31.7.22

Thời đại thái cực 1914 (12): Thế giới thứ ba

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (12)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

Phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

Phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ hai

THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

Chương 12

THẾ GIỚI THỨ BA

 

“[Tôi gợi ý], nếu không có sách để đọc, thì buổi tối ở các đại trang trại [Ai Cập] nặng nề quá, ngược lại, một cái ghế bành và một cuốn sách hay, ngồi dưới hàng hiên gió mát, cuộc đời dễ chịu biết bao. Bạn tôi đáp lời ngay: “Bộ anh tưởng, ở vùng này, buổi tối sau bữa ăn, một tay điền chủ có thể ngồi yên dưới mái hiên, đèn sáng rọi trên đầu, mà không bị bắn chết ngay à?”. Điều ấy, lẽ ra tôi phải nghĩ ra trước mới phải”.

Russel PASHA, 1949

Trong làng mỗi lần câu chuyện bàn tới sự tương trợ và cho vay tiền giúp dân làng, lập tức sẽ có người than thở sao bây giờ người ta khó hơn trước nhiều […]. Lần nào cũng như lần nào, có người nói thêm bây giờ chuyện tiền nong người dân làng tính toán dữ lắm. Rồi người ta nhắc chuyện “thời xưa”, thời xưa người ta sẵn sàng giúp đỡ đùm bọc nhau”.

M. B. ABDUL RAHIM, 1973 (trong Scott, 1985, tr. 188)

 

I

Quá trình phi thực dân hóa và cách mạng đã làm đảo lộn hoàn toàn bản đồ chính trị thế giới. Con số các quốc gia châu Á độc lập được cộng đồng quốc tế thừa nhận đã nhân lên 15 lần. Ở châu Phi năm 1939 chỉ có một nước, nay năm chục. Ngay ở châu Mỹ, cuộc giải thực đầu thế kỉ XX đã để lại khoảng hai chục nước cộng hòa “latino”, nay có thêm mươi, mười hai nước. Song điều quan trọng không phải ở con số các nước, mà ở sức nặng của họ, ở áp lực dân số rất lớn và ngày càng tăng của tổng thể các nước này.

Đó chính là hậu quả của sự bùng nổ dân số trên thế giới sau Thế chiến thứ Hai. Điều này đã và đang làm thay đổi thế quân bình dân số toàn cầu. Từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, có lẽ trước nữa, từ thế kỉ XVI, thế quân bình nghiêng về dân cư châu Âu và gốc Âu. Năm 1750, nhóm dân cư này chưa tới 20% dân số toàn cầu; đến năm 1900, lên tới xấp xỉ 1/3. Thời đại Tai họa đã làm đóng băng tình hình, nhưng bắt đầu từ giữa thế kỉ XX, dân số thế giới đã tăng trưởng với nhịp độ chưa từng có, và sự tăng trưởng này diễn ra chủ yếu ở những khu vực trước đó nằm dưới quyền cai trị (hoặc sắp sửa) của một nhúm đế quốc. Nếu ta coi các nước giàu trong OECD hợp thành “thế giới phát triển”, thì dân số các nước này mới gần tới 15% dân số thế giới: con số phần trăm này cứ giảm dần, nếu không kể tới luồng di dân, vì tại nhiều nước “phát triển”, số sinh đẻ không bù lại được số tử vong.

Sự bùng nổ dân số của các nước nghèo – vào cuối Thời đại Hoàng kim, hiện tượng này bắt đầu gây ra những lo ngại trên trường quốc tế – có lẽ là sự thay đổi cơ bản nhất trong Thế kỉ XX Ngắn, đó là giả sử rằng rồi đây dân số thế giới sẽ ổn định ở mức 10 tỉ (bất luận hiện nay ước tính là bao nhiêu) trong thế kỉ XXI.[104] Việc dân số toàn cầu tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ 1950 đến 1990, và dự trù dân số châu Phi tăng gấp đôi trong vòng chưa đầy 30 năm là hai hiện tượng lịch sử chưa từng xảy ra, cũng như những vấn đề thực tế tất yếu sẽ đặt ra. Chỉ cần nghĩ tới tình hình xã hội và kinh tế của một nước mà 60% dân số là trẻ em dưới 15 tuổi.

Sự bùng nổ dân số của thế giới nghèo lên tới mức ghê gớm như vậy vì hai nguyên nhân: một là tỉ lệ sinh đẻ của họ vốn cao hơn các nước “phát triển” trong cùng một thời kì, hai là trước đây, sự tăng trưởng bị kìm hãm bởi tỉ lệ tử vong rất cao, từ năm 1940, tỉ lệ này tụt hẳn xuống, nhanh gấp 4, 5 lần nhịp độ giảm tử vong của châu Âu trong thế kỉ XIX (Kelley, 1988, tr. 168). Châu Âu giảm tỉ lệ tăng trưởng dân số là do sự cải thiện từng bước mức sống và môi trường, còn trong Thời đại Hoàng kim, công nghệ hiện đại đã đổ ập xuống thế giới các nước nghèo như một cơn bão nhiệt đới dưới dạng thuốc men hiện đại và cuộc cách mạng giao thông vận tải. Bắt đầu từ thập niên 1940, lần đầu tiên, sự cách tân y tế và dược liệu đã có khả năng cứu sống hàng loạt sinh mạng (nhờ thuốc DDT và các loại thuốc kháng sinh chẳng hạn). Trước đó, y dược chưa bao giờ chữa bệnh được cho số đông như vậy, ngoại trừ trường hợp bệnh đậu mùa. Thành ra, trong khi tỉ lệ sinh đẻ vẫn duy trì ở mức cao (thậm chí còn tăng lên trong thời kì kinh tế phát đạt), thì tỉ lệ tử vong sụt hẳn đi: ở Mexico, trong vòng 25 năm, tỉ số đã giảm đi hơn một nửa. Do đó, dân số tăng vọt lên trong khi mà nền kinh tế và các định chế xã hội không nhất thiết thay đổi gì nhiều. Hậu quả của hiện tượng này là mở rộng hố sâu giữa người giàu và người nghèo, giữa các nước tiên tiến và các nước lạc hậu, tuy rằng nền kinh tế của hai khu vực này đã tăng trưởng cùng nhịp độ. Phân phối GDP đã tăng gấp đôi trong vòng 30 năm cho một dân số không thay đổi là một chuyện; còn phân phối trong một nước như Mexico, mà dân số đã tăng gấp đôi trong cùng thời gian, lại là chuyện khác.

Muốn phác họa bức tranh của Thế giới thứ Ba, trước tiên phải xét tới dân số vì sự bùng nổ dân số là thực tế trung tâm của tình hình. Lịch sử các nước phát triển cho phép nghĩ rằng Thế giới thứ Ba sớm muộn cũng sẽ bước vào thời kì mà các chuyên gia gọi là “chuyển tiếp dân số” thông qua sự bình ổn dân số, với một tỉ lệ sinh đẻ thấp và một tỉ lệ tử vong thấp, mỗi gia đình không còn có quá một hay hai đứa con. Tuy nhiên, nếu có những dấu hiệu cho thấy nhiều nước, đặc biệt ở Đông Á, tới cuối thế kỉ XX đã bước vào thời kì “chuyển tiếp dân số”, còn đa phần các nước nghèo (trừ khối Liên Xô cũ) vẫn chưa tiến theo hướng ấy. Đó là một trong những lí do khiến cho họ vẫn ở trong tình trạng nghèo khó. Một vài nước dân số quá lớn, hàng năm có thêm hàng chục triệu miệng ăn, khiến cho chính quyền lâu lại tung ra một chiến dịch cứng rắn, áp đặt những biện pháp tránh thai hoặc hạn chế sinh đẻ (vận động tuyệt sản ở Ấn Độ trong thập niên 1970, chính sách “một con” ở Trung Quốc). Khó có khả năng giải quyết các vấn đề dân số theo kiểu ấy.

 

II

 

Nhưng đó không phải là quan tâm hàng đầu của các nước thuộc thế giới nghèo khi mới thoát khỏi chiến tranh và chế độ thực dân. Quan tâm của họ là chọn lựa hình thái nào?

Không ngạc nhiên, họ đều chọn, hay bị thúc ép chọn những hệ thống chính trị phái sinh từ đế chế thống trị cũ hay từ kẻ chiến thắng mới. Một số nhỏ trải qua một cuộc cách mạng xã hội hay những cuộc chiến tranh giải phóng trường kì (thì cũng tương tự như cách mạng xã hội) có xu hướng chọn lựa mô hình cách mạng Soviet. Thành ra, trên lí thuyết, thế giới có ngày càng nhiều quốc gia có chế độ cộng hòa đại nghị, có tranh cử, cạnh đó là một thiểu số “Cộng hòa dân chủ nhân dân” độc đảng. Trên lí thuyết, đâu đâu cũng dân chủ cả, mặc dầu chỉ có các chế độ cộng sản hay xã hội cách mạng mới để một hay cả hai từ “dân chủ”, “nhân dân” trong tên gọi chính thức[105].

Thực ra, những quốc hiệu ấy chẳng qua chỉ cho thấy các nhà nước mới này muốn đứng ở đâu trên bàn cờ quốc tế. Nói chung, đó là những tên gọi cũng phi hiện thực như hiến pháp chính thức của những nhà nước Cộng hòa ở châu Mỹ Latin trong cả một thời kì lâu dài, và nguyên nhân cũng không khác gì nhau: thiếu vắng những tiền đề vật chất và chính trị để thể hiện ý đồ trên thực tế. Điều ấy cũng đúng cho cả các nhà nước cộng sản mới thành lập, mặc dù cách tổ chức về cơ bản là cực quyền của họ và hệ thống “đảng lãnh đạo” duy nhất khiến cho họ dễ thích ứng hơn là các chế độ cộng hòa tự do đối với những nhà nước mà văn hóa không phải là văn hóa phương Tây. Thí dụ như nguyên tắc đảng (dân sự) lãnh đạo quân đội, một trong những nguyên tắc chính trị bất di bất dịch và không thể tranh cãi của các nhà nước cộng sản. Tuy nhiên, trong những năm 1980, trong những nhà nước thuộc xu hướng cách mạng, Algeria, Benin, Miến Điện, Cộng hòa Congo, Ethiopia, Madagascar và Somalia – thêm vào đó Libya, hơi khác đời – đều ở dưới sự thống trị những quân nhân lên cầm quyền sau những cuộc đảo chính, cũng như Syria và Irak, cả hai chính phủ kình địch đều mệnh danh là của Đảng Xã hội Baas.

Abraham Lincoln (1809-1865)

Các nhà nước Thế giới thứ Ba, bất kì quan niệm hiến pháp và chính trị ra sao, đều có mẫu số chung là những chế độ quân sự hoặc có xu hướng trở thành chế độ quân sự. Không kể các nước cộng sản thuộc Thế giới thứ Ba (Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, các nước Đông Dương và Cuba) và chế độ được thiết lập từ lâu sau cuộc cách mạng Mexico, thì khó tìm ra một nước cộng hòa nào không trải qua một chế độ quân nhân từ năm 1945 đến nay. Một vài nước quân chủ hiếm hoi, ngoài trừ những biệt lệ (như Thái Lan), có vẻ an toàn hơn. Khi tôi viết những dòng này, Ấn Độ là điển hình sáng giá nhất về một quốc gia đã duy trì được quyền uy dân sự, các chính phủ nối tiếp nhau thông qua những cuộc bầu cử phổ thông hợp lệ và tương đối trung thực. Bảo đó phải chăng là “nền dân chủ lớn nhất thế giới” còn tùy ở quan niệm thế nào là “chính phủ của dân, vì dân, do dân” thiết tha với Lincoln.

Chúng ta đã quá quen với các cuộc đảo chính và các chế độ quân sự trên thế giới – ngay cả ở châu Âu – nên cũng cần nhắc lại rằng nhiều chế độ quân sự như ngày nay là một hiện tượng mới. Năm 1914, không có một quốc gia có chủ quyền quốc tế nào có chế độ quân sự, ngoại trừ châu Mỹ Latin là nơi mà đảo chính quân sự đã trở thành truyền thống; mà ngay tại lục địa này, nước cộng hòa duy nhất lớn không có chính quyền quân sự là Mexico lúc đó đang làm cách mạng và trải qua một cuộc nội chiến. Thời đó không hiếm những nhà nước quân phiệt, những nhà nước trong đó quân đội có sức nặng chính trị, và ở nhiều nước, đa số sĩ quan không ưa gì chính phủ: Pháp là một thí dụ nổi bật. Tuy nhiên, tại các quốc gia có chính quyền đàng hoàng và ổn định, thì giới sĩ quan dầu sao cũng có thói quen và phản xạ tuân phục và không xen vào chính trị; hay, nói chính xác hơn, họ chỉ tham gia vào công việc chính trường giống như một nhóm người khác, không có tiếng nói chính thức, là nhóm phụ nữ, vợ con giai cấp cầm quyền: nghĩa là can dự ở hậu trường, trong những cuộc vận động mưu mô ngấm ngầm.

Curzio Malaparte (1898-1957)

Các cuộc đảo chính như vậy là sản phẩm của một thời đại mới, thời đại của những chính quyền bấp bênh hoặc không chính danh. Người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này là một nhà báo người Italia không quên tiền nhân Machiavelli: Curzio Malaparte với tác phẩm Kĩ thuật đảo chính, xuất bản năm 1931, đúng giữa Thời đại Tai họa. Sang nửa sau thế kỉ, thế cân bằng giữa hai siêu cường dường như đã ổn định các đường biên giới quốc gia, và ở một mức độ thấp hơn, các chính thể, thì sự can dự của quân nhân vào chính trường lại trở thành phổ biến, ít nhất vì lí do sau đây: từ nay trên thế giới có khoảng 200 nhà nước, phần đông đều là những nước mới, không có sự chính danh truyền thống, còn chế độ chính trị thì dễ tạo ra rối loạn chính trị hơn là có một chính quyền hiệu lực. Trong tình hình như vậy, quân đội thường là lực lượng duy nhất có thể triển khai hành động chính trị ở quy mô toàn quốc. Thêm nữa, vì cuộc Chiến tranh Lạnh trên bình diện quốc tế thường được tiến hành thông qua quân lực của các nước chư hầu hay đồng minh, các nước này được một trong hai siêu cường tài trợ và vũ trang; và trong trường hợp Somalia, thì siêu cường này lại thay phiên siêu cường kia. Đời sống chính trị do đó đã dành chỗ cho những người ngồi trên chiến xa.

Francisco Franco (1892-1975)
Juan Carlos (1938-)

Trong hạt nhân cứng của các nước cộng sản, quân nhân bị kiềm chế bởi nguyên tắc quân đội phải chịu sự lãnh đạo của dân sự (cụ thể là đảng), dù rằng vào những năm cuối đời, Mao Trạch Đông cuồng điên có lúc đã muốn từ bỏ nguyên tắc này. Tại những nước nòng cốt của liên minh phương Tây, khu vực chính trường dành cho quân đội bị hạn chế, một là vì không có bất ổn chính trị, hai là do những cơ chế mà mục đích là kiểm soát quân đội. Thí dụ như ở Tây Ban Nha, sau khi Franco chết đi, quá trình chuyển tiếp từ độc tài sang chế độ dân chủ tự do đã được thương lượng một cách hữu hiệu dưới sự giám hộ của vua Juan Carlos mới lên ngôi; và năm 1981, nhờ sự kiên quyết của nhà vua, âm mưu đảo chính của những sĩ quan nuối tiếc Franco đã bị dẹp gọn. Ở Italia, Mỹ hù dọa đảo chính để ngăn chận đảng Cộng sản hùng mạnh tham gia chính quyền, nhưng chính phủ dân sự vẫn được duy trì, mặc dù trong những năm 1970 đã xảy ra những vụ lộn xộn ngày nay vẫn còn giữ nguyên bí ẩn, liên quan tới những cơ quan mật vụ quân đội, mật vụ công an và những nhóm khủng bố. Chỉ khi nào quá trình phi thực dân hóa gây ra những chấn thương mạnh mẽ tới mức không chịu nổi (thất bại do quân khởi nghĩa gây ra), thì sĩ quan phương Tây mới tìm cách đảo chính: thí dụ như ở Pháp, trong những năm 1950 khi họ lao vào cuộc chiến đấu vô vọng để giữ Đông Dương và Algeria, hay ở Bồ Đào Nha (nhưng lần này do những sĩ quan phái tả) khi đế chế ở châu Phi sụp đổ trong những năm 1970. Chế độ quân nhân duy nhất mà Hoa Kỳ thực sự ủng hộ ở châu Âu là chế độ thiết lập ở Hi Lạp năm 1967 (đây có lẽ là một chủ trương có tính chất cục bộ) bởi một nhóm đại tá xuẩn động tại một nước mà cuộc nội chiến giữa cộng sản và đối phương (1944-1949) vẫn còn để lại những hồi ức đau buồn trong cả hai bên. Chế độ chỉ biết tra tấn mọi người đối lập đã sụp đổ sau 7 năm, hầu như do sức nặng của sự ngu xuẩn chính trị của chính nó.

Ở Thế giới thứ Ba, rất dễ can thiệp về quân sự, nhất là ở các quốc gia mới thành lập, vốn yếu ớt và thường rất nhỏ bé, chỉ cần vài trăm người có vũ trang (thậm chí có thể dùng người ngoại quốc) là có đủ sức nặng quyết định, vì chính quyền thiếu kinh nghiệm, không có khả năng, dễ tạo ra những tình trạng tao loạn, tham nhũng và rối ren. Tại phần đông các nước châu Phi, người lãnh đạo quân sự tiêu biểu thường không phải là người có máu độc tài, mà là một người thực sự muốn tránh để xảy ra những thảm cảnh, với hi vọng (thường là vô vọng) là sớm có một chính phủ dân sự lên thay thế. Và kết quả thường xảy ra là ông ta thất bại trên cả hai mặt, do đó, những chế độ quân nhân này thường chết yểu. Và chỉ cần có một chút nghi vấn là chính quyền có thể rơi vào tay cộng sản là chắc chắn sẽ được Hoa Kỳ ủng hộ để lật đổ.

Porfirio Diaz (1830-1915)

Tóm lại, trong đời sống chính trị, quân đội có xu hướng lấp chỗ trống mà chính quyền dân sự để lại. Sự can thiệp của quân đội hoàn toàn không phải là một hình thái chính trị đặc biệt gì, nó tùy thuộc vào sự mất ổn định và bất an của môi trường chung quanh. Song nó đã trở thành phổ biến ở Thế giới thứ Ba vì hầu hết các nước thuộc địa hay nửa thuộc địa trước đây đều theo đuổi, bằng cách này hay cách khác, một chính sách nhất thiết cần phải có những nhà nước ổn định, tích cực và hiệu quả, điều mà ít nước nào có được. Các nước ấy đều muốn đi theo con đường độc lập và “phát triển” kinh tế. Sau đợt sóng thứ hai của chiến tranh và cách mạng thế giới, với hệ quả là cuộc giải thực, thì xem như không còn chỗ đứng cho cái kế hoạch “phồn thịnh” cũ – các nước tạo ra các sản phẩm cơ bản để phục vụ thị trường thế giới của các nước đế quốc. Thế là kết thúc cái chương trình của các estancieros (đại điền chủ Nam Mỹ) ở Argentina và Uruguay mà Porfirio Diaz ở Mexico và Laguia ở Peru hi vọng có thể làm theo. Vả lại, chương trình này đã mất khả năng thuyết phục từ ngày Đại Khủng hoảng. Thêm nữa, chủ nghĩa dân tộc và phong trào chống đế quốc đòi hỏi những đường lối bớt lệ thuộc vào các đế quốc cũ, trong khi Liên Xô hiện ra như một mô hình mới về “phát triển”. Từ 1945 trở đi, mô hình Liên Xô tạo ra ấn tượng lớn hơn bao giờ hết.

Cho nên các nước có cao vọng nhất đều quyết tâm thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu về nông nghiệp bằng con đường công nghiệp hóa một cách có hệ thống, theo mô hình kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô hoặc bằng cách thay thế nhập khẩu. Tuy có khác nhau, nhưng cả hai đường lối này đều đỏi hỏi nhà nước can thiệp và kiểm soát. Ngay những nước có tham vọng nhưng không mơ tưởng một tương lai đầy ắp những nhà máy luyện kim vĩ đại ở vùng nhiệt đới, sử dụng điện lực của những nhà máy thủy điện nấp bóng những đập nước khổng lồ, cũng muốn kiểm soát và tự mình khai thác tài nguyên quốc gia. Sản xuất dầu khí vốn nằm trong tay các công ti tư nhân phương Tây mà lợi ích gắn chặt với các nước đế quốc. Theo gương Mexico năm 1938, một vài chính phủ đã quyết định quốc hữu hóa các xí nghiệp dầu mỏ và tự mình quản lí thông qua những doanh nghiệp công quản. Những nước tránh quốc hữu hóa lại phát hiện ra (nhất là sau năm 1950, khi ARAMCO đề nghị với Arabia Saudi một điều trước đó không ai tưởng tượng nổi: chia đôi một cách bình đẳng) rằng sở hữu dầu khí đặt họ vào thế thượng phong khi thương lượng với các công ti nước ngoài. Thực tế là rốt cuộc tới những năm 1970, tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã bắt chẹt được toàn thế giới, khả dĩ như vậy vì quyền sở hữu các mỏ dầu đã được chuyển giao từ các công ti vào tay một số tương đối nhỏ quốc gia sản xuất. Tóm lại, ngay cả những chính phủ các nước thuộc địa hay lệ thuộc đã từng mãn nguyện trao thân cho tư bản nước ngoài, mới hay cũ (“chủ nghĩa thực dân mới” theo cách gọi của phái tả hiện đại) cũng làm như vậy trong khuôn khổ một nền kinh tế do nhà nước định hướng. Cho đến những năm 1980, có lẽ Bờ Biển Ngà, cựu thuộc địa Pháp, là nước thành công nhất trong các nước kể trên.

Kwame Nkrumah (1909-1972)

Bất hạnh là những quốc gia trẻ đã đánh giá thấp những khó khăn bắt nguồn từ tình trạng lạc hậu: thiếu chuyên gia, quản lí hành chính và cán bộ kinh tế có chất lượng và kinh nghiệm, nạn mù chữ, chưa quen hoặc nghi ngại đối với những kế hoạch hiện đại hóa kinh tế. Nhất là trường hợp những chính phủ đặt ra cho mình những mục tiêu mà ngay các nước phát triển cũng khó thực hiện, chẳng hạn như kế hoạch tập trung cho công cuộc công nghiệp hóa. Ghana, cùng với Sudan, là quốc gia đầu tiên ở Hạ Sahara đã giành được độc lập. Khi đó, Ghana có trong ngân quỹ hai trăm triệu bảng Anh (nhiều hơn cả Ấn Độ độc lập) nhờ giá cacao lên cao và nhờ thu nhập từ chiến tranh, và đã phung phí số tiền dự trữ ấy trong việc xây dựng một nền kinh tế công nghiệp đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước, đó là không kể những chương trình thành lập Liên hiệp Liên Phi của Kwame Nkrumah. Kết quả là cả một tai họa, và sự sụt giá cacao những năm 1960 càng làm cho tình hình thêm phần nghiêm trọng. Năm 1972, các dự án lớn đều lụn bại, công nghiệp nội địa của Ghana chỉ sống được là nhờ hàng rào hải quan rất cao, kiểm soát giá cả và cấp phép nhập khẩu, từ đó sản sinh ra chợ đen sầm uất và nạn tham nhũng tràn lan, từ đó đến nay không bài trừ được nữa. Khu vực công sử dụng 3/4 số người ăn lương, còn nông nghiệp èo ọt thì bị bỏ mặc (cũng như ở nhiều nước khác thuộc Châu Phi). Sau cuộc đảo chính quân sự lật đổ Nkrumah (1966), đất nước Ghana tiếp tục vỡ mộng, chính phủ này tiếp nối chính phủ kia, lâu lâu có một chính phủ dân sự, thường thường là chính phủ của những quân nhân bất mãn.

Cũng không nên vì những thành tích đen tối của các quốc gia mới ở Hạ Sahara mà đánh giá thấp những thành tựu to lớn của những nước thuộc địa hoặc nửa thuộc địa may mắn hơn, đã chọn lựa con đường phát triển kinh tế theo kế hoạch hay được nhà nước bảo trợ. Ngoại trừ trường hợp thành quốc Hongkong, các quốc gia mà từ những năm 1970 trở đi người ta vẫn quen gọi là các nước công nghiệp mới (NIC) đều đi theo đường lối như vậy. Ai có ít nhiều hiểu biết về Brasil hay Mexico đều có thể xác nhận điều này: hai nước đó đều tạo ra một bộ máy quan liêu, tham những và phí phạm ghê gớm, nhưng đồng thời tăng trưởng mỗi năm 7%. Tóm lại, họ đã hoàn thành giai đoạn chuyển tiếp để trở thành những nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Có lúc, Brasil còn đứng hàng thứ tám trong các nước công nghiệp thuộc thế giới không cộng sản. Cả hai nước dân số đều đủ lớn để có một thị trường nội địa quan trọng, nhờ thế mà, trong thời gian cần thiết, có thể thi hành một chính sách thay thế được nhập khẩu một cách thực thụ. Các khoản chi tiêu và các hoạt động công cộng đã duy trì cầu ở mức cao đối với thị trường nội địa. Có lúc khu vực kinh tế công quản của Brasil đã nắm trong tay một nửa tổng sản lượng nội địa ròng và nắm 19 trên 20 doanh nghiệp lớn nhất nước; còn ở Mexico, khu vực kinh tế nhà nước sử dụng tới 1/5 tổng số nhân lực và cáng đáng 2/5 tổng số chi về lương bổng toàn quốc (Harris, 1987, tr. 84-85). Ở Viễn Đông, công cuộc kế hoạch hóa ít thông qua con đường doanh nghiệp công cộng mà qua những tập đoàn kinh tế được ưu đãi và do chính quyền tác động bằng việc kiểm soát tín dụng và đầu tư, song phát triển kinh tế cũng tuỳ thuộc không kém vào nhà nước. Kế hoạch hóa và can thiệp của nhà nước được thực hiện ở mọi nước trên thế giới trong thập niên 1950 và 1960, và ở các nước NIC cho đến những năm 1980. Hình thái phát triển kinh tế này đã mang lại những kết quả thỏa đáng hay đáng thất vọng tùy theo điều kiện từng nơi cũng như những sai lầm từ con người.

 

III

 

Đặt dưới sự kiểm soát hay đứng ngoài vòng kiểm soát của nhà nước, thực ra phát triển kinh tế không tác động trực tiếp tới đại đa số dân chúng Thế giới thứ Ba vì họ tự trồng trọt ra lương thực thực phẩm. Bởi vì ngay ở những quốc gia và thuộc địa mà thu nhập công quỹ dựa vào một hai cây trồng xuất khẩu – cà phê, chuối hay ca cao – thì diện tích trồng trọt này cũng tập trung ở một vài vùng tương đối hẹp. Ở Hạ Sahara châu Phi và ở phần lớn Nam Á, Đông Nam Á cũng như ở Trung Quốc, đại bộ phận dân chúng vẫn tiếp tục sống nhờ nông nghiệp. Chỉ ở Tây bán cầu và các nước khí hậu khô phía tây khu vực các nước Islam mới có hiện tượng nông thôn thưa vắng dần, nông dân đổ dồn về các đô thị khổng lồ, biến những xã hội nông thôn thành những xã hội đô thị chỉ trong vỏn vẹn hai thập niên (xem ch. 10). Ở những vùng màu mỡ mà không quá đông dân, chẳng hạn như phần lớn châu Phi Đen, thì đa số dân chúng bị bỏ mặc cũng sống được. Đa phần họ không cần đến nhà nước, mà thường thì nhà nước quá yếu, cũng không gây ra tai hại gì đáng kể đối với họ; còn nếu nhà nước trở thành cồng kềnh thì họ vẫn có cách ẩn mình trong sự tự cung tự túc của thôn làng. Ít có châu lục nào bước vào kỉ nguyên độc lập với những chủ bài mạnh như vậy, những chẳng mấy lúc chúng đã bị phung phí. Phần lớn nông dân thuộc thế giới châu Á và Islam nghèo khó hơn nhiều, hay ít nhất cũng có ít cái ăn hơn – đôi khi, như ở Ấn Độ, họ lâm vào cảnh nghèo khổ vô vọng từ ngàn xưa – trong khi áp lực dân số trên những mảnh đất hẹp lại mạnh hơn nhiều. Tuy nhiên, đối với nhiều người nông dân, giải pháp tốt nhất cho các vấn đề của họ không phải là nghe lời những người cam đoan với họ rằng phát triển kinh tế sẽ mang lại sự sung túc và phồn vinh chưa từng có, mà ngược lại phải làm cho họ thất bại. Kinh nghiệm lâu đời đã dạy cho họ, cũng như cho cha ông họ, rằng bên ngoài không mang lại cho họ điều tốt đẹp nào. Trải qua mấy đời, tính toán mặc nhiên cho họ thấy rằng tối thiểu hóa rủi ro tốt hơn là tối ưu hóa lợi nhuận. Điều này không giúp cho họ hoàn toàn đứng ngoài tầm ảnh hưởng của cuộc cách mạng kinh tế thế giới. Dù họ ở nơi hẻo lánh đến đâu chăng nữa, cuộc cách mạng kinh tế này cũng tới với họ dưới dạng thức đôi dép nhựa, bình ét xăng, hay chiếc cam nhông cũ kĩ và – đương nhiên – những cơ quan hành chính với hằng hà sa số giấy tờ đủ loại. Tình hình này có xu hướng chia cư dân những vùng này thành hai loại người: một là những người làm việc trong và nhờ thế giới của văn bản, văn phòng; hai là những người khác. Ở phần lớn Thế giới thứ Ba nông thôn, lằn ranh trung tâm cắt đôi một bên là “vùng duyên hải” và một bên là “vùng trong”, một bên là thành thị và một bên là bưng biền đồng ruộng[106].

Khốn nỗi, hiện đại và chính quyền đi đôi với nhau, “vùng trong” chịu sự cai quản của “vùng duyên hải”, bưng biền đồng ruộng chịu sự cai quản của thành thị, người mù chữ chịu sự cai quản của những người có học. Khởi thủy là “ngôi lời”. Trong số 104 thành viên nghị viện của khu vực sẽ trở thành quốc gia Ghana độc lập, có 68 người ít nhiều đã có học trên tiểu học. Trong số 106 thành viên của nghị viện lập pháp Telengana (nam Ấn Độ), có 97 người có trình độ trung học hay đại học, và trong số ấy 50 người tốt nghiệp cử nhân. Và lúc ấy, tuyệt đại đa số người dân Ghana và Telengana là mù chữ (Hodgkin, 1961, tr. 29; Gray, 1970, tr. 135). Thêm nữa, người nào muốn giữ một vai trò chủ động trong chính phủ trung ương ở các quốc gia Thế giới thứ Ba đều phải biết nói ngôn ngữ chung của khu vực (không nhất thiết là ngôn ngữ của cộng đồng xuất thân của mình) và còn phải biết một trong mấy sinh ngữ quốc tế (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Arab, tiếng phổ thông Trung Hoa) hay ít nhất cũng phải biết cái ngôn ngữ địa phương mà chính quyền muốn nâng lên làm “quốc ngữ” chính thức (swahili, buhasa, pidgin). Biệt lệ duy nhất là khu vực châu Mỹ Latin là nơi mà ngôn ngữ chính thức (Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha) cũng là khẩu ngữ của đa số dân cư. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1967 ở Hyderabad (Ấn Độ), trong số 34 ứng cử viên, chỉ có ba người không biết tiếng Anh (Bernstorff, 1970, tr. 146).

Cho nên, những người dân sống lạc hậu ở những nơi hẻo lảnh cũng ngày càng nhận ra lợi ích của giáo dục đại học ngay khi, có lẽ chính vì, họ không được hưởng. Theo nghĩa đen của danh từ này, tri thức đồng nghĩa với quyền lực: điều này thật là hiển nhiên ở những nước mà, trong cái nhìn của người dân, nhà nước là bộ máy bòn rút tài nguyên của họ để phân chia cho các viên chức. Học vấn đồng nghĩa với chức tước, và chức tước được bảo đảm vững vàng ở các công sở[107], và nếu may mắn hơn, bảo đảm con đường hoạn lộ với bao nhiêu bổng lộc, hoa hồng và khả năng tìm ra công ăn việc làm cho họ hàng, thân quyến. Ở châu Phi, khi cả một làng đầu tư cho một thanh thiếu niên đi học là họ hi vọng rằng khi được bổ nhiệm, thì cả làng sẽ được hưởng thu nhập và sự che chở. Điều chắn chắc là trong mỗi làng, ai làm công chức, người đó ăn lương cao nhất. Tại một nước như Uganda trong những năm 1960, lương công chức (đây là nói đồng lương chính thức) gấp 112 lần thu nhập trung bình của người dân, trong khi ở Anh, tỉ số đó là 10/1 (UN World Social Situation, 1970, tr. 66).

Nơi nào mà những người nghèo khó ở nông thôn có thể hưởng được lợi ích của giáo dục, hay con cái của họ có thể hưởng được (thí dụ như ở châu Mỹ Latin là khu vực gần gũi nhất với thế giới hiện đại và xa cách nhất với chủ nghĩa thực dân), thì sự ham học phải nói là hết sức phổ biến. Năm 1962, một người cộng sản Chile đã thố lộ với tác giả về những người Mapuche (một sắc tộc bản địa châu Mỹ): “Tất thảy họ đều muốn học được một cái gì đó. Tôi không phải là trí thức, tôi không truyền được cho họ những kiến thức nhà trường, tôi đành dạy cho họ môn bóng tròn”. Sự khát khao học tập là nguyên nhân chính giải thích sự di cư ồ ạt từ nông thôn Nam Mỹ ra thành thị bắt đầu từ những năm 1950. Tất cả các cuộc điều tra đều xác nhận: cơ may cho con cái được học hành và đào tạo không bao giờ là nhân tố thứ yếu giải thích hấp lực của thành phố. Ở thành phố, “họa may chúng nó mới khấm khá lên được”. Có học tất nhiên mở ra những viễn tượng mới, nhưng ở những vùng nông thôn lạc hậu, chỉ một việc là biết lái xe động cơ là đổi đời rồi. Đó cũng là việc đầu tiên mà một người Quechua (một sắc tộc sống trên dãy núi Andes) lập nghiệp ở thành phố dạy cho mấy người anh em họ và cháu họ khi họ “ra tỉnh”, với hi vọng là mở ra con họ con đường trong thế giới hiện đại: bởi vì gia đình của anh ta khá chẳng phải là nhờ anh kiếm được công việc lái xe cứu thương đó sao? (Julca, 1992).

Có lẽ phải tới thập niên 1960, thậm chí muộn hơn nữa, người dân nông thôn (ngoài những khu vực thuộc châu Mỹ Latin) mới bắt đầu thấy một cách toàn diện rằng tính hiện đại là hứa hẹn hơn là mối họa. Vả lại, người ta chờ đợi rằng lẽ ra người nông dân phải phấn khởi với một khía cạnh của đường lối phát triển kinh tế liên quan trực tiếp tới ít nhất 3/5 loài người, là những người sống bằng nông nghiệp: cải cách ruộng đất. Dưới khẩu hiệu này là một nội hàm đa dạng, từ sự giải thể những đại đồn điền, chia ruộng đất cho nông dân và tá điền không có ruộng đất, cho tới việc xóa bỏ chế độ tô tức hay nô tì phong kiến; từ giảm tô, cải cách chế độ tá điền cho đến quốc hữu hóa cách mạng hay hợp tác hóa nông nghiệp.

Hiện tượng này diễn ra có lẽ ồ ạt nhất trong thập niên ngay sau khi kết thúc Thế chiến thứ Hai: từ hữu sang tả, người ta đã tiến hành cải cách ruộng đất. Từ 1945 đến 1950, gần một nửa loài người sống ở các nước có tiến hành cải cách ruộng đất dưới dạng thức nào đó: kiểu cộng sản ở Đông Âu, rồi ở Trung Quốc sau 1949; ở lục địa Nam Á khi kết liễu chế độ thực dân ở thuộc địa đế quốc Anh, ở Nhật Bản, Đài Loan và Triều Tiên sau khi đế quốc Nhật Bản bị đánh bại (hay, nói chính xác hơn, do chủ trương của quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng). Cách mạng Ai Cập năm 1952 đã mở rộng diện cải cách ruộng đất sang khu vực phía tây của thế giới Islam: Irak, Syria và Algeria đều theo gương Cairo. Cuộc cách mạng năm 1952 ở Bolivia đã đưa cải cách ruộng đất sang Nam Mỹ – dù rằng Mexico sau Cách mạng 1910, hay đúng hơn, từ cuộc đổi mới vào thập niên 1930, đã từ lâu tiến hành cuộc “vị nông” (agrarismo). Tuy nhiên, mặc dầu đã có không biết bao nhiêu là tuyên bố chính trị và điều tra thống kê về đề tài này, châu Mỹ Latin ít trải qua cách mạng, phi thực dân hóa hay thất trận để có cải cách ruộng đất thực sự. Phải đợi đến cuộc cách mạng của Fidel Castro ở Cuba, vấn đề mới đặt ra.

Đối với những người chủ trương hiện đại hóa, thì cải cách ruộng đất là một yêu cầu bức thiết về chính trị (để tranh thủ nông dân ủng hộ chính quyền cách mạng hay ủng hộ những người chuẩn bị cách mạng), về mặt tư tưởng (“ruộng đất về tay người cày”, v.v.), và đôi khi về kinh tế, mặc dầu đa số các nhà cách mạng không trông chờ gì lắm vào việc chia ruộng đất cho nông dân cổ truyền hay cho những người nghèo, không có ruộng đất hoặc có quá ít. Thực tế là ngay sau khi cải cách ruộng đất ở Bolivia (năm 1952) và Irak (năm 1958), sản xuất nông nghiệp đã giảm sút nhiều – nhưng công bằng mà nói, thì ở chỗ nào nông dân đã biết làm và có năng suất cao, cải cách ruộng đất đã nhanh chóng giải phóng tiềm lực sản suất trước đó còn bị sự hoài nghi của người dân kìm hãm: đó là trường hợp Ai Cập, Nhật Bản, và nổi bật hơn cả, Đài Loan (Land Reform, 1968, tr. 570-575). Những lí do để duy trì một đội ngũ nông dân đông đảo trước đây cũng như bây giờ không phải là do yêu cầu kinh tế, vì trong lịch sử thế giới hiện đại, tăng trưởng mạnh mẽ sản lượng nông nghiệp đi đôi với việc giảm thiểu tương đương số lượng và tỉ lệ nông dân, đặc biệt từ sau Thế chiến thứ Hai. Tuy nhiên, cải cách ruộng đất có thể chứng minh, và trên thực tế đã chứng minh rằng một trang trại, nhất là trang trại lớn, do nông dân có đầu óc canh tân chỉ huy, có thể hiệu quả tương đương, mà lại năng động hơn những đơn vị sản xuất cổ truyền, những đồn điền dưới chế độ đế quốc hay là những thử nghiệm bất hạnh nhằm tổ chức nông nghiệp trên cơ sở gần như công nghiệp như là những nông trường Soviet khổng lồ hoặc hệ thống sản xuất lạc của Anh ở Tanganyika (nay là Tanzania) sau năm 1945. Còn những đồn điền, như đồn điền cà phê, mía hay cao su, trước đây được coi là ưu việt, nay không còn như thế nữa – dù cho, trong những trường hợp cụ thể, đồn điền vẫn còn hiệu quả hơn hẳn những diện tích trồng trọt của những nhà sản xuất nhỏ không có chuyên môn. Còn những tiến bộ lớn trong nông nghiệp ở Thế giới thứ Ba từ sau chiến tranh, cuộc “cách mạng xanh” sử dụng những giống cây trồng được chọn lựa một cách khoa học, đều là do những nhà nông có óc kinh doanh như ở vùng Punjab (Ấn Độ).

Tuy nhiên, luận chứng kinh tế mạnh mẽ nhất cho cải cách ruộng đất không phải là năng suất mà là sự bình đẳng. Nhìn toàn cục, thì sự phát triển kinh tế có xu hướng làm tăng sự bất công, rồi về dài hạn, đã giảm bớt bất công trong sự phân phối thu nhập quốc gia, tuy rằng sự suy giảm kinh tế và niềm tin thần học vào kinh tế thị trường gần đây đã đảo ngược xu hướng ấy ở nơi này nơi kia. Vào cuối Thời đại Hoàng kim, sự bình đẳng ở các nước phương Tây phát triển đã lớn hơn so với Thế giới thứ Ba. Tuy vậy, trong khi sự bất bình đẳng trong thu nhập đạt mức cao nhất ở châu Mỹ Latin, tiếp theo là châu Phi, thì ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, tình trạng bất bình đẳng lại ở mức thấp khác thường. Tại các nước này, dưới sự chiếm đóng của quân đội Mỹ hay do chính bản thân chính quyền bản địa, những cuộc cải cách ruộng đất triệt để đã được thực hiện. Tuy nhiên, trong số ấy, không có nước nào bình đẳng bằng các nước XHCN Đông Âu hay nước Australia hồi đó (Kakwani, 1980). Khi phân tích sự thành công trong cuộc công nghiệp hóa của các nước này, các nhà nghiên cứu đều tự hỏi những lợi quyền kinh tế xã hội đã tác động tới mức nào vào những thành tựu đó; và tương tự, khi quan sát những tiến bộ lên xuống hơi thất thường của nền kinh tế Brasil (lúc nào cũng gần đạt mục đích, mà rồi vẫn không đạt được, là trở thành một thứ Hợp chúng quốc của nam bán cầu), người ta cũng đặt câu hỏi là trong chừng mực nào, tiến trình của Brasil đã bị kiềm hãm bởi sự bất bình đẳng quá mức trong phân phối thu nhập – điều này tất nhiên đã hạn chế thị trường công nghiệp nội địa. Thật vậy, sự bất bình đẳng hiển nhiên ở châu Mỹ Latin rõ ràng gắn liền với sự thiếu vắng (cũng hiển nhiên không kém) một cuộc cải cách ruộng đất toàn diện ở nhiều nước thuộc châu lục này.

Rõ ràng cải cách ruộng đất đã được sự hưởng ứng của nông dân Thế giới thứ Ba, ít nhất khi nó không dẫn tới việc thành lập các nông trại tập thể và sự hợp tác hóa nông nghiệp như các nước cộng sản đã tiến hành. Tuy nhiên, nhận định của những người chủ trương duy tân về cải cách ruộng đất khác với người nông dân không mấy quan tâm gì tới những vấn đề kinh tế vĩ mô. Nông dân nhìn chính trị quốc gia từ một góc độ khác hẳn các nhà cải cách sống ở thành thị. Yêu cầu về ruộng đất của họ không dựa trên một nguyên tắc tổng quan, mà trên những yêu sách cụ thể. Thí dụ như ở Peru năm 1969. Một nhóm tướng lĩnh có đầu óc đổi mới đã tiến hành một cuộc cải cách triệt để bằng cách đột nhiên hủy bỏ hệ thống các hacienda [hệ thống sở hữu đất đai lớn], do đó đã thất bại. Đối với các cộng đồng người da đỏ ở trên cao nguyên đã quen sống chung một cách không ổn định với các đại trang trại nuôi súc vật ở Andes mà họ là nguồn nhân công, thì cuộc cải cách này phải đơn thuần là quay trở về chế độ sở hữu truyền thống những đất đai và đồng cỏ đã bị các đại điền chủ chiếm hữu. Nhiều thế kỉ đã trôi qua, nhưng họ còn nhớ rất chính xác những đường ranh xác định từng diện tích đất đai mà họ chưa bao giờ chấp nhận sự chiếm đoạt (Hobsbawm, 1974). Cho nên họ hoàn toàn không muốn duy trì các trang trại như là những đơn vị sản xuất (từ nay trở thành sở hữu của những comunididade và nhân công đã làm việc ở đó). Họ cũng không chấp nhận những thử nghiệm hợp tác xã hay những cải tổ nông nghiệp khác, ngoại trừ hình thức tương trợ cổ truyền của một cộng đồng thực ra không mấy bình đẳng. Sau cuộc cải cách, các cộng đồng liền “xâm chiếm” đất đai của các trang trại đã được chuyển thành hợp tác xã (mà trên nguyên tắc họ là đồng sở hữu chủ), cứ như là không có gì thay đổi trong cuộc tranh chấp giữa trang trại và các cộng đồng hay giữa các cộng đồng với nhau (Gómez Rodríguez, tr. 242-255). Đối với các cộng đồng ấy, không có gì thay đổi cả. Cuộc cải cách ruộng đất gần với lí tưởng của người nông dân có lẽ là cuộc cải cách ruộng đất ở Mexico vào thập niên 1930. Xuất phát từ giả định là nền nông nghiệp của nông dân Mexico chỉ sản xuất vừa đủ để sống qua ngày, chính quyền đã trao quyền sở hữu bất khả chuyển nhượng cho các cộng đồng thôn xã, để họ tự do tổ chức theo như họ muốn (quyền sở hữu chung này gọi tên là ejido). Đây là một thành công vô cùng lớn về mặt chính trị, song về mặt kinh tế thì không mang lại lợi ích gì cho sự phát triển nông nghiệp về sau này của Mexico.

 

IV

 

Không có gì đáng ngạc nhiên khi, sau Thế chiến thứ Hai kết thúc, mấy chục nước thuộc địa cũ và đa phần các nước châu Mỹ Latin (cũng nằm trong diện các nước lệ thuộc vào thế giới đế quốc và công nghiệp) đã được gộp chung dưới tên gọi “Thế giới thứ Ba ”: hình như cụm từ “Thế giới thứ Ba ” này đã được tạo ra vào năm 1952 (Harris, 1987, tr. 18), để khu biệt với “Thế giới thứ Nhất” của các nước tư bản phát triển và với “Thế giới thứ Hai” của các nước cộng sản. Coi Ai Cập, Guinea, Ấn Độ hay Papua New Guinea là những xã hội cũng một loại hình tất nhiên là một điều thậm vô lí, nhưng xếp chung các nước ấy với nhau không phải là không có căn cứ vì đó đều là những nước nghèo[108] (đối lập với thế giới “phát triển”), đều là những nước bị lệ thuộc, chính phủ các nước này đều mong muốn “phát triển” đất nước, và sau cuộc Đại Khủng hoảng rồi Thế chiến thứ Hai, chẳng có nước nào tin rằng nhờ thị trường tư bản chủ nghĩa thế giới (nghĩa là học thuyết về “lợi thế so sánh” nằm lòng của các nhà kinh tế học) hay nhờ sáng kiến tự phát ở trong mỗi nước mà có thể đạt mục đích phát triển. Thêm vào đó, tấm màn sắt đã buông xuống, cho nên những ai còn một chút tự do hành động đều tránh tham gia liên minh với bên này hay bên kia, với ước mong là tránh xa được cuộc Thế chiến thứ Ba mà cả thế giới đều lo ngại sẽ xảy ra.

Gamal Nasser (1918-1970)
Jawaharlal Nehru (1889-1964)

Điều đó không có nghĩa là các nước “không liên kết” đều có thái độ “thù nghịch ngang nhau” với cả hai phe Chiến tranh Lạnh. Những người khởi xướng và chủ chốt của phong trào (mà hội nghị quốc tế lần thứ nhất họp năm 1955 ở Bandung (Indonesia), do đó mà người ta thường gọi là phong trào Bandung) từng là những nhà cách mạng cấp tiến ở các nước thuộc địa: Jawaharlal Nehru ở Ấn Độ, Sukarno ở Indonesia, đại tá Gamal Abdel Nasser ở Ai Cập, và một người cộng sản li khai, thống chế Tito, ở Nam Tư. Cũng như nhiều nước thuộc địa cũ, họ đều muốn xây dựng một chế độ XHCN riêng của mình (khác mô hình Liên Xô), thậm chí chủ nghĩa xã hội hoàng gia của Campuchia. Tất cả các nước này đều có cảm tình nhất định đối với Liên Xô, hay ít nhất là họ sẵn sàng nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô. Điều đó không có gì lạ, vì khi thế giới phân cực, thì hôm trước hôm sau Hoa Kỳ đã từ bỏ truyền thống chống thực dân và đi tìm sự ủng hộ của những phần tử bảo thủ nhất ở Thế giới thứ Ba : Irak trước ngày cách mạng 1958, Thổ Nhĩ Kì, Pakistan và nước Iran của quốc vương Shah họp thành khối CENTO (Tổ chức Hiệp ước Trung tâm), Pakistan, Philippines và Thái Lan thì gia nhập SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á). Hai tổ chức này (thực ra không có mấy trọng lượng) có vai trò là bổ sung cơ cấu quân sự chống Liên Xô mà cột trụ là khối NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương). Sau cuộc cách mạng Cuba năm 1959, nhóm các nước không liên kết (chủ yếu là những nước Á Phi) trở thành ba lục địa, thì các nước thành viên châu Mỹ Latin hầu hết là những nước ở Tây Bán cầu không mấy thân thiện với Big Brother (Anh Cả) Bắc Mỹ, điều đó không có gì lạ. Tuy nhiên, không giống các nước Thế giới thứ Ba thân Mỹ sẵn sàng tham gia hệ thống liên minh phương Tây, các nước không cộng sản trong khối Bandung không hề muốn đứng về phe siêu cường nào trong cuộc đụng đầu toàn cầu: các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam, cũng như cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba cho thấy họ luôn luôn dàn thành một chiến tuyến “tiềm thể”. Giới tuyến thực thụ (ở châu Âu) ngăn cách hai phe càng ổn định thì nếu có chiến tranh, bom đạn có khả năng rót xuống núi rừng châu Á hay thảo nguyên châu Phi, chứ không phải ở châu Mỹ Latin.

Cuộc đối đầu giữa hai siêu cường đã chi phối quan hệ giữa các nhà nước trên thế giới, và trong một chừng mực nhất định, nó đã ổn định các mối quan hệ đó, song nó cũng không hoàn toàn chế ngự được các quan hệ liên quốc gia. Tại một số vùng Thế giới thứ Ba, có những tình thế căng thẳng, không liên quan gì với Chiến tranh Lạnh, tạo ra tình huống xung đột thường xuyên, lâu lâu lại nổ ra giao chiến: Trung Đông và phía bắc khu vực Nam Á. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai trường hợp đều là di sản của cuộc chia chác đế quốc. So với Trung Đông, cuộc xung đột ở Nam Á dễ tách khỏi Chiến tranh Lạnh, mặc dầu Pakistan vẫn tìm cách lôi kéo người Mỹ, cuối cùng đã đưa tới cuộc chiến tranh Afghanistan vào thập niên 1980 (xem ch. 8 và ch. 16). Cho nên phương Tây ít nghe nói tới và càng dễ quên ba cuộc chiến tranh khu vực: chiến tranh Trung-Ấn năm 1962 – thắng lợi về phía Trung Hoa, đối tượng cuộc chiến tranh là đường biên giới không phân định rõ ràng; chiến tranh Ấn Độ - Pakistan năm 1965 – Ấn Độ chiến thắng dễ dàng; và cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan lần thứ hai, năm 1971 – hậu quả việc li khai của miền Đông Pakistan (Bangladesh) do Ấn Độ ủng hộ. Tại khu vực Nam Á, cả Hoa Kỳ lẫn Liên Xô đều cố gắng giữ thái độ trung lập thiện cảm và đóng vai trò trung gian. Ngược lại, tình hình Trung Đông không thể tách bạch với Chiến tranh Lạnh như thế bởi có những đồng minh của Mỹ trực tiếp ở trong cuộc: Israel, Thổ Nhĩ Kì và Iran của vua Shah. Thêm nữa, tình hình ở khu vực này hết sức bất ổn, như ta có thể nhận thấy qua những cuộc cách mạng cục bộ liên tiếp: quân sự và dân sự ở Ai Cập năm 1952, ở Irak và Syria trong những năm 1950 và 1960, cũng như ở Arabia Saudi trong những năm 1960 và 1970, cả ở Iran năm 1979.

Tuy nhiên, các cuộc xung đột nói trên về cơ bản không liên quan gì tới Chiến tranh Lạnh: Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên thừa nhận nước Israel lúc thành lập; sau này Israel trở thành đồng minh chủ yếu của Hoa Kỳ ở vùng này, trong khi các nước Islam (Arab hay không), khuynh tả hay khuynh hữu, cũng đều thẳng tay đàn áp cộng sản ở trong nước. Lực lượng gây rối chủ yếu tại khu vực này là Israel, là nơi những người thực dân Do Thái đã xây dựng một quốc gia rộng lớn hơn là sự phân định của Liên Hợp Quốc (họ đã xua đuổi 700.000 người Palestine, một con số lớn hơn cả dân số Do Thái năm 1948; Calvocoressi, 1989, tr. 215), thế là từ đó, cứ 10 năm lại lao vào một cuộc chiến (1948, 1956, 1967, 1973, 1982). Tiền lệ tương tự nhất là chuỗi dài những cuộc chiến tranh mà vua Friedrich II nước Phổ đã tiến hành để đòi thừa nhận chủ quyền đối với vùng Silesia mà ông chiếm đoạt từ nước Áo láng giềng. Kinh qua các cuộc chiến tranh kể trên, Israel đã trở thành cường quốc quân sự hùng mạnh nhất khu vực, có cả vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn không thể kiến lập được quan hệ với các nước lân bang trên một nền tảng ổn định. Càng không thể có quan hệ bình ổn với người dân Palestine uất hận khôn nguôi, phải sống trong biên giới mở rộng của Israel, hay sống lưu vong ở các nước Trung Đông. Sự sụp đổ của Liên Xô đã đưa Trung Đông ra khỏi tiền tuyến của Chiến tranh Lạnh, nhưng khu vực này vẫn ở trong tình trạng bùng nổ không khác gì trong quá khứ.

Ngoài ra, có ba trung tâm xung đột nhỏ hơn, vẫn âm ỉ trong tình trạng này: miền đông Địa Trung Hải, Vịnh Ba Tư và vùng biên giới giữa Thổ Nhĩ Kì, Iran, Irak và Syria, là nơi mà người Kurd đã ra sức một cách vô vọng giành độc lập dân tộc mà do thiếu thận trọng, tổng thống Wilson đã thúc đẩy họ đưa ra đòi hỏi này từ năm 1918. Người Kurd không tranh thủ được sự ủng hộ nhất quán từ các cường quốc, nhưng đã gây ra rối ren trong quan hệ giữa các nước láng giềng. Trước sự kháng cự của dân tộc sơn cước nổi tiếng là giỏi đánh du kích này, các nước láng giềng đã không ngần ngại dùng mọi phương tiện (kể cả hơi độc trong thập niên 1980) để tàn sát người Kurd. Vùng đông Địa Trung Hải thì tương đối yên ắng hơn, vì cả Hi Lạp lẫn Thổ Nhĩ Kì đều là thành viên của khối NATO, tuy rằng Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm chiếm đảo Chypre khi xảy ra xung đột, và việc này đã dẫn tới sự phân chia hòn đảo này năm 1974. Mặt khác, sự đua tranh giữa hai cường quốc vùng vịnh, Irak và Iran đã dẫn tới 8 năm trời giao tranh khốc liệt (1980-1988) giữa Irak và nước Iran vừa làm cách mạng, rồi tiếp đó, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, năm 1991, là cuộc chiến tranh giữa một bên là Hoa Kỳ và các nước đồng minh, và một bên là Irak.

Cho đến ngày hôm sau của cách mạng Cuba, cả một mảng của Thế giới thứ Ba đã đứng khá xa các cuộc xung đột quốc tế (toàn cầu hay cục bộ): đó là châu Mỹ Latin. Ngoại trừ một vài “túi nhỏ” (Guyana, Belize mà hồi đó gọi là Honduras thuộc Anh, và những đảo nhỏ ở biển Caribe), châu Mỹ Latin đã từ lâu không còn là những thuộc địa. Về mặt văn hóa và ngôn ngữ, dân cư châu lục này thuộc phương Tây, trong chừng mực là đa phần người dân châu Mỹ Latin, ngay cả những người nghèo khó, theo Công giáo và (ngoại trừ một vài vùng dọc theo Andes ở Trung hay Nam Mỹ) đều hiểu hay nói một ngôn ngữ văn hóa châu Âu. Cả khu vực này thừa kế một bậc thang tôn ti chủng tộc chặt chẽ từ những kẻ chinh phục đến từ bán đảo Iberia, nhưng đồng thời cũng thừa kế truyền thống hỗn chủng vì đội quân chiếm đóng nam nhiều hơn nữ. Do đó, có rất ít người “thuần” trắng, ngoại trừ vùng hình chóp ở phía nam mục địa (Argentina, Uruguay và Nam Brasil) là vùng ít dân bản địa, phải đưa người châu Âu di cư sang ồ ạt. Ngay từ năm 1861, Mexico đã có tổng thống Benito Fuárez, một người Zapotec trông mặt thấy ngay là người da đỏ. Khi tôi viết những dòng này, năm 1994, tổng thống Argentina là một người Lebanon Islam nhập cư, tổng thống Peru là một người Nhật Bản nhập cư. Ở Hoa Kỳ, chưa thể có sự lựa chọn như vậy. Cho đến ngày nay, châu Mỹ Latin không bị sa vào cái vòng oan nghiệt của chính trị và chủ nghĩa quốc gia chủng tộc đang hoành hành ở các châu lục khác.

Hơn nữa, trong khi mà một bộ phận lớn của châu lục Nam Mỹ còn sống trong cảnh “thuộc địa kiểu mới” lệ thuộc vào đế chế thống trị, Hoa Kỳ đủ óc thực tiễn để không đưa chiến hạm và thủy quân lục chiến sang những nước lớn – nhưng họ không do dự làm như thế với những nước nhỏ – trong khi các chính phủ Latin, từ Rio Grande đến mũi Horn, đều hiểu rất rõ rằng “khôn hồn” thì họ phải đứng về phía Washington. Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS), thành lập năm 1948, trụ sở đặt tại Washington, là một tổ chức không có xu hướng chống lại Hoa Kỳ. Khi Cuba làm cách mạng, OAS bèn khai trừ ngay.

 

V

 

Tuy nhiên, ngay ở thời điểm Thế giới thứ Ba và những hệ tư tưởng dựa trên Thế giới thứ Ba lên tới tuyệt đỉnh, thì chính khái niệm ấy lại bắt đầu suy sụp. Trong những năm 1970, hiển nhiên là không có một danh từ nào có thể dùng để gọi chung những nước ngày càng phân tán và cách biệt. Để phân biệt các nước nghèo với các nước giàu, và trong chừng mực mà hố sâu chia cách các nước ấy ngày càng mở rộng, người ta dùng từ ngữ “phương Nam” và “phương Bắc” cho thuận tiện, và cũng thích đáng. Tính bằng GDP theo đầu người, khoảng cách giữa các nước “phát triển” và thế giới chậm tiến (tức là, giữa các nước trong OECD[109] và các nước “kinh tế kém hay trung bình”) không những tăng lên: năm 1970 bình quân GDP trên đầu người của nhóm thứ nhất lớn gấp 14,5 lần nhóm thứ hai, năm 1990, con số ấy lên tới 24 (World Tables, 1991, bảng 1). Có điều, hiển nhiên, là Thế giới thứ Ba không còn là một thực thể duy nhất.

Sự chia cách chủ yếu là do sự phát triển kinh tế. Sự toàn thắng của OPEC năm 1973, lần đầu tiên, đã tạo ra một khối mới trong Thế giới thứ Ba, gồm những nước hết sức lạc hậu (căn cứ vào mọi tiêu chuẩn). Cho đến 1973 là những nước nghèo, họ đột nhiên trở thành những “siêu triệu phú” của thế giới, nhất là khi đó là những dải cát hay rừng rập vắng dân, trị vì trên đó là những thủ lĩnh sheik hay quân vương sultan (thường là theo Islam). Không thể nào xếp chung một nước như Vương quốc Arab Thống nhất – dân số 500.000 người (số liệu năm 1975), GDP bình quân mỗi người trên nguyên tắc hơn 13.000 USD, tức là gần gấp đôi Hoa Kỳ cùng năm 1975 (World Tables, 1991, tr. 596, 604) – với Pakistan, với GDP đầu người là 130 USD. Những nước có dầu mà đông dân tất nhiên không rủng rỉnh như Vương quốc ấy, nhưng hiển nhiên là các quốc gia sống nhờ xuất khẩu một nhu yếu phẩm duy nhất, tuy thiệt thòi về nhiều mặt khác, có thể trở thành những nước hết sức giàu có, cho dù nước nào cũng dễ mang tật ném tiền qua cửa sổ[110]. Đầu thập kỉ 1990, ngay một nước như Arabia Saudi cũng đi vay nợ.

Thứ hai, một bộ phận các nước Thế giới thứ Ba đã công nghiệp hóa nhanh lẹ, tới mức ngang tầm Thế giới thứ Nhất về mặt công nghiệp, tuy vẫn nghèo hơn nhiều. Hàn Quốc tiêu biểu cho sự thành công vượt bực và vô song trong lịch sử, nhưng GDP đầu người (năm 1989) cũng chỉ nhỉnh hơn Bồ Đào Nha là nước nghèo nhất và tụt hậu của Cộng đồng châu Âu (World Bank Atlas, 1990, tr. 7). Không kể những khác biệt định tính, một lần nữa, phải nói rằng giữa Hàn Quốc và một nước như Papua New Guinea, không thể nào so sánh được nữa: năm 1969, GDP đầu người của hai nước nay y hệt nhau, đến giữa thập niên 1970, đại để cũng vẫn một cỡ, thế mà ngày nay, lớn gấp năm lần (World Tables, 1991, tr. 352, 456). Một danh từ mới đã xuất hiện trong biệt ngữ quốc tế: NIC, nhóm những nước công nghiệp mới. Tên tắt này không được định nghĩa một cách chính xác, nhưng danh sách các nước này bao giờ cũng có bốn “con hổ Thái Bình Dương” (Hongkong, Singapore, Đài Loan và Hàn Quốc), Ấn Độ, Brasil và Mexico. Tuy nhiên, căn cứ vào quá trình công nghiệp hóa ở Thế giới thứ Ba như nó diễn ra, người ta cũng liệt kê cả Malaysia, Philippines, Columbia, Pakistan, Thái Lan và một vài nước khác. Thực ra, có một loại nước công nghiệp hóa mới, nằm ở vùng biên giữa ba thế giới, trong đó có những nước “kinh tế thị trường đã công nghiệp hóa” (nghĩa là những nước tư bản chủ nghĩa) như Tây Ban Nha, Phần Lan, và những nước XHCN trước đây ở Đông Âu; và không kể Trung Cộng từ cuối thập niên 1970.

Trong những năm 1970, các nhà quan sát lưu tâm tới một “sự phân công quốc tế về lao động” mới, cụ thể là sự di chuyển ồ ạt những công nghiệp sản xuất cho thị trường thế giới, từ những nước công nghiệp thế hệ đầu (trong quá khứ đã chiếm độc quyền công nghiệp) sang các vùng đất khác. Hiện tượng này một phần là kết quả của một sự chọn lựa cố ý: các doanh nghiệp di chuyển toàn bộ hay một phần khâu sản xuất hay cung cấp từ thế giới công nghiệp cổ truyền sang Thế giới thứ Hai hay Thế giới thứ Ba. Tiếp theo đó, là sự chuyển giao cả những phương thức tối tân nhất của những ngành công nghiệp mũi nhọn, như R & D. Nhờ cuộc cách mạng trong vận tải và truyền thông hiện đại, một nền sản xuất thực sự là toàn cầu đã có khả năng thành hình và trở nên kinh tế. Song hiện tượng này cũng do những nỗ lực ý thức của chính quyền những nước Thế giới thứ Ba nhằm công nghiệp hóa đất nước bằng cách chinh phục những thị trường nước ngoài, nếu cần (nhưng nếu không cần thì không) làm thiệt hại hệ thống bảo hộ thị trường quốc nội.

Cuộc toàn cầu hóa kinh tế này – điều mà ai cũng có thể kiểm nghiệm khi tìm xem nước nào sản xuất các sản phẩm bầy bán ở bất cứ trung tâm thương mại nào ở Bắc Mỹ – đã từ từ phát triển trong những năm 1960 trước khi tăng tốc nhãn tiền trong những thập niên rối ren kinh tế xảy ra sau năm 1973. Trường hợp Hàn Quốc một lần nữa minh họa tiến trình nhanh chóng này: cuối thập niên 1950, gần 80% dân số lao động Hàn Quốc sống về nông nghiệp, gần 3/4 thu nhập quốc gia là do nông nghiệp (Rado, 1962, tr. 740, 742-743). Năm 1962, Hàn Quốc bắt đầu kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ nhất. Đến cuối thập niên 1980, phần nông nghiệp trong GDP chỉ còn 10% và Hàn Quốc đứng hàng thứ tám trong các nước công nghiệp thuộc thế giới không cộng sản.

Điểm thứ ba, một số nước đã hiện ra – hay đúng hơn, chen chúc – phía dưới những bảng thống kê quốc tế: dù có muốn dùng những mỹ từ quốc tế, cũng khó có thể nói đó là những “nước đang phát triển”, vì hiển nhiên đó là những nước nghèo và tụt hậu. Cho nên, với tất cả sự tế nhị, người ta đã đặt ra trong khối các nước đang phát triển một nhóm những nước “thu nhập thấp”, bao gồm khoảng 3 tỉ người – mà GDP/đầu người (đó là giả dụ họ có thu nhập) năm 1989 bình quân là 300 USD – phân biệt với 500 triệu người ở những nước may mắn hơn – như Cộng hòa Dominica, Ecuador, Guatemala, mà GDP/đầu người bình quân lớn gấp 3 lần – và với nhóm những nước hồng phúc hơn nữa (như Brasil, Malaysia, Mexico…) có PNB/đầu người lớn gấp 8 lần. Còn 800 triệu người dân ở những nước thịnh vượng nhất, thì GDP/đầu người bình quân của họ là 18.280 USD, nghĩa là gấp 55 lần thu nhập của 3/5 nhân loại ở phía dưới bậc thang (World Bank Atlas, 1990, tr. 10). Sự thật là một khi nền kinh tế thế giới thực sự được toàn cầu hóa và (nhất là sau khi khối Liên Xô sụp đổ) nằm gọn trong vòng kiềm tỏa của tư bản và doanh nghiệp, thì các nhà đầu tư và doanh nhân phát hiện ra rằng đại bộ phận thế giới không phải là những khu vực mang lại lợi nhuận cao – trừ phi là có thể mua chuộc được chính khách và quan chức để họ mang công quỹ bòn rút từ người dân bất hạnh tiêu pha vào việc mua vũ khí hay vào những dự án “hoành tráng”[111].

Một tỉ lệ khá lớn những nước này nằm ở châu Phi hẩm hiu. Chiến tranh Lạnh kết thúc cũng đã làm cạn nguồn viện trợ kinh tế (thực ra chủ yếu là viện trợ quân sự) đã biến một số nước, chẳng hạn như Somalia, thành chiến lũy trước khi trở thành chiến trường.

Thêm vào đó, nạn chia rẽ giữa các nước nghèo ngày càng gay gắt và quá trình toàn cầu hóa tạo ra những luồng di dân vượt qua ranh giới khu vực hay thể loại. Du khách từ các nước giàu đi sang các nước Thế giới thứ Ba ngày càng nhiều. Chỉ kể vài nước Islam làm ví dụ, thì vào giữa thập niên 1980 (cụ thể là năm 1985), 16 triệu người Malaysia phải tiếp đón 3 triệu du khách trong một năm; 3 triệu người Jordan phải tiếp 2 triệu du khách (Din, 1989, tr. 545). Còn từ những nước nghèo, dòng nhân công hướng về các nước giàu đã trở thành những dòng thác chảy xiết nếu không bị ngăn chận bởi những rào cản chính trị. Năm 1968, dân số Bắc Phi (Tunisia, Morocco và nhất là Algeria) tại Pháp đã lên tới 1/4 tổng số người nhập cư (năm 1975, 5,5% dân số nước Algeria đã di cư), còn ở Hoa Kỳ, 1/3 người nhập cư đến từ châu Mỹ Latin – hồi đó chủ yếu là Trung Mỹ (Potts, 1990, tr. 145, 146, 150). Nhưng dòng người di dân này không chỉ hướng về các nước công nghiệp cổ truyền. Trong vòng năm năm, từ 1975 đến 1980, số người ngoại quốc lao động ở các nước sản xuất dầu mỏ Trung Đông và Libya, đã nhảy vọt từ 1,8 triệu lên 2,8 triệu (Population, 1984, tr. 109). Phần lớn những người này là người dân trong vùng, nhưng một số khá đông đến từ Nam Á, thậm chí xa hơn nữa. Khốn nỗi, trong những năm hoạn nạn 1970 và 1980, thật khó phân biệt dòng người lao động này với dòng thác lũ của những nam phụ lão ấu tha phương cầu thực, chạy trốn nạn đói, nạn kì thị chính trị hay sắc tộc, chiến tranh hay nội chiến, đặt ra cho các nước thuộc Thế giới thứ Nhất những vấn đề nan giải về chính trị và pháp lí vì (trên nguyên tắc) họ đã cam kết giúp đỡ người tị nạn và (trên thực tế) ngăn chận làn sóng nhập cư vì lí do kinh tế. Ngoài biệt lệ là Hoa Kỳ, và trong một chừng mực nhất định, Canada và Australia, là những nước khuyến khích hay chấp nhận dòng nhập cư ồ ạt từ Thế giới thứ Ba, các nước công nghiệp phát triển đều chọn lựa chính sách bế quan tỏa cảng, do sức ép ngày càng tăng của não trạng bài ngoại trong dân chúng bản địa.

 

VI

 

“Bước nhảy vọt vĩ đại” ngoạn mục của nền kinh tế thế giới (tư bản chủ nghĩa) và quá trình toàn cầu hóa ngày càng tăng tiến không chỉ phân hóa và đảo lộn khái niệm Thế giới thứ Ba, mà, một cách có ý thức, đã đưa hầu hết dân chúng Thế giới thứ Ba bước vào thế giới hiện đại. Họ không nhất thiết lấy đó làm vui. Sự thật là nhiều phong trào tạm gọi là “truyền thống”, là “toàn thủ” hay đại loại như thế đã phát triển mạnh ở nhiều nước Thế giới thứ Ba – đặc biệt ở khu vực Islam, nhưng không chỉ ở đó – chính là sự nổi dậy chống lại tính hiện đại, mặc dầu điều này không đúng với tất cả những phong trào được gọi chung như vậy[112]. Trái lại, họ biết rõ họ đang sống trong một thế giới không phải là thế giới của cha ông. Thế giới mới hiện ra với họ dưới dạng những chiếc xe ca hay xe cam nhông lăn bánh trên những con đường bụi mù, những cây xăng hay những radio chạy pin, đưa thế giới vào trong tầm tay của họ – thậm chí của cả những người mù chữ, không biết đọc biết viết quốc ngữ hay phương ngữ của mình, tuy rằng máy thu thanh chủ yếu là dành cho những người đã rời nông thôn ra ở thành thị. Nhưng trong một thế giới mà hàng triệu người nông thôn đổ dồn về thành thị, và ngay ở châu Phi nông nghiệp thì những nước mà dân số đô thị đã vượt quá tỉ số 1/3 cũng đã trở thành phổ biến – Nigeria, Zaïre, Tanzania, Senegal, Ghana, Bờ Biển Ngà, Tchad, Cộng hòa Trung Phi, Gabon, Benin, Zambia, Congo, Somalia, Liberia –, người nào chưa làm việc ở thành thị thì cũng có bà con họ hàng sống ở thành thị. Làng mạc và thành thị từ nay xen kẽ với nhau. Ngay những người ở những nơi hẻo lánh nhất từ nay cũng quen sống với mái tôn, chất nhựa, chai coca, đồng hồ số rẻ tiền và vải sợi nhân tạo. Lịch sử còn chứng kiến những sự đảo nghịch bất ngờ: những vùng sâu vùng xa của Thế giới thứ Ba cũng giao lưu nhân tài với Thế giới thứ Nhất. Tại những thành phố châu Âu, ở đầu đường góc phố người ta có thể gặp những nhóm du ca người Indian Andes thổi điệu sáo buồn; trên vỉa hè New York, Paris hay Roma, những người bán rong nguyên quán Tây Phi bán những món hàng thủ công của họ cho dân bản địa, như là xưa kia, tổ tiên những người nay đã sang châu Phi Đen bán hàng.

Thành phố lớn chính là cái lò hun đúc của sự thay đổi, đơn giản vì nói thành thị là nói hiện đại. Đúng như lời một người gốc Andes hiện sống và thành đạt ở thủ đô Lima nói với con cháu: “ở Lima, có nhiều tiến bộ và rất nhiều kích thích tố (mas roce)” (Julca, 1992). Tuy nhiên, khá nhiều người di cư lại sử dụng “khuôn mẫu” xã hội cổ truyền để kiến tạo cuộc sống của họ ở đô thị, xây dựng và tổ chức những “khu nhà ổ chuột” như là những cộng đồng nông thôn cổ truyền: ở thành phố, có quá nhiều thứ nhiều chuyện mới lạ, chưa từng có đối với họ, phong tục nhiều khi trái ngược với tập tục cũ. Chưa ở đâu cung cách của phụ nữ trẻ lại trở thành một hiện tượng gây chú mục như đây, từ châu Phi cho đến Peru, đâu đâu người ta cũng than là các bà các cô này đoạn tuyệt với truyền thống. Trong một bài dân ca huayno cổ truyền ở Lima (“La gringa”/Ả Mỹ con), một thanh niên từ quê ra tỉnh than vãn:

“Khi em mới ở quê ra

Còn nguyên dáng vẻ con nhà nông gia 

Bây giờ em ở Lima

Em chải tóc ngược như là cái mốt thủ đô

Mở miệng nói “please”, em đòi vô lắc twist…

 

Thôi em ơi, đừng kiêu đừng chảnh…

 

Tóc em và tóc anh, có khác gì nhau”.

MANGIN, 1970, tr. 31-32[103]

Cho dù cuộc sống thôn dã chưa thay đổi gì về mặt văn hóa, song kĩ thuật mới, các hình thái tổ chức và thương mại mới, cũng như ý thức về tính hiện đại cũng đã lan truyền từ thành thị về tới nông thôn. Hiện tượng này biểu lộ rõ rệt trong cuộc “cách mạng xanh” với những loại ngũ cốc mới do khoa học kĩ thuật tạo ra, đã xuất hiện ở một số vùng châu Á từ thập niên 1960 trở đi, và sau đó ít lâu, nhờ sự phát triển những cây trồng phục vụ xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Việc này trở thành phổ biến nhờ hai nhân tố: khả năng chuyên chở bằng đường hàng không những thực phẩm không giữ lâu được (hoa quả và rau cỏ nhiệt đới), sự thay đổi khẩu vị của người tiêu thụ ở thế giới “phát triển” (bạch phiến). Không thể xem nhẹ tác động của những biến đổi này của nông thôn. Sự đối chọi giữa cái cũ và cái mới lên tới đỉnh điểm ở vùng ven rừng Amazon của Columbia: trong những năm 1970, nước này đã trở thành trạm trung chuyển trên tuyến đường bạch phiến Bolivia và Peru, các xưởng bào chế cocain mọc lên khắp nơi. Điều này diễn ra chỉ vài năm sau khi những người nông dân trốn tránh nhà nước và địa chủ phải phiêu dạt đến vùng biên giới để khẩn hoang và được sự bảo trợ của những người du kích cộng sản FARC. Và ở đây, cái logic bạo liệt nhất của thị trường đã xung đột với những con người sống vừa đủ bằng nông nghiệp, đã đụng độ với cái mà con người có thể giành được bằng khẩu súng, con chó và cái lưới đánh cá. Làm sao mà một mảnh đất trồng vài cây Ngọc giá (yucca) và mấy cây chuối có thể đứng vững trước sự quyến rũ trồng coca, cả một mỏ vàng tuy thời giá lên xuống thất thường? Làm sao lối sống cổ truyền có thể cưỡng lại một thế giới làm bằng những phi đạo, những thành phố mọc ra như nấm ở những vùng khẩn hoang của các băng trồng và buôn ma túy, với cơ man là dân vệ, quán ba và nhà chứa? (Molano, 1988).

Thế là nông thôn đã thay đổi hẳn, nhưng sự hóa thân ấy lệ thuộc vào nền văn minh đô thị, vào các ngành công nghiệp, trong chừng mực mà kinh tế nông thôn dựa vào thu nhập của những người ra thành thị kiếm sống: trường hợp điển hình là các black homelands (vùng quê người da đen) ở Nam Phi, thu nhập tại chỗ chỉ ở mức 10 đến 15%, còn lại là do người lao động ở các thành phố da trắng gửi về (Ripken và Wellmer, 1978, tr. 196). Điều nghịch lí là ở Thế giới thứ Ba cũng như ở một số khu vực thuộc Thế giới thứ Nhất, thành thị đã cứu vãn được nền kinh tế nông thôn, bởi vì nếu không có tác động của thành phố, thì người dân nông thôn chắc đã bỏ đi hết khi họ rút ra được bài học từ cuộc di cư ra thành thị (qua kinh nghiệm của bản thân hay của hàng xóm) là người ta, đàn ông cũng như đàn bà, có những giải pháp khác. Họ phát hiện ra rằng họ có thể không phải gắn chặt trọn đời với mảnh đất sỏi đá, nghèo nàn, không mang lại được một nguồn sống tối thiểu. Thế là, bắt đầu từ thập niên 1960 trở đi, bao nhiêu khu cư dân nông thôn trên thế giới – sống trong một cảnh quan lãng mạn, chẳng mấy lợi ích nông nghiệp – bỗng trở nên vắng tanh, còn lại trơ trọi những người già. Tuy nhiên, trên vùng cao nguyên, có một cộng đồng đã giữ được hay phục hồi được cuộc sống thôn dã bằng cách chuyển dần nguồn thu nhập từ nông sản sang một hình thái kết hợp khá phức tạp giữa các hộ di cư và hộ bám trụ: những người di cư ra đô thị đã tìm ra một nguồn sinh kế mới, là bán hoa quả, cụ thể là quả dâu ở thủ đô Lima (Smith, 1989, ch. 4). Một điều khá có ý nghĩa trong trường hợp cụ thể này (đã được nghiên cứu hết sức cặn kẽ) là rất ít người di dân trở thành công nhân. Họ đã chọn “bám trụ” vào mạng lưới rộng lớn của “nền kinh tế bán chính thức” của Thế giới thứ Ba và trở thành tiểu thương. Có lẽ sự biến đổi xã hội lớn ở Thế giới thứ Ba chính là sự phát triển những giai cấp mới, gồm những di dân tư sản nhỏ và trung, sử dụng một hay nhiều phương thức kiếm tiền. Và đặc biệt trong những nước nghèo nhất, thì phương thức hội nhập của các thành phần này là nền kinh tế bán chính thức, ở ngoài tầm đo đếm của các bảng thống kê chính thức.

Thành thử, từ một thời điểm nhất định nào đó, vào phần ba cuối cùng của thế kỉ XX, sự biến đổi toàn cục của xã hội Thế giới thứ Ba đã bắt đầu lấp dần cái hố sâu chia cách thiểu số những thành phần lãnh đạo, Tây phương hóa hay chủ trương duy tân, với đại đa số dân chúng. Chúng ta vẫn chưa biết quá trình này đã bắt đầu vào lúc nào, và bắt đầu ra sao, cũng chưa biết sự nhận thức về sự biến đổi mới này diễn ra dưới những hình thái nào, bởi vì thời đó, phần đông các nước này chưa có số liệu thống kê chính thức cũng không có những công cụ cho phép khảo sát thị trường hay điều tra dư luận, lại càng không có những bộ môn khoa học xã hội với đội ngũ nghiên cứu. Dù sao đi nữa, ngay ở những nước có điều kiện, cũng khó phát hiện ra những gì xảy ra ở nền tảng xã hội trước khi nó xảy ra rồi: chính vì vậy mà những bước đầu của các mốt xã hội và văn hóa của tuổi trẻ không thể nào tiên đoán, và sự thật là không ai, kể cả những người sống về những thứ đó (các ngành công nghệ văn hóa đại chúng), tiên đoán được, nói chi đến thế hệ cha mẹ. Tuy nhiên, ở ngay ngưỡng cửa ý thức của giới tinh hoa, rõ ràng có cái gì đang âm ỉ ở các thành phố Thế giới thứ Ba, kể cả tại các nước thoạt trông vẫn trì trệ như Congo thuộc Bỉ (Zaïre). Nếu không thì làm sao lí giải được hiện tượng âm nhạc bình dân phát triển tại nước này trong những năm 1950 ì ạch đã ảnh hưởng khắp châu Phi trong những năm 1960 và 1970 (Manuel, 1988, tr.86, 97-101)? Và làm sao giải thích được sự phát triển của ý thức chính trị, khiến cho người Bỉ năm 1960, gần như hôm trước hôm sau, đã phải chấp nhận cho Congo trở thành độc lập, trong khi mà thuộc địa này – nơi mà chính quyền dị ứng với công cuộc giáo dục cũng như với sinh hoạt chính trị bản địa – cho đến lúc đó, theo giới quan sát, “chắc sẽ biệt lập đối với thế giới, khác nào nước Nhật trước thời Minh trị” (Calvocoressi, 1989, tr. 377)?

Những năm 1950 đã lên men ra sao không biết, nhưng sang đến thập niên 1960 và 1970 đã hiện rõ những dấu hiệu của một biến đổi xã hội lớn lao ở Tây bán cầu, càng rõ hơn nữa trong thế giới Islam và tại các nước lớn ở Đông Nam Á và Nam Á. Điều nghịch lí, là khó thấy những chỉ dấu ấy ở khu vực tương ứng với Thế giới thứ Ba của Thế giới XHCN – ví dụ như vùng Trung Á thuộc Liên Xô và vùng Kapkaz. Bởi vì người ta thường quên rằng cuộc cách mạng cộng sản đã đóng vai trò bảo tồn. Một mặt nó tiến hành cuộc thay đổi nhiều mặt cụ thể của đời sống – quyền lực của nhà nước, quan hệ sở hữu, cấu trúc kinh tế, v.v… – mặt khác, cuộc cách mạng cộng sản đã đóng băng nhiều khía cạnh khác ở hình thái tiền cách mạng, hay ít nhất nó ngăn ngừa tác động thường trực và phổ biến của sự đổi thay đang làm rúng động các xã hội tư bản. Bất luận thế nào, quyền lực của nhà nước – thứ vũ khí mạnh mẽ nhất – khi nó muốn thay đổi hành xử của con người, đã tỏ ra không hiệu quả như trong ngôn từ tuyên truyền cổ vũ cho “con người mới XHCN”, hay trong ngôn từ phê phán “chủ nghĩa toàn trị”. Người Uzbek và người Tadjik sống ở phía bắc biên giới Liên Xô – Afghanistan có nhiều người biết đọc biết viết, được định cư và sống khá hơn những người đồng tộc ở phía nam biên giới; nhưng phong tục tập quán của họ sau 70 năm sống dưới chủ nghĩa xã hội cũng chắng khác gì cho lắm. Những cuộc chém giết trả thù nhau không còn là mối quan tâm lớn đối với nhà cầm quyền Kapkaz từ sau những năm 1930 (dù rằng, trong cuộc tập thể hóa nông nghiệp, cái chết của một người đàn ông ở một nông trại, trong một tai nạn máy đập lúa, đã gây ra một cuộc trả thù đẫm máu được ghi vào biên niên sử của ngành tư pháp Liên Xô); tuy nhiên, sang đầu thập niên 1990, các nhà quan sát vẫn còn phải lưu ý về “nguy cơ tự - tiêu diệt dân tộc (ở Tchechenia), vì đa số các dòng họ Tchechenia vẫn còn dính líu vào những mối quan hệ có tính chất cừu thù” (Trofimov/Djangava, 1993).

Hậu quả văn hóa của sự biến đổi xã hội còn là đối tượng nghiên cứu của các nhà sử học. Ở đây, chúng ta không thể sa đà vào vấn đề này, nhưng mọi người đều biết rằng, ngay trong các xã hội mang nặng tính truyền thống, mạng lưới quan hệ ân nghĩa và tập tục cũng đã bị giằng xé ngày càng mạnh mẽ. “Ở Ghana cũng như trên toàn châu Phi, người ta nhận thấy (Harden, 1990, tr. 67), cấu trúc gia đình mở rộng đã chịu những sức ép lớn. Như một chiếc cầu chịu sức nặng của quá nhiều xe cộ trong một thời gian dài, móng cầu bị rạn nứt (…). Giữa những cụ già sống ở nông thôn và lứa thanh niên sống ở thành thị, khoảng cách không gian là hàng trăm km đường sá gập ghềnh, khoảng cách thời gian tính bằng mấy thế kỉ phát triển”.

Về mặt chính trị, lại dễ đo lường những hậu quả nghịch lí. Thật vậy, với sự hội nhập của quần chúng, ít nhất của giới trẻ và người dân đô thị, vào cuộc sống hiện đại, vị thế độc quyền của những nhóm thượng lưu Tây hóa gặp sự phản đối – cùng với những nhóm thiểu số này là các thứ cương lĩnh, hệ tư tưởng, từ vựng và cả cú pháp của diễn ngôn công cộng, nền móng của những nhà nước mới ra đời. Bởi vì những khối quần chúng mới ở đô thị, hoặc vừa được đô thị hóa, và cả những thành phần trung lưu đông đảo, dù có được ăn học, cũng không thể, nhờ số lượng đông đảo, hành xử như những tầng lớp thượng lưu trước đó, trong đó các thành viên có đủ khả năng để đối phó với thực dân và với những bạn học cùng tốt nghiệp ở nhà trường Mỹ hay nhà trường châu Âu. Khối quần chúng đông đảo thường không chịu được giới thượng lưu này – điều này rất rõ ở Nam Á. Dù sao chăng nữa, quần chúng nghèo khó không chia sẽ niềm tin hay ước vọng về tiến bộ của châu Âu thế kỉ XIX. Tại các nước Islam phía tây, giữa giới lãnh đạo cũ ở “ngoài đời” và lực lượng dân chủ Islam mới, rõ ràng đã nẩy ra xung đột có tính chất bùng nổ. Từ Algeria đến Thổ Nhĩ Kì, những giá trị như quyền phụ nữ (nếu có) – tại các nước thuộc khuynh hướng tự do ở phương Tây, đó là những giá trị gắn liền với chính quyền hợp hiến và Nhà nước pháp quyền – lại được sự bảo vệ của quân đội dưới sự lãnh đạo của những nhà lập quốc hay hậu duệ của họ, chống lại đa số dân chủ.

Sự xung đột này không chỉ xảy ra ở các nước Islam, và phản ứng chống lại các giá trị về tiến bộ không chỉ thu hẹp trong phạm vi quần chúng nghèo khó. Tại Ấn Độ, chủ trương “Hindu chuyên nhất” của đảng BJP được sự hưởng ứng rộng rãi trong các thành phần trung lưu mới cũng như trong giới kinh doanh mới. Chủ nghĩa quốc gia mang chiều kích sắc tộc – tôn giáo nồng nhiệt và cuồng say, biến đất nước Sri Lanka bình an của thập niên 1980 thành chiến trường tử địa, chẳng khác gì Salvador. Đó là điều không ai ngờ lại xảy ra ở một nước Phật giáo hưng thịnh. Chủ nghĩa quốc gia ấy bắt rễ từ hai biến chuyển xã hội: một là cuộc khủng hoảng sâu xa về bản sắc của thôn quê, nơi trật tự xã hội đã sụp đổ, hai là sự phát triển của cả một tầng lớp đông đảo thanh niên có học (Spencer, 1990). Các thôn làng đã thay hình đổi dạng trong cuộc nhập cư và di cư, phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc khi chuyển sang nền kinh tế tiền tệ. Tình hình bất ổn nảy sinh từ nhiều nhân tố: bất bình đẳng trong bậc thang xã hội dựa trên học vấn, xóa bỏ những dấu hiệu (vật thể, ngôn ngữ) phân biệt đẳng cấp và tiêu chuẩn – những dấu hiệu truyền thống ấy ngăn cách người này với người kia, nhưng đồng thời cũng xác định vị trí của từng người. Trong sự đổi thay bất ổn ấy, mọi người đều lo lắng cho tương lai của cộng đồng. Điều này khiến cho người ta lí giải những hiện tượng mới, chẳng hạn như sự xuất hiện những biểu tượng và lễ nghi trước đây không có. Điển hình là sự xuất hiện khá đột ngột vào những năm 1970 của những hình thức thờ Phật tập thể, thay thế hình thức thờ phụng trước đây có tính cách cá nhân, gia đình. Một thí dụ khác là tập quán mới, tổ chức những lễ hội thể thao học đường, bao giờ cũng mở đầu bằng bản quốc thiều ghi âm sẵn hay do ban nhạc cử hành.

Gabriel G. Márquez (1927-2014)
Subhas C. Bose (1897-1945)

Đó là những hiện thực chính trị của một thế giới đang biến thiên và “dễ bắt lửa”. Không dễ tiên liệu những hiện thực đó vì ở Thế giới thứ Ba, nhiều nước không có những hệ thống chính trị, hoặc có mà không chạy, theo nghĩa những thể chế mà phương Tây đã đặt ra và thừa nhận từ sau Cách mạng Pháp. Quá trình biến đổi ở mỗi nước giữ được một mức độ liên tục khi nước ấy có một truyền thống chính trị lâu dài, bắt rễ trong quần chúng, hay khi nào số đông những công dân thụ động chấp nhận tính “chính đáng” của những “tầng lớp chính trị” điều hành công việc của họ. Những ai đọc Gabriel García Márquez đều biết rằng từ hơn một thế kỉ nay, người dân Columbia là “tự do” hay “bảo thủ” một cách cha truyền con nối, mặc dầu dưới nhãn hiệu “bảo thủ” hay “tự do”, vẫn có sự “bình cũ rượu mới”. Ở Ấn Độ, đảng Quốc đại cũng đã biến đổi, phân hóa và cải tổ trong thời gian 50 năm sau ngày độc lập; tuy nhiên, trong các cuộc tổng tuyển cử cho đến những năm 1990 (trừ một vài biệt lệ hiếm hoi và ngắn ngủi), thắng lợi vẫn về tay những người mệnh danh truyền thống lịch sử. Trên toàn lãnh thổ Ấn Độ, đảng Cộng sản đều lụn bại, nhưng riêng ở Tây Bengal (người Hindu), đảng Cộng sản (mác-xít) vẫn nắm chính quyền hầu như liên tục, một phần vì bang này có truyền thống khuynh tả vững mạnh, phần khác là nhờ khả năng của bộ máy hành chính – phải nói là tại đây, cuộc đấu tranh chống Anh giành độc lập không do Gandhi hay Nehru lãnh đạo, mà do Subhas Bose và các phần tử khủng bố.

Hơn nữa, chính sự thay đổi về cơ cấu đã đưa sinh hoạt chính trị vào những đường hướng quen thuộc của lịch sử Thế giới thứ Nhất. Bằng chứng là lịch sử Brasil, Hàn Quốc và của cả các nước Đông Âu: tại các nước “công nghiệp hóa mới” này, hầu như chắc chắn sẽ hình thành những giai cấp công nhân công nghiệp đòi hỏi tôn trọng quyền lợi và công nhận các công đoàn của họ. Không nhất thiết là việc này sẽ dẫn tới thành lập những chính đảng thợ thuyền và nhân dân giống như các phong trào Xã hội – Dân chủ đại chúng như ở châu Âu trước năm 1914, song vai trò được khẳng định của Đảng Lao Động (PT) ở Brasil vào những năm 1980 là một điều không phải không có ý nghĩa. (Song cũng phải nói là truyền thống của phong trào công nhân Brasil ở thành trì truyền thống của nó là công nghiệp chế tạo ô tô ở São Paulo đã kết hợp nhiều nhân tố: quyền lao động mà chính quyền dân túy trước đây đã thiết lập, lực lượng cộng sản trong giới công nhân tích cực, truyền thống khuynh tả của đông đảo trí thức ủng hộ PT, thêm đó là khuynh hướng thiên tả của giới tu sĩ Công giáo – sự tổ chức của PT đã dựa rất nhiều vào sự ủng hộ của giới linh mục[114]). Một lần nữa, sự tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng có xu hướng tạo ra những tầng lớp công nhân và nhân viên chuyên nghiệp có học; họ không nhất thiết muốn lật đổ chính quyền, nhưng họ muốn có sự tự do hóa những chế độ cực quyền đã chủ xướng công cuộc công nghiệp hóa. Vào thập niên 1980, trong những bối cảnh khác nhau và với những kết quả khác nhau, những khát vọng về tự do hóa đã xuất hiện ở châu Mỹ Latin cũng như tại các nước công nghiệp mới ở Viễn Đông (Hàn Quốc, Đài Loan) và trong khối Soviet.

Trong những khu vực rộng lớn của Thế giới thứ Ba, không tài nào tiên liệu được hậu quả chính trị của những biến đổi về xã hội. Điều chắc chắn là tình hình ở đây không ổn định, thậm chí “dễ bắt lửa”, như đã thấy trong suốt nửa thế kỉ sau Thế chiến thứ Hai.

Tới đây, chúng ta phải nhìn về bộ phận của thế giới mà, sau khi chế độ thực dân kết thúc, phần lớn Thế giới thứ Ba tưởng có thể tìm ra ở đó một mô hình tiến bộ thích hợp và khả quan hơn là phương Tây: Thế giới thứ Hai, tức là các nước XHCN theo y nguyên mô hình Liên Xô.

Nguyễn Ngọc Giao dịch

Maisons-Alfort, Val-de-Marne, Pháp

Nguồn: Dịch giả gởi trực tiếp cho PTKT, 07.2021.




Chú thích:

[104] Nếu dân số toàn cầu cứ tiếp tục tăng tốc như trong thế kỉ XX, thì có lẽ không tránh khỏi đại họa. Nhân loại đạt con số 1 tỉ người cách đây 200 năm. Chỉ cần 120 năm, là tăng thêm 1 tỉ người nữa, rồi 35 năm sau, đạt 3 tỉ, 15 năm sau, 4 tỉ. Cuối thập niên 1980, dân số toàn cầu là 5,2 tỉ, đến năm 1999 lên tới 6 tỉ.

[105] Trước khi khối cộng sản sụp đổ, các nước sau đây trong tên gọi chính thức có từ “nhân dân”, “dân chủ” hay “XHCN”: Anbania, Angola, Algeria, Ba Lan, Bangladesh, Benin, Bulgari, Campuchia, Congo, CHDC Đức, Cộng hòa Nhân dân Yemen, Ethiopia, Hungaria, Lào, Libya, Liên Xô, Madagascar, Miến Điện, Mozambic, Mông Cổ, Nam Tư, Romania, Somalia, Sri Lanca, Tiệp Khắc, (Bắc) Triều Tiên, Trung Quốc và Việt Nam. Còn Guyana thì tự xưng là “Cộng hòa hợp tác”.

[106] Sự chia cắt này cũng diễn ra tương tợ như thế tại một số vùng lạc hậu thuộc các nước XHCN, chẳng hạn như Kazakhstan (Liên Xô): người dân bản địa không hiểu tại sao lại phải từ bỏ trang trại và đàn gia súc, và họ để mặc các thành phố và công cuộc công nghiệp hóa cho bộ phân dân cư trong đó tỉ lệ di cư rất cao (người Nga).

[107] Cho đến giữa thập niên, đó là tình hình ở các nước như Benin, Congo, Guinea, Somalia, Sudan, Mali, Rwanda và Cộng hòa Trung Phi (World Labour, 1989, tr. 49)

[108] Chỉ có vài ba biệt lệ, thí dụ như Argentina. Tuy còn giàu, nhưng Argentina hầu như chưa vực lại nổi sau ngày suy tàn và tiêu tan của Đế quốc Anh: cho đến năm 1929, chính đế chế Anh đã mang lại sự phồn vinh của Argentina trong vai trò xuất khẩu thực phẩm.

[109] OECD tập hợp phần lớn các nước tư bản “phát triển”: CHLB Đức, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Vương quốc Anh, Ireland, Iceland, Italia, Luxembourg, Na Uy, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Canada, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Áo (tính đến đầu những năm 1990). Vì lí do chính trị, OECD (thành lập trong thời kì chiến tranh lạnh) lại có cả những nước như Hi Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kì.

[110] Hiện tượng này không chỉ xảy ra với thế giới thứ ba. Nghe tin nước Anh có những mỏ dầu lớn ở Bắc Hải, một nhà chính trị yếm thế Pháp đã tiên tri: “Rồi họ sẽ hoang phí và nợ như chúa Chổm”.

[111] “Theo kinh nghiệm, có thể nói rằng với 5% số tiền 200.000 USD, có thể tranh thủ được một công chức cao cấp, kế cận cấp chính quyền cao nhất. Cũng tỉ lệ 5%, nhưng của 2 triệu Đô la, ta có thể ăn ý với cỡ tổng thư kí thường trực. 5% của 20 triệu Đô la, văn phòng bộ trưởng; 5% của 200 triệu Đô la là có được sự “quan tâm sâu sắc của quốc trưởng”” (Holman, 1993).

[112] Chẳng hạn như phong trào theo các tông phái “toàn thủ” Tin lành – khá phổ biến ở châu Mỹ Latin. Phong trào này không phải là chống hiện đại, mà ngược lại, chính là một xu hướng “hiện đại chủ nghĩa” chống lại Công giáo bản địa muốn duy trì nguyên trạng. Còn ở Ấn Độ, có những phong trào “toàn thủ” cơ bản là những hình thái chủ nghĩa quốc gia nhuốm màu sắc tộc.

[113] Tương tự ở Nigeria, đây là một hình tượng mới của thiếu nữ châu Phi trong văn chương thị trường của Onitsha: “Con gái không còn là thứ đồ chơi cổ truyền, dịu dàng và khiêm tốn trong tay cha mẹ. Các cô viết thư tình. Tính tình dữ dằn, các cô đòi người tình và những người mê các cô phải tặng quà. Thậm chí họ còn lừa dối đàn ông nữa. Họ không còn là những cô gái thầm lặng mà người ra có thể tranh thủ thông qua cha mẹ nữa” (Nwoga, 1965, tr 178-179).

[114] Giữa Đảng Lao Động Brasil và Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan có những nét tương đồng rất lớn, mặc dầu đảng PT có khuynh hướng XHCN, còn hệ tư tưởng của công đoàn Ba Lan là chống Cộng: lãnh tụ thực sự là người vô sản – một người là công nhân lành nghề trong công nghiệp xe hơi, một người là thợ điện ở xưởng đóng tàu – một bộ tham mưu bao gồm những trí thức, và sự ủng hộ mạnh mẽ của Giáo hội Công giao. Một tương đồng lớn hơn nữa là PT có tham vọng thay thế đảng Cộng sản (và ĐCS Brasil rất chống PT).

Print Friendly and PDF