên và giảng viên này mang tính chất xuyên quốc gia: các ý tưởng và thử nghiệm được giao lưu qua biên giới quốc gia một cách nhanh chóng và dễ dàng; có lẽ giới đại học quen sử dụng các công nghệ truyền thông mới hơn các chính quyền. Như thập niên 1960 cho thấy, giới đại học không chỉ “cấp tiến” và bùng nổ đơn thuần về mặt chính trị: họ còn tỏ ra rất hiệu lực khi nói lên sự bất mãn chính trị và xã hội bằng những thể hiện có tính chất dân tộc, thậm chí quốc tế. Tại các nước độc tài, giới sinh viên thường là thành phần công dân duy nhất có khả năng hành động chính trị tập thể. Cho nên, rất có ý nghĩa là trong khi số sinh viên ở các nước châu Mỹ Latin tăng lên thì từ năm 1973, riêng ở Chile dưới chế độ Pinochet lại giảm xuống: từ 1,5 xuống 1,1% dân số. Và nếu, trong Thời đại Hoàng kim sau 1945, chỉ có một thời điểm ứng với sự xáo trộn diễn ra cùng một lúc trên thế giới, điều mà những người cách mạng ước mơ từ sau năm 1917 trở đi, thì chắc chắc đó là thời điểm 1968: từ Hoa Kỳ và Mexico, ở phương Tây, cho đến Ba Lan, Tiệp Khắc và Nam Tư, trong phe XHCN, sinh viên đã nổi dậy, cảm kích mạnh mẽ trước phong trào tháng năm 1968 ở Paris, “tâm điểm” của một cuộc “động đất” lan rộng của sinh viên châu Âu. Đó còn xa mới là một cuộc cách mạng, tuy nó vượt hẳn tầm mức một “màn tâm lí trị liệu”, một “vở tuồng đường phố” mà những nhà quan sát đứng tuổi như Raymond Aron nói tới một cách khinh miệt. Dù thế nào, 1968 đã gióng hồi chuông báo tử của thời kì tướng De Gaulle cầm quyền ở Pháp, của thời kì các tổng thống đảng Dân chủ ở Hoa Kỳ, của những hi vọng về một chế độ cộng sản phóng khoáng ở Trung Âu; và thông qua những dư chấn thầm lặng sau cuộc tàn sát sinh viên ở quảng trường Tlateloco, nó đã mở ra một thời kì mới trong đời sống chính trị Mexico.

Charles de Gaulle (1890-1970)

Sở dĩ 1968, và những sự kiện nối dài qua hai năm 1969 và 1970, không phải là một cuộc cách mạng, cũng chẳng có vẻ hay có thể là một cuộc cách mạng, là vì sinh viên, dù đông đảo và được huy động đến mức nào, cũng không thể riêng mình làm cách mạng được. Hiệu lực của sinh viên là khả năng phát động và ngòi nổ cho những nhóm xã hội rộng rãi hơn, nhưng ít “bén lửa” hơn. Từ những năm 1960, có khi sinh viên đã làm được điều đó. Họ đã châm ngòi cho những cao trào đình công của thợ thuyền ở Pháp và Italia những năm 1968-1969, nhưng sau 20 năm trời đời sống của người làm công được cải thiện chưa từng thấy trong các nước có đủ công ăn việc làm, thì cách mạng là mối bận tâm hạng chót của quần chúng vô sản. Phải đợi đến thập niên 1980 – và tình huống này lại xảy ra ở các Trung Quốc, Hàn Quốc và Tiệp Khắc, đều là những nước không dân chủ, nhưng khác xa nhau – các cuộc nổi dậy của sinh viên mới có cơ châm ngòi cho cách mạng, hay chí ít cũng đã buộc chính quyền coi là hiểm họa và đã tàn sát ở một quy mô lớn, như ở Bắc Kinh, trên quảng trường Thiên An Môn. Khi những giấc mơ lớn của năm 1968 đã thất bại, một số sinh viên cực đoan đã tìm cách đơn độc tiến hành cách mạng bằng những khủng bố với những nhúm nhỏ thành viên. Nhưng mặc dầu những phong trào này được quảng cáo (ít nhất chúng đã đạt được mục tiêu này), chúng hầu như không gây ra tác động chính trị quan trọng nào. Khi có nguy cơ gây ra tác động thì những phong trào này bị đàn áp khá nhanh chóng ngay lúc nào chính quyền ra tay: trong thập niên 1970, nhà cầm quyền đã đàn áp bạo liệt chưa từng có và sử dụng tra tấn một cách có hệ thống trong những “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” ở Nam Mỹ; tại Italia thì chính quyền dùng mua chuộc và thương lượng hậu trường. Trong thập niên cuối cùng của thế kỉ, tàn dư đáng kể của các phong trào này chỉ còn tổ chức ETA của những phần tử khủng bố quốc gia chủ nghĩa vùng người Basque ở Tây Ban Nha, và đội du kích mang danh nghĩa cộng sản Sendero Luminoso (Con đường Sáng) ở Peru – món quà quái ác mà nhân viên và sinh viên Trường đại học Ayacucho tặng cho đồng bào của họ.

Vladimir Lenin (1870-1924)

Một câu hỏi khá hóc búa đặt ra: tại sao, trong tất cả các tác nhân xã hội có từ trước hoặc mới xuất hiện trong Thời đại Hoàng kim, chỉ có phong trào sinh viên đã chọn con đường cực tả? Vì, nếu chúng ta để một bên những người nổi dậy chống chế độ cộng sản, thì ngay cả những phong trào sinh viên quốc gia chủ nghĩa, cho đến những năm 1980, vẫn gắn trên ngọn cờ của họ huy hiệu màu đỏ mang chân dung Marx, Lenin và Mao.

Về những phương diện nhất định, điều này vượt ra khỏi sự phân tầng xã hội, bởi vì khối sinh viên cũng là một lứa tuổi thanh niên, nghĩa là một chặng đường đời; thêm vào đó, trong sinh viên lại có một số ngày càng đông phụ nữ, chiếm một tỉ lệ quan trọng, với hai nét khu biệt là tuổi xanh sẽ qua đi và giới tính sẽ còn đó. Ở một phần sau, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề hình thành những nền văn hóa riêng biệt của thanh niên, gắn liền sinh viên với những thanh niên cùng lứa tuổi, vấn đề quá trình ý thức của phụ nữ (không chỉ thu hẹp ở khuôn viên đại học). Chưa bước sang tuổi người lớn, các nhóm thanh niên là tiêu điểm của nhiệt tình, vượt rào và phá trật tự: điều này, các viện trưởng đại học thời Trung cổ cũng đã nếm mùi. Vả lại, đam mê cách mạng thường có ở tuổi 18 hơn là tuổi 35, như các thế hệ tư sản châu Âu thường nhắc nhở những quý tử (hoài nghi) rồi những ái nữ của họ. Xác tín này đã ăn sâu trong văn hóa phương Tây đến mức giới quyền chức ở nhiều nước – chủ yếu là các nước thuộc văn hóa Latin, ở bên này hay bên kia bờ Đại Tây Dương – khi xét tới lí lịch thanh niên, không hề quan tâm tới những hoạt động chính trị thời sinh viên, kể cả hoạt động đấu tranh vũ trang. Họ còn coi đó là chỉ dấu của một cá tính nhiệt huyết. Cho nên người ta vẫn nói đùa ở Lima (thủ đô Peru) là sinh viên trường đại học San Marcos “đi làm nghĩa vụ cách mạng” trong một tông phái mao-ít nào đó trước khi hoàn lương, đi làm trong một ngành nghề tư sản và “không làm chính trị”: trong khi đó thì cuộc sống bình thường vẫn tiếp diễn tại đất nước khổ đau này (Lynch, 1990). Ở Mexico cũng thế, sinh viên cũng sẽ nhanh chóng hiểu ra rằng, thứ nhất, bộ máy nhà nước và bộ máy của đảng cầm quyền tuyển mộ cán bộ chủ yếu trong giới đại học, và thứ hai, sinh viên càng hăng hái cách mạng bao nhiêu, thì sau khi tốt nghiệp càng dễ được xếp đặt vào những vị trí ngon lành bấy nhiêu. Mà ngay ở một nước đáng kính như Pháp, việc một “cựu Mao” những năm 1970 có thể trở thành cán bộ cấp cao của nhà nước cũng đã trở thành một sự kiện quen thuộc.

Tuy nhiên, điều ấy vẫn chưa giải thích tại sao những thanh niên mà tương lai hứa hẹn tốt đẹp hơn thế hệ cha mẹ, ít nhất cũng hơn phần đông những thanh niên không phải là sinh viên – hầu như không có biệt lệ ở nước nào – lại bị khuynh hướng cực đoan chính trị hấp dẫn như thế[82]. Thực ra, có lẽ phần đông sinh viên không bị lôi cuốn mà tập trung học hành để đoạt được tấm bằng bảo đảm tương lai. Nhưng họ không được chú ý bằng thiểu số – một thiểu số cũng khá quan trọng về số lượng – những sinh viên tích cực hoạt động chính trị, nhất là họ lại chiếm lĩnh sân khấu sinh hoạt đại học: các bức tường vẽ đầy khẩu hiệu, dán đầy áp phích, các cuộc hội họp, tuần hành, bãi khóa, chặn cổng ra vào khuôn viên đại học. Cũng phải nói rõ là mức độ khuynh tả triệt để này là một hiện tượng mới mẻ ở các nước phát triển, nhưng không có gì mới ở các nước chậm phát triển hay lệ thuộc. Trước Thế chiến thứ Hai, đại đa số sinh viên Trung Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ là phi chính trị hoặc khuynh hữu.

Chỉ riêng sự bùng nổ số sinh viên cũng gợi ra một lí giải khả dĩ. Vào cuối Thế chiến thứ Hai, nước Pháp có chưa tới 100.000 sinh viên. Năm 1960, số sinh viên vượt 200.000; 10 năm sau nhân hơn gấp 3, lên tới 651.000 (Flora, tr. 582; Deux Ans, 1990). Trong thời gian 10 năm ấy, số sinh viên văn khoa tăng gần ba lần rưỡi; khoa học xã hội, gấp 4. Hậu quả tức thời và trực tiếp là sự căng thẳng tất yếu giữa khối lượng sinh viên (chủ yếu là thế hệ đầu tiên) đột nhiên tràn ngập những đại học và học viện chưa được chuẩn bị về tổ chức, vật chất và tinh thần để tiếp nhận một số đông như vậy. Thêm nữa, trong khi một tỉ lệ khá cao trong lứa tuổi này có may mắn tiếp tục đi học – tại Pháp năm 1950 là 4%, năm 1970 là 15,5% – vào đại học không còn là một ưu quyền đặc biệt, tự nó không còn là một thứ phần thưởng quý hiếm nữa, và người trẻ (thường thiếu tiền) ngày càng khó chấp nhận những ràng buộc do việc học áp đặt lên họ. Nỗi oán hận trước quyền lực ở trường đại học dễ mở rộng thành oán hận trước mọi quyền lực; và, ở phương Tây, điều đó đưa sinh viên sang phái tả. Cho nên không có gì ngạc nhiên nếu như 1960 trở thành thập niên thích đáng nhất để bùng nổ những rối loạn của sinh viên. Tại từng nước, có thêm những nguyên nhân đặc biệt có thể khuếch đại những xáo động ấy – thí dụ ở Mỹ là chiến tranh Việt Nam (nghĩa là triển vọng phải đi quân dịch), ở Peru là nỗi uất hận về sắc tộc (Lynch, 1990, tr. 32-37) – nhưng hiện tượng toàn cầu này không cần tới những nguyên nhân đặc thù để được giải thích.

Tuy nhiên, trong một ý nghĩa rộng hơn, và cũng khó minh định hơn, có thể nói là khối sinh viên đông đảo và mới mẻ này ở vào một vị thế “tréo cẳng ngỗng” đối với toàn bộ xã hội. Khác hẳn những giai cấp hay những nhóm xã hội có từ trước, sinh viên không có một vị trí xã hội xác định và các mối quan hệ giữa sinh viên với xã hội cũng chưa được định hình: bởi vì không thể nào so sánh những binh đoàn sinh viên mới này với đội ngũ tương đối nhỏ bé sinh viên thời tiền chiến (nước Đức năm 1939 giáo dục phát triển cũng chỉ có 40 nghìn sinh viên) chẳng qua là giai đoạn quá độ trong đời sống của giai cấp trung lưu? Trên nhiều phương diện, sự tồn tại của khối sinh viên này đặt ra những câu hỏi về xã hội đã sản sinh ra nó, và từ câu hỏi đến phê phán, khoảng cách cũng không xa. Khối người mới này tự định vị ra sao? Xã hội họ đang sống là thứ xã hội gì? Tuổi thanh xuân của giới sinh viên, cái hố sâu ngăn cách thế hệ hậu chiến và thế hệ cha chú nhớ lại quá khứ, so sánh hiện tại với quá khứ, khiến cho những câu hỏi của giới trẻ càng thêm bức xúc, thái độ của họ càng mang nặng tính phê phán. Sự thao thức của tuổi trẻ không thể dập tắt được bởi ý thức rằng họ sống trong một thời đại tiến bộ vượt bực, tốt đẹp hơn cả sự mơ ước của thế hệ cha mẹ. Thời đại mới là thời đại duy nhất mà thế hệ đại học nghiệm sinh. Và trái lại, họ có cảm tưởng là tình hình có thể khác, có thể tốt hơn hẳn, mặc dầu họ chưa biết phải ra sao. Còn thế hệ cha mẹ thì đã quen với những khó khăn, với nạn thất nghiệp, hay ít nhất còn giữ được hồi ức về thời kì đó, nên họ bất ngờ trước một phong trào đại chúng triệt để tới mức đó ở những nước phát triển, trong một thời kì mà họ không cảm thấy kích thích kinh tế còn quan trọng như thế. Thế mà các cuộc náo động của sinh viên lại bùng nổ vào đúng đỉnh điểm của giai đoạn đại phát triển của kinh tế thế giới, đối tượng của sự bất mãn lại không phải là những tiến bộ mà xã hội cũ chưa thực hiện đầy đủ, mà dường như là chính bản thân xã hội đương thời này. Trớ trêu thay, chính tinh thần cực đoan đã nảy nở ở ngay trong những nhóm không bị khó khăn về kinh tế đã kích thích những thành phần quen được huy động trên những khẩu hiệu kinh tế: các thành phần này phát hiện ra rằng, rốt cuộc, họ có thể đưa ra những yêu sách cao hơn là họ tưởng đối với xã hội mới. Hậu quả trực tiếp nhất của phong trào sinh viên ở châu Âu là một làn sóng đình công của công nhân để đòi tăng lương và cải thiện điều kiện lao động.

 

III

 

Khác hẳn các tầng lớp nông thôn và sinh viên, các tầng lớp thợ thuyền công nghiệp, trước thập niên 1980, không trải qua những cơn địa chấn về dân số. Bắt đầu từ những năm 1980 trở đi, giai cấp công nhân bắt đầu một thời kì suy sút rõ rệt. Điều này cũng lạ khi người ta nhớ tới những diễn ngôn ngay từ những năm 1950 về “xã hội hậu công nghiệp” cũng như về tính chất thực sự cách mạng của những biến đổi kĩ thuật trong sản xuất, mà phần lớn đều có tác dụng là tiết kiệm, đi tắt hoặc không dùng tới nhân công, hay là cuộc khủng hoảng nhãn tiền mà các chính đảng và phong trào dựa vào giai cấp công nhân đã trải qua từ những năm 1970 trở đi. Song cảm tưởng chung về sự tiêu vong của giai cấp công nghiệp cũ, đứng về mặt thống kê, là một sai lầm, ít nhất về toàn cục mà nói.

Trong suốt Thời đại Hoàng kim, giai cấp công nhân công nghiệp chiếm khoảng 1/3 dân số trong lứa tuổi lao động, ngay cả trong các nước công nghiệp cũ, ngoại trừ trường hợp cá biệt duy nhất là Hoa Kỳ, là nước mà tỉ lệ dân số trong công nghiệp chế biến đã bắt đầu giảm sút từ năm 1965[83], ngày càng nhiều từ những năm 1970. Thật ra, từ 1960 đến 1980, dân số công nghiệp tiếp tục tăng trưởng ở 8 trong số 21 nước thuộc OECD – tập hợp những nước phát triển nhất. Đương nhiên, số công nhân tiếp tục tăng lên ở những khu vực mới được công nghiệp hóa ở châu Âu (không cộng sản), rồi ổn định cho tới thập niên 1980. Tại Nhật Bản, thoạt đầu, tỉ số này tăng mạnh mẽ, rồi sang những năm 1970 và 1980 thì tương đối ổn định. Tại các nước cộng sản tiến hành công nghiệp hóa nhanh chóng, đặc biệt ở Đông Âu, giai cấp công nhân tăng trưởng chưa từng thấy. Ở những nước thuộc Thế giới thứ Ba bắt đầu công nghiệp hóa, tình hình cũng tương tự: Brasil, Mexico, Ấn Độ, Hàn Quốc v.v.. Tóm lại, về mặt con số tuyệt đối, đến cuối Thời đại Hoàng kim, chưa bao giờ công nhân trên thế giới lại đông như vậy, và tỉ lệ người làm việc trong công nghiệp so với dân số chắc chắn cũng cao chưa từng có. Trừ một vài biệt lệ (như Anh, Bỉ và Hoa Kỳ), có thể nói tại tất cả những nước mà các đảng XHCN đã phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỉ XIX, trên cơ sở giác ngộ của giai cấp vô sản, thì ở thời điểm 1970, tỉ số công nhân trên dân số ở tuổi lao động lên tới mức cao chưa từng thấy kể từ 1890. Phải đợi đến thập niên 1980 và 1990, mới xuất hiện những chỉ dấu giai cấp công nhân giảm sút mạnh mẽ.

Ảo giác về sự suy sụp của giai cấp công nhân (trong Thời đại Hoàng Kim) là do sự dịch chuyển trong thành phần công nhân và trong quá trình sản xuất, chứ không phải là do sự “mất máu” về dân số. Những ngành công nghiệp cũ của thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, và khía cạnh dễ trông thấy của những nhà máy thời đó, khiến chúng đã trở thành biểu tượng của toàn bộ “công nghiệp”, nên cảnh tượng tàn lụi của chúng gây ra ấn tượng lớn. Những “bộ mặt đen” của công nhân mỏ than, ngày trước có hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu như ở Anh, nay con số không bằng con số sinh viên tốt nghiệp đại học. Công nghiệp gang thép ở Mỹ từ nay dùng người ít hơn công ti hàng ăn MacDonald’s bán bánh mì kẹp thịt băm hamburger. Các ngành công nghiệp truyền thống này, ngay cả trong trường hợp chưa tiêu vong, cũng đã chuyển hoạt động từ những nước công nghiệp cũ sang các nước mới. Ngành dệt, ngành da và công nghiệp đóng giày đã ồ ạt chuyển nơi sản xuất. Ở CHLB Đức, số người làm việc trong ngành dệt và may đã giảm đi hơn một nửa từ 1960 đến 1984, nhưng đầu thập niên 1980, cứ 100 người lao động Đức, thì công nghiệp may mặc Đức sử dụng 34 công nhân ở nước ngoài (năm 1966, con số này chưa tới 3). Ngành gang thép và đóng tàu hầu như đã biến mất khỏi các nước đầu tiên đã công nghiệp hóa để xuất hiện ở Brasil, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Ba Lan và Romania. Những vùng công nghiệp cũ trở thành những “vành đai hoen rỉ” – thành ngữ này đã được tạo ra ở Hoa Kỳ vào những năm 1970. Những nước đã từng được đồng nhất hóa với cuộc công nghiệp hóa giai đoạn đầu, thí dụ như nước Anh, đa phần đã giải công nghệ hóa và biến thành những bảo tàng sống hay đang hấp hối của một quá vãng đã mai một, mà các nhà tổ chức du lịch đã khai thác một cách thành công. Trong khi những mỏ than cuối cùng ở miền nam xứ Wales theo nhau đóng cửa (đầu Thế chiến thứ Hai, vùng này còn có 130.000 công nhân mỏ), những công nhân già tiếp tục xuống đáy giếng than cũ để diễn cho du khách xưa kia họ đã làm việc ra sao trong bóng tối triền miên.

Ngay trong trường hợp công nghiệp cũ được thay thế bằng những công nghiệp mới, thì những ngành mới này thường không cùng thể loại; trường hợp phổ biến là các công nghiệp cũ dời chỗ và thay đổi về cấu trúc. Biệt ngữ những năm 1980 gọi, khá đạt, đó là “chủ nghĩa hậu Ford”[84]. Thời đại công nghiệp cổ điển dường như đã được đặc trưng hóa bằng những nét sau đây: đơn vị đại sản xuất khổng lồ được xây dựng chung quanh dây chuyền lắp ráp; cả một thành phố, cả một vùng gần như chỉ có một ngành công nghiệp, như Detroit hoặc Torino và công nghiệp ô tô; một giai cấp công nhân đoàn kết gắn bó hơn nữa bởi ở cùng một khu, đi làm cùng một nhà máy, chỗ ở và chỗ làm tạo thành một đơn vị “nhiều đầu”. Ở bất cứ nơi nào mà cấu trúc công nghiệp cũ phát triển mạnh vào cuối thế kỉ XX – thí dụ các nước Thế giới thứ Ba mới công nghiệp hóa hay các nước XHCN công nghiệp hóa rất ưa chuộng chủ nghĩa Ford – người ta có thể thấy rất nhiều điểm tương đồng với thế giới phương Tây giữa hai cuộc Thế chiến, thậm chí trước năm 1914; tương đồng ngay cả trong sự xuất hiện những tổ chức công đoàn lớn mạnh tại những trung tâm công nghiệp rộng lớn dựa trên những nhà máy ô tô vĩ đại như São Paulo, hoặc các nhà máy đóng tàu, như ở Gdansk. Cũng như ở Hoa Kỳ, các công đoàn United Auto Workers (Công nhân Ô tô Liên hiệp) và Steel Workers (Công nhân Thép) đã ra đời sau những cuộc đình công khổng lồ năm 1937 tại những khu ngày nay chỉ còn là “vành đai hoen rỉ” của vùng Trung Tây nước Mỹ. Ngược lại, trong khi mà đại doanh nghiệp sản xuất lớn và đại xí nghiệp vẫn còn tồn tại cho đến thập niên 1990, mặc dầu đã được tự động hóa và biến đổi, các ngành công nghiệp mới lại rất khác. Các vùng công nghiệp “hậu Ford” cổ điển – chẳng hạn Veneto, Emilia-Romagna và Toscana ở Bắc và Trung Italia – không có những thành phố công nghiệp lớn, những doanh nghiệp chủ đạo hay những nhà máy khổng lồ. Mỗi vùng là một “thổ cẩm”, một mạng lưới doanh nghiệp đa dạng, đi từ tiểu thủ công đến nhà máy chế biến hiện đại sử dụng công nghệ cao cấp, ở tản mạn trong các đô thị cũng như ở nông thôn. Một trong những đại doanh nghiệp châu Âu đã hỏi thành phố Bologna nghĩ sao nếu họ muốn đặt ở đây một nhà máy lớn? Thị trưởng Bologna[85] lịch sự từ chối đề nghị. Thành phố Bologna, vùng Bologna là khu vực thịnh vượng, thanh lịch, do cộng sản nắm chính quyền, rất biết quản lí tình hình kinh tế và xã hội trong nền kinh tế nông-công nghiệp mới: họ xin kiếu, để cho Torino và Milano giải quyết lấy những vấn đề thành phố công nghiệp của họ.

Rốt cuộc là, và điều này rất rõ trong những năm 1980, các giai cấp thợ thuyền đã trở thành nạn nhân của những công nghệ mới. Điều này hết sức đúng đối với những người lao động không có tay nghề hay mới chỉ được đào tạo nửa chừng, làm việc trên những dây chuyền sản xuất đại trà, là những người dễ được thay thế nhất bằng thiết bị tự động. Nói đúng ra, khi cuộc đại phát triển của kinh tế thế giới trong những thập niên 1950 và 1960 bước sang hai thập niên khó khăn (1980 và 1990), công nghiệp không còn tăng trưởng theo nhịp độ cao như trước. Chính nhịp độ này đã dẫn tới thổi phồng số lao động trong khi nền sản xuất đã có khả năng tiết kiệm nhân công hơn (xem ch. 14). Lần đầu tiên trong 40 năm, ít nhất ở châu Âu, các cuộc khủng hoảng đầu thập niên 1980 lai gây ra thất nghiệp đông đảo.

Tại một số nước kém khôn ngoan, cuộc khủng hoảng thực sự đã tạo ra một cuộc “diệt chủng công nghiệp”. Từ 1980 đến 1984, nước Anh đã mất đi 25% công nghiệp chế biến. Từ 1973 đến cuối thập niên 1980, tổng số người làm việc trong khu vực công nghiệp chế biến của 6 nước công nghiệp cũ ở châu Âu đã giảm đi 7 triệu người, nghĩa là gần bằng 1/4, trong đó gần một nửa giữa 1979 và 1983. Đến cuối thập niên 1980, trong khi các tầng lớp công nhân ở các nước công nghiệp cũ giảm đi, những ngành công nghiệp mới ra đời, thì số lao động ở các nhà máy chế biến công nghiệp ổn định ở mức 1/4 tổng số nhân dụng dân sự trong tất cả các vùng đất của phương Tây phát triển, ngoại trừ Hoa Kỳ là nơi con số này xuống thấp hơn 20% (Bairoch, 1988). Thực tế này rất xa giấc mơ của của những người mác-xít theo đó dân chúng ngày càng vô sản hóa theo nhịp độ phát triển của công nghiệp cho đến ngày mà số đông đều trở thành những người lao động chân tay. Trừ một vài biệt lệ hiếm hoi (mà nước Anh là ví dụ đáng kể nhất), giai cấp công nhân công nghiệp vẫn luôn luôn là thiểu số trong dân số ở tuổi lao động. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiển nhiên của giai cấp công nhân và của các phong trào công nhân, nhất là ở thế giới công nghiệp cũ, đã trở thành rõ nét ngay trước khi vấn đề suy tàn trên toàn cầu đặt ra.

Đây không phải là cuộc khủng hoảng giai cấp, mà là khủng hoảng ý thức giai cấp. Cuối thế kỉ XIX (xem Age of Empire, ch. 5), những thành phần rất khác nhau và chẳng mấy thuần nhất, kiếm sống bằng cách bán sức lao động đổi lấy đồng lương ở các nước phát triển, dần dà tự coi mình họp thành một giai cấp công nhân duy nhất: đó là nhân tố quan trọng hàng đầu trong hoàn cảnh làm người của họ trong xã hội. Ít nhất, đông đảo công nhân rút ra kết luận đó, để, chỉ trong vòng vài năm, các chính đảng và phong trào kêu gọi đích danh hoàn cảnh công nhân của họ (tên gọi cũng rất minh bạch: Labour Party, Đảng Lao Động) đã khẳng định như những lực lượng chính trị mạnh mẽ. Tất nhiên, đồng lương của họ, và việc họ chân lấm tay dầu trong lao động, không phải là mối dây liên kết duy nhất giữa họ với nhau. Tuyệt đại đa số công nhân thuộc thành phần nghèo và tình hình kinh tế không có gì vững chắc, vì mặc dầu những rường cột của phong trào công nhân còn xa mới ở trong tình trạng bĩ cực hay bần cùng hóa, nhưng họ chờ đợi và nhận được chẳng mấy từ cuộc sống, không thấm gì với sự trông mong của các giai cấp trung gian. Sự thực là trước năm 1914, giai cấp công nhân ở ngoài lề nền kinh tế của những vật dụng tiêu thụ lâu bền, ở mọi nơi trừ Hoa Kỳ và Australia trong thời kì giữa hai thế chiến. Trong thời chiến tranh, một đảng viên cộng sản Anh được cử đến các nhà máy sản xuất vũ khí ở Coventry, là nơi công nhân rất hăng hái và sung túc, khi trở về London, trợn mắt nói với bạn bè, trong đó có tôi “Các đồng chí có thể tưởng tượng được không, trên đó các đồng chí có ô tô!”.

Người công nhân cũng đoàn kết với nhau do sự kì thị xã hội sâu sắc, do lối sống (thậm chí cách ăn mặc) của họ, do triển vọng cuộc sống hạn hẹp của họ, khác với thành phần “cổ cồn trắng”, tuy về kinh tế cũng ngặt nghèo, nhưng về mặt xã hội dễ thăng tiến hơn. Con cái các gia đình công nhân không nghĩ tới học đến đại học, và sự thật là rất hiếm người bước chân vào đại học. Phần lớn cũng chẳng tính đến đi học sau tuổi cưỡng bách giáo dục (thường là 14 tuổi). Ở Hà Lan, trước Thế chiến, chỉ có 4% lứa tuổi 10-19 còn học ở cấp trung học sau tuổi cưỡng bách; tại hai nước dân chủ là Thụy Điển và Đan Mạch, tỉ số ấy còn thấp hơn nữa. Người công nhân sống khác hẳn những thành phần khác, nơi ăn chốn ở khác, tuổi thọ thấp hơn. Một trong những người Anh con nhà công nhân vào học đại học trong những năm 1950, lúc mà sự kì thị còn nặng nề, đã giải thích như sau: “Kiểu nhà ở của họ, trông là nhận ra ngay. […] Họ thường ở thuê, chứ không làm chủ ngôi nhà của mình”[86] (Hoggart, 1958, tr. 8).

Và, cuối cùng, công nhân đoàn kết với nhau do một yếu tố trung tâm trong cuộc sống của họ, là tính tập thể: cái “ta” át cái “tôi”. Chính vì thế mà các phong trào và chính đảng công nhân khởi thủy đã có một sức mạnh: niềm tin có cơ sở của người công nhân là những người như họ không thể nào cải thiện số phận của mình bằng hành động cá thể, mà nhất thiết phải qua hành động tập thể, tốt nhất là trong các tổ chức, dù là để tương tế, đình công hay bầu cử; và ngược lại, số lượng của công nhân và hoàn cảnh đặc biệt của người lao động chân tay làm công khiến cho họ có thể hành động một cách tập thể. Khi người công nhân cảm thấy họ có những phương thức cá nhân để thoát khỏi số phận của mình, như ở Mỹ chẳng hạn, thì mặc dầu ý thức giai cấp không mất đi, nhưng không còn là tiêu chuẩn duy nhất để xác định bản sắc của mình. Song cái “ta” vẫn át cái “tôi”, nguyên do không phải chỉ vì công cụ lao động, mà bởi vì cuộc sống thợ thuyền chủ yếu có tính cách công cộng, không gian riêng tư rất hạn hẹp – biệt lệ chính, và thường rất thảm thương, là hoàn cảnh người phụ nữ nội trợ, giam mình trong bốn bức tường. Nhưng ngay người nội trợ cũng tham gia cuộc sống công cộng ở ngoài chợ, ngoài phố và công viên lân cận. Trẻ con chơi đùa ngoài đường phố và công viên. Thanh niên đi nhảy nhót và tán tỉnh nhau. Nam giới giao du với nhau ở quán rượu. Mãi đến thời kì giữa hai cuộc Thế chiến, đài phát thanh mới đi vào nhà – ở một nước ưu đãi – làm thay đổi một chút cuộc sống của người phụ nữ mà công việc nội trợ giam hãm trong nhà. Trước đó, không kể những cuộc tụ tập riêng tư, mọi cuộc giải trí đều diễn ra ở nơi công cộng. Tại những nước nghèo, ngay cả việc xem truyền hình (những năm đầu) cũng diễn ra trong những không gian công cộng. Từ trận bóng đá tới mít tinh chính trị hay du ngoạn nhân ngày nghỉ, cuộc sống – những giờ phút thú vị của cuộc sống – diễn ra trong khung cảnh quần chúng.

Về nhiều phương diện, sự gắn kết tự giác của giai cấp công nhân ở các nước phát triển đã đạt tới đỉnh điểm vào lúc Thế chiến thứ Hai kết thúc. Trong những thập niên của Thời đại Hoàng kim, hầu như mọi thành phần công nhân đều bị thư hoại. Hai nhân tố kết hợp đã làm đảo lộn cuộc sống thợ thuyền ở các nước phát triển và vẫn tiếp tục tác động: tình trạng toàn dụng của thời kì tăng trưởng và sự triển khai của xã hội tiêu thụ thực sự đại chúng. So với tiêu chuẩn của thế hệ cha mẹ, hay với kí ức bản thân nếu họ cao tuổi, người công nhân biết rằng họ không còn là những người nghèo khổ nữa. Cuộc sống của họ vượt xa mức có thể tưởng tượng của những người ở ngoài Bắc Mỹ và châu Đại dương. Họ có xu hướng thu mình vào cuộc sống riêng tư do tác động kết hợp của công nghệ tiền tệ và logic thị trường: với truyền hình người ta không phải đi ra khỏi nhà để theo dõi một trận bóng đá, với truyền hình và video người ta không cần đi ra rạp để xem phim, với điện thoại người ta không cần ra chợ để trò chuyện với bạn bè. Những người hoạt động công đoàn và các đảng viên trước đây gặp nhau trong các cuộc họp chi bộ hay các cuộc tập họp chính trị công cộng một phần vì đó cũng là một hình thái giải trí, thì từ nay có lắm cách tiêu khiển lí thú hơn nhiều, trừ phi họ là những người hoạt động tích cực hơn hẳn số đông. (Và, ngược lại, việc đi gõ cửa từng nhà không còn là một hình thức vận động bầu cử hiệu quả nữa, dù nó vẫn được duy trì theo truyền thống và để nuôi dưỡng nhiệt tình của những đảng viên quá hăng hái). Sự sung túc và cuộc tư nhân hóa đã làm nổ tung cái nghèo và tính tập thể trong môi trường công cộng.

Chẳng phải là vì người công nhân không còn dễ nhận ra vì dáng vẻ công nhân nữa, mặc dầu có điều lạ là, bắt đầu từ những năm 1950, nếp sống văn hóa độc lập mới của thanh niên (xem ch. 11, II) lại vay mượn mốt ăn mặc và âm nhạc của công nhân trẻ. Sự thật là một mức độ sung túc nhất định từ nay nằm trong tầm tay của số đông, và giữa một người đi xe “con cánh cam” Volkswagen và một người đi xe Mercedes, khoảng cách không lớn bằng khoảng cách giữa người có xe và người không có xe, nhất là từ nay những chiếc xe đắt tiền cũng có thể mua bằng cách trả góp hàng tháng. Vào những năm chót của tuổi thanh niên, trước khi lập gia đình, trước khi những chi tiêu việc nhà chiếm phần lớn ngân sách, người công nhân có thể chi tiêu xa xỉ. Từ những năm 1960 trở đi, công nghiệp may mặc và mỹ phẩm đã khai thác ngay nhu cầu này. Trong giai phổ thị trường xa xỉ phẩm và sản phẩm công nghệ cao đang trên đà phát triển, giữa loại hàng cấp cao và loại hàng cấp thấp – giữa những cái máy quay phim hay chụp ảnh Hasselblad đắt tiền nhất và những cái Olympus hay Nikon rẻ nhất, cũng là những máy tốt và có đẳng cấp – sự khác biệt chỉ là khác biệt về cấp độ. Bất luận thế nào, những phương tiện giải trí, đầu tiên là máy truyền hình, trước đây chỉ những triệu phú mới có, nay có mặt ở phòng khách mọi nhà. Tóm lại sự toàn dụng và một xã hội tiêu thụ mở ra cho thị trường đại chúng đã nâng đa phần giai cấp công nhân (ít nhất trong cả một đoạn đời của họ) ở các nước phát triển từ trước vượt hẳn lên trên mức sống của cha ông họ, có khi chính họ trước kia, tức là mức sống mà thu nhập chủ yếu dùng để mua những sản phẩm nhu yếu.

Margaret Thatcher (1925-2013)

Thêm vào đó, một số biến chuyển quan trọng đã khoét sâu những nứt rạn giữa các thành phần giai cấp công nhân, dù điều này chỉ hiện ra rõ nét khi thời kì toàn dụng đã chấm dứt, nghĩa là trong cuộc khủng hoảng những năm 1970 và 1980, với áp lực của chủ nghĩa liberal cực đoan lên chính sách bảo hộ xã hội và hệ thống quan hệ “phường hội chủ nghĩa” nhờ đó các tầng lớp hẩm hiu nhất đã được bao bọc. Tầng lớp trên của giai cấp công nhân – những công nhân có tay nghề chuyên môn và những người đốc công – dễ thích nghi hơn với thời đại sản xuất tân tiến với công nghệ cao[87], vị trí của họ khiến cho họ có thể phát huy lợi thế trong thị trường cạnh tranh, trong khi mà những thợ bạn kém tay nghề ngày càng lép vế. Chẳng hạn như ở nước Anh của bà Thatcher – phải nói đây là trường hợp cực đoan: với sự hủy bỏ chế độ bảo hộ công cộng và công đoàn, số phận của 20% công nhân ở tầng lớp dưới, so với phần còn lại, trở nên tồi tệ hơn trước đó một thế kỉ. Trong khi 10% công nhân khấm khá nhất, thu nhập cao gấp ba lần thu nhập của 10% thua kém nhất, hài lòng vì cuộc sống của họ được cải thiện, họ càng dễ tự nhủ rằng tiền thuế mà họ phải đóng cho quỹ nhà nước trung ương và địa phương bị dùng để trợ cấp cho cái mà trong thập niên 1980 người ta đã gọi miệt thị là “giai cấp hạ đẳng”, sống nhờ bảo hộ xã hội, sự bảo hộ mà bản thân họ hi vọng không bao giờ phải nhờ tới – trừ trường hợp tối khẩn. Thế là lại xuất hiện sự phân biệt từ thời nữ hoàng Victoria giữa những người “nghèo mà đàng hoàng” và những kẻ “không đàng hoàng”, thậm chí còn gay gắt hơn xưa, bởi vì trong thời kì phát triển phồn vinh, công ăn việc làm đầy đủ cho tuyệt đại đa số, bảo đảm được nhu cầu vật chất cho họ, thì các khoản trợ cấp xã hội được phân phối khá hào phóng, đến khi bước sang thời kì khủng hoảng, nhu cầu được trợ cấp xã hội lan rộng, thì người ta có cảm tưởng chế độ bảo trợ này cho phép cả một đội quân “không đàng hoàng” sống thoải mái hơn hẳn tầng lớp “cặn bã” thời Victoria. Và đối với chủ quan của những người đóng thuế phải lao động nhọc nhằn, đám người này sống như vậy là “quá sướng”.

Có lẽ đây là lần đầu tiên mà những người công nhân lành nghề và đàng hoàng trở thành hậu thuẫn tiềm thể của cánh hữu[88], nhất là các tổ chức Công đảng và Xã hội truyền thống vẫn gắn bó tự nhiên với chính sách tái phân phối và bảo hiểm xã hội trong khi mà số người cần được bảo trợ lại tăng nhiều. Tại Anh, chính quyền Thatcher thành công chủ yếu là vì công nhân có tay nghề cao đã bỏ rơi Công đảng. Sự giải kì thị, hay chính xác hơn, sự chuyển dịch phân ranh kì thị đã đẩy mạnh sự phân hóa của khối công nhân. Công nhân có tay nghề và những người đã có cơ hội thăng tiến xã hội đã dọn nhà ra khỏi trung tâm thành phố trong khi các công nghiệp chuyển cơ sở ra vùng ngoại vi hay ra nông thôn, khiến cho những khu nhà công nhân truyền thống của “vành đai đỏ” trở thành tàn tạ hoặc biến thành những ghetto (biệt khu); song song với quá trình ấy, những thành phố “vệ tinh” mới hay những công nghiệp “nông thôn” cũng không tạo ra sự tập trung giai cấp ở quy mô trước đây. Ở trung tâm thành phố, những căn hộ xã hội, trước đây được xây dựng cho hạt nhân cứng của giai cấp công nhân – tất nhiên dành ưu tiên cho những người có khả năng trả tiền nhà đều đặn – nay trở thành nơi tụ tập những phần tử ngoài lề, những trường hợp khó khăn”, sống bằng trợ cấp.

Đồng thời, cuộc di dân đại chúng đã tạo ra một hiện tượng mới, ít nhất cho đến cuối thời Đế chế Habsburg, chỉ diễn ra ở Hoa Kỳ, và trong một quy mô nhỏ hơn, ở Pháp: sự đa dạng hóa về mặt dân tộc và sắc tộc của giai cấp công nhân, và hậu quả của nó là những xung đột trong nội bộ giới thợ thuyền. Vấn đề không phải do sự đa dạng sắc tộc, dù rằng sự nhập cư của những người khác màu da, hay có thể được coi là khác màu da, thí dụ như người Bắc Phi ở Pháp, đã làm trỗi dậy chủ nghĩa chủng tộc vốn tiềm tàng ngay cả ở những nước tưởng rằng không có như Italia và Thụy Điển. Sự suy yếu của các phong trào công nhân XHCN làm cho việc này dễ dàng hơn, vì các phong trào này hết sức chống lại xu hướng kì thị chủng tộc và cố gắng hạn chế những biểu hiện chủng tộc chủ nghĩa của quần chúng lao động. Nhưng ở đây ta hãy bỏ qua một bên vấn đề chủ nghĩa chủng tộc đơn thuần. Theo truyền thống và ngay trong thế kỉ XIX, sự nhập cư nhân công ít khi dẫn tới sự cạnh tranh trực tiếp giữa các nhóm sắc tộc có thể gây ra chia rẽ trong các tầng lớp công nhân, bởi vì mỗi nhóm nhập cư thường tìm một hay nhiều “mảnh đất trống” trong cảnh quan kinh tế, rồi khai thác chúng, thậm chí độc chiếm chúng. Tại phần lớn các nước phương Tây, người Do Thái nhập cư thường tập trung đông đảo trong ngành may mặc, chứ không làm việc trong ngành chế tạo ô tô chẳng hạn. Lấy một thí dụ đặc biệt hơn, mãi tới thập niên 1980, nhân viên phục vụ các quán ăn Ấn Độ ở London và New York – và có lẽ ở mọi nơi mà làn sóng quán ăn Ấn Độ lan truyền ra khỏi tiểu lục địa Nam Á – hầu như đều quê quán ở một vùng Sylhet của Bangladesh. Có những nhóm người nhập cư sống tập trung ở từng khu phố, làm việc ở những nhà máy, xưởng máy nhất định, thậm chí ở một cấp bực nào đó, không chung đụng với các nhóm sắc tộc khác. Trong loại hình “thị trường lao động phân đoạn” (nói theo biệt ngữ của các chuyên gia) ấy, sự đoàn kết giữa các nhóm lao động thuộc các sắc tộc khác nhau dễ phát triển và củng cố hơn, vì họ không cạnh tranh lẫn nhau, và sự phân tán trong điều kiện ăn ở, làm việc không liên quan tới quyền lợi riêng của từng nhóm lao động[89].

Vì nhiều lí do khác nhau – trong đó có lí do này: luồng nhập cư ở Tây Âu sau chiến tranh chủ yếu là do chính quyền tổ chức để giải quyết nạn thiếu nhân công – những người nhập cư mới này cùng bước vào thị trường lao động, với những quyền lợi ngang với người bản địa – trừ trường hợp họ tới dưới danh nghĩa “người lao động được mời” tạm thời, nghĩa là ít quyền lợi hơn. Cả hai trường hợp đều làm nảy sinh những căng thẳng. Những người lao động, nam cũng như nữ, được hưởng ít quyền hơn thì khó có thể nghĩ rằng mình có chung lợi ích với những người được bảo hộ tốt hơn. Và ngược lại, những công nhân Pháp hay Anh, khi họ sẵn sàng làm việc, trong cùng điều kiện, bên cạnh những người Morocco, người dân quần đảo Antilles, người Bồ Đào Nha hay người Thổ Nhĩ Kì, cũng khó chấp nhận cho người ngoại quốc được đề bạt lên vị trí cao hơn họ – nhất là nếu những người này lại thuộc nhóm sắc tộc mà họ coi là thua kém nước họ. Thêm vào đó, vì những lí do tương tự, là sự căng thẳng giữa các nhóm lao động nhập cư với nhau, mặc dầu tất cả các nhóm này đều phải chịu chung cách đối xử của người bản địa đối với họ.

Tóm lại, trong thời kì hình thành các đảng phái và phong trào công nhân cổ điển, mọi thành phần công nhân (ngoại trừ trường hợp có những rào cản về dân tộc hay tôn giáo không thể khắc phục) đều có thể nghĩ rằng họ sẽ được thụ hưởng cùng một chính sách, chiến lược, thay đổi định chế, ngày nay không còn gì là đương nhiên nữa. Đồng thời, những biến đổi trong quá trình sản xuất, sự xuất hiện của “xã hội 2/3” (xem ch. 11, phần IV), và đường ranh giới luôn luôn xê dịch và ngày càng mờ ảo giữa lao động “tay chân” và lao động “không tay chân” càng làm xóa mờ những đường nét xưa kia rõ rệt của “giai cấp vô sản”.

 

IV

 

Sự tăng cường vai trò của phụ nữ – nhất là phụ nữ có chồng, một hiện tượng mới, có tính chất cách mạng – là một trong những biến đổi lớn tác động tới giai cấp công nhân cũng như những thành phần cơ bản của xã hội các nước phát triển. Đây là một tiến trình rất ấn tượng. Năm 1940, ở Hoa Kỳ, số phụ nữ sống với chồng và đi làm ăn lương chưa tới 14% dân số phụ nữ. Năm 1980, tỉ số này đã vượt quá 50%: từ năm 1950 đến 1970, nó đã tăng gấp đôi. Việc phụ nữ bước vào thị trường lao động ngày càng đông thực ra không phải là điều mới lạ. Bắt đầu từ cuối thế kỉ XIX, công việc văn phòng, thương mại và một số dịch vụ – thí dụ như tổng đài điện thoại, hay ngành y tế – đã nữ hóa mạnh mẽ. Đồng thời, các ngành hoạt động này phát triển và mở rộng quy mô, dần dần lấn át (cuối cùng là cả về con số tuyệt đối) các khu vực thứ nhất và thứ hai, nghĩa là nông nghiệp và công nghiệp. Sự lớn mạnh của khu vực dịch vụ là một trong những xu thế nổi bật của thế kỉ XX. Còn trong các ngành công nghiệp chế biến, thì khó mở rộng sự có mặt của phụ nữ hơn. Trong các nước công nghiệp cũ, những ngành công nghiệp sử dụng nhiều nhân công và có phụ nữ tập trung, thí dụ như ngành dệt và may mặc, thì lại suy sụp đi. Đó cũng là tình trạng, tại các vùng và các nước thuộc “vành đai rỉ”, của các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp cơ khí mà đa số nhân công là nam giới, nếu không nói là “nam nhi chủ nghĩa”, như các hầm mỏ, luyện gang thép, xưởng đóng tàu, nhà máy ô tô và xe vận tải. Mặt khác, tại các nước mới công nghiệp hóa, và trong các đặc khu chế biến đang phát triển ở Thế giới thứ Ba, nở rộ những công nghiệp đòi hỏi lao động cường độ cao, rất cần nhân công nữ (vốn rẻ hơn và dễ bảo hơn nam giới). Tỉ lệ phụ nữ trong số nhân viên bản địa do đó cũng tăng lên, tất nhiên ít nơi sánh kịp trường hợp đảo Mauritius, từ con số 20% vào đầu thập niên 1970 đã nhảy vọt lên hơn 60% vào giữa thập niên 1980. Tại các nước công nghiệp phát triển, tỉ số này tăng lên (nhưng thua tỉ số trong khu vực thứ ba) hay ổn định còn tùy hoàn cảnh từng nước. Trên thực tế, sự phân biệt giữa công việc phụ nữ trong công nghiệp và trong khu vực dịch vụ không còn mấy ý nghĩa, vì phần đông đều ở vị trí thứ yếu. Mặt khác, nhiều khu vực đông phụ nữ làm việc, trong đó có các dịch vụ công cộng và xã hội, có tổ chức công đoàn mạnh.

Cũng nổi bật là sự gia tăng phụ nữ ở đại học, con đường hiển nhiên để đạt được những chức vụ trách nhiệm. Ngay sau Thế chiến thứ Hai, tỉ số nữ sinh viên ở khoảng từ 15% đến 30% tại phần đông các nước công nghiệp, trừ Phần Lan – nước tiên phong trong cuộc giải phóng phụ nữ – là nơi tỉ số nữ sinh lúc đó đã lên tới 43%. Đến năm 1960 ở châu Âu cũng như Bắc Mỹ, tỉ số nữ sinh viên chưa đạt 50% ở nước nào, trừ Bulgaria – cũng là một nước hàng đầu trong cuộc giải phóng phụ nữ, nhưng ít được để ý – là nước tỉ số này xấp xỉ 50%. (Nói chung, các nước XHCN tích cực hơn trong việc thúc đẩy phụ nữ học cao – CHDC Đức đi xa hơn CHLB Đức. Tuy nhiên, nhìn chung về mặt nữ quyền thì thành tích của các nước XHCN không đồng đều). Song đến năm 1980, một nửa hay hơn một nửa sinh viên là phụ nữ ở Hoa Kỳ, Canada và sáu nước XHCN – đi đầu là CHDC Đức và Bulgaria. Ngược lại, châu Âu chỉ còn bốn nước là tỉ lệ nữ sinh viên ở dưới mức 40%: Hi Lạp, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kì và Anh. Như thế là từ nay giáo dục đại học trở thành phổ biến đối với cả nữ giới lẫn nam giới.

Sự tham gia đông đảo của phụ nữ có chồng – và phần đông, là những người mẹ – vào thị trường lao động và sự bành trướng mạnh mẽ của giáo dục đại học, ít nhất ở các nước phương Tây phát triển, tạo nên bối cảnh cho sự tái hiện khá ấn tượng của phong trào nữ quyền bắt đầu từ những năm 1960. Không có những nhân tố nói trên, không thể nào lí giải được các phong trào phụ nữ. Từ khi mà phụ nữ đã đạt những mục tiêu lớn như quyền bầu cử và sự bình đẳng nam nữ trong các quyền dân sự tại nhiều vùng châu Âu và Bắc Mỹ sau Thế chiến thứ Nhất và Cách mạng tháng Mười Nga (xem Age of Empire, ch. 8), thì các phong trào nữ quyền đã ra khỏi vùng sáng trên sân khấu quốc tế để trở lại bóng tối, ngay cả ở những nơi các chế độ phát- xít và phản động thắng thế cũng không dập tắt được. Tình trạng này vẫn tiếp tục sau ngày thắng lợi của cuộc đấu tranh chống phát-xít và của phong trào cách mạng (ở Đông Âu và một số khu vực Đông Á), nhờ đó những nữ quyền giành được vào thời 1917 đã được mở rộng ra phần lớn các nước khác: biểu hiện rõ ràng nhất là quyền bầu cử của phụ nữ Pháp và Italia ở Tây Âu, của phụ nữ ở tất cả các nước cộng sản, của hầu hết các nước thuộc địa cũ và (trong vòng 10 năm sau ngày chiến tranh kết thúc) ở châu Mỹ Latin. Như vậy là trong thập niên 1960, phụ nữ đã đi bỏ phiếu ở hầu hết các nước có tổ chức bầu cử, ngoại trừ một vài nước Islam, và, kể cũng lạ, Thụy Sĩ.

Mary Robinson (1944-)

Tuy nhiên, những thay đổi nói trên không phải là kết quả những áp lực của phong trào nữ quyền và cũng chẳng có tác dụng trực tiếp đáng kể lên vị trí của phụ nữ, ngay ở những nước khá hiếm hoi mà sự tham gia bầu cử của phụ nữ đã gây ra những tác động chính trị. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1960, phong trào nữ quyền đã bước sang một thời kì đổi mới rất ấn tượng: phát xuất từ Hoa Kỳ, hiện tượng này đã nhanh chóng lan truyền sang các nước phương Tây giàu mạnh và rộng hơn, tới nữ giới có học ở các nước phụ thuộc, song lúc đầu, không thâm nhập được vào các nước XHCN. Các phong trào này, thực chất, là của các tầng lớp trung lưu có học, nhưng có lẽ trong thập niên 1970, nhất là 1980, đã có một sự giác ngộ nữ quyền về mặt chính trị và tư tưởng diễn ra trong quần chúng phụ nữ (hay nói như các nhà tư tưởng của phong trào, trong “giới”, “gender”), rộng lớn hơn hẳn phong trào đợt đầu. Thật vậy, phụ nữ, với tư cách một tập hợp, đã trở thành một lực lượng chính trị lớn mạnh chưa từng thấy. Ví dụ đầu tiên, nổi bật nhất, của “ý thức giới tính” là cuộc nổi dậy của phụ nữ có truyền thống ngoan đạo ở các nước Công giáo Roma chống lại những chủ thuyết mất nhân tâm của Giáo hội: bằng chứng là các cuộc trưng cầu dân ý ở Italia về luật ly dị (1974) và những luật lệ phóng khoáng hơn về phá thai (1981); hay mấy năm sau, ở nước Ireland rất ư ngoan đạo, sự thắng cử tổng thống của Mary Robinson, nữ luật sư mà tên tuổi gắn liền với sự tự do hóa Giáo luật Roma (1990). Sang đầu những năm 1990, những cuộc thăm dò dư luận tại một số nước cho thấy rõ có sự bất đồng về chính trị giữa hai giới tính. Không có gì ngạc nhiên khi ta thấy các chính khách bắt đầu ve vãn ý thức chính trị mới của phụ nữ, nhất là trong phái tả là môi trường mà sự suy thoái của ý thức giai cấp vô sản đã làm cho các chính đảng mất đi một phần cơ sở truyền thống.

Tuy nhiên, do chính quy mô của nó, ý thức chính trị của nữ giới và ý thức về quyền lợi của họ cho thấy lí giải đơn thuần bằng sự thay đổi vai trò trong kinh tế là không đủ. Dù sao, cái mới trong cuộc cách mạng về xã hội, không phải chỉ là bản chất các hoạt động của phụ nữ trong xã hội, mà còn là vai trò của họ, còn là những quy ước về vai trò ấy, đặc biệt là những nguyên tắc về sự tham gia và vai trò công cộng của phụ nữ. Người ta có thể tưởng rằng những thay đổi sâu sắc như là việc đông đảo phụ nữ có chồng bước vào thị trường lao động sẽ tạo ra những thay đổi đồng thời hay tiếp theo; nhưng không hẳn như vậy: bằng chứng là ở Liên Xô, sau khi người ta đã từ bỏ những khát vọng cách mạng không tưởng của những năm 1920, người phụ nữ thường phải chịu đựng hai gánh nặng – công việc mưu sinh và công việc gia đình – mà không hề có sự thay đổi nào trong quan hệ giữa hai giới tính về mặt công cũng như về mặt tư. Dù sao, nguyên nhân việc phụ nữ nói chung, và nhất là phụ nữ có chồng, tham gia thị trường lao động, không nhất thiết liên quan gì với quan niệm về vị trí xã hội của phụ nữ, về quyền lợi của phụ nữ. Hiện tượng này có nhiều nguyên nhân: cái nghèo, hoặc là giới chủ thích thuê nhân công rẻ và dễ bảo, hoặc là số phụ nữ đứng đầu hộ ngày càng tăng, nhất là ở các nước phụ thuộc. Sự di cư ồ ạt của lao động nam giới từ nông thôn ra thành thị ở Nam Phi, từ một số vùng châu Phi và châu Á sang các quốc gia Vùng Vịnh – dẫn tới hậu quả tất yếu là người phụ nữ ở nhà làm chủ nền kinh tế gia đình. Cũng không nên quên cuộc tàn sát của cuộc đại chiến đã giết bao nhiêu trai tráng và đàn ông, tới mức ở một nước như Nga sau năm 1945, tỉ lệ nam nữ là 3-5.

Benazir Bhutto (1953-2007)
Indira Gandhi (1917-1984)

Tuy nhiên, hiển nhiên đã có những dấu hiệu của một sự thay đổi sâu sắc, thậm chí có thể gọi là cách mạng, trong kỳ vọng của phụ nữ (và của thế giới) vào chỗ đứng của họ trong xã hội. Vai trò nổi bật và chưa từng có của một vài phụ nữ trên chính trường thì đã quá rõ, dù rằng đó không hề là chỉ dấu về vị trí chung của phụ nữ trong nước đó. Thí dụ như trong những năm 1980, tỉ số nữ nghị sĩ ở châu Mỹ Latin là 11%, hơn hẳn tỉ số ở Bắc Mỹ tuy rằng phụ nữ Bắc Mỹ rõ ràng đã “giải phóng” hơn Nam Mỹ. Thêm nữa, trong số phụ nữ lần đầu tiên lên làm tổng thống hay thủ tướng, thì một tỉ số lớn là thành phần “con cháu”: con gái lãnh tụ như là Indira Gandhi (Ấn Độ, 1966-1984), Benazir Bhutto (Pakistan, 1988-1990, 1994) hay Aung San Suu Kyi lẽ ra đã lên làm tổng thống Miến Điện nếu không có sự phủ quyết của quân đội; hay vợ góa như Sirimavo Bandaranaike (Sri Lanka, 1960-1965), Corazon Aquino (Philippines, 1986-1992) và Isabel Perón (Argentina, 1974-1976). Việc này tự nó không có gì là cách mạng, cũng chẳng khác gì Maria-Theresia hay Victoria lên ngôi nữ hoàng ở Đế chế Habsburg hay Đế chế Anh xưa kia. Và thật thế, sự tương phản giữa việc các nước Ấn Độ, Pakistan hay Philippines có nguyên thủ là phụ nữ và sự đàn áp mà giới phụ nữ phải chịu đựng ở các nước ấy càng cho thấy rõ những thí dụ kể trên không có tính tiêu biểu.

Sirimavo Bandaranaike (1916-2000)
Takako Doi (1928-2014)

Dẫu sao, trước Thế chiến thứ Hai, về mặt chính trị mà nói, một phụ nữ không thể nào lên làm tổng thống ở một nước cộng hòa được. Vậy mà điều ấy đã xảy ra sau năm 1945: tại Sri Lanka, năm 1960, bà Sirimavo Bandaranaike đã trở thành nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử thế giới; và đến năm 1990, tổng cộng đã có 16 nước có hay đã từng có thủ tướng là phụ nữ (World’s Women, tr. 32). Trong những năm 1990, người phụ nữ làm chính trị lên đến tột đỉnh chính quyền vẫn còn là hình tượng ít phổ biến, nhưng cũng đã được chấp nhận như một yếu tố trong cảnh quan chính trường: thủ tướng Israel (1969), Iceland (1980), Na Uy (1981); hay là bà Doi, thủ lĩnh đảng đối lập (Xã hội) được thừa nhận tại một nước Nhật Bản còn lâu mới được coi là tôn trọng nữ quyền (1986). Sự thật là thế giới chính trị thay đổi rất nhanh, còn sự thừa nhận giới nữ về mặt chính trị (dù là với tư cách một nhóm áp lực) vẫn còn mang tính chất hình thức, biểu tượng, ngay cả ở những nước “tiên tiến” nhất.

Tuy nhiên, cũng không mấy có ý nghĩa nếu ta cứ muốn khái quát hóa vai trò của phụ nữ trong lãnh vực công cộng và ước vọng tương ứng của các phòng trào chính trị nữ quyền. Thế giới lệ thuộc, thế giới phát triển và thế giới XHCN chỉ có những tương đồng ở những mặt ngoài lề. Ở Thế giới thứ Ba, cũng như trước kia ở nước Nga dưới chế độ Sa hoàng, tuyệt đại đa số phụ nữ thuộc các tầng lớp dưới và ít học sống hoàn toàn ở ngoài lề không gian công cộng hiểu theo nghĩa phương Tây hiện đại của cụm từ này. Ngược lại, tại một vài nước, đã có hoặc đang xuất hiện một thành phần nhỏ phụ nữ “tự do” và “tân tiến” – chủ yếu là vợ, con gái hoặc họ hàng xuất thân từ tầng lớp cao của giai cấp tư sản bề thế – giống như những nữ trí thức và các nhà hoạt động nữ quyền Nga dưới thời Sa hoàng. Lớp phụ nữ này đã tồn tại ở Ấn Độ dưới thời thực dân và hình như đã xuất hiện cả ở những nước Islam ít nghiêm ngặt nhất – trong đó có Ai Cập, Iran, Lebanon và vùng Maghreb – trước khi xu hướng Islam toàn thống đã đẩy phụ nữ vào vùng tối. Đối với những thiểu số phụ nữ đã “giải phóng” ấy, ở trên thượng đỉnh của bậc thang xã hội, có một không gian công cộng tại đó họ có thể hoạt động và cảm thấy thoải mái như họ (hay những người phụ nữ giống như họ) sống ở châu Âu hay Bắc Mỹ, tuy rằng so với phụ nữ phương Tây, có thể họ chậm từ bỏ những ước lệ về tính dục và những bổn phận gia đình truyền thống – đó là không so với phụ nữ Công giáo[90]. Về mặt này, hoàn cảnh của phụ nữ “giải phóng” tại các nước “Tây phương hóa” ở Thế giới thứ Ba thuận lợi hơn nhiều chị em ở các nước Viễn Đông không XHCN, tại đây người phụ nữ, kể cả phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu, phải đóng những vai trò và tuân thủ những quy ước truyền thống nặng nề và ngột ngạt. Phụ nữ Nhật Bản hay Hàn Quốc có học, người nào có dịp sống vài năm thoải mái ở phương Tây thường rất ngán phải quay trở lại nếp sống văn hóa cổ truyền, trong đó tâm thế lệ thuộc của người phụ nữ hầu như chưa mấy suy suyển.

Nadezhda Krupskaya (1869-1939)
Rosa Luxemburg (1871-1919)

Tại các nước XHCN, tình hình là cả một nghịch lí. Trên thực tiễn, tất cả phụ nữ đều là thành phần nhân công ăn lương ở Đông Âu, ít nhất cũng ngang tỉ lệ nam giới (90%), nghĩa là hơn hẳn các nước khác. Về mặt tư tưởng, chủ nghĩa cộng sản đã từng thiết tha gắn bó với sự bình đẳng nam nữ, với cuộc giải phóng phụ nữ trong mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực tình yêu, mặc dầu Lenin hết sức dị ứng với sự chung chạ[91]. (Song cũng đừng nên quên rằng Lenin và vợ ông, bà Krupskaya, là hai trong số rất hiếm những nhà cách mạng chủ xướng sự bình đẳng nam nữ trong các công việc gia đình). Ngoài ra, từ những người dân túy (narodnik) cho đến những người mác-xít, phong trào cách mạng đã đón nhận phụ nữ, nhất là trí thức, một cách hết sức nồng nhiệt, và mở ra cho phụ nữ một lãnh vực hành động vô cùng rộng lớn: điều này vẫn còn đúng cho đến những năm 1970, với tỉ số phụ nữ quá cao trong các tổ chức khủng bố khuynh tả. Nhưng phải nói, ngoại trừ một vài biệt lệ hiếm hoi (Rosa Luxemburg, Ruth Fischer, Anna Pauker, La Passionara, Federica Montseny), phụ nữ không giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong phong trào cộng sản, và ở các đảng khác cũng thế.[92] Và trong các nhà nước mới do cộng sản cầm quyền, vai trò phụ nữ càng mờ nhạt hơn. Thật vậy, phụ nữ hầu như vắng mặt ở các vị trí lãnh đạo. Nếu như một hai nước, như Bulgaria và CHDC Đức, đã tạo ra những vận hội phi thường để phụ nữ có thể giữ vai trò hàng đầu, chẳng hạn như ở cấp đại học, thì nói chung vị trí công cộng của phụ nữ ở các nước XHCN cũng chẳng khác gì ở các nước tư bản chủ nghĩa. Mà khi có khác thì họ cũng không nhất thiết được lợi thế gì. Khi phụ nữ chiếm số đông trong một ngành nghề nào đó, thí dụ như ở Liên Xô là ngành y tế, thì ngành này mất giá trị và lương bổng trong ngành giảm đi. Khác hẳn giới nữ quyền ở phương Tây, phần đông phụ nữ có gia đình ở Liên Xô, từ lâu đã ra làm việc ăn lương ngoài xã hội, đều ước mơ không phải đi làm và được ở nhà để chỉ lo công việc gia đình.

Sự thật là lí tưởng cách mạng ban đầu – làm thay đổi mối quan hệ nam nữ, cải tổ các định chế và tập quán trọng nam khinh nữ – nói chung đã phai mờ, ngay ở những nước đã từng ra sức thực hiện (như ở Liên Xô trong những năm đầu, chứ còn ở các nước XHCN ra đời ở châu Âu sau 1944 thì nói chung là không). Tại các nước lạc hậu – mà phần đông các nước cộng sản lên nắm chính quyền là những nước lạc hậu – cao vọng giải phóng phụ nữ đụng phải sự bất hợp tác thụ động của các tầng lớp dân chúng gắn bó với truyền thống: bất chấp pháp luật, đó là những truyền thống dựa trên sự thuần phục của phụ nữ. Cố nhiên, những nỗ lực phi thường nhằm giải phóng phụ nữ không phải là vô ích. Mang đến cho phụ nữ các quyền pháp định và chính trị bình đẳng, tạo điều kiện để phụ nữ có thể ăn học, làm việc và được trao những trách nhiệm như nam giới, thậm chí cả việc bãi bỏ lệnh cấm choàng khăn trùm, việc tự do đi lại nơi công cộng, tất cả đều là những đổi thay có ý nghĩa: muốn thấy rõ điều này, chỉ cần nhìn vào cảnh tượng những nước mà chủ nghĩa toàn thống tôn giáo đang ngự trị hay mới áp đặt trở lại. Thêm vào đó, ngay ở các nước cộng sản (là nơi thực trạng số phận của người phụ nữ không ngang tầm với lí thuyết), kể cả những thời kì mà chính quyền áp đặt một cuộc phản cách mạng tinh thần, tái lập lại gia đình và đưa phụ nữ trở lại vai trò của người mẹ (như ở Liên Xô trong những năm 1930), thì sự tự do lựa chọn mà chế độ mới đã mang lại (thí dụ như trong lãnh vực tính dục) rõ ràng là lớn hơn hẳn so với chế độ cũ. Mặt hạn chế của nó không nằm ở cấp độ pháp chế hay quy ước, mà là hạn chế về vật chất: thí dụ như sự khan hiếm về phương tiện ngừa thai hay các sản phẩm phụ khoa, mà bộ máy kinh tế kế hoạch hóa không mấy quan tâm.

Bất luận các mặt thành công và thất bại như thế nào, phải nói là khối XHCN đã không tạo ra được những phong trào nữ quyền đặc biệt. Có muốn cũng không được, bởi vì cho đến giữa thập niên 1980, không thể nào phát động một sáng kiến chính trị nào mà không có chủ trương của đảng và nhà nước. Vả lại, trước thời điểm ấy, những quan tâm của các phong trào nữ quyền phương Tây khó mà có âm hưởng ở các nước XHCN.

Ban đầu, những vấn đề đã dấy trở lại phong trào nữ quyền ở phương Tây, nhất là ở Hoa Kỳ, chủ yếu là những vấn đề liên quan tới phụ nữ thuộc các tầng lớp trung lưu. Điều này khá rõ ràng khi chúng ta xem xét các hoạt động ở Hoa Kỳ mà sức ép của phong trào nữ quyền đã khai thông, cũng là những lãnh vực mà họ tập trung nỗ lực. Năm 1981, phụ nữ hầu như đã loại trừ hẳn nam giới ra khỏi khu vực nhân viên văn phòng và “cổ cồn trắng”, nghĩa là những ngành nghề đáng được tôn trọng nhưng ch là công việc thừa hành; phụ nữ chiếm 50% nhân viên địa ốc, chứng khoán, gần 40% số cán bộ ngân hàng và giám đốc tài chính; phụ nữ cũng đã hiện diện khá mạnh, nhưng chưa đủ, trong các ngành nghề trí thức – trong ngành luật và ngành y, phụ nữ mới chỉ bắc được đầu cầu mà thôi. Trong khi 35% tổng số giáo sư trung học và đại học, hơn 1/4 nhân viên tin học và 22% chuyên gia các ngành khoa học tự nhiên là phụ nữ, thì nam giới vẫn giữ gần như nguyên vẹn độc quyền trong các nghề tay chân (bất luận trình độ tay nghề cao hay thấp): chỉ có 2,7% tài xế vận tải, 1,6% thợ điện và 0,6% thợ cơ khí ô tô là phụ nữ. Lực cản ngăn chặn phụ nữ đi vào các ngành nghề này chắc cũng không thua gì lực cản trong nghề y khoa và trạng sư (là hai ngành mà tỉ số phụ nữ đạt 14%), song chúng ta có cơ sở để ước đoán rằng sức ép để thúc đẩy cũng yếu hơn.

Muốn thấy viễn cảnh giai cấp của sự phân tích các vấn đề phụ nữ, chỉ cần đọc (đọc lướt qua cũng đủ) những người tiên phong của phong trào tân nữ quyền thập niên 1960 (Friedan, 1963; Degler, 1987). “Làm thế nào để người phụ nữ có thể kết hợp sự nghiệp hay công việc với kết hôn và cuộc sống gia đình” là vấn đề trung tâm trong các mối quan tâm: nhưng chỉ là trung tâm đối với những người có khả năng chọn lựa. Nói khác đi, vấn đề ấy không đặt ra cho đa số phụ nữ trên thế giới, và cho tất cả những phụ nữ nghèo. Các chiến sĩ tiên phong nói trên quan tâm một cách chính đáng tới sự bình quyền nam nữ, và khái niệm này đã trở thành công cụ chủ yếu tạo ra những bước tiến về pháp luật và định chế cho phụ nữ ở các nước phương Tây: từ “giới tính” đã được đưa vào American Civil Rights Act 1964 (Đạo luật Quyền Dân sự Mỹ) mà khởi thủy chỉ có mục đích là bãi bỏ sự kì thị về chủng tộc. Song “bình đẳng”, hay chính xác hơn “bình đẳng về đối xử” và “bình đẳng về vận hội”, giả định là giữa đàn ông và đàn bà, không có những khác biệt quá lớn, về phương diện xã hội hay phương diện khác. Nhưng đối với tuyệt đại đa số phụ nữ trên thế giới, nhất là đối với người nghèo, thì sự thua kém về mặt xã hội rõ ràng là gắn liền với khác biệt về giới tính và cần phải có giải pháp đặc biệt: chẳng hạn như những quy định đặc biệt về phụ nữ có mang và sinh đẻ, hay những biện pháp bảo vệ “phái yếu” chống lại sự bạo hành của “phái mạnh”. Phong trào nữ quyền Mỹ đã mất khá nhiều thời gian trước khi quan tâm tới những vấn đề sống còn đối với phụ nữ thuộc giai cấp công nhân như vấn đề ngày nghỉ khi sinh nở. Trong thời kì sau đó, phong trào này sẽ phải học cách nhấn mạnh đến sự khác biệt giới tính cũng quan trọng như sự bất bình đẳng giới tính, mặc dù hệ tư tưởng tự do của chủ nghĩa cá nhân trừu tượng và công cụ pháp lí là khái niệm “bình quyền” dễ làm cho người ta khó thừa nhận rằng phụ nữ có những điểm khác với nam giới, và ngược lại[93].

Hơn nữa, trong những năm 1950 và 1960, bản thân yêu cầu được ra khỏi vòng gia đình để bước vào thị trường lao động ăn lương, là một đỏi hỏi mang nặng tính chất tư tưởng hệ đối với phụ nữ có chồng thuộc tầng lớp trung lưu dư giả và có học, mà ít có đối với những phụ nữ khác. Trong môi trường trung lưu nói trên, động cơ thúc đẩy yêu sách này ít khi nào có tính chất kinh tế. Còn đối với người nghèo, hay đối với phụ nữ ngân sách eo hẹp, sở dĩ từ năm 1945 trở đi, họ bắt đầu kiếm công ăn việc làm, phải nói huỵch toẹt ra là vì con cái của họ không đi làm nữa. Ở phương Tây, việc trẻ em đi làm coi như đã chấm dứt, đồng thời, cho con cái học thêm để có thêm cơ may khi vào đời, buộc cha mẹ phải có thêm ngân sách so với trước đó. Tóm lại, “trong quá khứ, con cái đi làm để bà mẹ có thể ở nhà, đảm đương việc nội trợ và sinh sản. Nay các gia đình cần có thêm thu nhập, các bà mẹ phải đi làm thế chân con cái” (Tilly/Scott, 1987, tr. 219). Và điều này cũng không thể thực hiện được nếu không giảm bớt số con, dù rằng sự cơ giới hóa công việc nội trợ (chủ yếu nhờ cái máy giặt) và việc phổ biến các món ăn làm sẵn cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiến hóa này. Còn đối với phụ nữ trung lưu có chồng thu nhập tương đối, thì việc họ đi làm cũng ít khi tăng gia thu nhập một cách đáng kể, vì một lẽ đơn giản là trong những ngành nghề mở ra cho phụ nữ, lương của họ rất thấp so với nam giới. Đó là không kể rằng người mẹ đi làm thì phải thuê một người (người ở, hay tại châu Âu, cô gái phụ việc) tới giúp việc nhà hoặc chăm sóc trẻ em.

Động cơ thúc đẩy người phụ nữ trung lưu có chồng ra khỏi vòng gia đình để làm việc là đòi hỏi về tự do và tự lập: họ có khát vọng được thừa nhận như một con người toàn vẹn, chứ không chỉ như một người lệ thuộc vào ông chồng, không chỉ như một bà nội trợ; họ muốn thế giới nhìn nhận họ như một cá nhân, hơn là thành viên của một chủng loại (“một bà nội trợ, một bà mẹ”). Thu nhập là cần thiết, không phải tự nó, mà vì món tiền ấy, người phụ nữ có thể tiêu xài hay để dành mà không cần xin phép đấng phu quân. Đương nhiên, trong chừng mực mà các hộ gia đình có hai lương bổng trở thành phổ biến trong tầng lớp trung lưu, thì ngân sách gia đình cũng được tính toán căn cứ vào đó. Thật vậy, việc con em giới trung lưu hầu hết đều học đại học, cha mẹ phải tài trợ cho đến gần tuổi 30, thậm chí lâu hơn nữa, lương bổng của bà mẹ không còn chỉ là tuyên ngôn độc lập mà trở thành một nguồn tài chính như từ lâu đối với các tầng lớp nghèo: một phương tiện mưu sinh. Tuy nhiên, yếu tố giải phóng có chủ ý không vì vậy mà biến mất, bằng chứng là sự tăng trưởng các cặp commuting marriages, nghĩa là những lứa đôi mà cả vợ lẫn chồng phải đi làm xa nhà. Bởi vì việc chỗ làm của hai người ở cách nhau quá xa là một điều rất tốn kém (không phải chỉ về tài chính) đối với họ, tuy rằng từ những năm 1970 trở đi, nhờ cuộc cách mạng trong phương tiện giao thông chuyên chở, con số này đã tăng lên nhiều, nhất là trong giới đại học. Trước đây, người vợ (con cái đến tuổi nào thì không) đương nhiên phải theo chồng đến chỗ bổ nhiệm, ngày nay không thể quan niệm là có thể đảo lộn con đường tiến thủ của người vợ, vi phạm quyền của người vợ chọn lựa công việc và chỗ làm việc của mình, ít nhất trong giới trí thức trung lưu. Về phương diện này, rốt cuộc xem ra nam nữ đã đối xử bình đẳng với nhau[94].

Dẫu sao, tại các nước phát triển, cuộc đấu tranh đòi nữ quyền trong các tầng lớp trung lưu và phong trào phụ nữ có học và nữ trí thức cũng đã tạo ra cảm tưởng là giờ phút giải phóng phụ nữ – hay ít nhất, giờ phút phụ nữ phải tự khẳng định mình – đã điểm. Tuy phong trào nữ quyền đầu tiên không đáp ứng trực tiếp quan tâm của số đông phụ nữ, nhưng nó đã đặt ra những vấn đề liên quan tới tất cả nữ giới: những vấn đề này đã trở thành bức thiết hẳn lên khi những đảo lộn xã hội mà chúng tôi vừa điểm qua đã tạo ra một cuộc cách mạng tinh thần và văn hóa sâu sắc (và, về nhiều mặt, khá đột ngột), và một sự biến chuyển ngoạn mục trong các quy ước về ứng xử xã hội và nhân thân của các cá nhân. Phụ nữ đã đóng một vai trò quyết định trong cuộc cách mạng văn hóa ấy; vai trò trung tâm của họ xuyên suốt trong hướng chủ đạo và các lãnh vực biểu hiện của cuộc cách mạng này, là những thay đổi liên quan tới đời sống gia đình và cuộc sống lứa đôi.

Nguyễn Ngọc Giao dịch

Maisons-Alfort, Val-de-Marne, Pháp

Nguồn: Dịch giả gởi trực tiếp cho PTKT, 07.2021.




Chú thích:

[78] Khoảng 3/5 đất đai trên trái đất, không kể lục địa Nam Cực không có người ở.

[79] Cách mạng xanh: đưa vào một số nước Thế giới thứ ba những loại hạt giống năng suất cao, đòi hỏi những phương pháp gieo trồng thích hợp. Chủ yếu từ những năm 1960.

[80] Những khu trung tâm tập hợp tháp chọc trời là hậu quả tự nhiên của giá đất quá cao ở đó. Trước năm 1950 hầu như New York là thành phố duy nhất có khu này. Từ thập niên 1960 trở đi, trở thành phổ biến. Cả những thành phố dân cư phân tán và trải dài như Los Angeles cũng hình thành một khu trung tâm (downtown) như vậy.

[81] Về phương diện này cũng vậy, sức ép ở các nước XHCN yếu hơn.

[82] Trong những biệt lệ hiếm hoi, có thể đơn cử nước Nga. Khác với các nước cộng sản Đông Âu khác và Trung Quốc, chưa bao giờ sinh viên Nga họp thành một khối rõ nét hay có ảnh hưởng trong những năm chủ nghĩa cộng sản tàn tạ. Thành thử có người mô tả phong trào dân chủ ở Nga là “cuộc cách mạng của thế hệ tứ tuần”, còn tuổi trẻ phi chính trị hóa và chán chường thì đứng ngoài nhìn (Riordan, 1991).

[83] Bỉ, Tây Đức, Anh, Pháp, Thụy Điển, Thụy Sĩ.

[84] Cụm từ này đã được Alain Lipietz phổ biến, dựa theo từ ngữ “chủ nghĩa Ford” của Gramsci, nhà tư tưởng mác-xít người Italia. Đây nằm trong những cố gắng của phái tả để tư duy lại những phân tích về xã hội công nghiệp.

[85] Chính ông thị trưởng đã kể với tác giả.

[86] Xem thêm: “Sự thống soái của công nghiệp, với sự phân chia huỵch toẹt giữa công nhân và cán bộ, có khuynh hướng khuyến khích các giai cấp sinh sống cách biệt nhau, đến mức biến một khu dân cư thành khu bảo tồn (người da đỏ châu Mỹ) hay ghetto (giam giữ người Do Thái)” (Allen, 1968, tr. 32-33).

[87] Như ở Hoa Kỳ, từ năm 1950 đến năm 1990, số “thợ thủ công và thợ cả” chuyển dịch từ 16% tổng dân số lao động xuống 13%, trong khi số “thợ không chuyên môn” từ 31% tụt xuống 18% trong cùng thời gian.

[88] “Chủ nghĩa xã hội với chính sách tái phân phối, với Nhà nước phúc lợi […] đã bị một đòn đau vì cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 70. Những bộ phận quan trọng của giai cấp trung lưu cũng như những thành phần công nhân có thu nhập cao đã cắt cầu với định hướng Xã hội - Dân chủ và, bằng lá phiếu của mình, họ đã tạo điều kiện thành lập những đa số mới, ủng hộ chính phủ bảo thủ” (Programma 2000, 1990).

[89] Một trường hợp ngoại lệ là ở Ulster, người Công giáo bị loại trừ ra khỏi các hoạt động công nghiệp đòi hỏi tay nghề cao, lãnh vực này trở thành độc quyền của người theo đạo Tin lành.

[90] Không phải ngẫu nhiên mà trong thập niên 1980 tỉ số li dị và tái hôn ở Italia, Ireland, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thấp hẳn so với các nước khác ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Tỉ số li dị: 0,58‰ so với tỉ số bình quân 2,5‰ ở 9 nước khác (Bỉ, Pháp, Tây Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh, Canada, Hoa Kỳ). Tỉ số phần trăm các cuộc tái hôn so với tổng số các cuộc kết hôn: 2,4 so với 18,6 ở 9 nước vừa kể.

[91] Bộ dân luật Đức trước đây cấm phá thai. Cho nên quyền phá thai là một trong những chủ đề vận động lớn của Đảng Cộng sản, và các quy định pháp luật về phá thai của CHDC Đức do đó rộng rãi hơn nhiều so với CHLB Đức (chịu ảnh hưởng của đảng Dân chủ Kitô giáo). Thành ra đến năm 1990 khi nước Đức thống nhất, sự khác biệt này làm cho cuộc thống nhất về mặt pháp chế trở nên phức tạp.

[92] Năm 1929, Trung ương KPD (ĐCS Đức) chỉ có 6 phụ nữ trong tổng số 63 ủy viên (chính thức và dự khuyết). Tỉ lệ phụ nữ là 7% trong tổng số 504 cán bộ lãnh đạo đảng từ 1924 đến 1929.

[93] Ví dụ như chính sách Affirmative Action tức là chủ trương dành ưu tiên cho một nhóm người nào đó được hưởng một thuận lợi xã hội hay được tham gia một hoạt động nhất định. Chủ trương này chỉ phù hợp với nguyên tắc bình đẳng nếu như nó được quan niệm như một biện pháp tạm thời, sẽ được từng bước bãi bỏ khi mọi người có quyền thu hưởng theo khả năng của mình. Nói cách khác, chế độ ưu tiên này chỉ có mục đích xóa bỏ sự thiệt thòi bất công đối với một số người. Tình huống này hiển nhiên là có. Nhưng chủ trương này không còn ý nghĩa gì khi sự khác biệt có tính chất thường trực. Chỉ cần nhìn qua cũng thấy là phi lí nếu ta muốn dành ưu tiên cho nam giới khi tuyển chọn giọng ca nữ cao (soprano colorature) hay ta tuyên bố rằng, về mặt lí thuyết, vì những lí do dân số, thì 50% tướng lĩnh quân đội phải là phụ nữ. Mặt khác, cũng là một việc chính đáng khi ta tạo cơ may cho bất cứ người nam nào mong muốn hay có khả năng hát vai nữ Norma, cho bất cứ phụ nữ nào có khả năng và ý muốn lãnh đạo quân đội.

[94] Hiếm hơn, nhưng cũng bắt đầu phổ biến, là tình huống người chồng đi theo người vợ tới nơi vợ được bổ nhiệm. Trong giới đại học thập niên 1990, bất cứ ai cũng có thể kể ra vài ba trường hợp mình quen biết.

Print Friendly and PDF