31.8.21

Đọc lại Tư bản (II)

Trần Hải Hạc

Đọc lại Tư bản (II)

LƯU Ý CỦA TÁC GIẢ - DỊCH GIẢ.

Trần Hải Hạc (1945-)

Năm 2003, công trình nghiên cứu Pháp ngữ Relire Le Capital. Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique của Trần Hải Hạc ra mắt ở nhà xuất bản Page Deux (Lausanne, Thụy Sĩ) và gồm hai tập sách (t.1, 397 trang; t.2, 366 tr.). Từ đầu năm 2021, với nhan đề Đọc lại Tư bản. Marx, phê phán chính trị kinh tế học và đối tượng của phê phán chính trị kinh tế học, bản dịch tiếng Việt do tác giả tự thực hiện sẽ được công bố từng phần trên trang Phân tích kinh tế.

Phần thứ hai (II) bao gồm các nội dung như sau:

- Tiêu đề 1: Vấn đề tồn tại của giá trị và khái niệm về lao động trừu tượng.

- Chương 1: Lao động trừu tượng – cụ thể.

- Thư mục

- Mục lục

[Xem lại Lời nói đầu và Lời dẫn nhập]

Do không có đầy đủ bản Việt ngữ các trước tác của Marx, dịch giả chọn sử dụng bản Pháp ngữ của các tác phẩm và tự chuyển ngữ. Trong thư mục, các văn bản của Marx được xếp theo thứ tự năm xuất bản tác phẩm gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp theo là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp. Đặt ở phía sau mỗi chương, các chú thích trích dẫn tác phẩm của Marx gồm có tên của văn bản Việt ngữ và quy chiếu đến văn bản Pháp ngữ.

Khi chuyển ngữ một số thuật ngữ của Marx chưa được thông dụng, lần đầu chúng tôi kèm theo từ Pháp ngữ trong dấu ngoặc đơn, đồng thời phía sau đây chúng tôi gom các thuật ngữ đó trong một bảng đối chiếu Việt - Pháp. Khi cần thiết, chúng tôi bổ sung bảng thuật ngữ với những chú giải về chọn lựa cách chuyển ngữ.

THUẬT NGỮ VIỆT - PHÁP

Hình thái giá trị/Hình thái của giá trị (Forme valeur/Forme de la valeur). Trong lý luận về giá trị, Marx phân biệt “hình thái giá trị” (forme valeur) và “hình thái của giá trị” (forme de la valeur). Phạm trù hình thái giá trị chỉ giá trị với tính cách là hình thái xã hội, giá trị như là quan hệ xã hội lịch sử đặc thù. Phạm trù hình thái của giá trị (forme de la valeur) chỉ hình thái biểu hiện của giá trị hay hình thái hiện tượng của nó, tức hình thái tiền tệ của giá trị giá mà Marx còn gọi là “giá trị trao đổi” để phân biệt với “giá trị”. Sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rõ ràng trong các văn bản của Tư bản, như trong ấn bản đầu tiên của Quyển I năm 1867, cho nên trong ấn bản 1875, tức phiên bản tiếng Pháp, Marx đã phải đính chính khi trình bày hình thái của giá trị hay giá trị trao đổi: “Nếu ở đoạn đầu chương này, theo cách nói thông thường, chúng tôi có nói: hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, thì xét theo nghĩa đen từng chữ, nói như vậy là sai. Hàng hóa là giá trị sử dụng hay đối tượng sử dụng, và là giá trị. Hàng hóa chỉ biểu hiện thành một vật hai mặt khi giá trị của nó có một hình thái hình tượng riêng, khác với hình thái tự nhiên của nó, tức hình thái giá trị trao đổi”[i]. Còn trong Bản thảo 1861-1863, để tránh hiểu sai, Marx phải cảnh báo người đọc: “Khi chúng tôi sử dụng từ giá trị mà không có chi tiết gì khác thì bao giờ cũng nên hiểu là giá trị trao đổi”[ii].

Ngoài ra, thuật ngữ Đức ngữ “Werthform” mà Marx dùng để trình bày hình thái của giá trị ở Quyển I không được chuyển ngữ một cách thống nhất trong các ấn bản tiếng Pháp của bộ Tư bản. Trong ấn bản tiếng Pháp 1875 do chính tay Marx chỉnh sửa, thuật ngữ được dịch là “forme de la valeur”; còn trong ấn bản sau cùng của nhà xuất bản Editions Sociales năm 1983, nó được được dịch là “forme-valeur” làm cho khó phân biệt phạm trù hình thái giá trị với phạm trù hình thái của giá trị[iii].

Thâu gồm (Subsomption)Trong triết học Kant, “thâu gồm” (subsomption) là đưa một đối tượng vào khái niệm của nó, đưa cái cá biệt vào cái phổ quát, theo nghĩa đặt nó vào quy luật của cái phổ quát. Marx vay mượn khái niệm này để phân tích các quan hệ về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông phân tích “sự thâu gồm của những cá nhân vào những giai cấp nhất định”[iv]. Bộ Tư bản triển khai lý luận về “sự thâu gồm lao động vào tư bản” theo đó, trong mối quan hệ với tư bản, lao động chỉ tồn tại như là hình thái của tư bản; lao động không tồn tại như là hoạt động thể lực và trí lực mà người lao động tiến hành trong mọi phương thức sản xuất, nó trỏ hoạt động đặc thù của người làm công trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo nên giá trị thặng dư cho chủ tư bản. Theo nghĩa đó tư bản thâu gồm lao động như là hình thái của nó[v].

Trong các bản dịch tiếng Việt của nhà xuất bản Sự Thật, thuật ngữ Đức ngữ “Subsumtion” được chuyển ngữ là: “sự phụ thuộc” của những cá nhân vào những giai cấp nhất định (Hệ tư tưởng Đức), “sự lệ thuộc” của lao động vào tư bản (Tư bản, Quyển I) hay “sự phục tùng” của lao động đối với tư bản (Bản thảo kinh tế những năm 1861-1863) - tức chỉ nói lên một khía cạnh của nội dung khái niệm của Marx. Theo Trần Hữu Quang mà chúng tôi có tham khảo ý kiến, muốn diễn tả hết nội dung đó có lẽ cần tạo ra một từ mới như là “sự hàm nhiếp” (hàm: bao hàm; nhiếp: thu lấy) đã xuất hiện trong từ điển Trung Quốc. Tạm thời, chúng tôi sử dụng cách chuyển ngữ đơn giản của Bùi Văn Nam Sơn là “sự thâu gồm” trong bản dịch Phê phán lý tính thuần túy của Kant (nxb Văn học, 2004, tr. 1231).

Cái cụ thể hiện thực: Concret réel

Cái cụ thể trong tư duy: Concret de pensée

Cái phổ quát: Universel, généralité

Cái phổ quát cụ thể: Universel concret

Cương vị lý luận: Statut théorique

Giống / loài: Genre, espèce

Tính loài: Générique 

Lãnh trường lý luận: Champ théorique

Lao động ngang bằng: Travail égal

Phép làm cho lao động ngang bằng: Égalisation des travaux

Người mang quan hệ xã hội: Porteur du rapport social

Nhân loại luận: Anthropologisme

Phái sinh: Dérivation

Quan hệ bó buộc giá trị thặng dư: Contrainte à la survaleur, à la plus-value

Siêu cấu trúc: Métastructure

Sự bao phủ: Recouvrement

Thiết định: Poser; position

Tiền giả định: Présupposer; présupposition

Tính đồng nhất: Unité, homogénéité

Tính hai chiều: Ambivalence

Tính nhập nhằng: Ambiguité

Tính quy định: Détermination

Tính thông ước: Commensurabilité

Vật đỡ quan hệ xã hội: Support du rapport social

Ý tưởng biến thành thực thể: Hypostase

* * *

PHẦN THỨ NHẤT: HÀNG HÓA NHƯ LÀ HÌNH THÁI CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Karl Marx (1818-1883)

Phân tích các hình thái, Marx không đơn giản định nghĩa tư bản như là quan hệ xã hội về bóc lột, mà là một quan hệ xã hội về bóc lột đặc thù: tư bản chiếm hữu sản phẩm thặng dư của xã hội thông qua những quan hệ hàng hóa, nó cưỡng đoạt lao động thặng dư của người sản xuất trực tiếp dưới hình thái giá trị. “Cái hình thái kinh tế đặc thù này, qua đó người ta cưỡng đoạt lao động thặng dư không công của người sản xuất trực tiếp, quyết định mối quan hệ lệ thuộc như nó sinh ra từ bản thân nền sản xuất, rồi tác động trở lại một cách quyết định trên nền sản xuất ấy”[1]. Chính vì hình thái giá trị là đặc trưng của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa cho nên, đối với Marx, nó là điểm xuất phát của phân tích tư bản. Việc khảo cứu phạm trù giá trị nhằm trả lời hai câu hỏi:

- Vì sao có giá trị? Đó là vấn đề tồn tại của giá trị như là hình thái xã hội mà Marx lý giải với khái niệm về lao động trừu tượng. (Tiêu đề I)

- Giá trị biểu hiện ra sao? Đó là vấn đề hình thái của giá trị mà Marx lý giải với khái niệm về tiền tệ. (Tiêu đề II)

Tiêu đề I:

VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG

Cách phân loại theo truyền thống các thuyết về giá trị giữa “giá trị-lao động” và “giá trị-hữu dụng” không hề xác đáng theo quan điểm của Marx. Các học thuyết cổ điển và tân cổ điển - và theo tác giả Tư bản, đây là điều thống nhất chính trị kinh tế hoc - có một cách đặt vấn đề giá trị về cơ bản giống nhau. Cách đặt vấn đề chung đó “cho rằng các vật có giá trị là điều tự nhiên, như vật thể có trọng lực vậy. Theo quan điểm này, vấn đề chỉ là tìm cách đánh giá như thế nào giá trị ấy cho đúng nhất”[2].

Chính trị kinh tế học cổ điển “hẳn đã phân tích, tuy không đầy đủ, giá trị và lượng giá trị, và phát hiện nội dung ẩn nấp dưới những hình thái đó. Nhưng chính trị kinh tế học chưa bao giờ đặt câu hỏi đơn giản là tại sao nội dung này mang hình thái đó, tức tại sao lao động lại biểu hiện trong giá trị và tại sao việc đo lao động bằng thời gian của nó lại biểu hiện trong lượng giá trị của sản phẩm lao động”[3]. Phát hiện của các tác giả cổ điển rằng trong giá trị của mọi hàng hóa, đơn giản chỉ là lao động của con người, cho nên giá trị của một hàng hóa càng cao là thời gian lao động càng nhiều – phát hiện này hoàn toàn không lý giải câu hỏi chính yếu là: tại sao lao động và thời gian lao động không xuất hiện trực tiếp như nó là, mà phải biểu hiện bằng hình thái giá trị? Nói cách khác, tại sao giá trị tồn tại như là hình thái? Trong khi chính trị kinh tế học xem giá trị-lao động là lời giải cho câu hỏi về tính đồng nhất (unité) và tính thông ước (commensurabilité) của hàng hóa, thì trái lại đối với Marx đó mới là vấn đề.

Phân tích giá trị không thể chỉ là một động tác lý giải đi từ hình thái lần vào nội dung. Nó còn phải lý giải tại sao và như thế nào mà nội dung này lại mang hình thái đó? Bởi vì trong mọi thời kỳ, các sản phẩm đều là sản phẩm của lao động con người, cho rằng đằng sau giá trị của sản phẩm là lao động của con người không phải là lời giải đáp nếu chúng ta không đồng thời chỉ ra vì sao và làm thế nào lao động của con người biểu hiện dưới hình thái lạ lùng về giá trị của sản phẩm lao động. Chính là qua khảo cứu “lao động nào tạo ra giá trị, tại sao lao động ấy tạo nên giá trị và tạo ra nó như thế nào”[4], Marx mới vạch rõ những điều kiện xã hội tạo nên khả năng tồn tại của hình thái giá trị và sự tất yếu của nó. Đồng thời, Marx làm lộ ra tính lừa phỉnh của thuyết giá trị-lao động: bởi giá trị không ăn nhập gì với lao động tự nó mà chỉ liên quan đến lao động với tư cách là biểu hiện quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa. Phân tích giá trị là phân tích hình thái tư bản chủ nghĩa của lao động xã hội, hình thái lao động trừu tượng - cụ thể. (Chương 1)

Adam Smith (1723-1790)
David Ricardo (1772-1823)

Theo Marx, “chỉ phân tích lao động “sans phrase” (không thôi, không thêm gì nữa) như trong học thuyết của Smith, Ricardo, v.v., nhất thiết đụng phải những vấn đề rối rắm không thể tháo gỡ”[5]. Thuyết giá trị-lao động đã thất bại trong việc xác lập tính đồng nhất của hàng hóa chính vì tìm cách quy giá trị vào lao động “không thôi”, “không thêm gì nữa”, là một sự trừu tượng hóa không có nền tảng, “chỉ là bóng ma mà thôi”[6]. Với việc phát hiện tính hai mặt của lao động tạo nên giá trị, Marx xác lập một phân tích về hàng hóa mang hai chiều kích, ngược lại với thuyết chỉ một chiều kích - là giá trị - của các tác giả cổ điển. Với Marx, khảo cứu hàng hóa bước ra ngoài không gian đồng nhất của giá trị để đặt nền tảng trong lãnh trường của mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng, trong đó giá trị sử dụng tồn tại như là hình thái của giá trị. Phân tích hàng hóa là phân tích tính thống nhất của hai mặt đối lập giá trị - giá trị sử dụng định nghĩa hình thái giá trị của sản phẩm lao động. (Chương 2)

CHƯƠNG 1

LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ

Hẳn phải có lý do khi những lời phản biện nghiêm túc đối với lý luận mácxít về giá trị đều dẫn đến tranh luận về phạm trù lao động trừu tượng - cụ thể. Nhất là khi biết rằng chính tác giả Tư bản tự đánh giá: “Đó là cái xuất sắc nhất trong cuốn sách của tôi”; “là cơ sở để thấu hiểu các sự kiện”; “là bí quyết của quan niệm phê phán”[7]. Song, đối với nhiều nhà bình luận, phạm trù thiết yếu này lại thiếu rõ ràng vì Marx đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Nắm được khái niệm của nó đòi hỏi phải kết hợp các luận đề khác nhau giải thích lao động trừu tượng - cụ thể trong bộ Tư bản. Ở cấp độ trừu tượng hóa của khởi điểm công trình nghiên cứu này, việc định nghĩa khái niệm lao động trừu tượng - cụ thể được tiến hành bằng cách phân biệt nó với các khái niệm khác.

1. Lao động trừu tượng và lao động cụ thể chỉ tính hai mặt của lao động xã hội trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; trong nghĩa đó, không thể lẫn lộn chúng với sự phân biệt giữa lao động xã hội và lao động tư nhân. (Tiết 1.1)

2. Lao động trừu tượng và lao động cụ thể chỉ các tính quy định hình thái của lao động xã hội đặc thù trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; trong nghĩa đó, phải phân biệt chúng với những tính quy định vật chất của mọi lao động sản xuất, là lao động có ích và lao động sinh lý. (Tiết 1.2)

3. Lao động trừu tượng không phải là giống của các loài lao động cụ thể mà là sự thống nhất của hai mặt đối lập lao động trừu tượng - cụ thể: sự tồn tại của lao động trừu tượng qui chiếu một mặt đến những quan hệ xã hội về sản xuất mà nó là hình thái, và qui chiếu mặt khác đến loài lao động cụ thể làm hình thái hiện tượng cho lao động trừu tượng; theo nghĩa đó, nếu lao động trừu tượng không phải là ý nim về lao động nói chung (travail en général), nó cũng không phải là một sự trừu tượng hóa hiện thực (abstraction réelle). (Tiết 1.3)

4. Lao động trừu tượng không chỉ có tính xã hội mà còn mang tính lịch sử; nó chỉ trỏ lao động xã hội dưới hình thái lao động ngang bằng (travail égal), trong đó phép làm cho lao động ngang bằng với nhau (égalisation des travaux) thực hiện dưới hình thái của phép làm cho các sản phẩm lao động ngang bằng (égalisation des produits du travail) với tiền tệ; theo nghĩa đó, cần phân biệt lao động trừu tượng với lao động xã hội nói chung và cả với lao động ngang bằng nói chung. (Tiết 1.4)

Tiết 11:

LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ, LAO ĐỘNG XÃ HỘI VÀ LAO ĐỘNG TƯ NHÂN

Louis Kugelmann (1828-1902)

Đáp lại một lời phê bình trách ông không hề “chứng minh khái niệm về giá trị”, Marx - trong một bức thư ngày 11.7 1868 gửi Kugelmann thường được trích dẫn - cho rằng giá trị không gì khác hơn là một hình thái đặc thù của lao động xã hội. “Bất cứ trẻ con nào cũng biết rằng một quốc gia sẽ chết đói nếu nó ngừng lao động, tôi không nói trong vòng một năm, mà chỉ vài tuần mà thôi. Đứa trẻ con này cũng biết rằng các khối sản phẩm - tương ứng với các nhu cầu khác nhau - đòi hỏi những khối lao động khác nhau và có định lượng nhất định trong tổng lao động xã hội. Tất nhiên là sự cần thiết phân bổ lao động xã hội theo những tỷ lệ nhất định này không phụ thuộc vào một hình thái nhất định về sản xuất xã hội”. Và Marx nhấn mạnh: “Hình thái qua đó sự phân bổ lao động theo tỷ lệ được thực hiện trong một xã hội mà cấu trúc lao động biểu hiện dưới hình thái của sự trao đổi tư nhân các sản phẩm lao động cá nhân, hình thái đó chính là giá trị trao đổi của sản phẩm. Nhiệm vụ của khoa học là triển khai quy luật giá trị này vận hành như thế nào”[8].

Người ta thường tóm lược nội dung bức thư nói trên của Marx vào luận đề theo đó khái niệm giá trị biểu hiện sự cần thiết của lao động xã hội và của sự phân bổ nó giữa các ngành sản xuất khác nhau, một sự phân bổ cần thiết để tái sản xuất các điều kiện sản xuất[9]. Đó là một cách đọc phiến diện, bỏ qua một bên điều chủ yếu trong văn bản là: giá trị là một “hình thái”, hình thái đặc thù của lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản. Bởi vì không hề có xã hội “nói chung” mà chỉ có những hình thái xã hội đặc thù, phải nhận rằng không có lao động xã hội “nói chung”, rằng lao động xã hội không tồn tại ngoài những hình thái đặc thù của nó. Cho nên tính thiết yếu của lao động xã hội nói lên sự cần thiết tái sản xuất không phải điều kiện vật chất của sản xuất, mà là điều kiện xã hội của sản xuất. Theo nghĩa đó, lao động xã hội bao giờ cũng là lao động xã hội dưới một hình thái nhất định, lao động cần thiết để tái sản xuất quan hề xã hội về sản xuất nhất định. Theo Marx, hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa “không giả định một phép phân công lao động nói chung, mà một hình thái đặc thù của nó”, “một phép phân công mà cấu trúc mang tính lịch sử nhất định” và có thể gọi là phép phân công lao động xã hội thành lao động tư nhân: “thật ra lao động tư nhân biểu hiện như là phân công của lao động xã hội”; “toàn bộ lao động tư nhân hình thành lao động xã hội”[10].

Với ý nghĩa đó, lao động tư nhân không đồng nghĩa với lao động phi xã hội: không có một bên là lao động xã hội, và bên kia là lao động tư nhân; hoặc không có những lao động tư nhân sau đó chuyển hóa thành lao động xã hội. Trong bộ Tư bản, lao động tư nhân chỉ một hình thái của lao động xã hội: trong những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, lao động xã hội mang hình thái của lao động tư nhân, tức là hình thái của những lao động “tiến hành độc lập với nhau nhưng tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau”[11]. Nói cách khác, sự phụ thuộc lẫn nhau của lao động ở đây mang hình thái của lao động độc lập: có sự phân đoạn quá trình lao động xã hội ra thành những quá trình độc lập tiến hành theo cách tư nhân.

Hình thái tư nhân của lao động xã hội có hai tính cách: một mặt, đó là lao động có ích, tức là có khả năng đáp ứng một nhu cầu cụ thể của xã hội và tham gia phép phân công lao động xã hội; mặt khác, đó là lao động trừu tượng, tức là có khả năng ngang bằng (capable d’égalité) các lao động khác và khả dĩ trao đổi (échangeable) với các loài lao động có ích cụ thể. Tuy nhiên, tính xã hội hai mặt trừu tượng và cụ thể này là tương quan thống nhất hai mặt đối lập, trong chừng mực tính thứ nhất (tức cái trừu tượng) chi phối, thâu gồm tính thứ hai (tức cái cụ thể) như là hình thái của nó: một loài lao động có ích chỉ tham gia phân công lao động xã hội khi nó có khả năng ngang bằng các loài lao động khác[12]. Tự nó, lao động có ích không thể sáp nhập phép phân công lao động, mà nó phải mang hình thái của lao động ngang bằng, hình thái lao động trừu tượng. Theo nghĩa đó, hình thái tư nhân của lao động xã hội là sự thống nhất của lao động trừu tượng và lao động có ích dưới sự chi phối của lao động trừu tượng.

Từ đó, cần phân biệt “lao động có ích” (travail utile), tự nó không phải là lao động xã hội, với hình thái có ích của lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản, hình thái mà chúng tôi đề nghị gọi bằng khái niệm “lao động cụ thể” (travail concret)[13]. Trong chừng mực nó chi phối khái niệm về lao động cụ thể, có thể nói rằng khái niệm về lao động trừu tượng chỉ tính quy định xã hội tiêu biểu nhất. Điều này không có nghĩa, như đôi khi có người bình luận, rằng lao động trừu tượng là lao động xã hội, còn lao động cụ thể là lao động tư nhân. Theo tác giả Tư bản, lao động trừu tượng và lao động cụ thể là “tính xã hội hai mặt của lao động tư nhân”, lao động cụ thể là “tính xã hội có ích của lao động tư nhân”[14]. Marx nêu rõ điều này với khái niệm về “giá trị sử dụng xã hội” khi ông nhấn mạnh rằng đặc điểm của hàng hóa không phải là “có giá trị sử dụng mà có giá trị sử dụng cho những người khác, giá trị sử dụng xã hội”[15]. Có thể nói rằng lao động trừu tượng - cụ thể định nghĩa hình thái tư nhân của lao động xã hội, tức lao động với tính cách nó tái sản xuất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Charles Bettelheim (1913-2006)
Rosa Luxemburg (1871-1919)

Khi những tính quy định về hình thái nói trên không được chú ý đầy đủ, không thể tránh hệ quả trên cách diễn giải khái niệm về lao động trừu tượng, ngay cả ở những cách đọc Tư bản xác đáng nhất. Có thể nêu ở đây: văn bản của Rosa Luxemburg về tính đối lập giữa lao động tư nhân và lao động xã hội (§ 111); văn bản của Charles Bettelheim về tính bao phủ lao động cụ thể và lao động tư nhân, lao động trừu tượng và lao động xã hội (§ 112); văn bản của Ghislain Deleplace về tính xã hội và sự xã hội hóa các cá nhân tư (§ 113).

§ 111 - Tính đối lập giữa lao động tư nhân và lao động xã hội

Trình bày của Rosa Luxemburg là mẫu gốc của những phân tích xem khái niệm về lao động tư nhân như là đơn thuần đối lập với khái niệm về lao động xã hội, chứ không phải như là một hình thái đặc thù của nó. Nhưng xem xét lao động xã hội và lao động tư nhân ngoài tính quy định về hình thái là không khác nào quy khái niệm của chúng vào tính quy định về định lượng mà thôi: lao đông tư nhân như đồng nhất hóa với lượng lao động thực tế hao phí trong sản xuất, còn lao động xã hội là lượng lao động cần thiết đối với xã hội theo như thị trường thừa nhận nó. Vì sản xuất tư bản chủ chủ nghĩa do các nhà sản xuất độc lập thực hiện, hao phí lao động mà mỗi nhà sản xuất tiến hành “với tính cách tư nhân, không phải là lao động xã hội”. Trong một xã hội hàng hóa, lao động trong sản xuất chỉ trở thành lao động xã hội trong chừng mực sản phẩm làm ra được trao đổi trên thị trường, cho nên - khác với những hình thái xã hội phi hàng hóa - “tổng lao động xã hội không tương ứng với tổng số lao động mà các thành viện trong xã hội thực hiện, và tổng sản phẩn xã hội cũng không tương ứng với tổng số sản phẩm mà các thành viên trong xã hội làm ra”[16].

Đơn giản hóa phân tích của bộ Tư bản tự nó không có gì sai và có thể biện minh bởi lý do sư phạm, như trường hợp của R. Luxemburg. Song câu hỏi không thể không đặt ra ở đây là người ta đánh mất gì khi giản lược mâu thuẫn lao động tư nhân – lao động xã hội vào vấn đề thuần định lượng: 1) Quy thành một khác biệt về định lượng, tương quan giữa lao động xã hội – lao động tư nhân chỉ là một sự đối lập khó có thể gọi là mâu thuẫn. 2) Tính bất định của hình thái lao động xã hội - tư nhân đưa đến bỏ qua khái niệm về lao động trừu tượng mà văn bản của Luxemburg không hề nói tới[17].

§ 112 - Tính bao phủ lao động cụ thể và lao động tư nhân, lao động trừu tượng và lao động xã hội

Trong một văn bản khác đáng chú ý của Charles Bettelheim, phạm trù về lao động tư nhân được định nghĩa chính xác như là hình thái của lao động xã hội, và phạm trù về lao động trừu tượng như là lao động đảm bảo tái sản xuất các quan hệ xã hội về sản xuất. Tác giả quan niệm tương quan giữa lao động xã hội - tư nhân và lao động trừu tượng - cụ thể như là “sự bao phủ hai mặt của lao động tư nhân / lao động cụ thể, và của lao động xã hội / lao động trừu tượng”. Tuy nhiên, tác giả phủ nhận hệ quả lô-gíc của luận đề này trong trường hợp xã hội bãi bỏ nền sản xuất hàng hóa, tức xóa bỏ mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội: theo Bettelheim, xóa bỏ mâu thuẫn lao động tư nhân – xã hội sẽ kéo theo việc xóa bỏ mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu trượng, và như vậy đưa đến xóa bỏ các quan hệ về sản xuất. Tác giả đành đưa ra lập luận theo đó sự xóa bỏ mâu thuẫn tư nhân – xã hội của sản xuất hàng hóa “tất nhiên không thể hủy chức năng tái sản xuất (các quan hệ sản xuất) do lao động trừu tượng đảm nhận”: nó chỉ đưa đến “một sự biến đổi hình thái biểu hiện” của mâu thuẫn lao động cụ thể – lao động trừu tượng[18].

Nếu phải lập luận thì chúng tôi có thể nói rằng xóa bỏ phạm trù về lao động xã hội - tư nhân đúng ra có hệ quả là xóa bỏ phạm trù về lao động trừu tượng - cụ thể, và do đó biến đổi hình thái của lao động xã hội, hiểu như là lao động trong chừng mực nó tái sản xuất những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định. Sở dĩ trình bày của Bettelheim thiếu xác đáng, theo chúng tôi, là do cương vị thiếu rõ ràng của các khái niệm về lao động cụ thể và lao động trừu tượng: 1) Lao động cụ thể chỉ trỏ bản thân lao động có ích, hay một hình thái của lao động có ích, hình thái đặc thù tư bản chủ nghĩa? 2) Lao động trừu tượng đảm bảo chức năng tái sản xuất các quan hệ sản xuất trong mọi hình thái xã hội về sản xuất, hay nó chỉ đặc thù đảm nhận chức năng này trong hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa?[19].

§ 113 - Tính xã hội và sự xã hội hóa các cá nhân tư

Đọc Tư bản theo một đường hướng khác, Ghislain Deleplace đồng nhất hóa “tính hai mặt” cụ thể và trừu tượng của lao động sản xuất hàng hóa với sự phân biệt lao động tư nhân và lao động xã hội. Đồng thời, tác giả chủ trương từ bỏ mọi quy chiếu đến lao động, xem nó là một khái niệm “dư thừa” bởi vì, đối với Marx, lao động cụ thể chỉ là một cách để nói đến thuộc tính “tư nhân”, tức “phi xã hội”, của các cá nhân trong xã hội hàng hóa. Cho nên, “sự phân biệt giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng trùng lặp với phân biệt giữa thuộc tính phi xã hội và thuộc tính xã hội của các cá nhân”[20]. Tác giả đề xuất một cách diễn giải thuyết về giá trị của Marx như một lý luận về xã hội hóa các cá nhân thoạt đầu không có tính xã hội: “Trong Tư bản, Marx muốn chứng minh rằng những con người giả định là độc lập (tức phi xã hội) được xã hội hóa qua trao đổi hàng hóa”. Tóm lại phân tích về hàng hóa của Marx lý giải làm sao các cá nhân tư (individu privé) được xã hội hóa thông qua lưu thông của tiền tệ, là thực thể “hợp nhất một xã hội bao gồm những người độc lập”[21].

Phân tích này vấp phải khó khăn của mọi lý luận về tính xã hội như là kết quả của một quá trình mà điểm xuất phát là phi xã hội. Do đó, cách đọc của Deleplace chỉ có thể đưa ông đến thừa nhận thất bại: “Không thể tư duy cùng lúc những cá nhân phi xã hội (độc lập) và sự tồn tại của mối nối kết xã hội cơ bản là tiền tệ”. Kết luận của tác giả là cần đoạn tuyệt với khái niệm về cá nhân “như là thực thể phi xã hội”, tức là cần từ bỏ lý luận về giá trị như là sự xã hội hóa các cá nhân, và chọn một cách tiếp cận khái niệm về tiền tệ không suy ra từ phạm trù giá trị, mà tiền tệ thiết định như là “điều kiện để xã hội đánh giá các cá nhân trong xã hội hàng hóa.[22]

Một nhận xét đầu tiên là, do không phân biệt lao động có ích với lao động cụ thể như là hình thái lao động có ích thâu gồm vào lao động trừu tượng (forme du travail utile subsumée par le travail absrait), Deleplace không thể nhận ra trong lao động trừu tượng - cụ thể “tính xã hội hai mặt” của lao động sản xuất hàng hóa như Marx đã phân tích. Ngoài ra, còn có thể nhận xét rằng tính tư nhân và độc lập của nhà sản xuất hàng hóa không chỉ một thuộc tính thoạt tiên phi xã hội của các cá nhân, mà một hình thái về tính xã hội của các cá nhân. Trong Lời dẫn nhập 1857, Marx ghi rằng: Chính xã hội tư bản chủ nghĩa tạo nên quan điểm của “cá nhân cá biệt cá biệt hóa” (individu singulỉer singularisé) coi mình như là độc lập, là tư nhân và hình dung các quan hệ xã hội như “chỉ là phương tiện thực hiện mục tiêu riêng của mình[23]”. Trong Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, ông còn giải thích rằng tính độc lập của các cá nhân thật ra là hình thái qua đó tính phụ thuộc của họ biểu hiện: sự phụ thuộc này hiện ra với các cá nhân như là nối kết họ ở bên ngoài và “chính điều đó biểu hiện sự độc lập của họ”. Tương tự, tính tư nhân của cá nhân là hình thái qua đó cá nhân xã hội của họ biểu hiện: “Các cá nhân tiến hành sản xuất trong xã hội và cho xã hội với tính cách là những cá nhân xã hội, nhưng cùng lúc điều này hiện ra như một phương tiện vật hóa tính cá nhân của họ”. Đó là lý do vì sao sự tồn tại của xã hội “hiện ra trong cặp mắt của những cá nhân như một cái gì ở bên ngoài họ và - trong tiền tệ - như là một vật mà người ta nắm lấy trong tay. (…) Đó chính là điều kiện để các cá nhân có thể thiết lập quan hệ xã hội với tư cách là con người tư nhân”[24]. Là biểu hiện của xã hội, tiền tệ trong lý luận của Marx - cho dù Deleplace không nhận ra - quả là điều kiện xã hội của sự tồn tại các cá nhân tư (individu privé).

Trong Bản thảo 1857-1858, phê phán khái niệm về lợi ích tư - là điểm xuất phát của chính trị kinh tế học kể từ Smith -, Marx cho rằng: “Bản thân lợi ích tư là một lợi ích do xã hội xác định (…). Nó là lợi ích của những cá nhân tư, nhưng nội dung cũng như hình thức và các phương tiện để thực hiện nó là do các điều kiện xã hội quyết định, độc lập với tất cả các cá nhân[25]”. Cho nên, trừ phi giả định rằng Marx đã không thoát ra sự sùng bái cá nhân tư mà ông phê phán ở chính trị kinh tế học, không thể nói rằng lý luận về giá trị của Marx đặt ra vấn đề xã hội hóa những cá nhân phi xã hội[26].

Tiết 12:

LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ, LAO ĐỘNG SINH LÝ VÀ LAO ĐỘNG CÓ ÍCH

Tính trừu tượng - cụ thể của lao động thuộc phạm vi phân tích các điều kiện xã hội và lịch sử, chứ không phải các điều kiện tự nhiên và phổ quát của lao động sản xuất. Ở mọi thời kỳ, lao động sản xuất vừa là lao động có ích, hoạt động kỹ thuật của con người chiếm hữu tự nhiên, vừa là lao động sinh lý, tiêu phí năng lượng cơ bắp và trí óc của con người. Nói cách khác, chỉ có lao động sản xuất trong những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định mới biểu hiện như là lao động trừu tượng - cụ thể. Cho nên cần phân biệt tính quy định hình thái và tính quy định tự nhiên của lao động sản xuất. Lao động cụ thể không đồng hóa với hoạt động kỹ thuật chiếm hữu tự nhiên, cũng như lao động trừu tượng không đồng nhất hóa với tiêu phí năng lượng cơ bắp và trí óc.

Hẳn tiêu phí năng lượng, một cách tự nhiên, có tính đồng nhất, có thuộc tính ngang bằng, khiến nó là tiền đề vật chất của lao động trừu tượng[27]. Nhưng không vì thế mà sự tồn tại của lao động ngang bằng về mặt sinh lý định nghĩa lao động trừu tượng, bởi phạm trù này là một hình thái xã hội và trỏ lao động ngang bằng về mặt xã hội. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chính là phép làm cho lao động ngang bằng về mặt xã hội, chứ không phải về mặt sinh lý, mới vận hành như là tính quy định lao động xã hội.

Có thể nhận xét với Jean-Claude Delaunay rằng, trong lao động sản xuất, tiêu phí năng lượng tự nó cũng là một cái gì “cụ thể” như là hoạt động kỹ thuật vậy. Với tư cách là hình thái, tức trong chức năng xã hội của nó, lao động ngang bằng mới trở nên một cái gì đó “trừu tượng”, ẩn nấp dưới vỏ vật chất của sản phẩm có ích. Như vậy, mọi lao động có ích không phải là lao động cụ thể. Tính quy định có ích của lao động con người chỉ phát triển thành lao động cụ thể khi nó vận hành như là đại biểu của lao động xã hội, tức là trong những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định ở đó lao động xã hội chỉ hiện ra qua bề ngoài của kết quả vật chất của nó, dưới hình thái “cụ thể” của vật có ích[28].

Trong hình thái lao động trừu tượng - cụ thể, lao động trừu tượng là nguyên lý của tính quy định lao động cụ thể: “Lao động cụ thể cá biệt chỉ có nếu đồng thời nó được coi là lao động trừu tượng phổ quát”[29]. Còn lao động cụ thể là nguyên lý của tính đại biểu lao động trừu tượng: “Cái cụ thể và cảm giác được chỉ có khi nó là hình thái hiện tượng của cái trừu tượng và phổ quát”[30]. Như vậy, có thể nói là, dưới sự chi phối của lao động trừu tượng, lao động có ích trở thành lao động cụ thể, và lao động trừu tượng - cụ thể thành hình là như sự thống nhất của hai mặt đối lập[31].

Isaak Roubine (1886-1937)

Điều quan trọng là phân biệt trong bộ Tư bản trình bày của Marx về tính hai mặt và mâu thuẫn của các quy định hình thái của lao động sản xuất hàng hóa, với trình bày có tính hai mặt nhưng không có lý gì mâu thuẫn của những quy định tự nhiên của mọi lao động sản xuất. Việc lẫn lộn giữa hai trình bày này, và quy cái thứ nhất về cái thứ hai, dẫn đến những định nghĩa duy tự nhiên (naturalisme) về lao động cụ thể và lao động trừu tượng: ở đây, chúng tôi xem xét định nghĩa vật chất - kỹ thuật của lao động cụ thể như là lao động có ích của Isaak Roubine (§ 121); và định nghĩa thực định của lao động trừu tượng như là lao động sinh lý của Paul-Dominique Dognin (§ 122).

§ 121 - Định nghĩa vật chất - kỹ thuật của lao động cụ thể

Những định nghĩa duy tự nhiên về lao động trừu tượng - cụ thể có thể dựa vào một số trình bày của Marx thuộc Tiết 2 (Tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hóa) của Chương 1 Tư bản. Đặc biệt là đoạn ghi rằng: “Bất cứ lao động nào cũng đều là sự tiêu phí sức người, hiểu theo nghĩa sinh lý, và với tư cách là lao động ngang nhau của con người, thì nó hình thành giá trị của hàng hóa. Mặt khác, bất cứ lao động nào cũng đều là tiêu phí sức người dưới một hình thức sản xuất nào đó, sự tiêu phí do một mục đích riêng biệt quyết định, và với tư cách là lao động cụ thể và có ích như vậy, thì nó sản xuất ra những giá trị sử dụng hay là những tính hữu dụng”[32].

Cornelius Castoriadis (1922-1997)

Quy chiếu đến mệnh đề nói trên, có nhà bình luận kết luận rằng “ở Marx, lao động trừu tượng là một khái niệm sinh lý” (Pierre Strouvé). Và từ diễn giải đó, người ta phê phán tác giả Tư bản đã chấp nhận “một quan niệm về lao động duy tự nhiên làm hỏng phân tích của ông về lao động xã hội” (Claude Lefort); thậm chí có lời phản bác cho rằng lý luận của Marx là “thuật giả kim” chuyển hóa “cái vốn là xã hội - lịch sử thành sinh lý, và ngược lại” (Cornelius Castoriadis)[33]. Isaak Roubine là tác giả đầu tiên đã làm rõ cách đặt vấn đề của Marx là tương kỵ với mọi quan niệm duy tự nhiên về lao động trừu tượng.

Bởi vì, theo Marx, giá trị hàng hóa “chỉ có một tính hiện thực thuần túy xã hội mà thôi” và “không hề có một nguyên tử vật chất nào cả”, cho nên lao động tạo ra giá trị cần được hiểu như là một “thực thể” không phải vật chất mà là xã hội[34]. Tác giả Tư bản cảnh báo độc giả về sự sùng bái giá trị-lao động trong chính trị kinh tế học: “Chớ nên hiểu sự vật chất hóa lao động trong nghĩa hẹp mà Smith vận dụng. Khi chúng ta nói đến hàng hóa như là vật chất hóa lao động tích lũy - theo nghĩa giá trị trao đổi của nó -, chúng ta chỉ nhắm một sự tồn tại tưởng tượng của hàng hóa, sự tồn tại chỉ có tính xã hội, không ăn nhập gì với hiện thực vật chất của nó; chúng ta hình dung nó như là một lượng lao động xã hội hay tiền tệ”[35]. Và khi nói đến thực thể của giá trị như là “lao động không phân biệt đã đông lại (gelée de travail indifférencié), tức tiêu phí về sức lao động con người không kể dưới hình thức nào”, Marx không hề nghĩ đến tính đồng nhất về sinh lý của lao động: “sự đồng nhất này không hề xuất phát từ tự nhiên mà từ xã hội”[36]. Cho nên lao động trừu tượng với tính cách là lao động ngang bằng chỉ có thể là lao động “ngang bằng về mặt xã hội”, chứ không thể là lao động “ngang bằng về mặt sinh lý”[37].

Tuy nhiên, đến khi cần diễn giải tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phân tích của Roubine không hoàn toàn thỏa đáng. Một mặt, tác giả bác bỏ việc đồng nhất hóa lao động trừu tượng với tính quy định sinh lý của lao động sản xuất; những mặt khác, ông đồng nhất hóa lao động cụ thể với tính quy định “vật chất - kỹ thuật” của lao động sản xuất, tức là với lao động có ích “độc lập với mọi hình thái xã hội”[38]. Theo chúng tôi, có sự lẫn lộn ở đây giữa lao động có ích tự nó và lao động có ích với tư cách là hình thái đặc thù của lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản. Roubine đã chính đáng phê phán những định nghĩa về lao động trừu tượng chỉ quy chiếu đến Tiết 2, Chương 1 Tư bản, là văn bản ở đó Marx chưa bàn đến lao động trừu tượng trong tính quy định xã hội của nó, mà nói về lao động sinh lý như là tính quy định tự nhiên, là tiền giả định vật chất của lao động trừu tượng. Song, Roubine lại phạm sai sót này khi phải định nghĩa lao động cụ thể. Ở Tiết 2 (Tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hóa) và trái với nhan đề này của nó, Marx thật ra chưa phân tích lao động trừu tượng và lao động cụ thể với tư cách là hình thái của lao động xã hội sản xuất hàng hóa. Trong tiết này, tác giả Tư bản nói đến hai thuộc tính tự nhiên của mọi lao động sản xuất: một mặt, là thuộc tính ngang bằng của mọi tiêu phí sinh lý về sức lao động (xem ở phía sau chú thích bổ sung số 27); và mặt khác, là thuộc tính có ích của mọi hoạt động kỹ thuật chiếm hữu tự nhiên. Chỉ khi vào các Tiết 3 (Hình thái của giá trị) và 4 (Tính chất bái vật của hàng hóa và bí mật của tính chất ấy) của Chương 1, Marx mới vạch rõ rằng trong hình thái tư nhân về lao động xã hội, các thuộc tính vật chất nói trên đảm nhận những chức năng xã hội đặc biệt: chức năng quy định lao động xã hội của thuộc tính lao động ngang bằng; và chức năng đại biểu lao động xã hội của thuộc tính lao động có ích. Nói cách khác, chỉ khi bộ Tư bản trình bày giá trị với tư cách là hình thái và các hình thái của giá trị, thì lao động trừu tượng và lao động cụ thể mới được định nghĩa với khái niệm của chúng, và mới cấu thành “tính chất hai mặt” của lao động xã hội đặc thù trong chủ nghĩa tư bản.

Vượt lên các cách tiếp cận văn bản khác nhau, điều cần lưu ý trong việc phân biệt lao động có ích và lao động cụ thể là cách đặt vấn đề này duy nhất tương hợp với phân tích hình thái của Marx, tức với phân tích mâu thuẫn trong Tư bản. Thật vậy, tương quan mà Roubine xác lập giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng - tức giữa những điều kiện kỹ thuật về sản xuất không kể hình thái xã hội và những điều kiện xã hội đặc thù của sản xuất hàng hóa - chỉ có thể là một mối tương quan bên ngoài giữa hai yếu tố ngoại sinh, chứ không thể là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Theo Roubine, “sự đối lập” giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng phải được diễn giải từ “sự đối lập” của lao động tư nhân và lao động xã hội, bởi lao động cụ thể là lao động mang tính tư nhân và nó chỉ trở thành lao động xã hội dưới hình thái của lao động trừu tượng: “Sự chuyển hóa lao động tư nhân thành lao động xã hội chỉ được thực hiện thông qua sự chuyển hóa lao động cụ thể thành lao động trừu tượng”[39]. Trình bày như thế, người ta không thấy làm sao có thể khái niệm hóa lao động cụ thể và lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội, như là tính chất hai mặt của cùng một lao động, hay như Marx viết: “cùng một lao động mà lại tự đối lập với bản thân nó”. Ở Roubine, lao động cụ thể và lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội, hiện ra như là khái niệm của hai momen tách rời và kế tiếp trong quá trình lao động, hay theo cách nói của Marx như là “hai thứ lao động” khác nhau[40]. Trong phân tích đó, việc quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng khiến cho lao động xã hội chỉ còn là lao động trừu tượng, chứ không phải lao động trừu tượng - cụ thể, tức là nó đánh mất đi hình thái cụ thể của lao động trừu tượng. Tương tự, nếu quy lao động tư nhân thành lao động xã hội thì đơn giản chỉ còn lao động xã hội, chứ không phải là lao động xã hội - tư nhân, tức ta đánh mất đi hình thái tư nhân của lao động xã hội.

Theo nghĩa đó, cách diễn giải Tư bản của Roubine dẫn đến chỗ bỏ qua, trong phân tích, các “tính hai mặt” xã hội - tư nhân, trừu tượng - cụ thể của lao động sản xuất hàng hóa. Nguyên do là điểm xuất phát của Roubine, ở đó lao động sản xuất hàng hóa là lao động thuần tư nhân, thuần cụ thể. Cho nên những thuật ngữ như “quy” (réduction) hoặc “chuyển hóa” (transformation) lao động tư nhân - cụ thể thành lao động xã hội - trừu tượng gây nên tranh cãi khi chúng được hiểu một cách phiến diện. Đúng ra, theo chúng tôi, không có việc quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng mà, nếu có, là quy lao động có ích thành lao động cụ thể. Vấn đề đối với lao động trừu tượng là, một cách đặc thù, quy lao động có ích thành lao động cụ thể, để lao động cụ thể này cùng với lao động trừu tượng hợp thành tính chất hai mặt của lao động xã hội. Trong phân tích của Marx, có thể nói rằng khái niệm lao động cụ thể không quy chiếu đến “thuộc tính vật chất - kỹ thuật của lao động”, nó quy chiếu đến phạm trù lao động trừu tượng, tức là mặt đối lập của lao động cụ thể; nó quy chiếu đến lao động trừu tượng mà lao động cụ thể là “hình thái hiện tượng”. Và trong tính thống nhất của hai mặt đối lập, lao động cụ thể và lao động trừu tượng không quy chiếu đến các điều kiện vật chất (sinh lý và kỹ thuật) của lao động, chúng quy chiếu đến điều kiện xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, mà đặc điểm là hình thái tư nhân của lao động xã hội; chúng quy chiếu đến lao động xã hội tư nhân mà lao động trừu tượng - cụ thể là hình thái phân đôi. Phân tích của Marx về “tính chất thực định” của lao động trừu tượng sẽ xác nhận thêm điều trên đây.

§ 122 - Định nghĩa thực định về lao động trừu tượng

P.-D. Dognin (1923-2019)

Vấn đề được Paul-Dominique Dognin trình bày như sau: Trong Tư bản, Marx đưa ra một định nghĩa hai mặt về khái niệm lao động trừu tượng, theo lối “phủ định” rồi một cách “thực định”. Trong định nghĩa theo lối phủ định, lao động trừu tượng trỏ lao động “không kể đến các tính chất có ích và cụ thể của nó”. Trong định nghĩa thực định của nó, lao động trừu tượng trỏ lao động với tư cách là “sự thật sinh lý”, tức là “tiêu phí để sản xuất của bộ óc, bắp thịt, thần kinh, bàn tay, v.v. của con người”[41]. Cách diễn giải này của Dognin căn cứ trên việc kết hợp hai văn bản thuộc Tiết 3 và Tiết 4 Chương 1 Tư bản.

Văn bản thứ nhất bàn về hình thái giá trị chung (còn gọi là Hình thái III) trong đó “vải” giữ vai trò vật ngang giá chung: “Vô số phương trình hợp thành hình thái giá trị chung làm cho thứ lao động thể hiện trong vải ngang bằng với lao động chứa đựng trong mỗi thứ hàng hóa được lần lượt so sánh với vải, và biến dệt vải thành hình thái hiện tượng chung của lao động không thôi của con người. Như vậy thì lao động vật hóa trong giá trị của hàng hóa không phải chỉ biểu hiện theo lối phủ định, tức như lao động không kể đến các hình thái cụ thể và không kể đến các thuộc tính có ích của lao động hiện thực. Tính chất thực định của nó biểu lộ ra rõ rệt. Tính chất đó ở chỗ tất cả những lao động hiện thực được quy thành tính chất chung của những lao động ấy, là lao động của con người, là sự tiêu phí cùng một sức lao động của con người”[42].

Văn bản thứ hai nói đến tính chất bái vật của hình thái hàng hóa: “Các lao động có ích hay các hoạt động sản xuất, dù có muôn hình muôn vẻ đến đâu đi nữa, thì sự thật về mặt sinh lý vẫn là: những lao động và hoạt động đó trước hết vẫn là những chức năng của cơ thể con người, và bất cứ chức năng nào như vậy, dù có nội dung và hình thức thế nào đi nữa, thì chủ yếu cũng là sự tiêu phí của bộ óc, của thần kinh, của bắp thịt, của giác quan, v.v. của con người. (…) Thế thì tính chất thần bí của sản phẩm lao động, khi nó mang hình thái hàng hóa là do đâu mà ra? Dĩ nhiên là do chính bản thân hình thái ấy. Tính chất ngang bằng của lao động con người mang hình thái vật chất của sự vật hóa giá trị ngang bằng của các sản phẩm lao động”[43].

Cặp đôi hai văn bản nói trên, Dognin suy ra rằng “tính chất thực định” của lao động trừu tượng mà Marx bàn đến trong văn bản thứ nhất không có gì khác hơn là “sự thật về mặt sinh lý” nói đến trong văn bản thứ hai. Sự cặp đôi này không thể không gây bàn cãi. Chúng ta hãy khởi đi từ văn bản thứ hai ở đó Marx giải thích sự sùng bái tiền tệ bằng cách phân biệt tính ngang bằng hình thái và tính ngang bằng tự nhiên của lao động. Lao động có tự nhiên tính ngang bằng với tư cách là tiêu phí năng lượng bắp thịt và trí óc, tính ngang bằng này là một “sự thật sinh lý” theo nghĩa nó quy chiếu đến “cơ thể con người”, chứ không phải đến hình thái xã hội của sản xuất. Nhưng đặc trưng của sản xuất hàng hóa chính là phép làm cho lao động ngang bằng về mặt hình thái, là tính ngang bằng của lao động dưới “hình thái vật chất của sự vật hóa giá trị ngang bằng của các sản phẩm lao động”, là hình thái của vật ngang giá chung. Điều mà cách đọc Marx của Dognin không nắm bắt được là tính quy định về hình thái này, mà chính quy định hình thái đó định nghĩa lao động trừu tượng như là hình thái đặc thù về lao động xã hội.

Chúng ta hãy quay lại văn bản thứ nhất ở đó hình thái chung của giá trị cho phép Marx định nghĩa lao động trừu tượng một cách thực định. Trong chừng mực lao động vật hóa trong các hàng hóa khác nhau biểu tượng trong lao động cụ thể sản xuất ra vải thì dệt vải có được “hình thái ngang bằng với tất cả những lao động khác”, và trở thành “hình thái hiện tượng chung của lao động không thôi của con người”. Hay nói cách khác, phép làm cho những lao động ngang bằng thực hiện qua biểu hiện chung của chúng trong cùng một lao động duy nhất, đó là lao động sản xuất vật ngang giá chung. Nếu tính chất thực định của lao động trừu tượng chỉ “tính chất chung của lao động con người”, thì tính chất chung này chính là biểu tượng xã hội của nó trong một loài lao động độc nhất, chứ không phải là tính quy định tự nhiên của lao động sinh lý. Khi định nghĩa nó theo lối phủ định, lao động trừu tượng xuất hiện như là “một sự trừu tượng hóa trong đó các hình thái cụ thể và các thuộc tính của lao động hiện thực đã biến mất đi”[44]. Còn khi được định nghĩa một cách thực định, lao động trừu tượng đồng nhất hóa với hình thái cụ thể của vật ngang giá chung là vải: “Hình thái vật thể của vải hóa thành hiện thân hữu hình, vỏ bọc xã hội phổ quát, của mọi lao động của con người”[45]. Diễn giải Chương 1 bộ Tư Bản, Dognin đã hiểu sai phân tích về lao động trừu tượng - cụ thể của Marx, chủ yếu là một sự phân tích hình thái.

Tiết 13:

LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG, LAO ĐỘNG NÓI CHUNG VÀ TRỪU TƯỢNG HÓA HIỆN THỰC

Böhm-Bawerk (1851-1914)

Lý luận mácxít về giá trị phải đối mặt với một lời phản bác đã trở nên truyền thống từ khi Eugen von Bohm-Bawerk đề ra nó: một lời phản bác mang tính lô-gíc liên quan đến Tiết 1 (Hai nhân tố của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi hoặc giá trị - Thực thể của giá trị. Lượng của giá trị) của Chương 1 Tư bản và nhắm lập luận của Marx khi ông chuyển từ phạm trù giá trị trao đổi sang giá trị, rồi từ phạm trù giá trị sang lao động trừu tượng[46]. Theo Bohm-Bawerk, tiết khai mào bộ Tư bản chứa đựng tất cả chứng minh của Marx về lý thuyết giá trị, căn cứ vào phân tích lô-gíc của quan hệ trao đổi hàng hóa. Chứng minh này tóm lược như sau: trao đổi giả định sự ngang bằng (égalité) còn ngang bằng thì giả định sự thông ước (commensurabilité), cho nên câu hỏi đặt ra cho Marx là tìm, trong những thuộc tính của hàng hóa, “nhân tố chung” làm cho hàng hóa trở nên tương đương; lập luận theo phép loại trừ, Marx đi đến thuộc tính mà các hàng hóa đều sở hữu, là mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, là lao động trong tính chất chung và ngang bằng của nó, lao động nói chung hay trừu tượng. Phép chứng minh này vấp phải hai điều phản bác về lô-gíc:

1. Giải đáp của Marx cho vấn đề thông ước không phải là giải đáp duy nhất. Ngoài là sản phẩm của lao động, hàng hóa còn sở hữu những thuộc tính chung khác nữa, đặc biệt là thuộc tính sản phẩm có ích, cho nên cũng có thể giữ lấy tính hữu dụng của hàng hóa làm nhân tố thông ước một cách chính đáng. Và nếu xét tính hữu dụng của hàng hóa mà không kể đến những nét cá biệt của chúng, tức nếu xét đến “tính hữu dụng nói chung”, thì người ta đạt tới một lý thuyết về quan hệ trao đổi khác, không căn cứ trên phạm trù về lao động trừu tượng mà trên phạm trù về “hữu dụng trừu tượng”.

2. Do tác giả Tư bản đồng nhất hóa việc trừu tượng hóa (tức không kể đến) những khác biệt về giá trị sử dụng của hàng hóa với việc trừu tượng hóa (tức không xét đến) tự thân giá trị sử dụng, ông phạm một sai lầm về lô-gíc là lẫn lộn “trừu tượng hóa của giống” (abstraction du genre) với “trừu tượng hóa những hình thái biểu hiện của giống”[47]. Bởi nếu có thể trừu tượng hóa, tức không kể đến những hình thái biểu hiện của giá trị sử dụng, người ta không thể trừu tượng hóa, không xét đến giá trị sử dụng nói chung. Có thể nói rằng giá trị là sự trừu tượng hóa các giá trị sử dụng cụ thể, nó là sự phổ quát hóa giá trị sử dụng, là “giá trị sử dụng nói chung”.

Paul Sweezy (1910-2004)
Lucio Colletti (1924-2001)

Tạm thời gác lại một bên vấn đề thông ước, và những câu hỏi liên quan đến diễn giải phạm trù giá trị như là giá trị-lao động, sẽ bàn về sau, ở đây chúng ta chỉ xem xét vấn đề trừu tượng hóa lao động và những câu hỏi đặt ra khi diễn giải phạm trù lao động trừu tượng như là lao động nói chung. Người ta chỉ có thể chấp nhận phản bác của Bohm-Bawerk khi chứng minh rằng Marx quan niệm sự trừu tượng hóa theo phép phổ quát hóa, tức là đi từ “loài” (espèce) sang “giống” (genre). Trái lại, chỉ cần xác lập rằng Marx không hề định nghĩa phạm trù lao động trừu tượng như là sự phổ quát hóa lao động cụ thể, là “lao động nói chung” (travail en général) để bác bỏ lập luận của Bohm-Bawerk theo đó giá trị là sự phổ quát hóa các giá trị sử dụng cụ thể, là “tính hữu dụng nói chung”. Ngược với cách diễn giải thông thường được Paul Sweezy hệ thống hóa, chúng ta có thể chứng minh rằng ý niệm “lao động nói chung” không hề định nghĩa phạm trù mácxít về lao động trừu tượng[48]. Thật vậy, tư duy sự trừu tượng hóa lao động như là lao động nói chung dẫn đến quan niệm lao động trừu tượng như là “một sự phổ quát hóa thuần của trí óc”, theo nhận định phê phán của Lucio Colletti; hoặc như là “một sự phổ quát hóa có tính sinh lý”, theo nhận định phê phán của Ruy Fausto. Bởi khi chúng ta nghĩ rằng chỉ có những lao động cụ thể khác nhau là vật hiện thực, thì tính phổ quát của chúng, lao động trừu tượng, chỉ có thể là một cấu tạo tinh thần, một “vật thuần tinh thần”, “một ý niệm”[49]. Hoặc nếu quan niệm tính phổ quát của lao động trừu tượng là một vật hiện thực thì hiện thực đó chỉ có thể là “các đặc trưng sinh lý” chung của mọi lao động, tức “là tiêu phí về bắp thịt, thần kinh, v.v.”[50].

Như đã thấy ở những đoạn trên, lao động trừu tượng với tư cách là thực thể chỉ có thể là “thực thể xã hội” và tính cách “chung”, “không phân biệt”, “không khác nhau” của nó không trỏ tiêu phí sinh lý về lao động, mà tiêu phí xã hội về lao động. Sự vật hóa của lao động trừu tượng, như Marx nói, là “một sự vật hóa trừu tượng, một vật thuộc tư duy”[51]. Tuy nhiên, nếu lao động trừu tượng không phải là một hiện thực có thể cảm giác được, một thực thể mà sự tồn tại vật chất có thể tìm thấy trong các sản phẩm, nó không chỉ đơn giản là ý niệm, không chỉ đơn thuần là cấu tạo tinh thần. Với tư cách là phương thức đặc thù hình thành lao động xã hội, sự trừu tượng hóa của lao động là một quá trình xã hội hiện thực “diễn ra hàng ngày trong quá trình sản xuất xã hội”: việc quy các lao động cụ thể khác nhau thành lao động trừu tượng “không phải là một sự trừu tượng hóa lớn hơn, đồng thời nó cũng không phải là một sự trừu tượng hóa kém hiện thực hơn việc quy mọi thể hữu cơ thành không khí”[52]. Từ mệnh đề này của Marx, đã nảy ra nhiều cách diễn giải lao động trừu tượng như là một “sự trừu tượng hóa có tính hiện thực” (abstraction réelle), mà chúng ta cần xem xét một số phiên bản: lao động trừu tượng như là “sự thật thực tiễn” (vérité pratique) của Paul Sweezy (§ 131); lao động trừu tượng như là “lao động tha hóa” (travail aliéné) của Lucio Colletti (§ 132); lao động trừu tượng như là “phổ quát cụ thể” (universel concret) của Ruy Fausto (§ 133).

§ 131 - Lao động trừu tượng như là sự thật thực tiễn

Cách diễn giải của Paul Sweezy khởi đi từ định nghĩa theo đó “lao động trừu tượng chỉ trừu tượng theo nghĩa nó bỏ qua những đặc trưng phân biệt loài lao động này với các loài lao động khác: rút cục, thuật ngữ lao động trừu tượng, theo như Marx vận dụng, tương đương với ý niệm “lao động nói chung” (travail en général); nó là “cái gì chung trong mọi hoạt động sản xuất của con người”. Để tránh lời phản bác cho rằng, định nghĩa như thế, lao động trừu tượng chỉ là một ý niệm, Sweezy tìm cách xác lập sự trừu tượng hóa lao động trong hiện thực của chủ nghĩa tư bản: “Cần hiểu rằng việc quy đồng mẫu số chung các loài lao động (…) không phải là một sự trừu tượng hóa tùy tiện do sự kỳ dị của nhà nghiên cứu áp đặt”; đó là “một sự trừu tượng hóa thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản”. Mà đặc trưng của xã hội tư bản chủ nghĩa ở chỗ “lao động có mức độ di động cao hơn ở các hình thái xã hội trước đây”. Thật vậy, tùy theo nhu cầu của tư bản mà lao động phải trình diện lúc này dưới hình thái cá biệt này, lúc khác dưới hình thái cá biệt khác, cho nên các khác biệt giữa những loài lao động cụ thể không còn mấy quan trọng trong xã hội này: sự trừu tượng hóa các loài lao động cụ thể trở nên cần thiết bởi “những sự khác biệt đó không còn quan trọng trong thực tiễn”[53].

Cách diễn giải này quy chiếu đến Bản thảo 1857-1858, chính xác hơn đến văn bản của Marx mang nhan đề “Phương pháp chính trị kinh tế học” trong Lời dẫn nhập 1857. Bàn về phạm trù lao động trong chính trị kinh tế học, Marx viết: Đến sau các nhà kinh tế học trọng thương và trọng nông, “bước tiến lớn của Adam Smith ở chỗ ông gạt bỏ mọi tính quy định cá biệt trong hoạt động tạo nên của cải, để chỉ xem xét lao động không thôi, tức không phải lao động công nghiệp, cũng không phải lao động thương nghiệp hay lao động nông nghiệp, mà là tất cả các hình thái lao động này trong tính chất chung của chúng”. Và Marx triển khai phân tích như sau: “Sự trừu tượng hóa của lao động nói chung không phải chỉ là kết quả trong tư duy của một tổng thể cụ thể các loài lao động. Thái độ bàng quan, không phân biệt một loài lao động nhất định nào cả, tương ứng với một hình thái xã hội trong đó các cá nhân chuyển một cách dễ dàng từ loài lao động này sang loài lao động khác -, và ở đó một loài lao động chính xác đối với họ chỉ là điều ngẫu nhiên, cho nên họ bàng quan. Ở đây, không chỉ ở trong phạm trù mà cả trong thực tế, lao động trở thành phương tiện tạo ra của cải nói chung (…) Chỉ ở đây, sự trừu tượng hóa phạm trù ‘lao động’, ‘lao động nói chung’ (travail en général), ‘lao động không thôi’ (travail sans phrase), là khởi điểm của chính trị kinh tế học hiện đại, mới trở thành sự thật thực tiễn (vérité pratique). Thế nhưng sự trừu tượng hóa đơn giản nhất mà kinh tế học hiện đại đặt lên hàng đầu, một sự trừu tượng hóa biểu thị một quan hệ cổ xưa và có hiệu lực trong mọi hình thái xã hội, chỉ xuất hiện dưới hình thái trừu tượng đó như là sự thật thực tiễn với tư cách là phạm trù của xã hội hiện đại nhất”[54]. Thường được trích dẫn, văn bản trên đây đặt ra chí ít hai vấn đề. 1. Phạm trù lao động trừu tượng quan hệ như thế nào với ý niệm về lao động nói chung? 2. Có tương quan gì giữa phạm trù về lao động trừu tượng với hiện thực về tính di động của người lao động và thái độ bàng quan của họ đối với hình thái cụ thể của lao động?

1. Trên vấn đề thứ nhất, cách đọc của Sweezy là phạm trù lao động trừu tượng của Marx chẳng qua là ý niệm về lao động nói chung của chính trị kinh tế học đã trở thành hiện thực trong chủ nghĩa tư bản. Trước tiên, có thể nhận xét rằng diễn giải này đi ngược lại luận điểm của Marx phê phán chính trị kinh tế học trong Lời dẫn nhập 1857: bởi không khác nào nó biến một phạm trù xã hội có tính lịch sử nhất định của Marx thành một phạm trù tự nhiên và tồn tại trong mọi thời kỳ, tương tự như các ý niệm về “sản xuất nói chung” hay về “con người nói chung” mà các nhà kinh tế học thường dùng để mở đầu lý luận[55].

Đối với chính trị kinh tế học, ý niệm lao động nói chung là một sự trừu tượng hóa lao động trong đó người ta để qua một bên hình thái cụ thể của các loài lao động có ích, và theo nghĩa đó, nó chỉ trỏ giống của các loài lao động cụ thể (lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp, lao động thương nghiệp…). Đối với tác giả Tư bản, sự trừu tượng hóa lao động tự nó không tạo thành lao động trừu tượng, bởi phạm trù này chỉ sự trừu tượng hóa đó với tư cách là một hình thái xã hội đặc thù, là biểu hiện của những quan hệ sản xuất lịch sử nhất định. Cho nên Sweezy đã sai lầm khi định nghĩa lao động trừu tượng như là lao động nói chung, cho dù ông có nói thêm rằng đó là một sự trừu tượng hóa có tính hiện thực: bởi cái hiện thực tạo thành lao động trừu tượng không phải là sự trừu tượng hóa các loài lao động cụ thể, mà là những quan hệ xã hội lịch sử tiến hành sự trừu tượng hóa đó. Hay như Marx nhấn mạnh: “Hoạt động có mục đích chiếm hữu sản phẩm của tự nhiên dưới hình thức này hay hình thức khác là điều kiện tự nhiên để con người tồn tại, điều kiện của sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên, độc lập với mọi hình thái xã hội. Trái lại, lao động tạo ra giá trị trao đổi là một hình thái đặc thù xã hội của lao động” - “đó là một hình thái đặc thù của những quan hệ xã hội”[56].

Có thể nói rằng Lời dẫn nhập 1857 bàn về sự trừu tượng hóa lao động trong ý niệm về lao động nói chung của chính trị kinh tế học, nó không đề cập đến phạm trù lao động trừu tượng khi ấy chưa hình thành trong lý luận của Marx. Khi thảo văn bản 1857 này, Marx cần phản biện và giải thể ý niệm về lao động nói chung để có thể xây dựng khái niệm về lao động trừu tượng trong Góp phần phê phán chính trị kinh tế học. Từ văn bản 1859 đó, Marx mới khái niệm hóa lao động trừu tượng mà ông còn gọi là “lao động chung” (travail général) để phân biệt với “lao động nói chung” (travail en général)[57]. Khi không phân biệt hai thuật ngữ này, người ta dễ đi đến diễn giải sai lệch văn bản 1857, như Sweezy và nhiều tác giả khác[58].

2. Trên vấn đề thứ hai, cách đọc của Sweezy là có một sự trừu tượng hóa lao động “trong hiện thực” của chủ nghĩa tư bản bởi vì tính cá biệt của các loài lao động cụ thể có xu hướng mờ nhạt đi, và biểu hiện của “sự thật thực tiễn” ấy là tính di động của những người lao động làm thuê và thái độ bàng quan của họ đối với hình thái cụ thể của các loài lao động có ích. Nói cách khác, lao động thực sự trở thành trừu tượng trong chừng mực lao động cụ thể có xu hướng đồng nhất hóa về chất. Sự xuất hiện của lao động trừu tượng đồng thời có nghĩa là sự tan biến của lao động cụ thể với tư cách là phạm trù: tức là sự giải thể tính chất hai mặt trừu tượng - cụ thể của lao động xã hội mà Marx phân tích[59].

Bất luận là văn bản quy chiếu nào, không thể xem diễn giải của Sweezy có liên quan đến phạm trù về lao động trừu tượng do Marx xác lập. Trước hết, phải nhận xét rằng phép trừu tượng hóa các hình thái cụ thể của lao động tự nó không định nghĩa lao động trừu tượng. Hay đúng hơn, nó chỉ định nghĩa lao động trừu tượng theo lối phủ định: lao động trừu tượng còn được Marx xác lập một cách thực định bằng phép biểu tượng nó trong một hình thái lao động cụ thể nhất định, là lao động tạo ra vật ngang giá chung. Chính vì tiền tệ là phương thức tồn tại của lao động trừu tượng, không cần tìm kiếm ở đâu khác “hiện thực” của sự trừu tượng hóa lao động.

Còn về thái độ bàng quan và tính di động của người lao động, đó là một “sự thật thực tiễn” của phạm trù về lao động làm thuê chứ không phải của phạm trù về lao động trừu tượng, hai phạm trù này thuộc hai cấp độ trừu tượng hóa khác nhau. Phân tích của Marx về sự thâu gồm lao động vào tư bản làm rõ điều đó: “Mục đích độc nhất của người lao động làm thuê vốn là tiền công, tức là tiền tệ, một lượng giá trị trao đổi không có đặc trưng về giá trị sử dụng, cho nên họ hoàn toàn bàng quan đối với nội dung lao động của họ, bàng quan với loài hoạt động cụ thể của họ. (…) Ở Bắc Mỹ, nơi quan hệ lao động làm thuê phát triển tự do nhất, người ta nhận thấy các công nhân có tính di động cao nhất, có thái độ bàng quan nhất đối với nội dung lao động và họ không ngừng chuyển đổi hoạt động từ ngành này sang ngành khác”[60]. Không thể lẫn lộn phân tích này về sự thâu gồm lao động vào tư bản với, ở một cấp độ khác, sự thâu gồm lao động cụ thể vào lao động trừu tượng mà tiền tệ là hiện thân[61]. Rốt cuộc, do không có “hiện thực”, sự trừu tượng hóa lao động của Sweezy chẳng qua chỉ là một sự trừu tượng hóa trong tư duy: nó không thể xác lập phạm trù về lao động trừu tượng.

§ 132: Lao động trừu tượng như là lao động tha hóa

Phản bác Paul Sweezy mà khái niệm về lao động trừu tượng, định nghĩa như là lao động nói chung, “xét cho cùng, vẫn là một sự phổ quát hóa thuần về tinh thần”, Lucio Colletti đề xuất một quan niệm về lao động trừu tượng hiểu như là “một sự trừu tượng hóa thực hiện trong hiện thực của quan hệ trao đổi”. Colletti định nghĩa lao động trừu tượng với tư cách là “lao động tha hóa” (travail aliéné): “Lao động trừu tượng là lao động tha hóa, tức tách rời hay xa cách bản thân con người”; theo nghĩa này, nó không chỉ là sự phổ quát hóa thuần về tinh thần, mà là “hoạt động hiện thực”: và trái với lao động cụ thể “nói lên sự chiếm hữu thế giới tự nhiên vật hóa, lao động trừu tượng nói lên sự truất hữu tính chủ thể của con người”[62].

Cách diễn giải Tư bản của Colletti xuất phát từ một sự chủ thể hóa lao động trừu tượng. Đối với tác giả, lao động trừu tượng là lao động tha hóa, theo nghĩa con người ở trạng thái bị tách biệt khỏi lao động của nó, bởi vì tính chất xã hội của lao động chỉ được xác định qua sự trừu tượng hóa các chủ thể cụ thể: thế giới hàng hóa tách tính chủ thể khỏi con người, tức tách rời năng lực thể chất và trí thức của con người để cố định nó ở trong giá trị, chuyển hóa nó thành một thực thể riêng biệt, độc lập và thống trị bản thân con người. Sự trừu tượng hóa này được triển khai ở người lao động làm thuê, bị tách khỏi các điều kiện lao động nên phải bán sức lao động của mình: từ chỗ là thuộc tính của con người, sức lao động biến thành chủ thể độc lập, trong khi con người trở thành “phương tiện biểu hiện của sức lao động”. Sự đảo ngược quan hệ giữa chủ thể và vật thể ấy đạt đỉnh cao trong quá trình lao động của công nghiệp lớn, ở đó không phải con người vận dụng công cụ lao động, mà công cụ vận hành con người trong lao động[63].

Cách đọc Marx của Colletti đặt ra một số vấn đề trong đó có hai điểm như sau cần xem xét: 1) Lao động trừu tượng và lao động tha hóa có đồng nhất về khái niệm hay không? 2) Lý luận về giá trị phải chăng là một lý luận về sự tha hóa?

Ludwig Feuerbach (1804-1872)

1. Luận điểm của Colletti về lao động trừu tượng vô hình trung là đọc các phân tích của Tư bản theo cách đặt vấn đề của Bản thảo 1844 là những văn bản thuộc Marx thời trẻ mà lao động tha hóa là khái niệm trọng tâm[64]. Như Marx trẻ, Colletti quy chiếu đến quan điểm của Feuerbach về sự trừu tượng hóa hiểu như là “sự tách biệt”, “sự tha hóa”: “trừu tượng hóa là đặt (…) bản thể con người ở ngoài con người”. Theo sơ đồ về sự tha hóa trong tôn giáo, chủ thể con người biểu hiện các thuộc tính hình thành bản thể của nó trong một vật thể trở nên độc lập đối với chủ thể, đối lập với nó và thống trị nó; trở thành xa lạ với con người, vật thể tự cho nó là chủ thể thật sự và đặt con người như là vật thể của nó, cho nên con người chỉ tồn tại trong hình thái phi con người. Căn cứ vào sơ đồ này, Bản thảo 1844 xác lập phạm trù lao động tha hóa hay lao động trở nên xa lạ đối với con người: “Con người hiến cho thần thánh càng nhiều thì cái còn lại trong bản thân con người càng ít. Người công nhân đặt đời sống của mình vào vật phẩm (mà nó tạo ra); nhưng khi ấy đời sống đó không còn thuộc về người công nhân, mà thuộc về vật phẩm. Cho nên hoạt động của công nhân càng lớn thì nó càng không có vật phẩm. (…) Sự tha hóa của công nhân trong sản phẩm của nó không chỉ có nghĩa là lao động của nó trở thành một vật phẩm tồn tại ở bên ngoài; mà còn có nghĩa là lao động của người công nhân tồn tại ở ngoài nó, độc lập với nó, xa lạ với nó và trở thành một thế lực độc lập đối với nó; đời sống mà người công nhân truyền cho vật phẩm, chống lại nó như là một đời sống đối địch và xa lạ”[65]. Lao động tha hóa làm con người trở nên xa lạ với sản phẩm của nó, với hoạt động của nó và với bản thể của nó, khiến cho con người trở thành xa lạ với nó. Còn các chủ tư bản, là những người không lao động, không sản xuất, họ xa lạ với bản thể con người là tạo ra sản phẩm.

Một cách cơ bản hơn, định nghĩa lao động trừu tượng như là lao động tha hóa của Colletti xuất phát từ một khái niệm về lao động mang “tính loài” (générique): lao động như là hoạt động mang “tính loài” của con người, hoạt động của con người với tư cách nó khẳng định bản thể con người. Tương tự như Marx thời trẻ, Colletti vận dụng quan niệm của Hegel về lao động như là biểu hiện bản thể của con người: là “hành vi tự sản sinh của con người” (engendrement de soi), “hành vi tự đối tượng hóa” (objectivation de soi), “biểu hiện tuyệt đối của đời sống con người”[66]. Do bản thân nó là “hoạt động về sinh sống”, là “đời sống về sản xuất”, lao động bao hàm “toàn bộ tính chất của một chủng nhất định, tính loài của nó”: lao động là “đời sống mang tính loài”[67]. Trong quan niệm này, “quan hệ giữa con người và tự nhiên là một cách trực tiếp quan hệ giữa con người với con người”[68]. Nói cách khác, lao động con người là một thực thể xã hội có tính loài và mang tính tự nhiên.

Mấu chốt của vấn đề là ở điểm này. Bởi nếu diễn từ của Colletti có thể căn cứ trên cách đặt vấn đề của Bản thảo 1844, nó không hề có chỗ đứng trong cách đặt vấn đề của bộ Tư bản. Nói ngắn gọn ở đây - vì vấn đề sẽ được triển khai trong các mục tiếp theo -, điều cơ bản phân biệt các văn bản của Marx thời trẻ đối với thời trưởng thành, là sự vắng mặt có tính quyết định của khái niệm quan hệ xã hội về sản xuất. Phân tích lao động với tư cách là hoạt động có tính loài, là thiết định quan hệ giữa con người và tự nhiên như là mang tính xã hội trong khi thiếu vắng tính quy định của các quan hệ xã hội về sản xuất. Sự phủ định lao động có tính loài bởi lao động tha hóa không hề thay đổi vấn đề: cho rằng lao động tha hóa là sự thoái hóa của lao động có tính loài, là lao động đánh mất tính xã hội khởi thủy của nó, chỉ là xác nhận tính lịch sử vô định của phạm trù lao động thời Marx trẻ. Hẳn sự tồn tại của lao động tha hóa gắn với sự xuất hiện của sở hữu tư, nhưng đó không phải là một sự lý giải: thật vậy, sở hữu tư được Marx thiết định như là “biểu hiện khách thể” của lao động tha hóa, còn lao động tha hóa được thiết định như là “bản chất chủ thể” của sở hữu tư. “Sở hữu tư do đó là sản phẩm, là kết quả, là hệ quả bắt buộc của lao động tha hóa, của quan hệ bề ngoài của người công nhân với giới tự nhiên, và với bản thân nó”[69]. Tác giả Bản thảo 1844 còn xác định rằng “quan hệ của công nhân với lao động sản sinh ra quan hệ của nhà tư bản, của người chủ lao động hay bất cứ tên gọi nào khác, với lao động ấy[70]”.

Georg Hegel (1770-1831)

Quan niệm như thế, lao động tha hóa và sở hữu tư không đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản, mà cho phạm trù xã hội dân sự do Hegel định nghĩa như sự phủ định bản thể có tính loài của con người. Marx trẻ khởi đầu lịch sử của xã hội dân sự với sự tách biệt giữa xã hội và chính trị trong thời thượng cổ, tức ông không những tiền giả định một sự thống nhất nguyên thủy tương ứng với thực thể xã hội mang tính loài và tính tự nhiên (cộng đồng nguyên thủy), mà ông còn tiền giả định một momen thứ ba nhằm phục hồi sự thống nhất ban đầu ở một cấp độ cao hơn của nhân loại (chủ nghĩa cộng sản)[71]. Cách đọc Marx của Colletti xác minh điều đó khi ông tìm cách lý giải mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản theo sơ đồ của quá trình về tha hóa. Chủ nghĩa tư bản là “tha hóa” theo nghĩa nó là “xã hội chia rẽ”; là “sự thống nhất hữu cơ của con người và tự nhiên, và của con người và con người, đã tan vỡ”. Đó là mâu thuẫn đặc thù của “xã hội dân sự” do Hegel vạch ra và Colletti đã tìm ra ở Marx[72]. Nếu mâu thuẫn của lao động có tính loài và tha hóa xác lập tính đặc thù của phạm trù xã hội dân sự mà Marx trẻ xem xét, trái lại nó không cho phép tìm hiểu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà Marx thời kỳ trưởng thành phân tích. Cho nên không thể tán thành luận điểm của Colletti về sự bao phủ một mặt của lao động có tính loài - lao động cụ thể, và mặt khác của lao động tha hóa - lao động trừu tượng.

Trong chừng mực phạm trù lao động tha hóa vấp phải tính chất vô định của lao động có tính loài, cách đọc Marx của Colletti, cũng như của Sweezy, không xác lập được phạm trù về lao động trừu tượng như là một sự trừu tượng hóa thực hiện trong hiện thực của chủ nghĩa tư bản. Ngoài ra, đồng nhất hóa trừu tượng hóa với tha hóa dẫn Colletti, cũng như Sweezy, đến chỗ lẫn lộn lao động trừu tượng và lao động làm thuê, tức lẫn lộn vấn đề hình thái đặc thù của lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản với vấn đề thâu gồm lao động vào tư bản[73].

2. Bước chuyển của Marx từ thời trẻ sang thời kỳ trưởng thành xảy đến vào thời điểm của các bản thảo 1845-1846, khi Marx bắt đầu khái niệm hóa quan hệ xã hội về sản xuất[74]. Khái niệm cơ bản này đánh dấu sự thay đổi cách đặt vấn đề của Marx, vấn đề về giá trị thay thế vấn đề về tha hóa. Có thể nhận xét rằng Bản thảo 1844 hầu như không bàn đến giá trị, vấn đề chỉ xuất hiện trong những Ghi chú đọc sách 1844-1845 và trong một văn bản khác 1845 là Gia đình thần thánh. Một lần nữa, cần vạch rõ khác biệt trong cách đặt vấn đề giữa những văn bản thời trẻ này với bộ Tư bản.

a) Theo cách đặt vấn đề của Hegel và Feuerbach về tha hóa, khái niệm về giá trị trong Ghi chú đọc sách 1844-1845 quy chiếu đến phạm trù về “nhân phẩm” và chỉ trỏ nhân phẩm bị tha hóa. “Giá trị mà mỗi người chúng ta có dưới cặp mắt của người khác, chính là giá trị của sản phẩm mà ta sở hữu”: điều này có nghĩa là con người tự nó “không có giá trị”; hay nói khác đi, giá trị trao đổi đã tước lấy “giá trị thực” của con người ta[75]. Bởi, trên cơ sở của sở hữu tư, trao đổi là “quan hệ đối lập với quan hệ xã hội”. Thật vậy, “sự vận động mang tính trung gian của con người trao đổi không phải là vận động mang tính xã hội, có tính con người. Đó không phải là quan hệ có tính người, mà là một mối quan hệ trừu tượng giữa các sở hữu tư; và quan hệ trừu tượng này, chính là giá trị mà sự tồn tại hiện thực chỉ có trong tiền tệ”. Tiền tệ này là trung gian tha hóa của con người: “Thông qua trung gian xa lạ đó, con người thay vì tự thân làm trung gian cho con người thì lại nhận thấy ý chí của nó, hoạt động của nó, tương quan của nó với người khác như là một sức mạnh độc lập với nó và những người khác. Đấy là tột cùng của sự lệ thuộc. Không gì phải ngạc nhiên khi trung gian đó trở nên thượng đế thật sự”. Là kết quả của một quá trình đảo ngược thuộc tính thành chủ thể, biến ý tưởng thành thực thể (hypostase), “tiền tệ là hiện thân về sự thống trị hoàn toàn của vật phẩm trên con người”[76].

Hẳn những Ghi chú đọc sách 1844-1845 gợi lên các tiết về tiền tệ và sự sùng bái nó trong Chương 1 của Tư bản, và Colletti xem đó là “soạn thảo đầu tiên” của khái niệm về vật ngang giá chung, là “trình bày phôi thai” của lý luận về giá trị của Marx trong tác phẩm 1867[77]. Về mặt hình thức, quả có thể tìm thấy trong hai văn bản bàn về tiền tệ này, thời Marx trẻ và trưởng thành, quá trình của thuộc tính biến thành thực thể (hypostase). Thật ra, đấy là hai cách đặt vấn đề khác nhau. Một bên, xuất phát từ con người, tức một tính chủ thể ban đầu, và xem xét lao động, tức mối tương quan chủ thể - khách thể, như là nền tảng của sự trao đổi phủ định tính chất xã hội mang tính loài của con người. Xuất phát điểm ở bên kia là một quan hệ xã hội nhất định về sản xuất, tức một phương thức đặc thù về lao động xã hội, với các hình thái chủ thể và hình thái khách thể mà hình thái giá trị của lao động xã hội tạo nên. Với nội dung này, phân tích về sự sùng bái trong bộ Tư bản không thể lồng vào phân tích về sự tha hóa của Ghi chú đọc sách 1844-1845[78].

Pierre-J. Proudhon (1809-1865)

b) Một tác phẩm khác cùng thời kỳ, là Gia đình thần thánh (1845), chứa đựng một văn bản có thể xem như “lời giải” của Marx trẻ cho vấn đề gọi là mâu thuẫn giữa giá trị và giá cả sản xuất. Trong văn bản này, Marx bênh vực Proudhon và quan niệm về giá trị của ông căn cứ chỉ trên lao động, chống lại chính trị kinh tế học cổ điển mà thuyết về giá cả cộng vào thời gian lao động tiền ứng trả lợi nhuận cho chủ tư bản và địa tô cho chủ ruộng dất. Marx cho rằng hai “yếu tố sau cùng vắng mặt trong thuyết của Proudhon bởi vì đối với ông không có sở hữu tư”. Chỉ có thời gian lao động và tiền công. Khi chọn thời gian lao động, tức hình thức hoạt động trực tiếp của con người, làm thước đo tiền công và thước đo cho phép xác định giá trị của sản phẩm, Proudhon đã chọn tính con người làm yếu tố quyết định, trong khi đối với chính trị kinh tế học cũ thì sức mạnh vật hóa của tư bản và sở hữu đất đai là quyết định; nói cách khác, Proudhon xác lập lại, tất nhiên trong khuôn khổ của chính trị kinh tế học tức một cách còn mâu thuẫn, chỗ đứng của con người và quyền hạn của nó”. Marx còn trích dẫn luận điểm của Smith theo đó: “trước khi sở hữu ra đời, tức trong giả thuyết sở hữu tư không tồn tại, thời gian lao động là thước đo của tiền công và của giá trị sản phẩm lao động”[79]. Đây là một khái niệm khá ly kỳ về giá trị, thay vì là phạm trù riêng thuộc hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì lại quy chiếu đến hoạt động của con người có tính loài, đến lao động của con người không bị sở hữu tư tha hóa, và xác lập “con người trong quyền hạn của nó”. Theo José Giannotti, với cách khái niệm hóa này, giá cả sáp nhập lợi nhuận và địa tô trở thành “một sự biến chất của giá trị” do chủ nghĩa tư bản, với tư cách là chế độ lao động tha hóa, tạo ra[80]. Và có thể nói rằng sự chuyển hóa giá trị thành giá cả được Marx trẻ lý thuyết hóa ở đây như là sự biến chất giá trị thành giá cả.

Trong Gia đình thần thánh, mâu thuẫn giữa giá trị và giá cả sản xuất đối lập con người có tính loài với chủ nghĩa tư bản, lao động loài người với lao động tha hóa. Như vậy thì không thể nhận định rằng, trong văn bản 1845 này, Marx tiến tới gần lý luận về giá trị của mình[81]. Điều phân biệt cơ bản thời trẻ và trưởng thành của Marx chính là cách đặt vấn đề, ở đây chưa phải là cách đặt vấn đề về giá trị mà là cách đặt vấn đề về tha hóa. Để chuyển đổi cách đặt vấn đề, Marx còn phải lật đổ quan niệm của Proudhon và đọc lại thuyết về giá trị của Ricardo: “Việc xác định giá trị bằng thời gian lao động, mà Proudhon cho rằng là công thức phục sinh tương lai, thật ra chỉ là biểu hiện có tính khoa học của các quan hệ kinh tế trong xã hội hiện thời, như Ricardo đã minh chứng rõ ràng…” – người ta có thể đọc trong Sự khốn cùng của triết học (1847)[82].

Colletti có thể khẳng định rằng “lý luận về giá trị là yếu tố nối trong chiều sâu nhất các tác phẩm thuộc thời trẻ và thời trưởng thành của Marx” chỉ vì ông đặt cho phạm trù giá trị một nội dung nhân loại luận (anthropologisme) và một định nghĩa chủ thể hóa: “Giá trị: từ ngữ qua đó Marx chỉ sự vật hóa của chủ thể con người”. Để thay thế cách đặt vấn đề về tha hóa bằng cách đặt vấn đề về giá trị, Marx trước tiên đã phải “phi chủ thể hóa” các phạm trù kinh tế mà cho đến các văn bản 1844-1845 ông đều quan niệm là những biểu hiện của lao động tha hóa[83].

§ 133: Lao động trừu tượng như là phổ quát cụ thể

José A. Giannotti (1930-2021)
Ruy Fausto (1935-2020)

Ngược lại với Colletti, luận điểm của Ruy Fausto về lao động trừu tượng như là trừu tượng hóa hiện thực, từ chối “nhân loại luận nền tảng” của Bản thảo 1844, và tìm cơ sở của phạm trù lao động trừu tượng trong “hữu thể học của tính xã hội” (ontologie du social) theo hướng đi của José Giannotti. Trong khi ý niệm về lao động nói chung chỉ đơn giản một tính phổ quát “không có trọng lượng hữu thể”, lao động trừu tượng, theo Fausto, trỏ một tính phổ quát “được thiết định”, tức có một sự tồn tại xã hội. Với tính phổ quát được thiết định, lao động trừu tượng là một sự “phổ quát cụ thể”: sự phổ quát của nó không chỉ mang tính thuần lý luận mà còn có tính cụ thể, bởi nó do hệ thống quan hệ xã hội thiết định. Theo nghĩa đó, quá trình hình thành phạm trù căn cứ vào một quá trình trừu tượng hóa vượt ra ngoài tư duy và xảy ra trong hiện thực[84].

Đối với Fausto, chỉ có lao động trừu tượng định nghĩa như là phổ quát cụ thể mới cho phép tư duy sự đối lập, tính mâu thuẫn giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể: nói rằng lao động trừu tượng là mặt đối lập của lao động cụ thể không có ý nghĩa gì nếu chúng ta không tư duy lao động trừu tượng như là sự phổ quát cụ thể, tức như “một sự vật hàm chứa vừa tính phổ quát (universalité), vừa tính cá biệt (singularité)”. Fausto quy chiếu đến những phân tích của bộ Tư bản về mối quan hệ giữa tiền tệ và hàng hóa. Tiền tệ và hàng hóa là “hai mặt đối lập” bởi, trước hết, “cái này là giống (genre) của cái kia: tiền tệ là hàng hóa phổ quát”; đồng thời, “giống này tồn tại bên cạnh các loài (espèce), các cá thể (individu) hình thành nó: tiền tệ cũng là một hàng hóa”. Chính điều kiện hai mặt này về “giống (genre) và về cá thể (individu)”, về “cá thể - giống (individu - genre)” khiến tiền tệ là mặt đối lập của mỗi hàng hóa. Nó tạo ra tương quan đối cực cấu thành một “tính mâu thuẫn” sẽ không có nếu chỉ có giống mà thôi hay chỉ có cá thể mà thôi[85]. Để minh chứng luận điểm về sự phổ quát cụ thể, Fausto quy chiếu đến một văn bản - thuộc ấn bản thứ nhất năm 1867 của Chương 1 Tư bản - bàn về hình thái chung của giá trị (gọi là “Hình thái III”) và trình bày vật ngang giá chung (trong trường hợp này là “vải” ): “Trong Hình thái III, (…) vải trái lại hiện ra như hình thái mang tính loài của vật ngang giá của tất cả các hàng hóa khác. Không khác nào như bên cạnh và ngoài những con sư tử, con cọp, con thỏ và tất cả các động vật hiện thực gộp thành những nòi, loài, phân loài, họ, v.v. khác nhau của giới động vật, còn có thêm con động vật, hiện thân cá biệt của giới động vật. Con vật cá biệt này, chứa đựng trong nó tất cả các loài thực sự tồn tại, là một sự phổ quát: chẳng hạn như là con động vật, Thượng đế, v.v..[86]

Cách tiếp cận Marx của Fausto có những điều đáng ghi nhận cũng như những điểm cần bàn cãi. Trong khuôn khổ của tiết này, có thể nêu lên hai vấn đề: 1) Lao động trừu tượng định nghĩa như cái phổ quát cụ thể tương ứng với hiện thực gì? 2) Lao động trừu tượng hiểu như tính phổ quát được thiết định dẫn đến hiện thực nào?

1. Điều đầu tiên có thể ghi nhận trong luận điểm của Fausto về cái phổ quát cụ thể là quan tâm định nghĩa phạm trù về lao động trừu tượng trong tính mẫu thuẫn của nó với lao động cụ thể. Tác giả nhấn mạnh rằng lao động trừu tượng là, một cách không thể tách biệt, lao động trừu tượng - cụ thể. Như vậy, ông có thể loại bỏ quan niệm về lao động trừu tượng định nghĩa như là giống của các loài lao động cụ thể - tương tự như động vật là phạm trù bao gồm tất cả các loài động vật. Thật vậy, giống không phải là mặt đối lập của loài: “giống chỉ thâu gồm loài và không thể cho rằng quan hệ thâu gồm này là một quan hệ có tính mâu thuẫn”. Cũng như có thể loại bỏ quan niệm xem lao động trừu tượng và lao động cụ thể là hai tính quy định khác nhau và không có liên hệ với nhau - tương tự như màu sắc và trọng lượng trong một đồ vật. Bởi sự “khác nhau-không liên hệ nhau” không bao hàm tính mâu thuẫn: “Khi sự vật được tư duy không phải như cái phổ quát cá biệt mà chỉ là cái cá biệt, nó chỉ mang tính khác biệt chứ không có tính mâu thuẫn[87].”

Tuy nhiên cách trình bày lao động trừu tượng theo các phạm trù về “giống” và “cá thể”, như Fausto đề xuất, có một khía cạnh nào đó bất định. Ý nghĩa của lao động cụ thể can dự vào định nghĩa của lao động trừu tượng, không mấy rõ ràng: đó là lao động có ích tự nó? hay là lao động có ích với tư cách là biểu tượng của lao động trừu tượng? Chỉ với nghĩa thứ hai này của lao động cụ thể thì “điều kiện hai mặt về giống và cá thể” của Fausto mới xác lập được “tính chất thực định” của lao động trừu tượng mà Marx nêu lên. Bởi chỉ khi đó lao động trừu tượng mới đúng là lao động trừu tượng - cụ thể, theo nghĩa nó không loại trừ lao động cụ thể mà bao hàm nó như là hình thái hiện tượng. Cũng như “sự trùng hợp của phổ quát và cá thể” mà Fausto nói đến phải được hiểu là sự nhận dạng lao động trừu tượng bằng biểu tượng của nó trong loài lao động cụ thể sản sinh vật ngang giá chung.

Về mặt văn bản của Marx, cần nhận xét rằng, từ lần xuất bản thứ hai trở đi của Tư bản Quyển 1, đoạn văn về tính chất thực định của lao động trừu tượng đã thay thế đoạn văn về cái phổ quát cụ thể mà Fausto quy chiếu đến[88]. Lý do khá đơn giản: đó là vì “phép loại suy” (analogie) áp dụng cho hai khái niệm về lao động trừu tượng và về động vật thật ra không thích đáng. Quả vậy, động vật chỉ là sự trừu tượng hóa thuần túy thuộc về tư duy, trong khi lao động trừu tượng được quan niệm không chỉ theo lối phủ định (không xét đến các hình thái cụ thể của lao động) mà còn theo cách thực định qua biểu tượng của nó trong một loài lao động cụ thể nhất định. Ta chỉ có thể kết hợp khái niệm về lao động trừu tượng và khái niệm về động vật với điều kiện ta giả thiết rõ ràng như là Marx ghi: “Không khác nào như bên cạnh và ngoài các con sư tử, con cọp (…) còn tồn tại con động vật”. Nói đúng ra, con động vật không hề là cái phổ quát cụ thể, và vì phép loại suy áp dụng ở đây không xác đáng, Marx đã không sử dụng trở lại nó trong những ấn bản về sau của Tư bản[89]”. Vì lý do tương tự, Marx cũng gạt bỏ đi phép loại suy ông sử dụng cho khái niệm về lao động trừu tượng và khái niệm có tính loài về “pháp luật”, trong một đoạn văn khác mà Fausto quy chiếu đến như là văn bản thứ hai về sự phổ quát cụ thể[90]. Trái lại, Marx đã duy trì tất cả các phép loại suy có tính xác đáng, như giữa quan hệ đối cực tiền tệ – hàng hóa với các quan hệ nhà vua – thần dân hay quan hệ giáo hoàng – giáo dân[91]”. Càng rõ ra rằng cách trình bày vấn đề theo các phạm trù về giống và cá thể không tránh khỏi sự nhập nhằng nước đôi.

2. Song điều quan trọng cần ghi nhận trong luận điểm của Fausto là quan điểm đọc Marx tránh khỏi “nhân loại luận” (anthropologisme) của các phạm trù phổ quát (như là người lao động, người phi lao động, đối tượng lao động, quá trình lao động… “nói chung”). Fausto phân biệt những khái niệm “tiền giả định” (présupposé) với những khái niệm “thiết định” (posé) để tách biệt những sự phổ quát (généralité) không có chức năng làm nền tảng cho phương thức sản xuất nào nhất định với các phạm trù đặc thù thuộc một phương thức sản xuất lịch sử nhất định. Bằng cách thiết định mục đích nội tại của các phương thức sản xuất (trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đó là: giá trị và sự gia tăng giá trị), Marx xóa bỏ mọi cái phổ quát có vai trò nền tảng. Và chính vì “thiết định” các phạm trù cho nên “học thuyết duy vật lịch sử” của Marx không phải là “lý thuyết phổ quát” về các phương thức sản xuất. Theo Fausto, tìm kiếm lý luận phổ quát là rơi vào “nhân loại luận” mà hai hình thức là: “nhân loại luận-nhân văn chủ nghĩa” trong đó chủ thể nền tảng là một “cái phổ quát cụ thể” (con người mang tính loài được nhân tính hóa); hoặc “nhân loại luận theo nghĩa hẹp” trong đó chủ thể là một “cái phổ quát trừu tượng” (con người hay người lao động nói chung)[92]”.

Fausto gắn kết quá trình hình thành phạm trù với quá trình hình thành hữu thể bằng cách “sáp nhập sự thiết định (tức sự tồn tại xã hội của sự vật) vào khái niệm”. Bằng cách đó, tác giả nhấn mạnh rằng lao động trừu tượng không tồn tại chỉ trong đầu óc, không chỉ là sự kiện thuần tư duy. Song, tác giả không nói rõ sự tồn tại xã hội của lao động trừu tượng thật ra là gì. Điều cần nhận xét là phân tích của Fausto về lao động trừu tượng không được sáp nhập vào phân tích về tiền tệ, mà ông chỉ liên hệ nó với phân tích về tiền tệ theo phép loại suy. Khi không được trình bày rõ ràng, luận điểm về sự trừu tượng hóa hiện thực có thể đi vào ngỏ cụt, nếu nó tìm cơ sở của phạm trù trong một hiện thực của lao động trừu tượng tự nó.

Vấn đề là Fausto nhờ đến hữu thể học để phân tích lao động trừu tượng như là “sự trừu tượng hóa hiện thực”, “sự phổ quát được thiết định”. Tác giả phân biệt “tính quy định” (détermination) của khái niệm và sự “thiết định” (position) của nó. Việc sáp nhập sự thiết định vào trong khái niệm có nghĩa là tính quy định không bao hàm hết cả khái niệm: “Cho dù tính quy định có đầy đủ đi nữa, chưa có khái niệm khi nó chưa được thiết định”. Thế nên, đối với Fausto, lao động trừu tượng chỉ tồn tại về mặt xã hội trong nền sản xuất hàng hóa; trong những hình thái xã hội về sản xuất khác, lao động trừu tượng chỉ tồn tại “trong đầu óc” như là ý niệm, chứ không có tồn tại trong hiện thực như là “vật xã hội[93]”. Đó chính là điểm cần bàn cãi. Bởi đối với Marx, sự trừu tượng hóa lao động, phép làm cho lao động ngang bằng khi không xét khác biệt giữa các loài lao động, là một quá trình xã hội có mặt trong mọi hình thái xã hội về sản xuất: “Tính ngang bằng của những lao động khác nhau về mọi mặt chỉ có được nếu không xét đến mặt không ngang bằng của chúng, hình thái này chính là tương quan giữa các lao động với nhau với tính cách là lao động của con người không thôi, tiêu phí về sức lao động con người, là thực chất của mọi lao động con người bất luận nội dung và cách tiến hành chúng. Trong mọi hình thái xã hội về lao động, người ta đều biết cách thức thiết lập tương quan giữa những lao động thuộc cá nhân khác nhau với tư cách là lao động con người[94]”.

Trong trình bày của Tư bản, Marx xây dựng khái niệm về lao động trừu tượng qua một phân tích về hình thái: một mặt, đó là phân tích lao động trừu tượng với tính cách là hình thái xã hội; mặt khác, đó là phân tích hình thái hiện tượng của lao động trừu tượng trong tiền tệ. 1) Trong khuôn khổ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “tính chất chung của lao động tạo thành tính chất xã hội đặc thù của nó[95]”; phép làm cho lao động ngang nhau bằng cách để qua một bên những tính quy định cụ thể của nó “được coi là hình thái xã hội đặc thù của lao động[96]”. Nói cách khác, tính quy định trừu tượng của lao động vận hành như là tính quy định đặc thù của lao động xã hội, tức là lao động trong chừng mực nó tái sản xuất các quan hệ xã hội nhất định: “đó là một hình thái đặc thù của quan hệ xã hội[97]”. Như vậy, “vật xã hội” làm nền tảng cho lao động trừu tượng không phải là sự tồn tại trong hiện thực của trừu tượng hóa lao động, mà đó là sự tồn tại của những quan hệ xã hội về sản nhất nhất định và chính những quan hệ này khiến lao động xã hội mang hình thái lao động trừu tượng. Cho nên, nói đến sự tồn tại xã hội của lao động trừu tượng là nói đến sự tồn tại của nó với tính cách là hình thái xã hội. 2) Ở cấp độ của hình thái hiện tượng, sự trừu tượng hóa lao động cũng không phải là một hiện thực. Thật thế, không phải để qua một bên những đặc tính cụ thể của lao động mà ta làm hiện ra lao động trừu tượng: trừu tượng hóa lao động thật ra là quy các loài lao động có ích thành lao động cụ thể hiểu như là hình thái hiện tượng của lao động trừu tượng; do đó, lao động trừu tượng biểu hiện trong một lao động cụ thể nhất định và mang hình thái của vật ngang giá chung. Tóm lại, có thể nói rằng sự tồn tại xã hội của lao động trừu tượng dẫn đến hai hiện thực thuộc hai cấp độ trừu tượng hóa khác nhau:

- đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm nền tảng cho sự tồn tại của lao động trừu tượng như là hình thái xã hội;

- và đó là tiền tệ, là phương thức tồn tại cụ thể của lao động trừu tượng.

Trong Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, có một văn bản mà Fausto và các tác giả bảo vệ luận điểm về sự trừu tượng hóa hiện thực đều quy chiếu đến. Theo đó, “việc quy các loại lao động khác nhau thành lao động không có phân biệt, giống nhau, giản đơn, tóm lại thành lao động đồng nhất về chất và do đó chỉ khác nhau về lượng mà thôi (…) là một sự trừu tượng hóa diễn ra hàng ngày trong quá trình sản xuất xã hội” - trừu tượng hóa này “không kém hiện thực hơn quy các thể hữu cơ thành không khí[98]”. Sự trừu tượng hóa có tính “hiện thực” đó là gì? Lời đáp mà Marx nêu ra trong văn bản này dường như là đồng nhất hóa sự trừu tượng hóa lao động với sự tồn tại của “lao động trung bình”, “lao động giản đơn”: “Sự trừu tượng hóa đó về lao động chung, phổ quát của con người tồn tại trong lao động trung bình mà mỗi cá nhân trung bình của một xã hội nhất định có thể thực hiện được”, “đó là lao động giản đơn[99]”. Điều rõ ràng là đây không thể là một lời giải, bởi Marx giải một vấn đề định chất (tính quy định của lao động trừu tượng) bằng cách quy nó thành một vấn đề định lượng (tính quy định lao động giản đơn, trung bình), tức là ông quy định trừu tượng hóa lao động như là lượng mà không xác định nó là lượng của chất gì[100]”. Tức phạm trù về lao động trừu tượng ở đây vẫn là bất định[101]. Ngoài ra, luận đề thường được dẫn, theo đó sự trừu tượng hóa lao động là do quá trình trao đổi tự nó thực hiện, luận đề này tuy không sai nhưng cũng không phải là lời giải: chí ít, cho đến khi nào, ta không minh định rằng điều mà quá trình trao đổi thực hiện là “sự biểu tượng” của lao động trừu tượng với tư cách là lao động xã hội trong hình thái tiền tệ[102]. Trong Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, Marx phân biệt rõ giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể, nhưng không thiết lập được được mối tương quan chính xác, do chưa phân tích hoàn chỉnh hình thái của giá trị và sự phát sinh của hình thái tiền tệ: sự bất định của phạm trù lao động trừu tượng bắt nguồn từ đó[103]. Phải có phân tích hình thái của bộ Tư bản, Marx mới làm sáng tỏ hiện thực hai mặt của sự trừu tượng hóa lao động: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (lao động trừu tượng như là hình thái xã hội) và tiền tệ (hình thái hiện tượng của lao động trừu tượng)[104].

Điều mà Fausto gọi là “sự thiết định” của khái niệm, đối lập với “tính quy định” của nó, thật ra chỉ là tính quy định hình thái của khái niệm. Chính vì tác giả thiếu chú ý đến phân tích hình thái của giá trị nên ông không thể định nghĩa đầy đủ một khái niệm với các tính quy định của nó và buộc phải thêm một sự thiết định, một nền tảng hữu thể học. Người ta gặp lại ở đây vấn đề của P. Sweezy là xác lập nền tảng của phạm trù về lao động nói chung để nó không chỉ đơn thuần là một ý niệm, từ đó mà có vấn đề về sự trừu tượng hóa hiện thực. Tuy phê phán sự trừu tượng hóa lao động như là lao động nói chung, tác giả không dứt điểm được với ý niệm lao động nói chung này: cách định nghĩa lao động trừu tượng của ông tóm lại vẫn xuất phát từ tính phổ quát của lao động, lao động với tư cách là giống của các loài lao động cụ thể, và đó là lý do Fausto buộc phải “thiết định” tính phổ quát này. Bởi ý nghĩa của lao động trừu tượng khi tính phổ quát của nó không được thiết định và chỉ tồn tại “như là hình tượng trong đầu óc” là gì nếu không phải là lao động nói chung? Có lẽ điều này cũng giải thích cách trình bày theo những phạm trù về giống và cá thể mà Fausto đề xuất[105].

Có thể nhận định rằng sự trừu tượng hóa hiện thực là một vấn đề giả, hay chí ít là một vấn đề đặt sai, bởi tìm cách định nghĩa lao động trừu tượng từ một khái niệm về lao động không được xác định bởi quan hệ xã hội về sản xuất: lao động nói chung (P. Sweezy, R. Fausto) hay lao động có tính loài (L. Colletti)[106]. Vấn đề không còn đặt ra khi xuất phát từ cương vị hình thái của lao động trừu tượng. Cũng không cần nhờ đến hữu thể học. Và thay vì là trừu tượng hóa có tính hiện thực nên gọi là sự trừu tượng hóa mang tính xã hội để nhấn mạnh rằng đây là một sự trừu tượng hóa tương ứng với một quá trình xã hội nhất định[107].

Định nghĩa lao động trừu tượng như hình thái không xuất phát từ ý niệm về lao động nói chung mà từ hình thái đặc thù của lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản, là hình thái lao động ngang bằng. Nói cách khác, lao động trừu tượng không thuộc về tính phổ quát của lao động mà về tính ngang bằng của nó; không thuộc về phép phổ quát hóa mà về phép làm cho lao động ngang bằng nhau. Đó là điều bây giờ chúng ta cần xem xét.

Tiết 14:

LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG, LAO ĐỘNG XÃ HỘI VÀ LAO ĐỘNG NGANG BẰNG

Trong Tiết 4 về “Tính chất bái vật của hàng hóa và bí mật của tính chất ấy” của Chương 1 Tư bản, Marx nêu rõ đặc trưng của hình thái tư bản chủ nghĩa về lao động xã hội: “Điều chỉ đúng với hình thái sản xuất riêng biệt này, tức sản xuất hàng hóa, là: tính chất xã hội của những lao động khác nhau ở chỗ các lao động đó đều ngang bằng vì là lao động của con người, và tính chất xã hội đặc thù ấy mang hình thái vật hóa, hình thái giá trị của sản phẩm lao động”[108]. Trong luận đề này Marx thiết định ba yếu tố hình thành định nghĩa của lao động trừu tượng: 1. Lao động trừu tượng là một hình thái về lao động xã hội; 2. Đó là lao động xã hội với tư cách là lao động ngang bằng; 3. Phép làm cho lao động ngang bằng mang một hình thái vật hóa, hình thái về khả năng trao đổi của các sản phẩm lao động.

Hay nói cách khác, đặc trưng của hình thái tư bản chủ nghĩa về sản xuất là sự bảo phủ của ba tính quy định xã hội tự nó tách rời nhau: 1) tính quy định lao động xã hội; 2) tính quy định làm cho lao động ngang bằng; 3) tính quy định làm cho sản phẩm lao động ngang bằng. Tiếp theo Isaak Roubine, chúng ta hãy phân biệt ba tính quy định xã hội đó.

Lao động trừu tượng không phải là lao động xã hội nói chung, mà là một hình thái nhất định, đặc thù của lao động xã hội. Trong các hình thái xã hội về sản xuất khác chủ nghĩa tư bản, lao động có tính xã hội một cách trực tiếp dưới hình thái lao động có ích cá biệt, còn trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lao động chỉ khẳng định tính cần thiết để tái sản xuất xã hội dưới hình thái của lao động chung, ngang bằng. Hẳn là phép làm cho lao động ngang bằng là một quá trình có mặt trong mọi xã hội, bởi sự phân phối lao động xã hội bao giờ cũng đòi hỏi một phương thức hạch toán làm cho tiêu phí lao động ngang bằng, độc lập với tính có ích cá biệt của lao động. Tuy nhiên, trong các hình thái sản xuất phi hàng hóa, quá trình làm cho lao động ngang bằng xảy đến sau quá trình quy định lao động xã hội, cho nên tính ngang bằng của lao động có tính phái sinh từ tính xã hội của nó. Khác với trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, nơi phép làm cho lao động ngang bằng giữ vai trò quyết định, bởi tính xã hội của lao động sinh ra từ tính ngang bằng của nó. “Trong mọi hình thái xã hội về lao động, người ta đều có cách xác lập mối tương quan giữa lao động của những cá nhân khác nhau với tư cách là lao động của con người; còn ở đây [trong hình thái xã hội sản xuất hàng hóa], chính mối tương quan này [giữa các lao động cá nhân với tư cách là lao động con người] được xem như là hình thái đặc thù xã hội của lao động”. Marx còn nhấn mạnh: “Thước đo tính chất xã hội phải xuất phát từ tính chất của các quan hệ đặc thù trong mỗi phương thức sản xuất”[109].

Lao động trừu tượng không phải là lao động ngang bằng nói chung, mà là một hình thái nhất định, đặc thù của lao động ngang bằng. Trong những hình thái sản xuất khác hơn chủ nghĩa tư bản, tính ngang bằng xã hội của lao động - cũng như tính quy định xã hội của lao động - đều xuất phát trực tiếp từ quyết định của xã hội. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, phép làm cho lao động ngang bằng tiến hành một cách gián tiếp dưới hình thái của phép làm cho sản phẩm của lao động ngang bằng. Hẳn phép làm cho sản phẩm lao động ngang bằng là một quá trình có mặt trong mọi xã hội, bởi phân phối sản phẩm xã hội đòi hỏi một phương thức đánh giá các sản phẩm. Nhưng trong các hình thái sản xuất phi hàng hóa, phép xã hội làm cho lao động ngang bằng độc lập với lao động xã hội cần thiết để sản xuất; và trong trường hợp xã hội quyết định đánh giá các sản phẩm tùy theo lao động xã hội cần thiết để sản xuất, quá trình làm cho sản phẩm lao động ngang bằng này dù sao cũng tách biệt với quá trình làm cho lao động ngang bằng. Khác hẳn với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nơi đây phép xã hội làm cho lao động ngang bằng không tiến hành trực tiếp mà mang hình thái của phép làm cho các sản phẩm lao động ngang bằng với một sản phẩm nhất định mà thuộc tính là khả năng trao đổi trực tiếp. Vì vậy lao động xã hội cần thiết để sản xuất một vật phẩm không biểu hiện với tư cách như thế - tức như là thời gian lao động -, mà biểu hiện một cách gián tiếp và dưới hình thái vật hóa của giá trị sản phẩm lao động. Cho nên “các lao động tư nhân chỉ biểu hiện thực tế thành những phân công xã hội thông qua những quan hệ trao đổi giữa các sản phẩm lao động với nhau và những quan hệ gián tiếp giữa những người sản xuất với nhau”. Marx còn nhấn mạnh rằng “khi các người sản xuất đặt sản phẩm lao động của họ đối diện diện nhau và quan hệ với nhau với tư cách là giá trị, thì không phải họ thấy các sản phẩm đó chỉ là cái vỏ che giấu một lao động đồng nhất của con người; trái ngược lại: chính vì họ thừa nhận các sản phẩm khác nhau của họ là ngang bằng nhau trong trao đổi, nên họ mới xác định bằng thực tế rằng những lao động khác nhau của họ đều ngang bằng nhau”[110].

Mới rõ ra rằng lao động trừu tượng là một hình thái lịch sử của lao động ngang bằng. Hay, theo luận đề của Isaak Roubine, “mọi lao động trừu tượng đều là lao động xã hội và lao động ngang bằng về mặt xã hội, tuy nhiên không phải mọi lao động ngang bằng về mặt xã hội là lao động trừu tượng. (…) Khái niệm về lao động trừu tượng thể hiện hình thái lịch sử đặc thù của phép làm cho lao động ngang bằng. Đó không chỉ là một khái niệm xã hội mà còn là một khái niệm lịch sử”[111]. Nếu sự khác biệt giữa tính xã hội và tính lịch sử của lao động trừu tượng không được khái niệm hóa, bao giờ cũng có nguy cơ lẫn lộn lao động trừu tượng với lao động xã hội nói chung hay với lao động ngang bằng nói chung. Chính lẫn lộn này là gốc rễ của thuyết giá trị-lao động mà người ta thường vận dụng để diễn giải lý luận của Marx; và sự lẫn lộn đó làm nền tảng cho các cách diễn giải lao động trừu tượng như là lôgíc về thông ước và về lý tính kinh tế (§ 141); hoặc như là thực thể siêu hình (§ 142). Để phản bác thuyết giá trị-lao động hay chí ít không gán thuyết đó cho Marx, cần đọc Chương 1 của Tư bản một cách chặt chẽ và theo hai động tác lý luận của chương này: động tác của các Tiết 1 và 2 qua đó Marx phê phán việc khái niệm hóa giá trị như là hình thái không thực thể; và động tác của các Tiết 3 và 4 nhờ đó Marx phê phán khái niệm giá trị như là thực thể không hình thái, và thiết định tiền tệ như là biểu hiện của lao động trừu tượng - cụ thể (§ 143).

§ 141: Lao động trừu tượng như là phạm trù lô-gíc

Việc đặc trưng lý luận của Marx về giá trị là thuyết về giá trị-lao động xuất phát từ một cách đọc Tư bản coi Tiết 1 Chương 1 [Hai nhân tố của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị (Thực thể của giá trị. Lượng của giá trị)] là chứa đựng toàn bộ, hay chí ít nội dung chủ yếu của cách thức Marx chứng minh giá trị, là phân tích lô-gíc hành vi trao đổi hàng hóa, khởi đi từ phương trình lúa mì - sắt. Phép chứng minh tóm tắt như sau: phương trình “1 góc tạ lúa mì = a kg sắt” có nghĩa là giá trị của 1 góc tạ lúa mì = giá trị của a kg sắt = một lượng lao động xã hội cần thiết nhất định. Nếu giá trị của hàng hóa do lao động xác định, hay nói cách khác nếu lao động là lĩnh trường thông ước (champ de commensurabilité) của hàng hóa, thì đó là vì Marx cho rằng mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động.

1. Trước lời phản bác của E. Bohm-Bawerk[112], nhiều tác giả khác đã tìm cách triển khai lập luận lô-gíc của Tiết 1 nói trên. Như P. Nikitine khi cho rằng các hàng hóa chỉ có thể mang ra so sánh với nhau bởi “có một cái gì đó chung”. Mà các hàng hóa đều có chung những thuộc tính như sau: tính hữu dụng, tính đối tượng của cung và cầu, tính khan hiếm, tính sản phẩm của lao động. Sau khi xem xét và loại bỏ ba nhân tố đầu, Nikitine kết luận: “Nguyên do của giá trị không phải là tính hữu dụng, cũng không phải là tính đối tượng cung - cầu hay là tính khan hiếm. Còn lại là lao động và chính nó tạo nền tảng, hay như Marx nói, thực thể của giá trị”[113].

Trên bình diện thuần lô-gíc, lập luận của Nikitine gây nên tranh cãi. Trước tiên, phương pháp suy luận bằng phép khử (par élimination) không thể loại trừ khả năng thiếu sót khi kiểm kê các nhân tố chung[114]. Hơn nữa, như đã nhận xét ở trên, lập luận bằng phản chứng (par l’absurde) cũng có thể đưa đến một thuyết thay thế, căn cứ giá trị trên tính hữu dụng. Và xét cho cùng, bất cứ đặc tính nào cũng có thể thành giải pháp, bởi phương trình “1 góc tạ lúa mì = a kg sắt” cũng có thể có nghĩa là các lượng lúa mì và sắt có cùng trọng lượng, hay có cùng khối lượng, v.v.. Cho nên Marx mỉa mai các nhà kinh tế học - như Karl Knies - đã thiết lập phương trình giữa các giá trị sử dụng khác nhau, với lời chất vấn họ: “Thế thì tại sao không quy tất cả giá trị sử dụng đó vào… trọng lượng của chúng cho rồi”[115]. Khi tìm cách chứng minh lý luận của Marx về giá trị bằng một phân tích về trao đổi thuần lô-gíc, Nikitine xem xét vấn đề như Bohm-Bawerk đặt ra, nhưng đi ra khỏi cách Marx đặt vấn đề.

Các tác giả đặc trưng lý luận của Marx là thuyết về giá trị-lao động đều quy chiếu đến luận đề của Tiết 1, Chương 1 Tư bản theo đó: “Nếu không kể đến giá trị sử dụng của hàng hóa, thì hàng hóa chỉ còn có một tính chất mà thôi, tính chất là sản phẩm của lao động”. Nhưng đó là vì họ không đọc mệnh đề tiếp theo trong đó Marx chỉ rằng điều cần xem xét không phải là thuộc tính của hàng hóa là sản phẩm của lao động vì “chính bản thân sản phẩm của lao động đã biến hóa mà ta không biết”[116]. Vấn đề không phải là nắm lấy hàng hóa với tư cách là sản phẩm của lao động, mà là nắm lấy những sản phẩm của lao động với tư cách là “kết tinh của cái thực thể xã hội chung của chúng”, là vật hóa tính chất xã hội của lao động, tức là lao động với tư cách là nó tái sản xuất các quan hệ xã hội về sản xuất. Bởi hàng hóa không phải là sản phẩm của lao động như người ta thường nói, mà là một hình thái của sản phẩm lao động. Và chính “thực tế” này của sản phẩm lao động, mà Marx cho là “hư ảo”, mới là đối tượng của phân tích giá trị[117]. Vả lại, Marx giải thích vì sao hàng hóa không thể quy thành sản phẩm của lao động: bởi khi tìm cách khám phá lao động ở trong hàng hóa, thì ta không hề thấy lao động trừu tượng, mà thấy lao động có ích; hơn nữa, ta thấy rằng hàng hóa không chỉ là sản phẩm của lao động mà còn là sản phẩm của tự nhiên: “Vải, với tư cách là giá trị, chỉ gồm có lao động, nó là lao động đông lại tương tự như là pha lê trong suốt. Tuy nhiên, trong thực tế, pha lê này thật mờ đục. Nếu phải khám phá lao động ở trong nó, thì đó không phải là lao động không phân biệt của con người, mà là lao động của ngành dệt; hơn nữa, lao động này lại luôn luôn kết hợp với chất liệu tự nhiên, thay vì chỉ một mình nó cấu thành thực thể”[118]. Vì vậy mà không thể chứng minh thuyết về giá trị-lao động bằng một phân tích thuần lô-gíc của phương trình trao đổi hàng hóa.

Rudolf Hilferding (1877-1941)

2. Phủ nhận lời phản bác của Bohm-Bawerk, một số tác giả khác tìm cách biện bạch thuyết giá trị-lao động với “chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Nổi tiếng nhất là lời đáp của Rudolf Hilferding đồng nhất hóa thuyết về giá trị với thuyết duy vật lịch sử: Khi chọn lao động làm nền tảng của giá trị, Marx - theo lời Hilferding – chỉ làm nổi bật “nhân tố mà chất và lượng, nhân tố mà phương thức tổ chức và năng lực sản xuất, cai quản đời sống xã hội trong tương quan nhân quả”. Với ý nghĩa đó, “khái niệm nền tảng của kinh tế học đồng nhất hóa với khái niệm nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Khái niệm về giá trị-lao động chỉ mang tính lịch sử trong nghĩa nó gắn với “thời kỳ mà lao động và khả năng bố trí nó chưa được nêu lên thành nguyên lý điều tiết hoạt động cai trị và chuyển hóa xã hội một cách có ý thức, tức còn thuộc về một thời kỳ mà nguyên lý này vận hành một cách vô thức và tự động như là một thuộc tính vật chất của sự vật”[119]. Gần quan điểm của Hilferding, có cách đọc của Jean-Luc Dallemagne cho rằng lập luận về giá trị của Marx “khá giống với một phép chứng minh bằng phản chứng, bị cắt cụt và do đó giả dối, đã cho phép Wicksteed đề xuất một lời giải khác: tính hữu dụng nói chung. Song, cần nhớ rằng Marx lập luận trong lĩnh trường của quy luật về kiệm ước thời gian lao động (loi d’économie du temps de travail) được ông xác lập ở nơi khác”. Theo Dallemagne, giá trị-lao động “không được xác lập ở cấp độ của bộ Tư bản, mà bởi các nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa duy vật lịch sử”[120].

Paul Mattick (1904-1981)

Lời đáp ở đây không thỏa đáng, bởi nó chỉ phó thác vào chủ nghĩa duy vật lịch sử mà không thấy cần thiết phải khái niệm hóa hình thái của lao động tạo nên giá trị. Chỉ quy chiếu đến phạm trù lao động như là “nhân tố cai quản đời sống xã hội trong mối tương quan nhân quả” hay đến “quy luật chung về kiệm ước thời gian lao động”, không giải đáp vấn đề tồn tại của giá trị, bởi tạo nên giá trị không phải là lao động chung chung mà là lao động trừu tượng - cụ thể. Như Paul Mattick có nhận xét: “Mặc dù phương thức sản xuất giá trị - cũng như các phương thức sản xuất khác - dựa trên lao động xã hội và sự kiệm ước thời gian lao động, nền sản xuất giá trị không xuất phát từ tự thân quá trình lao động. Chính xác hơn, nó xuất phát từ quá trình lao động này đã chuyển hóa bởi các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”[121]. Bởi vì vấn đề chủ yếu đối với Marx là “vì sao lao động lại biểu tượng trong giá trị?”, ta không thể dừng lại ở thuyết về giá trị-lao động của chính trị kinh tế học, mà không phân tích với tác giả Tư bản khái niệm lao động trừu tượng - cụ thể. “Ở tất cả các nhà kinh tế học cho đến nay, việc quy hàng hóa thành ‘lao động’ vẫn mang tính nhập nhằng, không đầy đủ - Marx nói. Vấn đề không phải là quy hàng hóa thành ‘lao động’ mà là thành lao động dưới hình thái hai mặt của nó”[122].

Thật ra, ở hai tác giả Hilferding và Dallemagne, khái niệm lao động trừu tượng có xu hướng quy thành lao động xã hội cần thiết. Cho nên, cũng như ở Rosa Luxemburg, lao động trừu tượng rút lại thành tính quy định thuần định lượng của nó và chỉ sự cần thiết phân bổ lao động trong mọi xã hội nhằm kiệm ước thời gian lao động của xã hội[123]. Đó là hiểu sai lý luận của Marx, là đánh mất chiều kích hình thái của nó. Hẳn Marx có viết rằng “xét cho cùng, kinh tế học quy lại là kiệm ước thời gian” bởi “xã hội cần phân bổ thích đáng thời gian của nó để nền sản xuất thích ứng với toàn bộ nhu cầu của xã hội”; chẳng hạn trong các hình thái sản xuất phi hàng hóa, như nền sản xuất cộng đồng, “quy luật kinh tế đầu tiên vẫn là kiệm ước thời gian và phân bổ hợp lý thời gian lao động giữa các ngành sản xuất khác nhau. Song, điều đó hoàn toàn khác với việc đo lường giá trị trao đổi (lao động và sản phẩm lao động) bằng thời gian lao động”[124]. Viện dẫn chủ nghĩa duy vật lịch sử để biện minh thuyết về giá trị-lao động dẫn đến kết quả nghịch lý là biến hóa một phạm trù mang tính lịch sử, đặc thù của chủ nghĩa tư bản thành một phạm trù tự nhiên, có hiệu lực ở mọi thời kỳ. Lý do phải tìm ở tính chất lừa phỉnh của khái niệm về giá trị-lao động. Bởi, với P. Mattick, cần nhắc rằng: “giá trị không ăn nhập gì với tự thân lao động, giá trị chỉ liên quan đến lao động như nó biểu hiện trong các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”[125]. Do đó mà phải định nghĩa khái niệm về lao động trừu tượng với tư cách là hình thái[126].

3. Khi, như trong diễn giải của R. Luxemburg và R. Hilferding, khái niệm lao động trừu tượng rút lại thành tính quy định về lượng của lao động xã hội cần thiết, nó có xu hướng trở thành một phạm trù thuần lô-gíc với cương vị tương tự khái niệm về “lao động sáp nhập” (travail incorporé) của Ricardo. Là nguyên lý về thông ước, lao động sáp nhập chỉ lao động trong tính không phân biệt và theo nghĩa đó là trừu tượng[127]. Nhưng đây không phải là sự trừu tượng hóa có tính xã hội, tương ứng với một quá trình xã hội nhất định: nó đơn giản chỉ một sự trừu tượng hóa thuộc về tinh thần, một giả thuyết xem lao động là đồng nhất trong khi rõ ràng nó không hề như vậy[128]. Khác với phạm trù về lao động trừu tượng của Marx khái niệm hóa một hình thái đặc thù tư bản chủ nghĩa của lao động, khái niệm về lao động sáp nhập của Ricardo chỉ là một giả thuyết về đồng nhất hóa mang tính giản lược.

Không nắm bắt được khác biệt giữa Marx và Ricardo, một số tác giả đã biến hóa lao động trừu tượng thành một khái niệm thuần lô-gíc và khai mào cho các cách đọc “xét lại” Marx. Khởi điểm của họ là đọc bộ Tư bản theo quan điểm của thuyết Kant và coi lý luận về giá trị của Marx như là “giả tưởng mang tính phát hiện” (fiction heuristique), là “giả thuyết cần thiết” nhưng chỉ là một giả thuyết: giá trị không phải là một sự kiện hiện thực, “sự kiện thực nghiệm”, mà chỉ là một sự kiện tưởng tượng, “sự kiện lô-gíc” (Werner Sombart); đó chỉ là “giả tưởng” mặc dù là “cần thiết” (Conrad Schmidt); là quan niệm “thuần lý luận”, một “sự trừu tượng hóa có tính giả thuyết” (Wilhem Lexis)[129]. Từ “giả thuyết” về giá trị-lao động, cách đọc xét lại chuyển dần sang giả thuyết về giá trị-hữu dụng như là một lời giải thay thế (Mikhail Tugan-Baranowsky) hay là một lời giải tổng hợp (Edouard Bernstein, Benedetto Croce)[130].

Karl Kautsky (1854-1938)

Chính là trong cuộc tranh luận giữa các tác giả thuộc phe “xét lại” với Karl Kautsky (trước khi ông gia nhập phe ấy) mà tên gọi “giá trị-lao động” được gán cho thuyết về giá trị của Marx cũng như thuyết của Ricardo với nội hàm duy tự nhiên của nó. Theo Kautsky, thuyết “giá trị về lao động” (valeur-de-travail) chỉ có nghĩa như sau: “giá trị của một sản phẩm chỉ do lao động mà nó đại biểu xác định”[131]. Ngày hôm nay, việc quy phạm trù lao động trừu tượng thành một khái niệm thuần lô-gíc, thậm chí là một khái niệm mang tính “tiên đề học” (axiomatique), là đặc điểm của các cách đọc Marx “hiện đại hóa” (moderniste): cách đọc “tân Ricardo” trong đó lao động trừu tượng chỉ là một nguyên lý đo lường sản phẩm; hay cách đọc “tân cổ điển” trong đó lao động trừu tượng là một nguyên lý phân bổ tối ưu các nguồn lực. Hai cách đọc này lại có thể kết hợp nhau trong cùng một văn bản: lao động trừu tượng hiện ra một mặt như là nguyên lý về tính thông ước của hàng hóa, một “định đề về đồng nhất hóa thông qua lao động” (postulat d’homogénéisation par le travail); và mặt khác, lao động trừu tượng hiện ra như là nguyên lý về hạch toán kinh tế, một “chỉ số về tính khan hiếm của lao động” (indice de rareté du travail)[132]. Các cách đọc Marx có tham vọng thuần lô-gíc và coi thường tính chất lịch sử của những phạm trù kinh tế của chủ nghĩa tư bản là nạn nhân của tính sùng bái hình thái giá trị. Hiểu đúng đắn thì phạm trù về lao động trừu tượng đòi hỏi trước hết phải vượt ra khỏi sự sùng bái này.

§ 142: Lao động trừu tượng như là phạm trù siêu hình

Theo một cách đọc Marx trở nên phổ biến, tự thân tác giả của Tư bản đã “không thoát khỏi sự sùng bái mà chính ông đã phê phán” ở chính trị kinh tế học[133]. Đó là luận điểm của một tác giả như Cornelius Castoriadis mà những lập luận liên quan đến lao động trừu tượng gồm hai điểm.

Lập luận thứ nhất: Khi lấy lao động trừu tượng làm “thực thể” của giá trị, lý luận của Marx đưa ra một “lý lẽ hằng đúng có tính siêu hình học” (tautologie métaphysique). Việc thực thể hóa này không hề có trong chính trị kinh tế học cổ điển vì thuyết giá trị-lao động chỉ là “lý lẽ hằng đúng đơn giản” (tautologie simple), là vấn đề lẽ thường, theo đó các hàng hóa trao đổi với nhau theo tỷ lệ của lao động đã tiêu phí để sản xuất ra chúng. Thật vậy, nói rằng các vật phẩm mang giá trị trao đổi nào đó, là nói rằng giữa những vật phẩm này có một tính tỷ lệ do những người sản xuất ra chúng xác lập. Điều này khác hẳn khi người ta khẳng định rằng các vật phẩm mang giá trị trao đổi nào đó vì chúng có giá trị như thế với tư cách là kết tinh của một lượng thực thể-lao động đồng chất. Trong mệnh đề đầu tiên, ta “khó lòng không tự hỏi về nền tảng của tính tỷ lệ đó, cũng như ta khó lòng quên rằng nó do xã hội thiết định”. Còn trong mệnh đề sau, lý lẽ “dễ dàng trượt sang một thực thể mang tính tự nhiên”. Trong nghĩa đó, tác giả của Tư bản là “nhà siêu hình học”[134].

Lập luận thứ hai: Khi thực thể hóa lao động trừu tượng, Marx đặt tính ngang bằng của lao động - tức việc quy “tính không thuần nhất” (hétérogénéité) của các con người cá nhân thành những khác biệt thuần định lượng - trong một trật tự lý tính, “một trật tự tự nhiên, lô-gíc hay suy nghiệm”. Trong khi đó chỉ là một “tính giả thuần nhất” (pseudo-hétérogénéité) do chủ nghĩa tư bản tạo nên, thì tác giả Tư bản biến nó thành một thực thể “phổ quát, xuyên lịch sử”. Chí ít điều đó hiện ra khi Castoriadis đọc Tiết 4 bàn về tính sùng bái trong Chương 1: Giá trị được Marx trình bày như là biểu hiện “của một cái luôn luôn tồn tại tuy ẩn nấp, là sự ngang bằng mang tính thực thể của những con người và lao động của họ[135] Vì vậy mà giá trị tồn tại trong mọi xã hội, kể cả trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Thậm chí nó tồn tại trước khi có xã hội: bàn về lao động của Robinson Crusoe ở một mình trên hòn đảo, văn bản của Marx ghi rằng “tất cả các tính quy định chủ yếu của giá trị đều đã chứa đựng trong nó rồi”. Và, ở một xã hội xã hội chủ nghĩa, “tất cả những điều mà ta đã nói về lao động của Robinson đều diễn lại ở đây trên bình diện xã hội thay vì bình diện cá nhân”[136].

Cách đọc Tư bản của Castoriadis đáng chú ý ở chỗ nó truy tìm có hệ thống các mâu thuẫn lô-gíc trong sự trình bày phạm trù lao động trừu tượng, khiến phạm trù này được Marx tư duy “khi thì như thuần sinh lý - tự nhiên và khi thì như hoàn toàn xã hội”; “khi thì như xuyên lịch sử và khi thì như là đặc thù của thời kỳ tư bản chủ nghĩa; khi thì như là biểu hiện sự vật thể hóa con người dưới chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa và khi thì như là nền tảng cho phép hạch toán kinh tế thuần lý trong xã hội tương lai”[137]. Tuy nhiên, cho dù không thể chối cãi rằng trình bày của Tư bản có những chỗ nhập nhằng, nước đôi, lối diễn giải “duy tự nhiên” (naturaliste) của Castoriadis không thể thuyết phục. Bởi nó phủ định cương vị hình thái của lao động trừu tượng bị tác giả đồng nhất hóa với ý niệm về lao động nói chung. Việc Marx khái niệm hóa lao động trừu tượng với tư cách là hình thái xã hội và lịch sử đã được xem xét ở trên, ở đây chúng tôi chỉ nhận xét bổ sung hai điểm do Castoriadis nêu ra.

1. Mục tiêu của tác giả Tư bản trong Tiết 4 về tính sùng bái - nơi Marx đối chiếu hình thái xã hội về sản xuất hàng hóa với các hình thái xã hội không sản xuất hàng hóa (Robinson Crusoe, lãnh địa phong kiến, gia đình gia trưởng, tập thể con người tự do) - là: làm rõ các phạm trù về lao động trừu tượng và về giá trị không thuộc phân tích lao động xã hội nói chung hay lao động ngang bằng nói chung, mà thuộc về phân tích một hình thái lịch sử nhất định của lao động xã hội ngang bằng[138]. Luận điểm ngược lại của Castoriadis quy chiếu đến trường hợp của Robinson mà sinh hoạt lao động, như Marx viết, chứa đựng tất cả “tính quy định chủ yếu” của giá trị. Một cách trình bày quả có phần nhập nhằng, nước đôi đã gây nên tranh cãi về tính chất xã hội và lịch sử của lao động trừu tượng; và tạo chỗ tựa cho những diễn giải quy luật giá trị như là quy luật phổ quát chi phối mọi hình thái xã hội về sản xuất. Tuy thường được viện dẫn, luận đề về Robinson hiếm khi được xem xét trong nội dung: những “tính quy định” mà tác giả Tư bản nói đến là gì? Marx trình bày điều này ở đầu tiết bàn về tính sùng bái, lúc ông nói đến “tính huyền bí” của sản phẩm lao động từ khi nó mang hình thái của hàng hóa. Marx cho rằng tính huyền bí này không phải do giá trị sử dụng của hàng hóa sinh ra. Nhưng nó cũng không phải do “các tính qui định giá trị” của hàng hóa sinh ra: nó không xuất phát từ “tính chất ngang bằng của lao động con người”, tức là lao động ngang bằng nói chung; không xuất phát từ “việc đo các lao động cá nhân bằng thời gian lao động”, tức là thời gian lao động nói chung; không xuất phát từ “tính chất xã hội của lao động”, tức là lao động xã hội nói chung.

Chúng tôi trích dẫn toàn bộ văn bản quan trọng này mà trước đây chúng ta đã xem xét một phần: “Tính huyền bí của hàng hóa không phải do giá trị sử dụng của nó sinh ra và cũng chẳng phải do những tính quy định giá trị của nó sinh ra. Trước tiên, những lao động có ích hay những hoạt động sản xuất, dù có muôn hình muôn vẻ đến đâu đi nữa, thì sự thật về mặt sinh lý là: các lao động và hoạt động đó trước hết vẫn là những chức năng của cơ thể con người, và bất cứ chức năng nào giống như vậy, dù có nội dung và hình thức nào đi nữa, thì chủ yếu cũng vẫn là một sự tiêu phí của bộ óc, của thần kinh, của bắp thịt, của các khí quản, các giác quan, v.v. của con người. Hai là, đối với cái dùng để xác định lượng của giá trị, tức thời gian của sự tiêu phí đó, hay là lượng lao động, thì người ta không thể phủ nhận rằng lượng của lao động đó khác rõ rệt với chất của nó. Trong tất cả các trạng thái xã hội, người ta đều phải quan tâm đến thời gian cần để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, nhưng mức độ quan tâm có khác nhau tùy theo trình độ của nền văn minh. Cuối cùng, từ khi con người lao động cho nhau theo một cách nào đó, thì lao động của con người cũng mang một hình thái xã hội.”

“Thế thì tính chất huyền bí của sản phẩm lao động khi nó mang hình thái hàng hóa là do đâu mà ra? Dĩ nhiên là do chính bản thân hình thái ấy. Tính chất ngang bằng của các lao động của con người mang hình thái giá trị của các sản phẩm lao động; việc đo lao động cá nhân bằng thời gian lao động mang hình thái lượng giá trị của sản phẩm lao động; cuối cùng quan hệ giữa những người sản xuất, trong đó thể hiện tính chất xã hội của lao động của họ, mang hình thái một quan hệ xã hội giữa các sản phẩm lao động”[139].

Quả văn bản trên đây làm sáng tỏ vấn đề về “những tính quy định chủ yếu của giá trị” chứa đựng trong lao động của Robinson, tuy nhiên phải thừa nhận rằng vẫn có sự nhập nhằng nào đó khi Marx chỉ ba tính quy định đó của giá trị - là lao động ngang bằng nói chung, thời gian lao động nói chung, lao động xã hội nói chung - bằng từ ngữ “những tính quy định giá trị” (caractères qui déterminent la valeur) trong ấn bản tiếng Pháp năm 1875. Phải ghi nhận rằng tác giả Tư bản phát biểu chính xác hơn trong các văn bản tiếng Đức: ấn bản đầu tiên năm 1867 nói đến “những tính quy định của giá trị khi xét tính quy định đó tự nó” (déterminations de la valeur considérées en elles-mêmes); ấn bản cuối cùng năm 1890 là đích xác nhất khi nói đến “nội dung của những tính quy định giá trị” (contenu des déterminations de la valeur) đối lập với tính quy định về “hình thái”[140].

Song bất luận độ chính xác về phát biểu của tác giả Tư bản, vấn đề là Castoriadis đảo ngược tư duy của Marx mà mục tiêu trong văn bản này là xác lập kết quả lý luận như sau: tính chất ngang bằng của lao động, thời gian của lao động và tính chất xã hội của lao động, tự thân chúng nó, không phải là những tính quy định của lao động trừu tượng; chúng chỉ trở thành tính quy định của lao động trừu tượng khi vận hành trong những quan hệ sản xuất như thế nào mà chúng mang hình thái của những tính quy định giá trị. Bởi đối với Marx, vấn đề là phân biệt sự có mặt trong mọi hình thái xã hội của cả ba quá trình - xác định lao động xã hội, làm cho các loài lao động ngang bằng và làm cho các sản phẩm lao động ngang bằng - với hình thái đặc thù mà các quá trình đó mang vì những chức năng xã hội mà chúng đảm nhận trong hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Và nếu quả là “nội dung của những tính quy định giá trị” tồn tại trong các hình thái xã hội về sản xuất khác hơn chủ nghĩa tư bản, chính vì trong các hình thái đó không có quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cho nên thiếu vắng cả lao động trừu tượng lẫn giá trị. Các phạm trù về lao động trừu tượng và về giá trị là “những hình thái tư duy có sự thật khách quan trong chừng mực chúng phản ánh những quan hệ xã hội hiện thực, nhưng các quan hệ này chỉ thuộc về một thời đại lịch sử nhất định này thôi - thời đại mà nền sản xuất hàng hóa là phương thức sản xuất xã hội. Dó đó nếu chúng ta xét tới các hình thái sản xuất khác, ta sẽ thấy tính chất huyền bí, đang che mờ các sản phẩm lao động trong thời kỳ hiện nay, biến đi ngay”[141]. Hay nói cách khác, không phải là “nội dung” của tính quy định mà chính là “hình thái” của nó định nghĩa lao động trừu tượng và giá trị. Và trong sự phân biệt giữa hình thái và nội dung này, hình thái không do nội dung sinh ra - bởi không phải nội dung của tính quy định tự nó sinh ra tính quy định về hình thái, mà chính là các quan hệ sản xuất khiến nội dung này mang hình thái đó[142].

Ở đây có thể nói thêm về “câu chuyện kiểu Robinson”. Robinson Crusoe phải tiến hành những lao động có ích thuộc nhiều loại khác nhau mà “gã hiểu rằng đó chỉ là những hình thái khẳng định khác nhau của bản thân mình, tức chỉ là những phương thức khác nhau của lao động con người”. Mặt khác, Robinson biết phải phân bổ thời gian của mình giữa các loại lao động khác nhau “tùy theo sự khó khăn lớn hay nhỏ mà gã cần khắc phục để đạt hiệu quả có ích mà gã nhắm đến”. Và Marx kết luận rằng “tất cả những quan hệ của Robinson với những vật hợp thành của cải do bản thân gã tạo ra, đều thật đơn giản và trong suốt đến nổi ông Baudrillard cũng có thể hiểu được mà không phải mệt óc. Thế nhưng tất cả những tính quy định chủ yếu của giá trị đều đã chứa đựng trong đó rồi[143]”. Chúng ta tìm thấy lại ở đây điều Marx đã viết trong bức thư gửi Kugelmann là “bất cử trẻ con nào cũng biết rằng” sự tái sản xuất của mọi xã hội căn cứ trên lao động của nó và sự phân bổ lao động xã hội theo những tỷ lệ nhất định[144]. Nhưng cái mà mọi người - ông Baudrillard cũng như mọi đứa trẻ con - có thể hiểu được là sự cần thiết mà các khái niệm về lao động xã hội và về lao động ngang bằng nói lên; chứ không phải - như đôi khi người ta nói - điều mà các phạm trù về lao động trừu tượng và về giá trị nói lên: tức “hình thái qua đó sự phân bổ lao động theo tỷ lệ được thực hiện trong một xã hội mà cấu trúc lao động biểu hiện dưới hình thái của sự trao đổi tư nhân các sản phẩm lao động cá nhân” – hình thái mà “khoa học” có nhiệm vụ phân tích[145]. Lao động trừu tượng không biểu hiện sự cần thiết chung phải phân bổ lao động xã hội tùy theo yêu cầu kiệm ước thời gian lao động trong mọi xã hội. Là biểu hiện của những quan hệ xã hội về sản xuất nhất định, lao động trừu tượng mang hình thái của lao động ngang bằng thông qua phép làm cho các sản phẩm lao động ngang bằng; trong nghĩa đó, nó là một hình thái về lao động xã hội, lao động với tư cách nó tái sản xuất các quan hệ xã hội về sản xuất đặc thù của chủ nghĩa tư bản; nói cách khác: “các điều kiện của lao động tạo ra giá trị trao đổi là những tính quy định xã hội của lao động hay là những tính quy định của lao động xã hội, và không phải là xã hội không thôi mà là xã hội thuộc loại đặc thù. Đó là là một hình thái về quan hệ xã hội”[146]. Cần nhận xét thêm rằng trường hợp của Robinson – chí ít trước khi có Vendredi tới đảo – tương ứng với một nền kinh tế không có quan hệ xã hội về sản xuất, cho nên không thể có lao động xã hội và càng không thể có giá trị. Marx đã thường công kích các “câu chuyện kiểu Robinson” của chính trị kinh tế học đã đưa nó đến chỗ “đồng nhất hóa quá trình xã hội về sản xuất với quá trình lao động của một con người ở trạng thái cô lập bất bình thường, hoàn toàn không nhận bất cứ hỗ trợ nào từ xã hội”[147].

Cho nên, trừ khi hiểu ngược ý của Marx, không thể đề ra từ văn bản về sự sùng bái của Chương 1 Tư bản một cách diễn giải lao động trừu tượng và giá trị mang tính chất duy tự nhiên. Ngược lại, cách diễn giải duy tự nhiên đó có thể rút ra từ những văn bản về sự tha hóa thuộc thời trẻ của Marx 1844-1845, ở đó tác giả bảo vệ một quan niệm về lao động trừu tượng như là biểu hiện tha hóa của bản thể tính loài của lao động con người, và một khái niệm về giá trị theo quan điểm Proudhon nhằm xác lập con người trong quyền hạn của nó. Khi đoạn giao với nhân loại luận làm nền tảng cho các tác phẩm thời trẻ, Marx đã từ bỏ, như ta đã thấy, mọi quan niệm về giá trị-lao động có chủ đích “phục hưng nhân loại” (valeur-travail regénératrice).

Joseph Schumpeter (1883-1950)

2. Chương 1 Tư bản mang tính “siêu hình” theo lời của Castoriadis lặp lại ở đây một nhận định của Joseph Schumpeter[148]. Tác giả Tư bản là “nhà siêu hình học” theo nghĩa ông cầu đến ý niệm về “thực thể”: thay vì dừng lại như chính trị kinh tế học ở ý niệm về giá trị trao đổi hiểu như là quan hệ trao đổi, Marx đã tìm cách “thực thể hóa” nó với một khái niệm về giá trị khiến ông trượt dần đến “tính tự nhiên” của lao động trừu tượng. Castoriadis còn tố giác ngôn ngữ “hóa học” của Tiết 1 Chương 1[149]: giá trị được Marx mô tả như là “kết tinh” của thực thể-lao động, như là lao động con người “đông lại”, thời gian lao động “đông tụ”[150]. Ý nghĩa của những phép ẩn dụ này là gì? Văn bản của Marx nói rõ khi bàn đến sự kết tinh của lao động trừu tượng: “Nhưng trong thực tế, pha lê này thật mờ đục” và không thể “tìm thấy” trong nó một tí lao động trừu tượng nào cả[151]. Tác giả Tư bản còn chế nhạo “các nhà kinh tế học đã bịa ra những chất hóa học loại như vậy” trong khi cho đến nay “chưa có nhà hóa học nào phát hiện giá trị trao đổi trong ngọc trai hay kim cương cả”[152]. Tương tự, khi Marx bàn về hàng hóa như là sự “vật chất hóa” lao động trừu tượng, ông chỉ nói đến “một sự tồn tại tưởng tượng”, tồn tại thuần xã hội của lao động, không ăn nhập gì với tính vật chất của lao động cả: ta phải hình dung nó dưới hình thái của “một lượng tiền tệ”. Phê phán các nhà kinh tế học hiểu sự vật chất hóa lao động theo nghĩa đen, Marx nhận xét, “trong trường hợp này, ảo giác đến từ chỗ một quan hệ xã hội biểu tượng dưới hình thái của một vật”[153]. Những ẩn dụ mang tính “hóa học” của Tiết 1 Tư bản có liên quan đến hiện thực ảo giác đó. Ngôn ngữ ẩn dụ gắn liền với đối tượng phân tích của Chương 1: Khác với chính trị kinh tế học, phân tích của Tư bản không giới hạn vào tính quy định về lượng của quan hệ trao đổi hàng hóa, đối tượng phân tích của Marx là hình thái giá trị của sản phẩm lao động và sự sùng bái hình thái đó, tức là một hình thái đặc thù về lao động xã hội trong đó những quan hệ xã hội hiện ra như là một thuộc tính tự nhiên của các sản phẩm.

Luận điểm của Castoriadis thật ra dùng lại một lý lẽ phản biện cổ truyền của Samuel Bailey mà Marx đã nói trả lại[154]. Nhận xét rằng giá trị trao đổi đơn giản chỉ là “quan hệ giữa hai vật”, tức một điều gì hoàn toàn tương đối, Bailey phủ nhận mọi khái niệm về giá trị như là thực thể, như là cái gì tuyệt đối: “‘Sở hữu giá trị’, ‘chuyển một phần giá trị’, ‘tổng số giá trị’, v.v. - tất cả những điều này, tôi không biết là gì”. Theo Bailey, việc biến giá trị thành cái gì độc lập (autonomisation de la valeur) chỉ là một “sáng chế kinh viện”[155]. Bác bỏ lời phản biện này của Bailey, Marx cho rằng: “Hoàn toàn sai lầm khi nói rằng [như Bailey] là giá trị của hàng hóa từ một điều tương đối đã biến thành thành cái gì tuyệt đối”. Đối với Marx, trong giá trị, “phải nhìn thấy một cái gì tương đối mà thôi, là mối quan hệ của các vật với lao động xã hội, với lao động xã hội trên cơ sở trao đổi tư nhân trong đó các vật được xác định như là biểu hiện của nền sản xuất xã hội, chứ không phải như một cái gì độc lập”. Bác bỏ quan niệm về giá trị như là một thực thể hay một cái gì đó tuyệt đối, Marx đồng thời cho rằng ý niệm về thực thể của giá trị trong Tư bản gắn kết với biểu tượng của lao động trừu tượng trong tiền tệ, và đó là khác biệt cơ bản giữa phân tích của ông với Bailey: “Cho rằng giá trị không phải là điều gì tuyệt đối, rằng không được quan niệm nó như là một thực thể [như Bailey khẳng định], đó là điều hoàn toàn khác hẳn với nhận định cho rằng giá trị trao đổi của hàng hóa phải có một hình thái độc lập khác với giá trị sử dụng của nó (hay với sự tồn tại của hàng hóa như là sản phẩm hiện thực) và tồn tại độc lập với giá trị sử dụng – tức là với nhận định cho rằng lưu thông hàng hóa phải đưa đến sự hình thành của tiền tệ. Giá trị trao đổi của hàng hóa biểu hiện như vậy trong tiền tệ - trước hết trong giá cả là một hình thái trong đó hàng hóa biểu tượng như là tính vật chất của cùng một thứ lao động, như là biểu hiện của cùng một thực thể”[156]. Nói cách khác, “thực thể của giá trị” là khái niệm cần thiết để phân tích “hình thái của giá trị”, tức phân tích sự hình thành của tiền tệ trong quá trình giá trị của hàng hóa “biến thành điều độc lập”: tiền tệ trở thành “vật hóa của lao động chung”, “thực thể chung của giá trị trao đổi”[157]. Nói gọn lại, nếu không có hình thái, không thể tư duy thực thể. Cho nên, không phải tư duy của Marx mang tính siêu hình mà là đối tượng của tư duy: hình thái giá trị của sản phẩm lao động mà tính sừng bái - như chính Marx viết - đã biến hình thái này thành “một vật thật phức tạp, đầy những điều tinh tế siêu hình và những lý lẽ thần học”[158].

Lý luận về giá trị của Marx thật ra là lý lẽ “hằng đúng” (tautologie) theo lời nói của Castoriadis lặp lại một lập luận của Joan Robinson, theo đó giá trị-lao động chỉ là “một vấn đề từ ngữ”, “một vấn đề thuần định nghĩa”: “Lao động sản sinh giá trị, giá trị là cái lao động sản sinh”[159]. Như là phòng trước lời phản biện này, chính Marx đã vạch ra lý lẽ hằng đúng: bởi vì giá trị “không gì khác hơn là mối quan hệ giữa những lao động cá nhân xét như là lao động ngang bằng chung, bởi nó không là gì khác hơn là biểu hiện vật hóa của một hình thái lao động xã hội đặc thù, nói rằng lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị là lý lẽ hằng đúng”[160]. Nhưng cùng lúc Marx làm hiện ra rằng, với tư cách biểu hiện vật hóa của một hình thái lao động xã hội đặc thù - là lao động trừu tượng -, giá trị không phải là sản phẩm của lao động, mà của những điều kiện xã hội về sản xuất nhất định: chính các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa biến lao động thành giá trị[161]. Do đó không thể cho rằng, ở Marx, nội dung lô-gíc của định nghĩa về giá trị chỉ là “định đề”[162].

Nếu lý luận của Marx hiện ra như là luận đề hằng đúng, đó là vì, như Castoriadis, người ta đồng hóa nó với thuyết giá trị-lao động của chính trị kinh tế học. Mà, như đã nhận xét, “giá trị-lao động” là một từ ngữ lừa phỉnh bởi vì tạo ra giá trị không phải là lao động, cũng không phải là lao động ngang bằng hay lao động xã hội, mà là các quan hệ sản xuất trong đó lao động xã hội được tiến hành. Hơn nữa, sở dĩ lý luận của Marx hiện ra đối với Castoriadis như là một thuyết giá trị-lao động, đó là vì ông bác bỏ sự phân biệt của Marx giữa giá trị trao đổi và giá trị, và quy, như chính trị kinh tế học cổ điển, giá trị trao đổi vào quan hệ trao đổi. Trong khi Marx nhấn mạnh tầm quan trọng được - mất (enjeu) về mặt lý luận của sự phân biệt giá trị - giá trị trao đổi: đó là khả năng phân tích hình thái, và cùng lúc phê phán sự sùng bái giá trị-lao động. Không có gì phải ngạc nhiên khi Castoriadis đã lật ngược phê phán của Marx đối với kinh tế học cổ điển thành phê phán của kinh tế học cổ điển đối với Marx, rồi lại trách cứ tác giả Tư bản đã rơi vào sự sùng bái mà chính ông đã trách cứ các tác giả cổ điển[163].

§ 143: Bàn về Chương 1, Quyển I bộ Tư bản

Kết thúc phần nghiên cứu thứ nhất dành cho hình thái lao động trừu tượng - cụ thể, chúng ta cần xác định những kết quả đã đạt đến. Mục tiêu của những trình bày và tranh luận trên đây là làm rõ sự cần thiết phân biệt trong lý luận của Marx phạm trù về lao động trừu tượng với những ý niệm về lao động sinh lý, lao động nói chung, lao động xã hội hay lao động ngang bằng. Và một cách tương liên, phân biệt phạm trù về lao động cụ thể với những ý niệm về lao động có ích, lao động tư nhân hay lao động cá nhân. Phải nói rằng việc phân biệt này không đương nhiên được xác định, mà đòi hỏi chúng ta xem xét những luận đề phản biện, bởi trình bày của Marx không phải bao giờ cũng rõ ràng; mặt khác, khi bị cách ly trong lập luận, một số mệnh đề của Chương 1 như có tính nước đôi và gây nhầm lẫn. Song, theo chúng tôi, đó là những sự phân biệt có tính thiết yếu khi chúng ta muốn nắm lấy thật sự - chứ không chỉ nêu một cách hình thức - mâu thuẫn của lao động trừu tượng - cụ thể trong tư duy của Marx[164].

Những khó khăn nhằm xác lập các sự phân biệt nói trên, và những lẫn lộn có thể xảy đến, bắt nguồn từ cách đọc Chương 1 khi nó thiếu chặt chẽ, thậm chí khi bị cắt xén. Chương 1 bao gồm bốn tiết phải đọc theo hai động tác, hay đúng hơn theo một động tác hai mặt: a) Động tác của các Tiết 1 (Hai nhân tố của hàng hóa) và Tiết 2 (Tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hóa), qua đó phân tích của Marx đi từ khái niệm về giá trị trao đổi sang đến giá trị và lao động trừu tượng, và một cách tương liên từ khái niệm về giá trị sử dụng sang đến giá trị sử dụng xã hội và lao động cụ thể. b) Động tác của các Tiết 3 (Hình thái của giá trị) và Tiết 4 (Tính chất bái vật của hàng hóa), qua đó Marx đi từ mâu thuẫn giá trị – giá trị sử dụng và lao động trừu tượng – lao động cụ thể sang đến phạm trù về giá trị trao đổi và tiền tệ.

Động tác hai mặt này tương ứng trong tư duy của Marx với hai mặt phê phán chính trị kinh tế học.

a) Đối tượng của Marx trong động tác thứ nhất (Tiết 1 và 2) là bác bỏ lời phản bác của chính trị kinh tế học “tầm thường” (đặc biệt là Bailey) cho rằng không có gì tồn tại ngoài giá trị trao đổi, rằng giá trị là một khái niệm vô nghĩa: “Theo kinh viện, một giá trị trao đổi nội tại, tự tại của hàng hóa là một mâu thuẫn trong lời nói”[165]. Marx lý giải vì sao không thể phân tích những giá trị trao đổi khác nhau nếu không quy các giá trị trao đổi vào tính đồng nhất của chúng, tức là cương vị hình thái của giá trị, là tính quy định hai mặt lao động trừu tượng - cụ thể; nói cách khác, Marx vạch rõ lý do vì sao chúng ta không thể hiểu được giá trị trao đổi nếu ta dừng lại ở mức độ của trao đổi. Nhiều nhà bình luận Tư bản chỉ quan tâm đến động tác đầu tiên này và giới hạn vào các Tiết 1 và 2 hiểu biết của họ về điều Marx nói liên quan đến giá trị và lao động trừu tượng. Nhưng trong chừng mực ở động tác đầu tiên ấy, Marx xuất phát từ hàng hóa và giá trị trao đổi không như là hình thái phải lý giải mà là tiền giả định, quy các giá trị trao đổi vào những tính quy định chung của chúng không đưa người ta đến phạm trù lao động trừu tượng mà đến tính quy định vật chất của nó, đến lao động ngang bằng nói chung, lao động ngang bằng về mặt xã hội, thậm chí là lao động ngang bằng về mặt sinh học. Do đó mà có thể xảy ra nhầm lẫn giữa lao động trừu tượng với lao động sinh học và lao động xã hội; và một cách tương liên, nhầm lẫn giữa lao động cụ thể với lao động có ích và lao động tư nhân. Cũng từ đó mà, đối với nhiều nhà bình luận Tư bản, lý luận mácxít về giá trị mang đặc trưng truyền thống là thuyết giá trị-lao động, theo đó hàng hóa có giá trị với tư cách là sản phẩm của lao động. Tức người ta nhầm lẫn Marx với Ricardo[166].

b) Đối tượng của Marx trong động tác thứ hai (Tiết 3 và 4) chính là phê phán thuyết về giá trị-lao động này của chính trị kinh tế học “cổ điển” theo đó lý luận về giá trị là đơn giản quy giá trị trao đổi thành lao động, không xét đến giá trị như là hình thái và biểu hiện của nó trong tiền tệ. Theo Marx, những nhà kinh tế học chống lại Ricardo và chính trị kinh tế học cổ điển “hoàn toàn có lý” khi họ trách các tác giả cổ điển “xem xét lao động ngoài sự trao đổi, mặc dù hệ thống cổ điển, như mọi hệ thống tư sản, lấy giá trị trao đổi làm nền tảng”[167]. Sự thất bại của chính trị kinh tế học cổ điển ở chỗ nó không thể xác lập được tính đồng nhất của chủ nghĩa tư bản trên nguyên lý về giá trị-lao động. Lý do là việc tìm kiếm, phân tích tính chất đồng nhất này không thể đạt đến kết quả khi thiếu vắng tính quy định về hình thái, bởi vì lao động với tư cách là “thực thể xã hội” chỉ là một thực thể mang tính hình thái. Marx còn nhận xét rằng chính trị kinh tế học cổ điển thay vì “quan tâm lý giải sự phát sinh các hình thái khác nhau, thì chỉ nhắm quy bằng phân tích những hình thái ấy vào tính chất đồng nhất của chúng - lý do là họ xuất phát từ các hình thái ấy như là dữ liệu tiền giả định[168]”. Và vì nó thiết định hàng hóa như là dữ liệu tự nhiên, thuyết về giá trị-lao động không thể tách biệt lao động và giá trị; do đó thuyết này không thể phân biệt giá trị và giá trị trao đổi; và không thể quan niệm tính hai mặt trừu tượng - cụ thể của lao động xã hội và biểu tượng của nó trong tiền tệ.

Hans-Georg Backhaus (1929-)

Chỉ động tác của Tiết 3 và 4, phân tích hình thái của giá trị và sự sùng bái nó, mới cho phép lý giải lao động trừu tượng - cụ thể trong tính thống nhất hai mặt đối lập của nó. Cách đọc Tư bản như của Isaak Roubine căn cứ trên sự phân biệt rõ rệt hai động tác của Chương 1, và nhấn mạnh tầm quan trọng của động tác thứ hai để hiểu chính xác các khái niệm về lao động trừu tượng và giá trị với tư cách là hình thái xã hội[169]. Tuy nhiên, trong chừng mực Roubine có xu hướng quy việc nghiên cứu động tác thứ hai vào vấn đề sùng bái (Tiết 4) mà coi nhẹ vấn đề hình thái của giá trị (Tiết 3), ông đã không diễn giải được hoàn chỉnh trình bày của Chương 1. Vì vậy mà khái niệm lao động trừu tượng không ăn khớp với phân tích lao động cụ thể mà Roubine đồng hóa với lao động có ích tự nó; và tính quy định giá trị với tư cách là hình thái xã hội cũng không ăn khớp với phân tích thái của giá trị. Cho nên cách Roubine lĩnh hội lao động trừu tượng và giá trị không gắn kết với tiền tệ. Nếu như một cách phủ định, lao động trừu tượng không kể đến các hình thái lao động có ích thì đối với Marx, một cách thực định, nó là sự thống nhất của lao động trừu tượng với một lao động cụ thể nhất định. Biểu tượng của lao động trừu tượng trong tiền tệ nói lên điều đó và khiến cho lý luận về giá trị của Marx không thể tách khỏi phân tích của ông về tiền tệ. Đọc Chương 1 Tư bản mà để qua một bên tiết về hình thái của giá trị là đánh mất đối tượng của Marx khi lý luận về giá trị, là lý giải tiền tệ[170]. Trái với cách thường làm của nhiều nhà bình luận Tư bản, không thể bàn về vấn đề giá trị một cách độc lập với vấn đề tiền tệ, bởi lý luận về giá trị của Marx chỉ có thể hiểu như là thuyết về tiền tệ của ông[171]. Nói cách khác, và như Hans Backhaus đã từng nhấn mạnh, các khái niệm cơ bản của lý luận về giá trị - là lao động trừu tượng và cụ thể, lao động xã hội và tư nhân, giá trị, giá trị sử dụng và giá trị trao đổi - chỉ thấu hiểu được khi chúng cho phép lĩnh hội khái niệm về tiền tệ của Marx[172].

Tóm lại, đối diện với những cách diễn giải khác nhau khái niệm về lao động trừu tượng, phải chăng cần nhắc nhủ một điểu đáng lẽ là hiển nhiên? Việc Chương 1 Tư bản phân chia thành nhiều tiết có nhan đề riêng biệt không thể làm chúng ta quên rằng đó là một toàn thể, rằng không thể liều bỏ qua phần này hoặc phần khác[173]. Đặc biệt Chương 1 trở thành tối nghĩa nếu tách rời các Tiết 1 và 2 với các Tiết 3 và 4 là nơi lao động trừu tượng hình thành hình thái của nó[174]; cũng như không thể tách rời Tiết 4 với Tiết 3 là nơi tiết lộ bí mật của sự sùng bái hình thái ngang giá, tức hình thái biểu hiện của lao động trừu tượng - cụ thể[175].

* * *

THƯ MỤC

Tác phẩm của Marx

(xếp theo thứ tự năm xuất bản văn bản gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp đến là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp được sử dụng trong công trình nghiên cứu này)

1835-1874: Thư từ trao đổi Marx - Engels / Correspondance Marx – Engels, Editions Sociales, 1971-1989, 12 t.

1841-1861: Tác phẩm III. Triết học / Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1843a: Phê phán triết học pháp quyền của Hegel / Critique du droit politique hégelien, Editions Sociales, 1975.

1843b: Về vấn đề Do Thái / “A propos de la Question juive”, in Œuvres III. Philosophie, Gallimard, 1982.

1844: Bản thảo 1844 / Manuscrits de 1844, Editions Sociales, 1972.

1844-1881: Tác phẩm II. Kinh tế / Œuvres II. Economie, Gallimard, 1972.

1845: Gia đình thần thánh (viết cùng với Engels) / La Sainte Famille (avec Engels), Editions Sociales, 1972.

1845-1895: Những lá thư viết về bộ Tư bản (viết cùng với Engels) / Lettres sur Le Capital (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1846: Hệ tư tưởng Đức (viết cùng với Engels) / L’idéologie allemande (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1976.

1847: Sự khốn cùng của triết học / Misère de la philosophie, Editions Sociales, 1968.

1847-1893: Tác phẩm I. Kinh tế / Oeuvres I. Economie, 1977.

1848: Tuyên ngôn đảng cộng sản (viết cùng với Engels) / Manifeste du parti communiste (avec Friedrich Engels), Editions Sociales, 1972.

1848-1849: Nhật báo Neue Rheinische Zeitung / La Nouvelle Gazette Rhénane, t. 3, Editions Sociales, 1963-1971.

1849/1865: Lao động làm thuê và tư bản & Tiền công, giá cả và lợi nhuận / Travail salarié et capital & Salaire, prix et profit, Editions Sociales, 1969.

1850: Đấu tranh giai cấp ở Pháp / Les luttes des classes en France, Editions Sociales, 1970.

1852: Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte / Le 18 Brumaire de Louis Bonaparte, Editions Sociales, 1969.

1857-1858: Bản thảo 1857-1858 / Manuscrits de 1857-1858, Editions Sociales, 1980, 2 t.

1859a: Góp phần phê phán chính trị kinh tế học / Contribution à la critique de l’économie politique, Editions Sociales, 1957.

1859b: Louis Napoleon và Ý / “Louis Napoleon and Italy”, New York Daily Tribune 29.8 1859.

1861-1863: Bản thảo 1861-1863 / Manuscrits de 1861-1863, Editions Sociales, 1980.

1862-1863: Các học thuyết về giá trị thặng dư / Théories sur la plus-value, Editions Sociales, 1974-1976, 3 t.

1862-1895: Những lá thư viết cho Kugelmann (viết cùng với Engels) / Lettres à Kugelmann (avec Engels), Editions Sociales, 1971.

1864: Chương VI, Tư bản, Quyển I. Bản thảo 1863-1867 / Le Chapitre VI, Le Capital, Livre I. Manuscrits 1863-1867, Les Editions Sociales, 2010.

1864-1865: Tư bản, Quyển III / Le Capital, Livre III, Editions Sociales, 1965-1967, 3 t.

1867/1890a: Chương 1 của bộ Tư bản (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ nhất và lần thứ tư) / “Le Chapitre 1 du Capital”, 1e et 4e éditions allemandes, in Paul-Dominique Dognin (ed), Les sentiers escarpés de Karl Marx, Editions du Cerf, 1977, 2 vol.

1870-1878: Tư bản, Quyển II / Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1968, 2 t.

1871: Cuộc nội chiến ở Pháp / La guerre civile en France, Editions Sociales, 1971.

1875: Tư bản, Quyển I (phiên bản tiếng Pháp) / Le Capital, Livre I, édition française, Editions Sociales, 1962, 3 t.

1879-1880: Ghi chú bên lề sách Bàn về chính trị kinh tế học của Adolphe Wagner / “Notes marginales sur le Traité d’économie politique d’Adolphe Wagner”, in Le Capital, Livre II, Editions Sociales, 1976, p. 459-484.

1890: Tư bản, Quyển I (bản tiếng Đức xuất bản lần thứ tư) / Le Capital, Livre I, 4e édition allemande, Editions Sociales, 1983.

Các tác phẩm khác

ABRAHAM-FROIS Gilbert, BERREBI Edmond, Théorie de la valeur, des prix et de l’accumulation, Economica, 1976.

ABRAHAM-FROIS Gilbert, BERREBI Edmond, Rente, rareté, surprofits, Economica, 1980.

AGLIETTA Michel, “L’ambivalence de l’argent”, Revue francaise d’économie, été 1988.

AGLIETTA Michel, FOUET Monique, “Régulation du capitalisme en longue période”, in M. AGLIETTA, C. SAUTTER (ed), Quatre économie dominantes sur longue période, INSEE, 1978.

AGLIETTA Michel, ORLEAN André, La violence de la monnaie, PUF, 1982.

AGLIETTA Michel, ORLEAN André (ed), La monnaie souveraine, Odile Jacob, 1998.

ALTHUSSER Louis, “Avertissement aux lecteurs du Capital”, in K. MARX, Le Capital, Livre I, Garnier-Flammarion, 1969.

ALTHUSSER Louis, “Idéologie et appareils d’Etat”, La Pensée, juin 1970.

ALTHUSSER Louis, Lénine et la philosophie, Maspéro, 1972.

ALTHUSSER Louis, Réponse à John Lewis, Maspéro, 1973.

ALTHUSSER Louis, “Avant-propos”, in G. DUMENIL, Le concept de loi économique dans Le Capital, Maspéro, 1978.

AMIN Samir, VERGOPOULOS Kostas, La question paysanne et le capitalisme, Anthropos, 1974.

ANDRE Christine, DELORME Robert, L’Etat et l’économie. Un essai d’explication de l’évolution des dépenses publiques en France 1870-1980, Seuil, 1983.

ANDREFF Wladimir, Profits et structures du capitalisme mondial, Calmann-Lévy, 1976.

ARENA Richard, FROESCHLE Claude, TORRE Dominique, “Gravitation et reproductibilité”, in C. BIDARD (ed), La gravitation, Université Paris X, Cahiers de la RCP Systèmes de prix de production n˚ 2-3, nov. 1984.

ARTHUR Chris, “Dialectic of the value-form”, in D. ELSON, Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

Auteur collectif, “Valeur, prix et réalisation”, Critique de l’économie politique, janv-mars 1977.

AZOUVI Alain, “Progrès technique et rapports de production: de la théorie à l’enquête”, Critiques de l’economie politique n˚ 10, jan.-mars, 1980.

BACKHAUS Hans Georg, “Dialectique de la forme de la valeur”, Critiques de l’économie politique, oct.-déc. 1974.

BALIBAR Etienne, “Sur les concepts fondamentaux du matérialisme historique”, in ALTHUSSER et al., Lire Le Capital, Maspéro, t. 2. 1969,

BALIBAR Etienne, Cinq études du matérialisme historique, Maspéro, 1972.

BALIBAR Etienne, “A nouveau sur la contradiction”, in CERN, Sur la dialectique, Editions Sociales, 1977.

BALIBAR Etienne, La philosophie de Marx, La Découverte, 1993.

BALIBAR Etienne, LEFEBVRE Jean-Pierre, “Plus-value ou survaleur”, La Pensée n˚ 197, fév. 1978.

BANAJ Jairus, “From commodity to capital: Hegel’s dialectic in Marx’s Capital”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

BARBIER Maurice, La pensée politique de Karl Marx, L’Harmattan, 1992.

BARRERE Christian, KEBABJIAN Gérard, WEINSTEIN Olivier, Lire la crise, PUF, 1983.

BARTHELEMY Denis, “Valeur et travail paysan”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1977.

BARTHELEMY Denis, Propriété foncière et fonds-entreprise. Le cas de l’agriculture, Economica, 1984.

BARTHELEMY Denis, “Entre la proprieté foncière et l’entreprise, l’exploitation agricole”, in J.L. GUIGOU (ed), La propriété foncière, Economica, 1984.

BAUDRILLARD Jean, Pour une critique de l’économie politique du signe, Gallimard, 1972, 1972.

BAUDRILLARD Jean, Le miroir de la production, Casterman, 1973.

BECKER James, Economie politique marxiste, Economica, 1980.

BENETTI Carlo, Valeur et répartition, Maspéro - PUG, 1974.

BENETTI Carlo, “La question de la gravitation du prix de marché dans la Richesse des nations”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

BENETTI Carlo, “Economie monétaire et économie de troc: la question de l’unité de compte commune”, Economie appliquée n˚ 1, 1985.

BENETTI Carlo, “A propos de l’analyse simmelienne de la légitimité monétaire”, in J.M. BALDER, L. GILLARD (ed), Simmel et les normes sociales, L’Harmattan. 1936.

BENETTI Carlo et al., Economie classique, économie vulgaire, Maspéro-PUG, 1975.

BENETTI Carlo, de BRUNHOFF Suzanne, CARTELIER Jean, “Elements pour une critique marxiste de P. Sraffa”, Cahiers de l’économie politique n˚ 6, 1976.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, “Profit et exploitation : le problème de la transformation des valeurs en prix de production”, in BENETTI Carlo et al., Economie classique, économie vulgaire, Maspéro - PUG, 1975.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, Marchands, salariat et capitalistes, Maspéro - PUG, 1980.

BENETTI Carlo, CARTELIER Jean, “Mesure invariable des valeurs et théorie ricardienne de la marchandise”, in BENETTI Carlo et al., Marx et l’économie politique, Maspero - PUG, 1977.

BERTHOMIEU Claude, “La théorie de la rente et le système des prix de production”, in LATAPSES, Etudes d’économie classique et ricardienne, PUF, 1982.

BERTHOUD Arnaud, Travail productif et productivité du travail chez Marx, Maspéro, 1974.

BETTELHEIM Charles, “Remarques théoriques’ in EMMANUEL, L’échange inégal, Maspéro, 1969.

BETTELHEIM Charles, Calcul économique et formes de propriété, Maspéro, 1970.

BETTELHEIM Charles, La lutte des classes en URSS, Maspéro - Seuil, t. 1, 1974.

BIDET Jacques, Que faire du Capital?, Klincksieck, 1985.

BIDET Jacques, “Socialisation et abstraction”, Cahiers d’économie politique n˚ 12, 1986.

BIDET Jacques, Théorie de la modernité suivi de Marx et le marché, PUF, 1990.

BIDET Jacques, Théorie générale, PUF, 1999.

BIDET Jacques, KOUVELAKIS Eustache (ed), Dictionnaire Marx contemporain, PUF, 2001.

BIHR Alain, L’économique fétiche, 1979.

BLANC Emmanuel, “Prendre l’outil et la parole”, Cahiers analyse, épistemologie, histoire n˚ 6, 1975.

BLAUG Mark, La pensée économique, Economica, 1981.

BOHM-BAWERK Eugen von, “Karl Marx and the close of his system”, in P. SWEEZY (ed) Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, et Bohm-Bawerk’s critism of Marx by Rudolf Hilferding, Augustus Kelley, 1949.

BOMPARD J.P., POSTEL VINAY Gilles, “Etat et analyse de classe en agriculture au travers du problème foncier”, ACSES, Sur l’Etat, Contradictions, 1977.

BORELLY Rolande, Les disparités sectorielles des taux de profit, PUG, 1975.

BORTKIEWICZ Ladislaus von, “Value and price in the marxian system”, International Economic Papers n˚ 2, 1952.

BOYER-XAMBEU Marie-Thérèse, DELEPLACE Ghislain, GILLARD Lucien, “Vers une topologie des régimes monétaires”, Cahiers d’économie politique n° 18, 1990.

BROUSTE Pierre, La rente foncière chez Marx, mémoire DEA, Université Paris I, 1976.

BRUNHOFF Suzanne de, La monnaie chez Marx, Editions Sociales, 1973.

BRUNHOFF Suzanne de, La politique monétaire, PUF, 1973.

BRUNHOFF Suzanne de, Etat et capital, Maspéro - PUG, 1976.

BRUNHOFF Suzanne de, Les rapports d’argent, Maspéro - PUG, 1979.

BRUNHOFF, Suzanne de, “Valeur de la force de travail, salaire et intervention de l’Etat”, in B. BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

CARTELIER Jean, “Valeur ou enrichissement: le dilemne de l’économie politique, ACCES n˚ 1, mars 1978.

CARTELIER Jean, “Echange inégal et théorie des prix de production”, Cahier d’analyse économique n˚ 1, 1975.

CARTELIER Jean, “Théorie de la valeur ou hétérodoxie monétaire: les termes d’un choix”, Economie appliquée n˚ 1, 1985.

CARTELIER Lysianne, “Contribution à l’étude des rapports entre Etat et travail salarié”, Revue économique n° 1, janvier 1980.

CASTORIADIS Cornelius, La société bureaucratique, UGE, 1973.

CASTORIADIS Cornelius, Capitalisme moderne et révolution, UGE, 1979.

CASTORIADIS, Cornelius, Les carrefours du labyrinthe, Seuil, 1978.

CAVAILHES Jean, Les réponses des marxistes à la question agraire, INRA, document de recherche n˚ 16, mars 1981.

CENCINI Alvaro, SCHMITT Bernard, La pensée de Karl Marx, Castella, 1976-1977, 2 vol.

CHEVALIER Jean-Marie, L’économie industrielle en question, Calmann-Levy, 1977.

CHIAVELLI Alain, RAINELLI Michel, “Uniformisation des taux de profit et hypothèse sectorielle”, Cahiers d’economie politique n˚ 4, 1977.

COLETTI Lucio, De Rousseau à Lénine, Gordon et Breach, 1974.

COLETTI Lucio, Le marxisme et Hegel, Champ Libre, 1976.

COLETTI Lucio, Politique et philosophie, Galilée, 1975.

CORIAT Benjamin, Science, technique et capital, Seuil, 1976.

COULOMB Pierre, “Propriété foncière et mode de production capitaliste”, Etudes rurales n˚ 51, 1973.

DALLEMAGNE Jean-Luc, L’économie du Capital, Maspéro, 1978.

DELAUNAY Jean-Claude, “La forme valeur de la production”, La Pensée n˚ 183, oct. 1975.

DELEPLACE Ghislain, “Biens à double destination et polarisation des taux de profit: une analyse sectorielle”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

DELEPLACE Ghislain, Théorie du capitalisme: une introduction, Maspéro - PUG, 1979.

DELEPLACE Ghislain, “Marché et concurrence chez Marx”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

DELEPLACE Ghislain, “Sur quelques difficultés de la théorie de la monnaie - marchandise chez Ricardo et Marx”, Economie appliquée n°1, 1985.

DELEPLACE Ghislain, Histoire de la pensée économique, Dunod, 1999.

DELILEZ Jean-Pierre, Les monopoles, Editions Sociales, 1970.

DENIS Henri, L’ “économie” de Marx, PUF, 1980.

DESQUIER-DESJARDIN Denis, “Rente absolue et économie du déséquilibre chez Karl Marx”, communication au colloque sur La rente, Université Paris X, 1983.

DIATKINE Daniel, “La terre existe-t-elle? Le statut de la terre dans la théorie des prix de production de P. Sraffa”, Cahiers d’économie politique n˚ 5, 1979.

DOBB Maurice, Political economy and capitalism, Routledge et Kegan, 1940.

DOBB Maurice, Theory of value and distribution since Adam Smith, Cambridge University Press, 1975.

DOBB Maurice, “The Sraffa system and critique of the Neo-classical theory of distribution”, in E. Hunt, J. SCHWARTZ (ed), A critique of economic theory, Penguin Books, 1972.

DOGNIN Paul Dominique, Les sentiers escarpés de Karl Marx, t. 2, Edition du Cerf, 1977.

DOSTALER Gilles, Valeur et prix, Maspero - PUG, 1978.

DOSTALER Gilles, Marx, la valeur et l’économie politique, Anthropos, 1978.

DRAPER Hal, Karl Marx’s theory of revolution, Monthly Review Press, 1977-1989, 4 t.

DRUGMAN Bernard, “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital, in Jean-Paul GAUDEMAR (éd.), Réexamens de la théorie du salariat, PUL, 1981.

DRUGMAN Bernard, “Le concept du rapport salarial: genèse, enjeu et perspectives”, Cahiers de l’ IREP-Développement n°4, 1983.

DRUGMAN Bernard, “Travail, force de travail et salariat: au-delà de l’économie politique du capital”, in B. BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

DUMENIL Gérard, Le concept de loi économique dans le Capital, Maspéro 1978.

DUMENIL Gérard, De la valeur aux prix de production, Economica, 1980.

DUMENIL Gérard, LEVY Dominique, La dynamique du capital. Un siècle d’économie américaine, PUF, 1996.

DUMONT Louis, Homo aequalis, Gallimard, 1985.

ELSON Diane, “The value theory of labour”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

ELSTER Jon, Karl Marx. Une interprétation analytique, PUF, 1989.

EMMANUEL Arghiri, L’échange inégal, Maspéro, 1969.

EMMANUEL Arghiri, La dynamique des inégalités, Anthropos, 1965.

ENGELS Friedrich, Anti-Duhring, Editions Sociales, 1971.

ENGELS Friedrich, L’origine de la famille, de la propiété privée et de l’Etat, Editions sociales, 1972.

ENGELS Friedrich, Préface, in K. MARX, Le Capital, Livre III, t. 1, Editions Sociales, 1965.

ENGELS Friedrich, “La contribution à la critique de l’économie politique de Karl Marx. Deuxième article”, in K. MARX, F. ENGELS, Textes sur le méthode de la science economique, Editions Sociales, 1974.

ENGELS Friedrich, La question paysanne en France et en Allemagne, Editions Sociales, 1956.

ESTABLET Roger, “Présentation du plan du Capital”, in L. ALTHUSSER, et al., Lire Le Capital IV, 1973.

EVRARD Philippe, HASSAN Daniel, VIAU Claude, “Petite agriculture et capitalisme”, Cahiers d’économie politique n˚ 4, 1977.

FACCARELLO Gilbert, Travail, valeur et prix, Anthropos, 1983.

FACCARELLO Gilbert, “Karl Marx et la critique de l’économie politique: Le purgatoire du temps présent” et “Les controverses autour du Capital: les débats autour de la loi de la valeur”, in Alain BERAUD, Gilbert FACCARELLO (ed.), Nouvelle histoire de la pensée économique, t. 2, La Découverte, 2000.

FAURE Claude, Agriculture et capitalisme, Anthropos, 1978.

FAUSTO Ruy, “Althusserisme et anthropologisme”, L’Homme et la société, juil.-déc. 1976.

FAUSTO Ruy, “Abstraction réelle et contradiction: sur le travail abstrait et la valeur”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1978.

FAUSTO Ruy, Recherches sur la formation et la portée de la dialectique dans l’oeuvre de Marx, thèse Université Paris I, 1988.

FAUSTO Ruy, Marx: logique et politique, Publisud, 1986.

FAUSTO Ruy, “La dialectique du Capital et ses implications: éthique et marxisme, communication au colloque Marx, Université Paris X, 1997.

FOWLEY Ducan, “The value of money, the value of labor power, and the marxiann transformation problem”, Review of Radical Political Economics, t. 14, n˚ 2, 1982.

GAREGNANI Pierangelo, “La théorie classique de la répartition et le problème de la transformation chez Marx”, in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

GIANNOTTI José Arthur, Origines de la dialectique du travail, Aubier Montaigne, 1971.

GROSSMAN Henrik, Marx, l’économie classique et le problème de la dynamique, Champ libre, 1975.

GUIBERT Bernard, Genèse et image de la division de la production, thèse Université Paris I, 1977, 2 vol.

GUIBERT Bernard, “Les ravages logiques”, Critiques de l’économie politique n˚ 13, 1980.

GUICHARD Jean-Paul, “L’identité de nature des deux formes de rente différentielle et la difficulté de leur prise en compte dans le modèle néo-ricardien”, in C. BIDARD (ed), La rente, Economica, 1987.

GUICHARD Jean-Paul, “La rente différentielle intensive, expression d’un processus d’intensification des cultures”, in LATAPSES, Etudes d’économie classique et néo-ricardienne, PUF, 1982.

GUIGOU Jean-Louis, La rente foncière, Economica, 1982.

GUTELMAN Michel, Structures et réformes agraires, Maspéro, 1974.

HEGEL Georg W.F., Encyclopédie des sciences philosophiques, I. La science de la logique, Vrin, 1970.

HEGEL Georg W.F., Principes de la philosophie du droit, Vrin, 1975.

HENRY Michel, Marx, Gallimard, 1976, 2 vol.

HILFERDING Rudolf, “Bohm-Bawerk’s criticism of Marx”, in P. SWEEZY (ed), Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, et Bohm-Bawerk’s criticism of Marx by Rudolf Hilferding, Augustus Kelley, 1949.

HILFERDING Rudolf, Le capital financier, Editions de Minuit, 1970.

HILFERDING Rudolf, “Monnaie et marchandise”, Cahiers d’économie politique n°13, 1987.

HIMMELWEIT Susan, MOHUN Simon, “La réalité de la valeur” in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

HOLLOWAY John, PICCIOTO Saul, State and capital: a marxist debate, E. Arnold, 1978.

HOLLOWAY John, PICCIOTO Saul, “Etat et capital: le débat allemand sur la dérivation de l’Etat”, Critiques de l’économie politique n˚ 10, 1980.

HURIOT Jean-Marie, “Rente différentielle et rente absolue. Un réexamen”, in P.H. DERYCKE (ed) La rente fonciere urbaine, Etudes foncières, 1984.

ITOH Makoto, La crise mondiale, EDI, 1987.

JACOT Henri, “Le capital financier comme forme(s) du capital, Issues, 1979, n˚ 3.

JORLAND Gérard, Les paradoxes du capital, Odile Jacob, 1995.

JOSHUA Isaac, La face cachée du Moyen-âge. Les premiers pas du capital, La Brèche, 1988.

KANT Immanuel, Phê phán lý tính thuần túy, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, nxb Văn học, 2004.

KAUTSKY Karl, La question agraire, Giard et Brière, 1900.

KAUTSKY Karl, Le marxisme et son critique Bernstein, Stock, 1900.

KAY Geoffrey, “Why labor is the starting point of Capital”, in D. ELSON (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979.

KLIMOVSKY Edith, La rente dans la théorie de la valeur et des prix, thèse Université Paris X, 1981.

KORSCH Karl, Karl Marx, Champ libre, 1971.

KOSIK Karel, La dialectique du concret, Maspéro, 1978.

LAURE Vincent, “A propos de la transformation des valeurs en prix de production”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

LAURE Vincent, “Prix de monopole et sur-profits: l’analyse marxiste”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

LATOUCHE Serge, Le projet marxiste, PUF, 1975.

LAUTIER Bruno, “L’objet du rapport salarial”, communication au colloque Formes de mobilisation salariale et théorie du salariat, Université de Picardie, 1985.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, “La force de travail comme marchandise particulière”, in ACSES, Sur l’Etat, Contradictions, 1977.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, Ecole, force de travail et salariat, Maspéro - PUG, 1978.

LAUTIER Bruno, TORTAJADA Ramon, “Monnaie, financement et rapport salarial”, Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984.

LEBAS Christian, “Prix de production individuel et prix de production de marché, Cahiers Analyse, Epistémologie, Histoire, n˚ 6, 1975.

LEBAS Christian, C. MERCIER, “La valeur de marché et la théorie de la valeur, Cahiers Analyse, Epistemologie, Histoire, n˚ 6, 1975.

LEFORT Claude, Les formes de l’histoire, 1978.

LENINE Vladimir Illitch, Oeuvres complètes, t. 38, Editions du Progrès, 1971.

LENINE Vladimir Illitch, Karl Marx et sa doctrine, Editions Sociales, 1953.

LENINE Vladimir Illitch, Programme agraire de la social-démocratie dans la première révolution russe de 1905-1907, Editions du Progrès, 1967.

LENINE Vladimir Illitch, “Nouvelles données sur le développement du capitalisme dans l’agriculture”, in Oeuvres complètes, Editions du Progrès, t. 22.

LEONARD Jean, WEINSTEIN Olivier, “Uniformisation - différentiation des taux de profit: éléments pour une réinterprétation”, Cahiers d’économie politique n˚ 4. 1977.

LINHART Robert, Lénine, les paysans, Taylor, Seuil, 1976.

LIPIETZ Alain, Le tribut foncier urbain, Maspéro, 1974.

LIPIETZ Alain, Le capital et son espace, Maspéro, 1977.

LIPIETZ Alain, “Les mystères de la rente absolue. Commentaires sur les incohérences d’un texte de Sraffa”, Cahiers d’économie politique n˚ 5, 1979.

LIPIETZ Alain, Crise et inflation, pourquoi?, Maspéro, 1979.

LIPIETZ Alain, “Retour au problème de la transformation des valeurs en prix de production”, Cahiers d’économie politique n˚ 7, 1982.

LIPIETZ Alain, Le monde enchanté, La Découverte, 1983.

LIPIETZ Alain, “Le débat sur la valeur: bilan partiel et perspectives partiales”, in B. CHAVANCE (ed), Marx en perspective, EHESS, 1985.

LUXEMBURG Rosa, Introduction à l’économie politique, UGE, 1973.

LUXEMBURG Rosa, L’accumulation du capital, Oeuvres IV, Maspéro, 1972.

MACHEREY Pierre, “A propos du processus d’exposition du Capital”, in L. ALtHUSSER et al., Lire Le Capital, IV, Maspéro, 1973.

MAGALINE A. D., Luttes de classes et dévalorisation du capital, Maspéro, 1975.

MALER Henri, Convoiter l’impossible, Albin Michel, 1995.

MANDEL Ernest, Traité d’économie marxiste, Julliard, 1964.

MANDEL Ernest, Le troisième âge du capitalisme, UGE, 1976, 3 vol.

MAROUANI Abraham, “A propos du chapitre premier du Capital. L’importance décisive de la dialectique”, Cahiers du CERM n˚ 153, 1978.

MARSHALL Alfred, Principes d’économie poltique, Gordon et Breach, 1971.

MARTIN Catherine, “Demande et formation des prix dans le théorie classique: le débat entre Ricardo et Malthus”, Cahiers d’économie politique n˚ 7, 1982.

MASSARAT Mohssen, “Crise de l’énergie ou crise du capitalisme”, n˚ 21, juil.-sept. 1975. Critiques de l’économie politique.

MATHIAS Gilberto, SALAMA Pierre, L’Etat surdéveloppé, La Découverte, 1983.

MATTICK Paul, Marx et Keynes, Gallimard, 1969.

MATTICK Paul, “Henryck Grossmann, théoricien de l’accumulation et de la crise”, in H. GROSSMANN, Marx, l’économie politique classique et le problème de la dynamique, Champ libre, 1975.

MAUCOURANT Jerôme, “Polanyi, lecteur de Marx”, Actuel Marx n˚ 9, 2000.

MAUNOURY Jean-Louis, “Théorie marxiste de la valeur et normes sociales de valorisation”, Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984.

MAURISSON Patrick, “Prix d’offre et égalisation des taux de profit: essai sur la formation des prix chez Marx”, Cahiers d’économie politique n˚ 6, 1981.

MAURISSON Patrick, “Système des prix normaux, rapport salarial et révision des schémas marxistes de la transformation”, in G. DOSTALER (ed), Un échiquier centenaire, La Decouverte - PUQ, 1985.

MEEK Ronald, Studies in the labour theory of value, Laurence and Wishart, 1973.

MESTRE Jean-Etienne, “Terre, rente et difficulté de production”, Cahiers d’economie politique n˚ 5, 1979.

MIAILLE Michel, L’Etat du droit, Maspéro - PUG, 1978.

MOLLARD Amédée, Paysans exploités, PUG 1978.

MORISHIMA Michio, Marx’s economics, Cambridge UP, 1973.

MORISHIMA Michio, CATEPHORES G., Valeur, exploitation et croissance, Economica, 1981.

NAPOLEONI Claudio, “Valeur et exploitation: la théorie économique de Marx et au-delà”, Cahiers d’économie politique n˚ 33, 1998.

NASSISI, Anna-Maria, “Marx et Bortkiewicz sur la rente absolue”, in C. BIDARD, La rente, Economica, 1987.

NETTER Maurice, “Critiques de quelques thèses relatives aux concepts économiques de Karl Marx”, in BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

NETTER Maurice, “Valeurs, prix et secteurs de péréquation des taux de profit”, in C. BIDARD et al., Valeur et prix, PUL, 1982.

NIKITINE P., Principes d’économie politique, Editions du Progrès, 1966

O.C.B., L’étude du Capital, O.C.B., 1979.

ORLEAN André, “L’origine de la monnaie”, Revue du MAUS n˚ 14, 1991.

ORLEAN André, “Réflexion sur la notion de légitimité monétaire, l’apport de Simmel”, in J.M. BALDER, L. GILLARD (ed), Simmel et les normes sociales, L’Harmattan, 1996.

PALLOIX Christian, “Le procès de travail: du fordisme au néo-fordisme”, La Pensée n˚ 185, fev. 1976.

PALLOIX Christian, Procès de production et crise du capitalisme, Maspéro - PUG, 1977.

PALLOIX Christian, De la socialisation, Maspéro, 1981.

PARETO Vilfredo, Les systèmes socialistes, Giard et Brière, vol. 2, 1903.

PASUKANIS Evgeny, La théorie générale du droit et le marxisme, EDI, 1970.

PEREZ Manuel, “Valeur et prix: un essai de critique des propositions néo-ricardiennes”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1980.

POLANYI Karl, La grande transformation, Gallimard, 1983.

POLANYI Karl, “Marx on corporativism”, Archiv Karl Polanyi 1934-1946, box 6, Institut Karl Polanyi d’économie politique.

POSTEL-VINAY Gilles, La rente foncière dans la capitalisme agricole, Maspéro, 1974.

POTIER Jean-Pierre, Lectures italiennes de Marx, PUL, 1986.

POUCH Thierry, Les économistes francais et le marxisme. Apogée et déclin d’un discours critique (1950-2000), PUR, 2001.

RANCIERE Jacques, “Le concept de crititique et la critique de l’économie politique des Manuscrits de 1844 au Capital”, in L. ALTHUSSER et al., Lire Le Capital, III, Maspéro, 1973.

REBOUL Claude, “Déterminants sociaux de la fertilité des sols”, Actes de la recherche en sciences sociales n˚ 17-18, nov. 1977.

REGNAULT Henri, La contradiction foncière, thèse Université Paris IX, 1975.

REGNAULT Henri, “Rente foncière et transformation des valeurs en prix”, in P. H. DERYCKE (ed), La rente foncière urbaine, Etudes foncières, 1984.

RENAULT Emmanuel, “Marx et les critiques de l’économie politique”, Marx Actuel n˚ 27, 2000.

REY Pierre-Philippe, Les alliances de classes, Maspéro, 1973.

REY Pierre-Philippe, “Quelques remarques sur l’article de P. Bonte”, La Pensée n˚ 171, oct. 1973.

REY Pierre-Philippe, Colonialisme, néo-colonialisme et transition au capitalisme, Maspéro, 1971.

REY Pierre-Philippe, Le capitalisme négrier, Maspero, 1976.

RICARDO David, Principes de l’économie politique et de l’impôt, Flammarion, 1992.

RICARDO David, “Valeur absolue et valeur d’échange”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

ROBINSON Joan, Essai sur l’économie de Marx, Dunod, 1971.

ROBINSON Joan, “Un réexamen de la théorie de la valeur”, in G. FACCARELLO, P. LAVERGNE (ed), Une nouvelle approche en économie politique? Essai sur Sraffa, Economica, 1977.

ROBINSON Joan, EATWELL John, L’économique moderne, Ediscience - McGraw Hill, 1976.

RONCAGLIA Alessandro, “Production des marchandises par des marchandises, critique et dépassement de la méthode marginaliste”, in G. FACCARELLO, P. LAVERGNE (ed), Une nouvelle approche en économie politique? Essai sur Sraffa, Economica, 1977.

ROLAND Gérard, La valeur d’usage chez Karl Marx, Editions Université de Bruxelles, 1985.

ROSANVALLON Pierre, Le capitalisme utopique, Seuil, 1979.

ROSDOLSKY Roman, La genèse du Capital chez Karl Marx, Maspéro 1976.

ROSENBERG D.I., Giới thiệu quyển I Tư bản của Các Mác, Sự Thật, 1969.

ROSENBERG D.I., Giới thiệu quyển III Tư bản của Các Mác, Sự Thật, 1972.

ROUBINE Isaak, Essais sur la théorie de la valeur, Maspéro, 1978

RUBIN Isaac, “Abstract labour and value in Marx’s system”, Capital and Class n˚ 5, 1978.

SAGNOL Marc, “Des Grundrisse au Capital. Sur la modification du plan du Capital, La Pensée n˚ 228, juil.-aout 1982.

SALAMA Pierre, Sur la valeur, Maspéro, 1975.

SALAMA Pierre, “A nouveau sur la transformation des valeurs en prix de production”, Cahiers d’économie politique n˚ 3, 1976.

SALAMA Pierre, “Valeur, prix de production: une approche différente”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

SALAMA Pierre, “Etat et capital. L’Etat capitaliste comme abstraction réelle”, Critique de l’économie politique n° 7-8, 1979.

SALAMA Pierre, VALIER Jacques, Une introduction à l’économie politique, Maspéro, 1973.

SALAMA Pierre, TRAN Hai Hac, Introduction à l’économie de Marx, La Découverte, 1992.

SAMUELSON Paul, “The ‘transformation’ from marxian ‘values’ to ‘competitive prices’: a process of rejection and replacement”, Proceeding of National Academy of Sciences, LXVII, 1970.

SAMUELSON Paul, Economics: winds of change, McGraw-Hill, 1973.

SAMUELSON Paul, “Reply on marxian matters”, Journal of Economic Literature, 1973.

SCHUMPETER Joseph, Histoire de l’analyse économique, Gallimard, 1983, vol. 2.

SCIALOM Laurence, “Evaluation, échange versus paiement, un commentaire”, in J. M. BALDER, L. GILLARD, Simmel et les normes sociales, L’Harmattan, 1996.

SCOTT Allen, “Land use and commodity production”, Regional Science and Urban Economics, 1976, vol. 6, in J. L. GUIGOU, La rente fonciere, Economica, 1982.

SERVOLIN Claude, “L’absoption de l’agriculture dans le mode de production capitaliste”, in Y. TAVERNIER, M. GERVAIS, C. SERVOLIN (ed), L’univers politique des paysans dans la France contemporaine, A. Colin, 1972.

SEVE Lucien, Structuralisme et dialectique, Editions Sociales, 1984.

SEVE Lucien, Une introduction à la philosophie marxiste, Editions Sociales, 1980.

SIFI, “Internationalisation du capital et processus productif: une approche critique”, Cahiers d’économie politique n˚ 1, 1974.

SIMMEL Georg, Philosophie de l’argent, PUF, 1987.

SRAFFA Piero, Production de marchandises par des marchandises, Dunod, 1977.

STEEDMAN Ian, “Heterogeneous labor, money wages and Marx’s theory”, in B. CHAVANCE, Marx en perspective, EHESS, 1985.

STEEDMAN Ian, “Ricardo, Marx et Sraffa”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire, La Découverte - PUQ, 1985.

SWEEZY Paul, The theory of capitalist development, Modern Reader, 1968.

SWEEZY Paul, Le capitalisme moderne, Seuil, 1976.

TAKENAGA Susumu, Valeur, formes de la valeur et étapes dans la pensée de Marx, Peter Lang, 1985.

TERRAIL Jean-Pierre, “Fétichisme de la marchandise et idéalisme des besoins”, in J. DECAILLOT et al., Besoins et mode de production, Editions Sociales, 1976.

TERRAIL Jean-Pierre, “La logique du technologique”, La Pensée n˚ 197, fev. 1978.

TEXIER Jean, “Sur la détermination en dernière instance”, in CERM, Sur la dialectique, Editions Sociales, 1977.

THERET Bruno, “Rapports de production et forces productives. La nécessité d’un retour a Marx”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct.-dec. 1977.

THERET Bruno, Régimes économiques de l’ordre politique, PUF, 1992.

THERET Bruno, WIEVIORKA Michel, Critique de la théorie du capitalisme monopoliste d’Etat, Maspéro, 1978.

TOMBAZOS Stavos, Le temps dans l’analyse économique. Les catégories du temps dans Le Capital, Editions Société des saisons, 1994.

TOPALOV Christian, Le profit, la rente et la ville, Economica, 1984.

TORTAJADA Ramon, “Marchandise, valeur et force de travail”, in BOUREILLE et al., Réexamen de la théorie du salariat, PUL, 1981.

TRẦN HẢI HẠC, “Etat et capital dans l’exposé du Capital”, in Antoine Artous, Tran Hai Hac, Jose Luis Solis Gonzalez, Pierre Salama, Nature et forme de l’Etat capitaliste, Editions Syllepse et M. Editeur, 2015. Bản tiếng Việt: Nhà nước và tư bản trong trình bày của bộ Tư bản, www.phantichkinhte123.com

TRẦN HẢI HẠC, “Introduction de 1857, travail abstrait et ‘travail en général’”, Variations, Printemps 2005.

TRONTI Mario, Ouvriers et capital, Christian Bourgois, 1977.

TUTIN Christian, Rente foncière, valeur et formation des espaces urbains, thèse Université Paris I, 1978.

TUTIN Christian, “Rente foncière et gravitation des prix agricoles”, in C. BIDARD (ed), La gravitation, Cahiers de la RCP Systèmes de prix de production n˚ 2-3, Université Paris X, 1984.

TUTIN Christian, “Rente foncière et aménagement spatial: les théories de la rente ont-elles un objet?’, P. H. DERYCKE, La rente foncière urbaine, Etudes foncières, 1984.

TUTIN Christian, “Propriété des villes et propriété des champs”, in J. L. GUIGOU (ed), La propriété foncière, Economica, 1984.

VADEE Michel, Marx, penseur du possible, Méridien - Klincksieck, 1992.

VALIER Jacques, Le parti communiste francais et le capitalisme monopoliste d’Etat, Maspéro, 1976.

VILLE Philippe, VROEY Michel de, “Salaire et marché du travail chez Marx et Keynes: orthodoxie ou hétérodoxie?”, Cahiers d’économie politique n˚ 10-11, 1985.

VINCENT Jean-Marie, “La domination du travail abstrait”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct.-déc. 1977.

VINCENT Jean-Marie, Critique du travail, PUF, 1987.

VINCENT Jean-Marie, Un autre Marx. Après les marxismes, Page Deux, 2001.

VINCQ Jean-Louis, “Valeur, rente et accentuation des rapports marchands en agriculture”, Cahiers d’economie politique n˚ 4, 1977.

VOLKOV M. (ed), Dictionnaire d’économie politique, Editions du Progrès, 1983.

VROEY Michel de, “Marchandise, société marchande, société capitaliste. Un réexamen de quelques définitions”, Cahiers d’économie politique n° 9, 1984.

VROEY Michel de, “La théorie marxiste de la valeur, version travail abstrait. Un bilan critique”, in G. DOSTALER, Un échiquier centenaire. Théorie de la valeur et formation des prix, La Découverte - PUQ,1985.

VROEY Michel de, “La théorie du salaire de Marx. Une critique hétérodoxe”, Revue économique n˚ 3, mai 1985.

WEINSTEIN Olivier, “Egalisation des taux de profit et mobilité du capital”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975.

WICKSELL K., Lectures on political economy, Roudledge and Kegan, 1934.

WICKSTEED Philip, “Das Kapital: a criticism”, in The common sense of political economy, A.M. Kelley, 1950.

WYGODSKY W.S., Vị trí cuốn ‘Các học thuyết về giá trị thặng dư’ trong di cảo kinh tế của Các Mác, nxb Khoa học xã hội, 1971.

YAFFE David, “Valeur et prix dans Le Capital de Marx”, Critiques de l’économie politique n˚ 20, avril-juin 1975.

* * *

MỤC LỤC

Tập I

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI DẪN NHẬP

Phần thứ nhất: HÀNG HÓA NHƯ LÀ HÌNH THÁI CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG

Chương 1: LAO ĐỘNG TRỪU TƯỢNG - CỤ THỂ

Tiết 11: Lao động trừu tượng và lao động cụ thể, lao động xã hội và lao động tư nhân

§ 111: Sự đối lập giữa lao động tư nhân và lao động xã hội

§ 112: Sự che phủ lao động tư nhân - lao động cụ thể, lao động xã hội - lao động trừu tượng

§ 113: Tính xã hội và xã hội hoá các cá nhân

Tiết 12: Lao động trừu tượng - cụ thể, lao động sinh lý và lao động có ích

§ 121: Định nghĩa vật chất - kỹ thuật về lao động cụ thể

§ 122: Định nghĩa thực chứng về lao động trừu tượng

Tiết 13: Lao động trừu tượng, lao động nói chung và sự trừu tượng hóa hiện thực

§ 131: Lao động trừu tượng như là sự thật thực tiễn

§ 132: Lao động trừu tượng như là lao động tha hóa

§ 133: Lao động trừu tượng như là phổ quát cụ thể

Tiết 14: Lao động trừu tượng, lao động xã hội và lao động ngang nhau

§ 141: Lao động trừu tượng như là phạm trù lô-gíc

§ 142: Lao động trừu tượng như là phạm trù siêu hình

§ 143: Bàn về Chương 1, Quyển I bộ Tư bản

Chương 2: HÌNH THÁI GIÁ TRỊ CỦA SẢN PHẨM LAO ĐỘNG

Tiết 21: Tính khách thể xã hội và hình thái vật chất của giá trị

mục 211: Giá trị như hình thái khách thể của xã hội

mục 212: Giá trị như hình thái xã hội của khách thể

mục 213: Tính khách thể và tính vật chất

Tiết 22: Giá trị và giá trị sử dụng

mục 221: Sự phân biệt giữa tính hữu dụng và giá trị hữu dụng

mục 222: Sự thống nhất của giá trị và giá trị hữu dụng

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TIỀN TỆ

Chương 3: TÍNH ĐỐI CỰC TIỀN TỆ – HÀNG HÓA

Tiết 31: Lao động trừu tượng và/hay tiền tệ

mục 311: Hình thái của giá trị và tính đối cực hình thái tương đối – hình thái ngang giá

mục 312: Hình thái giá cả và tính đối cực hàng hóa – tiền tệ

mục 313: Các hình thái của tiền tệ và tính đối cực tín dụng – tiền tệ

mục 314: Tiền tệ hay mặt đối lập của hàng hóa

mục 315: Tính hai mặt của tiền tệ

Tiết 32: Giá trị và/hay giá trị trao đổi

mục 321: Từ Góp phần phê phán kinh tế chính trị học đến Tư bản

mục 322: Giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối

mục 323: “1 góc tạ lúa mì = a tạ sắt” đối chiếu với “20 m vải = 1 cái áo”

Tiết 33: Giá trị và/hay giá cả

mục 331: Thước đo nội tại và thước đo bề ngoài của giá trị

mục 332: Sự chuyển hóa giá trị thành giá cả

Chương 4: SỰ SÙNG BÁI HÌNH THÁI GIÁ TRỊ

Tiết 41: Hình thái khách thể và hình thái chủ thể

mục 411: Hình thái khách thể và sùng bái

mục 412: Hình thái hàng hóa của tính cá thể

mục 413: Sùng bái và tha hóa

Tiết 42: Bàn về Phần 1, Quyển I bộ Tư bản

Phần thứ hai: HÀNG HÓA VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ SỨC LAO ĐỘNG

Chương 5: TƯ BẢN NHƯ QUAN HỆ HÀNG HÓA VỀ BÓC LỘT

Tiết 51: Sự phân chia thế giới hàng hóa giữa sản phẩm của tư bản và sức lao động

mục 511: Giá trị như là quan hệ bó buộc lao động thặng dư

mục 512: Sức lao động như là hàng hóa ảo

Tiết 52: Quan hệ trao đổi như là hình thái quan hệ giai cấp

mục 521: Quan hệ hàng hóa và quan hệ tư bản chủ nghĩa

mục 522: Hình thái giá trị và nội hàm giai cấp

Chương 6: TƯ BẢN NHƯ LÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ SỨC SẢN XUẤT

Tiết 61: Sự vật thể hóa tư bản trong sức sản xuất

mục 611: Thâu gồm hình thức và bó buộc tiền tệ về lao động thặng dư

mục 612: Thâu gồm hiện thực và bó buộc kỹ thuật về lao động thặng dư

Tiết 62: Tính hai mặt của sức sản xuất do tư bản phát triển

mục 621: Phủ định tư bản như là xu thế của tư bản

mục 622: Tính đối kháng và phi đối kháng của mâu thuẫn tư bản

mục 623: Sức lao động, khái niệm đặc thù của người lao động tự do

CHÚ THÍCH

Tập II

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ KHÁI NIỆM VỀ TỶ SUẤT LỢI NHUẬN CHUNG

Chương 7: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ LÀ BƯỚC CHUYỂN PHÂN TÍCH TƯ BẢN TỪ CẤP ĐỘ TRỪU TƯỢNG HÓA NÀY SANG CẤP ĐỘ KHÁC

Tiết 71: Quan hệ giai cấp và quan hệ liên tư bản

mục 711: Sản xuất hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa

mục 712: Tư bản nói chung và tư bản số nhiều

Tiết 72: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận bình quân

mục 721: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá trị thị trường

mục 722: Tỷ suất lợi nhuận bình quân như là bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận theo giá cả thị trường

mục 723: Cương vị kép của tỷ suất lợi nhuận chung: hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư và tỷ suất lợi nhuận bình quân

Chương 8: PHÉP CHUYỂN HÓA NHƯ BƯỚC PHÁT TRIỂN HÌNH THỨC CỦA GIÁ TRỊ SANG CẤP ĐỘ TƯ BẢN SỐ NHIỀU

Tiết 81: Tỷ suất lợi nhuận chung và tỷ suất lợi nhuận không ngang nhau

mục 811: Tỷ suất lợi nhuận chung và những hình thái cạnh tranh

mục 812: Tỷ suất lợi nhuận chung và phân khúc tư bản

Tiết 82: Giá cả sản xuất và quy luật giá trị

mục 821: Phép chuyển hóa và bóc lột

mục 822: Hai đẳng thức của phép chuyển hóa

mục 823: Giá cả sản xuất và lao động xã hội cần thiết

Phần thư ba: HÀNG HÓA VỚI TÍNH CÁCH LÀ SẢN PHẨM CỦA TƯ BẢN CÁ BIỆT

Tiêu đề I: VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH

Chương 9: SIÊU LỢI NHUẬN NỘI NGÀNH VÀ LIÊN NGÀNH

Tiết 91: Giá cả sản xuất chung, giá cả sản xuất cá biệt và siêu lợi nhuận cá biệt

mục 911: Giá cả sản xuất và giá cả thị trường

mục 912: Giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt

mục 913: Giá cả sản xuất chung và giá trị thị trường

Tiết 92: Giá cả sản xuất chung, giá cả thị trường và siêu lợi nhuận thị trường

mục 921: Tính chất của lao động xã hội cần thiết

mục 922: Giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất

mục 923: Tỷ suất lợi nhuận chung, siêu lợi nhuận thị trường và siêu lợi nhuận cá biệt

Tiêu đề II: VẤN ĐỀ CHUYỂN ĐỔI LỢI NHUẬN SIÊU NGẠCH THÀNH ĐỊA TÔ

Chương 10: ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Tiết 101: Sở hữu đất đai và tư bản

mục 1011: Sở hữu đất đai như là quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa

mục 1012: Sự thâu gồm sở hữu đất đai vào tư bản

mục 1013: Địa tô tuyệt đối, sở hữu ruộng đất và giai cấp xã hội

Tiết 102: Vấn đề ruộng đất và quy luật giá trị

mục 1021: Địa tô tư bản chủ nghĩa và khớp nối các phương thức sản xuất

mục 1022: Sự thâu gồm lao động vào tư bản trong nông nghiệp và sự bóc lột lao động nông dân

mục 1023: Đối tượng của Phần 6 Quyển III Tư bản

Chương 11: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH

Tiết 111: Lĩnh vực nông nghiệp và sự xác định giá cả sản xuất

mục 1111: Khả năng về lợi nhuận dưới chuẩn bình quân trong nông nghiệp

mục 1112: Khả năng về địa tô chênh lệch âm

Tiết 112: Đất nông nghiệp và tính màu mỡ

mục 1121: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ kinh tế

mục 1122: Tính màu mỡ gọi là tự nhiên và màu mỡ nhân tạo

mục 1123: Ruộng đất như là hàng hóa ảo và sự chuyển đổi siêu lợi nhuân cá biệt thành địa tô chênh lệch

Chương 12: KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA TÔ TUYỆT ĐỐI

Tiết 121: Giải pháp lý luận năm 1862

mục 1211: Địa tô trên khoảng đất tồi nhất

mục 1212: Cấu thành hữu cơ của tư bản nông nghiệp và sở hữu ruộng đất

mục 1213: Địa tô tuyệt đối như khoản dư của giá trị trao đổi trên giá cả sản xuất

mục 1214: Tình trạng thị trường và sự hiện thực hóa địa tô

Tiết 122: Đặt lại vấn đề địa tô tuyệt đối

mục 1221: Khoản trừ trên giá trị trao đổi hay khoản dư trên giá cả sản xuất

mục 1222: Địa tô tuyệt đối hay địa tô độc quyền

mục 1223: Địa tô nội sinh hay địa tô ngoại sinh

mục 1224: Tính chất của địa tô tuyệt đối và phương thức xác định nó

LỜI KẾT

CHÚ THÍCH

THƯ MỤC

MỤC LỤC

Nguồn: Tác giả - dịch giả Trần Hải Hạc gởi trực tiếp cho PTKT.

----

Bài đã đăng:

- Lời nói đầu và Lời dẫn nhập




Chú thích:

[i] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 74].

[ii] Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, tr. 15].

[iii] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 53].

[iv] Hệ tư tưởng Đức [1846, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2014 của nxb Editions Sociales, tr. 195, 197]. Trong các ấn bản trước của nhà xuất bản này, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “subordination” (sự phụ thuộc) [ấn bản 1967, tr. 62].

[v] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 571]. Chương VI. Bản thảo 1861-1863 [1861-1863, ấn bản tiếng Pháp sau cùng năm 2010 của nxb Editions Sociales, tr. 30]. Trong ấn bản trước đó của nxb UGE, “subsumtion” còn được chuyển ngữ tiếng Pháp là “soumission” (sự phục tùng) [ấn bản 1971, tr. 191].

[1] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t.3, tr. 172].

[2] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 91].

[3] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 91-92].

[4] Tư bản, Quyển II [1870-1878, t. 1, tr. 21-22].

[5] Những lá thư viết về bộ Tư bản [1844-1895, tr. 195].

[6] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t. 3, tr. 194].

[7] Những lá thư viết về bộ Tư bản [1844-1895, tr. 174-195].

[8] Những lá thư viết về bộ Tư bản [1844-1895, tr. 229-330].

[9] Đó là cách đọc của Louis Althusser [L. Althusser, “Avertissement aux lecteurs du Capital”, trong Le Capital, Livre 1, nxb Garnier Flammarion, tr. 19]. Xem thảo luận về cách diễn giải này ở phía sau, Tiết 14 và 42.

[10] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 214]; Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 85]

[11] Chương 1, Tư bản, bản 1890 [1867/1890a, tr. 220].

[12] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 85-86].

[13] Xem phía sau, Tiết 12.

[14] Chương 1, Tư bản, bản 1890 [1867/1890a, tr. 218].

[15] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 56]. Xem chú thích bổ sung của Engels: “Và không phải chỉ một cách đơn giản là cho những người khác. (…) Muốn trở thành hàng hóa, sản phẩm phải được chuyển cho người khác bằng con đường trao đổi để người đó dùng làm giá trị sử dụng”.

[16] Rosa Luxemburg, Introduction à l’économie politique, nxb UGE, 1973, tr. 225; 220.

[17] Trong L’accumulation du capital, khái niệm về lao động trừu tượng chỉ xuất hiện trong thảo luận về các sơ đồ tái sản xuất tư bản ở chương 3 về “Lưu thông tiền tệ”: R. Luxemburg nêu vấn đề ngành sản xuất vàng không thể đặt vào khu vực I của các tư liệu sản xuất cũng không thể đặt vào khu vực II của các tư liệu tiêu dùng, trừ khi phá bỏ sơ đồ định lượng của Marx. Từ đó mà tác giả đi đến giải pháp là đặt thêm một “khu vực thứ ba” trong sơ đồ tái sản xuất: khu vực của “các tư liệu trao đổi, (…) biểu tượng của lao động xã hội trong một hàng hóa không phân biệt”, tức là vàng được sản xuất không phải với tư cách là kim loại mà với tư cách là “hiện thân của lao động trừu tượng” và, trong tư cách đó, vừa là tư liệu sản xuất, vừa là tư liệu tiêu dùng. [R. Luxemburg, L’accumulation du capital, in Oeuvres IV, nxb Maspéro, 1972, t. 1, tr. 82]. Trong Tư bản, vấn đề của lao động trừu tượng này tìm ra giải pháp trong phân tích hình thái của giá trị với việc loại trừ vàng khỏi thế giới hàng hóa. Xem phía sau, Tiết 31.

[18] Charles Bettleheim, Calcul économique et formes de propriété, nxb Maspéro, 1970, tr. 41; 37.

[19] Diane Elson có cách đặt vấn đề tương tự, nhưng bà đẩy xa hơn lô-gíc lập luận của Bettleheim: không chỉ cặp lao động cụ thể và lao động trừu tượng mà cả cặp lao động tư nhân và lao động xã hội được Elson thiết định như là những “khái niệm thuộc mọi thời kỳ lịch sử”. Cho nên điều phân biệt các hình thái xã hội với nhau là “mối tương quan giữa các mặt lao động đó với nhau”, đặc tính của chủ nghĩa tư bản là “mặt trừu tượng thống trị các mặt khác” [D. Elson, “The value theory of labour”, trong D. Elson (chủ biên), Value. The representation of labour in capitalism, nxb CSE Books, 1979, tr. 144 và 149].

Luận điểm mà Elson bảo vệ dựa trên những lẫn lộn về khái niệm (đặc biệt giữa lao động có ích và lao động cụ thể, giữa lao động ngang bằng và lao động trừu tượng) mà nguồn gốc là định nghĩa theo chủ nghĩa cấu trúc của các mặt lao động cụ thể – trừu tượng, tư nhân – xã hội như là những bất biến (invariant) mà mỗi hình thái xã hội tổ hợp một cách khác nhau trong một cấu trúc có yếu tố chi phối.

[20] Ghislain Deleplace, Histoire de la pensée économique. Nxb Dunod, 1999, tr. 126. Théorie du capitalisme: une introduction, nxb Maspéro-PUG, 1979, tr. 246-247.

[21] G. Deleplace, Théorie du capitalisme: une introduction, tr. 220 và 223.

[22] G. Deleplace, sđd., tr. 300. Histoire de la pensée économique, tr. 135.

[23] “Lời nói đầu 1857”, Bản tháo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 18].

[24] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1959a, tr. 217].

[25] Bản thảo 1857-1858 [1957-1858, t. 1, tr. 92].

[26] Vấn đề hình thái hàng hóa của khách thể và sự sùng bái nó sẽ được thảo luận ở phía sau, Tiết 41.

[27] Chú thích bổ sung - Trong một cuộc trao đổi năm 2005 trên tạp chí Variations, chúng tôi chấp nhận phản bác của Antoine Artous cho rằng lao động sinh lý không “tự nhiên” có tính đồng nhất, không có thuộc tính ngang bằng “tự nhiên”. Đúng là sự đồng nhất của lao động sinh lý không hề mang tính tự nhiên, cho nên cần chỉnh lý như sau: Không có lao động ngang bằng trên mặt sinh lý, lao động chỉ có thể ngang bằng trên mặt xã hội. Trong Chương 1 Tư bản, khi Marx nói đến lao động sinh lý đồng nhất (đo theo đơn vị thời gian lao động là giờ, ngày, v.v.), lao động đó không có gì là tự nhiên, mà là hệ quả của lao động ngang bằng về mặt xã hội, dưới một hình thái đặc thù, là hình thái của sản phẩm lao động ngang bằng với tiền tệ (biểu tượng của lao động xã hội). Xem Trần Hải Hạc, “Introduction de 1857, travail abstrait et ‘travail en général’” [Lời dẫn nhập 1857, lao động trừu tượng và ‘lao động nói chung’], Variations, số xuân 2005, tr. 86.

[28] Jean-Claude Delaunay, “La forme valeur de la production”, La Pensée, n˚ 183, 1975, tr. 71-72.

[29] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 129].

[30] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867-1890a, t.1, tr. 133]

[31] Cần nhận xét rằng các tính cụ thể và trừu tượng của lao động sản xuất hàng hóa không quy chiếu đến các phạm trù về “cụ thể” (cái cụ thể trong tư duy) và về “trừu tượng” (sự trừu tượng hóa) của Lời dẫn nhập 1857. Theo một nhà bình luận Chương 1 bộ Tư bản, lao động cụ thể tập hợp tất cả các mặt của lao động, trong khi lao động trừu tượng chỉ xét đến một mặt phiến diện của nó (O.C.B., L’étude du Capital, nxb OCB, 1979, tr. 86-87). Trái lại, trong phân tích của chúng tôi, khái niệm về lao động cụ thể trỏ một mặt của lao động sản xuất hàng hóa, một tính quy định phiến diện và do đó nó “trừu tượng” (theo nghĩa trừu tượng hóa của Lời dẫn nhập 1857) cũng như khái niệm về lao động trừu tượng.

[32] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 61].

[33] Pierre Strouvé, Préface à l’édition russe du Livre I du Capital (tr. 28), trích dẫn trong Isaak Roubine, Essai su la théorie de la valeur de Marx, nxb Maspéro, 1978, tr. 182. Claude Lefort, Les formes de l’histoire, nxb Gallimard, 1978, tr. 62. Cornelius Castoriadus, Les carrefours du labyrinthe, nxb Seuil, 1978, tr. 255.

[34] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 62].

[35] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t. 1, tr. 184-185]. Trong Tư bản Quyển I, Marx phê phán “ảo giác của phần lớn các nhà kinh tế học (…) gây nên bởi bề ngoài vật chất của những thuộc tính xã hội của lao động” [1875, t. 1, tr. 93].

[36] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 43]. Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867-1890a, t.1, tr. 27].

[37] Isaak Roubine, Essais sur la théorie de la valeur de Marx, nxb Maspéro, 1978, tr. 190.

[38] I. Roubine, sđd., tr. 192.

[39] I. Roubine, sđd., tr. 193-194.

[40] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 61].

[41] Paul-Dominique Dognin, Les sentiers escarpés de Karl Marx, nxb Cerf, 1977, t.2, tr. 22 và 79-80.

[42] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1890 [1867-1890a, t.1, tr. 211].

[43] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1890 [1867-1890a, t.1, tr. 216].

[44] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 79-80]. Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1890 [1867-1890a, t.1, tr. 211].

[45] Phản bác ý kiến lấy lao động sinh lý làm thành hiện thực của lao động trừu tượng, Geoffrey Kay căn cứ vào phân tích hình thái của giá trị trong Tư bản để xác định rằng “chính tiền tệ mới là hình thái tồn tại của lao động xã hội” [G. Kay, “Why labor is the starting point of Capital”, trong D. Elson (ed), Value. The representation of labour in capitalism, nxb CSE Books, 1979, tr. 58]. Tuy nhiên và ngược lại với Marx, Kay cho rằng “lao động cụ thể không phải và không thể là hình thái tồn tại của lao động trừu tượng”: theo lập luận của ông, nếu lao động cụ thể là một phạm trù có mặt trong mọi hình thái xã hội, thì lao động trừu tượng sẽ mất tính phạm trù lịch sử của nó [sđd., tr. 57]. Lập luận của Kay mất tính xác đáng nếu chúng ta phân biệt lao động có ích với lao động cụ thể là phạm trù chỉ một hình thái lịch sử, hình thái lao động có ích với tư cách là biểu tượng của lao động trừu tượng.

[46] Eugen von Bohm-Bawerk, “Karl Marx and the close of his system”, trong Paul Sweezy (ed), Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk, & Bohm-Bawerk’s critism of Marx by Rudolf Hilferding, nxb Augustus Kelley, 1949, tr. 64 và tiếp. Đúng ra, tác giả đề ra phản bác này trước đó là Karl Knies (Das Geld, tr. 31. Xem Gilles Dostaller, Valeur et prix, nxb Maspéro-PUG, 1978, tr. 21). Về sau, trong những tác giả lặp lại phản biện đó, có George Bernard Shaw (“Wie man den Leuten die Wert theorie aufherrscht”, Dokumente des Socialismus, 1903, t. 2, tr. 84 và tiếp), Vilfredo Pareto, Les systèmes socialistes, nxb Giard et Brière, vol. 2, 1903, tr. 352 và tiếp), Philip Wicksteed (“Das Kapital: a criticism”, in The common sense of political economy, nxb A.M. Kelley, 1950, tr. 705 và tiếp) và sau cùng có Paul-Dominique Dognin, Les sentiers escarpés de Karl Marx, t. 2, nxb Cerf, 1977, tr. 16 và tiếp).

[47] E. von Bohm-Bawerk, sđd., tr. 74.

[48] Paul Sweezy, The theory of capitalist development, nxb Modern Reader, 1968, tr. 30.

[49] Lucio Colletti, De Rousseau à Lénine, nxb Gordon et Breach, 1974, tr. 141.

[50] Ruy Fausto, “Abstraction réelle et contradiction: sur le travail abstrait et la valeur”, Critiques de l’économie politique, janv.-mars 1978.

[51] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867, t. 1, tr. 53].

[52] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 10].

[53] P. Sweezy, sđd., tr. 30-32.

[54] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, 38-39].

[55] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 19; 21].

[56] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 15 và 11].

[57] Phạm trù về “lao động chung trừu tượng” xuất hiện lần đầu trong Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 15 và 44]. Đúng ra, thuật ngữ “lao động trừu tượng” lần đầu xuất hiện là trong Bản thảo 1857-1858 và lúc đó Marx còn ghép nó với thuật ngữ “lao động nói chung” [1857-1858, t. 1, tr. 235]. Điều này cho thấy rằng, vào thời điểm ấy, Marx chưa khái niệm hóa hoàn chỉnh phạm trù về lao động trừu tượng và chưa dứt điểm, chí ít, về mặt thuật ngữ, với ý niệm về lao động nói chung của chính trị kinh tế học.

[58] Lẫn lộn hai thuật ngữ lao động chung (trừu tượng) và lao động nói chung, Henri Denis giải thích “lao động chung chính là bản thể của lao động mà các loại lao động cụ thể là sự tồn tại bên ngoài, tương tự như con chó, với tư cách là giống, là bản thể mà những con chó cá biệt là sự biểu hiện bên ngoài” (H. Denis, L’Economie de Marx, nxb PUF, 1980, tr. 152). Từ đó, tác giả phê phán Lời dẫn nhập 1857 của Marx là “phủ định tính hiện thực của cái chung để chỉ nhận sự tồn tại của những cái cá biệt” (sđd., tr. 44-45). Ông quy kết Marx là theo quan niệm của Feuerbach về cái chung (cái trừu tượng) như là ảo tưởng (sđd., tr. 168-169).

[59] Như Gilbert Faccarello có nhận xét (G. Faccarello, Travail, valeur et prix, thèse, Université Paris X, 1979, tr. 389).

[60] Chương VI. Bản thảo 1863-1867 [1864, tr. 215-216]. Vấn đề về sự thâu gồm lao động vào tư bản được xét phía sau ở các mục § 611 và § 612.

[61] Đồng nhất hóa lao động trừu tượng với lao động làm thuê, đặc biệt với sự thâu gồm lao động vào tư bản, dẫn đến chỗ bỏ qua vấn đề hình thái đặc thù của lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản, tức tiền tệ. Đó là trường hợp của Jean-Marie Vincent khi ông giải thích lao động trừu tượng là “một loạt hoạt động chính xác như là quy sức lao động thành hàng hóa, chuyển hóa lao động vật hóa thành tư bản, sử dụng sức lao động để sản xuất giá trị trao đổi và thặng dư giá trị” (J. M. Vincent, “La domination du travail abstrait”, Critiques de l’économie politique n˚ 1, oct-déc. 1977, tr. 24).

[62] Lucio Colletti, De Rousseau à Lénine, nxb Gordon et Breach, 1974, tr. 141, 145-146 và 149.

[63] L. Colletti, sđd., tr. 147-149.

[64] Trong văn bản De Rousseau à Lénine, L. Colletti không quy chiếu rõ ràng đến Bản thảo 1844. Quy chiếu này chỉ xuất hiện trong Le marxisme et Hegel. Chia sẻ luận điểm về lao động trừu tượng hiểu như lao động tha hóa, Claudio Napoleoni (Lezioni sul capitolo sesto inedito del Capitale) ban đầu cũng khẳng định chỉ căn cứ vào tác phẩm thời kỳ trưởng thành của Marx. Về sau, trong L’enigma del valore, tác giả mới quy chiếu đến Bản thảo 1844 (xem Jean-Pierre Potier, Lectures italiennes de Marx 1883-1983, nxb PUL, 1986, tr. 369 và tiếp).

[65] Bản thảo 1844 (1844, tr. 58).

[66] Bản thảo 1844 (1844, tr. 144).

[67] Bản thảo 1844 (1844, tr. 62).

[68] “Trong quan hệ có tính loài và tự nhiên ấy, quan hệ của con người với tự nhiên trực tiếp là quan hệ của con người với con người, còn quan hệ của con người với con người trực tiếp là quan hệ của con người với tự nhiên, là tính quy định tự nhiên của nó” - Bản thảo 1844 (1844, tr. 86).

[69] Vấn đề sẽ được khảo sát tiếp trên một phương diện khác ở Tiết 21, và sẽ được xem xét lại toàn bộ ở Tiết 43, là nơi thảo luận phản đề của Colletti, theo đó “khái niệm quan hệ sản xuất được thiết kế lần đầu tiên và quyết định trong Bản thảo 1844 dưới hình thức khái niệm về con người như là “thực thể có tính tự nhiên và mang tính loài” (L. Colletti, Le marxisme et Hegel, nxb Champ libre, 1976, tr. 241).

[70] Bản thảo 1844 (1844, tr. 69, 79 và 67).

[71] José Giannotti, Origines de la dialectique du travail, nxb Aubier Montaigne, 1971, tr. 82.

[72] L. Colletti, Politique et philosophie, nxb Galilée, 1975, tr. 101.

[73] Trong Bản thảo 1844, có thể tìm thấy hai cách trình bày lao động trừu tượng. Một mặt, lao động trừu tượng chỉ lao động “phiến diện và trừu tượng” của công nhân, “hoạt động nhằm có được tiền công” chứ không phải “với tư cách là con người”, hay nói cách khác, nó là lao động phi nhân tính của con người tha hóa (Bản thảo 1844 [1844, tr. 12]). Mặt khác, lao động trừu tượng chỉ lao động “trong tính phổ quát và tính trừu tượng của nó”, lao động như là “bản thể chung của của cải”, “lao động nói chung” như Smith quan niệm, đối lập với quan điểm trọng nông theo đó chỉ “một biểu hiện đặc biệt nào đó của lao động” (lao động nông nghiệp) mới mang tính sản xuất (sđd., tr. 82). Cách trình bày thứ nhất tương ứng với định nghĩa lao động trừu tượng của Colletti, cách trình bày thứ hai là với định nghĩa của Sweezy.

[74] Giữa các văn bản của Marx thời trẻ và thời kỳ trưởng thành, tác phẩm giữ vai trò bản lề là Hệ tưởng Đức năm 1846, trong đó Marx đoạn tuyệt với triết học của Hegel và Feuerbach, “thanh toán cái lương tri triết học trước đây” (“Lời nói đầu” trong Góp phần thê phán chính trị kinh tế học [1859, tr. 5]). Và văn bản có vai trò bước ngoặc là Luận cương về Feurbach, soạn thảo năm 1845, trong đó có luận điểm thứ 6 then chốt: “Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của con người cá biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tập hợp những quan hệ xã hội” (Hệ tư tưởng Đức [1846, tr. 3]).

[75] “Ghi chú đọc sách 1844-1845”, Tác phẩm II. Kinh tế (1844-1881, tr. 31-33 và 39).

[76] “Ghi chú đọc sách 1844-1845”, Tác phẩm II. Kinh tế (1844-1881, tr. 25, 17-18 và 28).

[77] L. Colletti, sđd., tr. 280 và tiếp.

[78] Tương quan giữa phân tích sùng bái của bộ Tư bản và phân tích tha hóa của Bản thảo 1844 sẽ được xem xét ở Tiết 41.

[79] Gia đình thần thánh (1845, tr. 61-62).

[80] J. Giannotti, sđd., tr. 108.

[81] Theo lời bình của Lenine (V.I. Lenine, Oeuvres complètes, nxb Progrès, 1971, t. 38, tr. 27).

[82] Sự khốn cùng của triết học (1847, tr. 78). Trong văn bản phản biện Proudhon năm 1847 này, Marx còn chấp nhận một cách không phê phán thuyết về giá trị của Ricardo. Đây là một sự thay đổi lập trường của Marx so với những Ghi chú đọc sách 1844-1845, trong đó ông dùng quan điểm của Proudhon để phê phán Ricardo: “Ricardo chứng minh lao động bao hàm toàn bộ giá cả, bởi tư bản cũng là lao động. Theo Say, Ricardo đã quên rằng lợi nhuận của tư bản và đất đai không có cho không. Proudhon kết luận một cách chính đáng rằng ở đâu có tư hữu, ở đó giá cả của sản phẩm cao hơn chi phí của nó; đó là của cống nộp cho chủ sở hữu tư” (“Ghi chú đọc sách 1844-1845”, Tác phẩm II. Kinh tế [1844-1881, tr. 8-9]).

[83] “Từ khái niệm về lao động tha hóa, trở nên xa lạ, và qua phân tích, chúng ta đã rút ra khái niệm về sở hữu tư và, nhờ hai yếu tố đó, chúng ta có thể trình bày tất cả các phạm trù kinh tế, và trong mỗi phạm trù - chẳng hạn như trao đổi, cạnh tranh, tư bản, tiền tệ -, chúng ta chỉ tìm thấy một biểu hiện nhất định và phát triển của những cơ sở ban đầu ấy” (Bản thảo 1844 [1844, tr. 68]). Xem bảng từ đồng nghĩa xác lập trong Lire Le Capital: lao động = hoạt động có tính loài; công nhân = con người; sản phẩm = vật thể; tư bản = thực thể xa lạ; tư liệu sinh hoạt = tư liệu sinh sống; trao đổi = cộng đồng; giá trị = nhân phẩm; v.v. (Jacques Rancière, “Le concept de critique et la critique de l’économie politique des Manuscrits de 1844 au Capital”, trong Louis Althusser và tác giả khác, Lire Le Capital, nxb Maspéro, 1973, t. 3, tr. 20-22). Vấn đề sẽ được xem xét lại tại các Tiết 21 và 41.

[84] Ruy Fausto, Marx: logique et politique, nxb Publisud, 1986, tr. 102 và 130. José Giannotti, Origine de la dialectique du travail, sđd., tr.9 và 18.

[85] R. Fausto, sđd., tr. 118-119.

[86] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 73]

[87] R. Fausto, sđd., tr. 117-118.

[88] Trong ấn bản tiếng Đức lần thứ hai (1873) của Chương 1, Marx đưa đoạn văn về con động vật như là sự phổ quát cụ thể vào chú thích cuối trang; rồi đến ấn bản tiếng Pháp (1875) thì xóa nó đi.

[89] Đọc văn bản về hình thái của giá trị, Carlo Benetti và Jean Cartelier rút ra nhận định rằng, đối với Marx, vật ngang giá chung là “cái phổ quát trừu tượng không thể nào đồng nhất hóa với cái cá biệt”. Từ đó hai tác giả phê phán Marx đã mâu thuẫn vì tìm cách cụ thể hóa cái phổ quát trừu tượng đó trong một hàng hóa cá biệt (C. Benetti, J. Cartelier, Marchands, salariat et capitalistes, nxb Maspéro, 1980, tr. 148).

[90] “Khi tôi nói: pháp luật La-mã và pháp luật Đức đều là pháp luật, đương nhiên ai cũng hiểu mối liên hệ. Nhưng khi tôi nói ngược lại: pháp luật, cái vật trừu tượng, hiện thực hóa trong pháp luật La-mã và pháp luật Đức, tức trong những pháp luật cụ thể, thì mối liên hệ trở nên thần bí (Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 133]). Xem R. Fausto, sđd., tr. 125.

[91] Tư bản Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 71 và 81].

[92] R. Fausto, sđd., tr. 74-75 và 96. Fausto có những phê phán xác đáng về một số trình bày trong Lire Le Capital của L. Althusser và tác giả khác.

[93] R. Fausto, sđd., tr. 130-131.

[94] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 85].

[95] Tư bản Quyển 1, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 80].

[96] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 85].

[97] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 11].

[98] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 10].

[99] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 10].

[100] Xem Jean-Luc Dallemagne, L’économie du Capital, nxb Maspéro, 1978, tr. 23.

[101] Trong văn bản 1859 này của Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, cũng như văn bản trích dẫn trước đó của “Lời dẫn nhập 1857”, Marx dùng lại một lập luận mà ông đã trình bày trong Sự khốn cùng của triết học năm 1847. Theo đó: “Chỉ lấy lượng lao động làm thước đo cho giá trị mà bất kể chất của lao động, giả định rằng lao động giản đơn đã trở thành mấu chốt trong công nghiệp. Nó giả định rằng các thứ lao động trở nên ngang bằng do con người phụ thuộc vào máy móc hay phân công lao động đạt đến cực điểm. (…) Làm cho lao động ngang bằng là kết quả của công nghiệp hiện đai. Trong công xưởng sử dụng máy móc tự động, lao động của một công nhân hầu như không có gì phân biệt với lao động của một công nhân khác: các công nhân chỉ có thể phân biệt nhau bằng lượng thời gian họ lao động” (Sự khốn cùng của triết học [1847, tr. 64-65]).

Trong văn bản năm 1847 này, như đã có nhận xết ở trên (chú thích 82), Marx còn chấp nhận một cách không phê phán thuyết về giá trị của Ricardo và chưa tạo ra khái niệm về lao động trừu tượng. Xem: Maximilien Rubel, “Karl Marx”, trong Tác phẩm I. Kinh tế [1847-1893, tr. 29]; Susumu Takenaga, Valeur, formes de la valeur et étapes dans la pensée de Marx, nxb Peter Lang, 1985, tr. 234.

[102] Trong Tư bản, Marx tỏ ra khá lúng túng trước vấn đề quy lao động cao cấp, phức tạp thành lao động trung bình, giản đơn mà chính ông đặt ra. Hơn vậy, do không đề ra được một lời giải thỏa đáng, tác giả Tư bản phải nhờ cậy vào phạm trù tiền tệ, biểu tượng của lao động trừu tượng: “Ở mọi nơi, giá trị của những hàng hóa hoàn toàn khác nhau đều biểu hiện một cách giống nhau bằng tiền tệ, tức là trong một khối lượng vàng hay bạc nhất định. Bằng cách đó, những loại lao động khác nhau mà các giá trị đó đại biểu, được quy theo những tỷ lệ khác nhau, thành những số lượng nhất định của cùng một loại lao động thông thường duy nhất, tức là lao động sản xuất ra vàng hay bạc” (Tư bản Quyển I, bản 1875 [1875, tr. 198]).

[103] Xem phía sau mục § 321.

[104] Theo một cách đọc Marx gần với quan điểm của Fausto về sự trừu tượng hóa hiện thực, Lucien Sève nhấn mạnh tầm quan trọng của bước chuyển từ phân tích cái phổ quát sang phân tích hình thái của cá biệt, tức từ phân tích mối tương quan sang phân tích hình thái vật hóa (L. Sève, Une introduction à la philosophie marxiste, nxb Editions Sociales, 1980, tr. 75-77). Ngoài hai văn bản thường trích dẫn từ “Lời dẫn nhập 1857” (lao động nói chung như là sự thật thực tiễn) và từ Góp phần phê phán chính trị kinh tế học (trừu tượng hóa lao động như là trừu tượng hóa hiện thực), tác giả còn quy chiếu đến một văn bản trong Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 77-79] bàn về tương quan giữa hai khái niệm “lao động nói chung” và tiền tệ. Văn bản thứ ba này, theo chúng tôi, gợi một hướng khảo cứu khác hơn hai văn bản đầu tiên, bởi nó đi tìm nền tảng của khái niệm về lao động trừu tượng không phải trong sự tồn tại của một hiện thực nhất định của lao động, mà trong sự tồn tại của tiền tệ. Đối chiếu với trình bày của bộ Tư bản, văn bản này có thể xem như là một sự phác họa với những điểm còn thiếu sót:

a) Bản thảo 1857-1858 viết rằng “thời gian lao động nói chung” - quy tương quan giữa hai hàng hóa vào một yếu tố thứ ba - chỉ tồn tại “trong biểu tượng”, “trong đầu óc”, và như vậy là đủ cho tính quy định “trong ý tưởng” (idéel) của giá trị. Khi hàng hóa đi vào trao đổi thực sự thì sự trừu tượng hóa mới cần phải vật hóa, “tượng trưng hóa bằng ký hiệu”. Về sau, trong trình bảy của Tư bản, Marx thay thế cụm từ về sự chuyển hóa “trong ý tưởng” của hàng hóa thành trừu tượng hóa lao động này bằng cụm từ về “sự chuyển hóa trong ý tưởng của hàng hóa thành tiền tệ” (transformation idéelle de la marchandise en monnaie) – nhờ đó tác giả Tư bản tránh không phải tiền giả định sự trừu tượng hóa lao động như là trừu tượng hóa thuần “tinh thần”.

b) Trong Bản thảo 1857-1858, Marx rập khuôn theo (calquer) phân tích lao động trừu tượng dựa trên phân tích “tiền đúc” (numéraire), tức tiền tệ nhưng chỉ trong tư cách “ký hiệu giá trị” (signe de valeur). Sự lẫn lộn ở đây giữa trừu tượng hóa lao động và ký hiệu giá trị là do một thuyết về tiền tệ “duy tượng trưng” (symbolique) đưa đến đồng nhất hóa tiền tệ một cách đơn thuần với chức năng phương tiện lưu thông của nó. Trong Tư bản, Marx từ bỏ thuyết duy tượng trưng này để xây dựng lý luận về tiền tệ như là vật ngang giá chung, hình thái đối cực của thế giới hàng hóa.

[105] Vấn đề phân đôi khái niệm ra thành tính quy định (sự tồn tại tinh thần) và sự thiết định (sự tồn tại xã hội) được xem xét lại về sau (Tiết 14).

[106] Tính nước đôi của luận điểm về sự trừu tượng hóa hiện thực ở chỗ người ta không phân biệt trong văn bản của Marx hai khái niệm về trừu tượng hóa: sự trừu tượng hóa-tha hóa trong các văn bản thời trẻ và liên quan đến mối quan hệ giữa cái trừu tượng và cái cụ thể hiện thực; và sự trừu tượng hóa với tư cách là phương pháp nhận thức trong Lời dẫn nhập 1857 và liên quan đến mối quan hệ phức tạp hơn nhiều giữa cái trừu tượng, cái cụ thể trong tư duy và cái cụ thể hiện thực. Vả lại, cần nhận xét rằng phân tích của Marx về tính hai mặt trừu tượng – cụ thể của lao động không ăn nhập gì với cái trừu tượng và cái cụ thể trong tư duy của Lời dẫn nhập 1857.

[107] Theo nhiều cách tiếp cận Marx, trong đó có tiếp cận của Jean-Marie Vincent, khái niệm về “trừu tượng hóa hiện thực” chỉ những hình thái tư duy vật hóa và cai quản thực tiễn của con người một cách vô ý thức trong chủ nghĩa tư bản (J.M. Vincent, Un autre Marx. Après les marxismes, nxb Page Deux, 2001, tr. 99 và 267). Tác giả quy chiếu đến những lý luận về sùng bái của bộ Tư bản mà chúng ta cần phân biệt với lý luận về tha hóa trong văn bản của Marx thời trẻ (xem Tiết 41 phía sau). Cần nhận xét thêm rằng đối tượng sùng bái mà Phần 1 Quyển I Tư bản phân tích không phải là lao động trừu tượng mà là hình thái vật hoá của nó: tiền tệ. Văn bản này của Marx bàn về sùng bái tiền tệ, chứ không phải sùng bái lao động trừu tượng tự nó như Vincent diễn giải.

[108] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, tr. 86].

[109] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 85].

[110] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, tr. 85-86].

[111] Isaak Roubine, Essais sur la théorie de la valeur de Marx, nxb Maspéro, 1978, tr. 190 và 184. Xem thêm, Jacques Valier, Une critique de l’économie politique, nxb Maspéro, t.1. tr. 54 và tiếp.

[112] Xem phía trên Tiết 13.

[113] P. Nikitine, Principes d’économie politique, nxb Progrès, 1966, tr. 45 và 47.

[114] Vilfredo Pareto, Les systèmes socialistes, nxb Giard & Brière, 1903, tr. 352.

[115] Những lá thư viết về bộ Tư bản [1844-1895, tr. 285].

[116] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 42]; bản 1875 [1875, tr. 54].

[117] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 43]; bản 1875 [1875, tr. 54].

[118] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 53].

[119] Rudolf Hilferding, “Bohm-Bawerk’s criticism of Marx”, trong P. Sweezy (ed) “Karl Marx and the close of his system”, in Paul Sweezy (ed), Karl Marx and the close of his system by Eugen von Bohm-Bawerk & Bohm-Bawerk’s critism of Marx by Rudolf Hilferding, nxb Augustus Kelley, 1949, tr. 133.

[120] Jean-Luc Dallemagne, L’Economie du Capital, nxb Maspéro, 1978, tr. 30 và 236.

[121] Paul Mattick, Marx et Keynes, nxb Gallimard, 1969, tr. 48.

[122] Chương VI Tư bản Quyển I. Bản thảo 1863-1867 [1864, tr. 135].

[123] Xem phía trên Mục § 111.

[124] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 110].

[125] Paul Mattick, “Henryk Grossmann, théoricien de l’accumulation et de la crise”, trong Henryk Grossmann, Marx, l’économie politique classique et le problème de la dynamique, nxb Champ libre, 1975, tr. 27.

[126] Đối với Jacques Bidet, phạm trù về lao động trừu tượng vượt ra ngoài chủ nghĩa duy vật lịch sử và thuộc về tính phổ quát của “quá trình lao động nói chung”, bao gồm vừa “lao động cụ thể”, vừa “tiêu phí về sức lao động” tức lao động trừu tượng (J. Bidet, Que faire du Capital?, nxb Klincksieck, 1985, tr. 261 và 240). Tuy là một phạm trù phổ quát thuộc mọi phương thức sản xuất, lao động trừu tượng chỉ tồn tại dưới những hình thái đặc thù bởi vì tiêu phí về sức lao động bao giờ cũng do những quan hệ xã hội lịch sử nhất định chi phối. Luận điểm mà Bidet bảo vệ là lao động trừu tượng không phải là phạm trù đặc thù của nền sản xuất hàng hóa: “nếu lao động trừu tượng trong quan hệ hàng hóa có một tính đặc thù, thì đó chỉ là ở biểu hiện tách biệt của nó trong tiền tệ” (J. Bidet, “Socialisation et abstraction”, Cahiers d’économie politique n° 12, 1986, tr. 178). Từ đó, tác giả phê phán Marx đã trình bày, trong Chương 1 Tư bản, lao động trừu tượng như là hình thái đặc thù của sản xuất hàng hóa. Mặt khác ông phê phán tác giả Tư bản trong Chương 7 đã trình bày quá trình sản xuất giá trị sử dụng mà không nói đến lao động trừu tượng (Que faire du Capital?, tr. 241 và 246).

Tất cả vấn đề là đặc trưng chính xác phạm trù về lao động trừu tượng. Nếu hiểu đơn giản như Bidet rằng lao động trừu tượng chỉ là một sự trừu tượng hóa để qua một bên các hình thái cụ thể của lao động thì hiển nhiên phạm trù này không thể hiện tính đặc thù của lao động sản xuất hàng hóa. Phải nói rằng cách hiểu này bắt nguồn từ trình bày của Tiết 2 Chương 1 mà nhan đề Marx ghi - “Tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hóa” - là không chính xác.

[127] Theo Ricardo, “có thể coi lao động như là thước đo chung để xác định giá trị thực và tương đối” (Principes de l’économie politique et de l’impôt).

[128] Susan Himmelweit, Simon Mohun, “La réalité de la valeur” trong G. Dostaler (ed), Un échiquier centenaire, nxb La Découverte-PUQ, 1985, tr. 70.

[129] Thư của Engels gửi Conrad Schmidt ngày 12.3.1895, trong Những lá thư về bộ Tư bản, [1844-1895, tr. 146]. Werner Sombart, “Zur Kritik des okonomischen Systems von Karl Marx”, Archiv fur Soziale Gesetzgebung und Statistik, VI, 4, 1894 (tr. 574). Wilhelm Lexis, “The concluding volume of Marx’s Capital”, Quaterly Journal of Economics, X, 1895 (tr. 11 và 32). Xem Gilles Dostaler, Valeur et prix, nxb Maspéro-PUG, 1978 (chương 2 và 3). Gérard Jorland, Les paradoxes du capital, nxb Odile Jacob, 1995 (chương 3).

[130] Edouard Bernstein, Socialisme théorique et social-démocratie pratique, nxb Stock, 1900 (tr.71). Benedetto Croce, “Essai d’interprétation et de critique de quelques concepts du marxisme”, Le devenir social, IV, 2, 1898 (tr. 110-112). Michel Tugan-Baranowsky, Soziale Theorie der Vertilung (lời nói đầu). Xem Gilles Dostaler, sđd. (chương 4).

[131] Karl Kautsky, Le marxisme et son critique Bernstein, nxb Stock, 1900, tr. 79.

[132] Auteur collectif, “Valeur, prix et réalisation”, Critiques de l’économie politique, janvier-mars 1977, tr. 96 và 98.

[133] Cornelius Castoriadis, Les carrefours du labyrinthe, nxb Seuil, 1978, tr. 300.

[134] C. Castoriadis, sđd., tr. 253 và 295.

[135] Tư bản, Quyển I, bản 1875 [1875, t. 1, tr. 89-90].

[136] C. Castoriadis, sđd., tr.315 và 265-267.

[137] C. Castoriadis, sđd., tr. 269.

[138] Cần nhắc lại mệnh đề lý luận trung tâm của văn bản bàn về sự sùng bái: “Tính chất xã hội của các lao động khác nhau ở chỗ các lao động đó đều ngang bằng nhau với tư cách là lao động của con người; và tính chất xã hội đặc thù ấy có một hình thái vật hóa là hình thái giá trị của sản phẩm lao động (…) - điều đó chỉ đúng với hình thái về sản xuất riêng biệt này, tức là sản xuất hàng hóa”. Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 86].

[139] Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 84-85].

[140] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 53]. Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 82].

[141] Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 88].

[142] Bàn về mệnh đề cần tranh cãi của Marx - “tất cả các tính quy định chủ yếu của giá trị đã chứa đựng trong đó rồi” -, Ruy Fausto đề ra diễn giải như sau: tất cả các tính quy định chủ yếu của giá trị đã chứa đựng trong đó rồi, “ngoại trừ sự thiết định”; và khi thiếu vắng sự thiết định (position) thì không có giá trị, cũng như không có lao động trừu tượng. Cho nên, trong tình cảnh của Robinson Crusoe cũng như trong chủ nghĩa xã hội, lao động trừu tượng và giá trị chỉ tồn tại như là biểu tượng trong đầu của Robinson và của nhà làm kế hoạch (…), chứ không tồn tại như là vật xã hội” (R. Fausto, Marx: Logique et politique, nxb Publisud, 1986, tr. 129-130).

Khác với Fausto, trình bày của chúng tôi là những tính quy định của lao động ngang bằng và lao động xã hội không chỉ tồn tại ở trạng thái biểu tượng trong đầu của Robinson hay của nhà làm kế hoạch, mà đó là những quá trình tồn tại trong mọi phương thức sản xuất. Với những khác biệt như sau: a) quá trình xác định lao động xã hội trong chủ nghĩa tư bản mang một hình thái khác trong các phương thức sản xuất không tư bản chủ nghĩa; b) quá trình xác định lao động ngang bằng trong chủ nghĩa tư bản có một công năng khác ở các phương thức sản xuất không tư bản chủ nghĩa; c) điều đặc thù của chủ nghĩa tư bản là sự bao phủ của quá trình xác định lao động xã hội, quá trình xác định lao động ngang bằng với quá trình làm cho các sản phẩm lao động ngang bằng.

[143] Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 88-89].

[144] Những lá thư viết về bộ Tư bản [1845-1895, tr. 229-230].

[145] Theo Louis Althusser, chỉ có thể hiểu thuyết “giá trị-lao động” của Marx như là một trường hợp đặc biệt của “quy luật giá trị”, tức quy luật về phân bổ khối lượng lao động trong xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau, một phép phân bổ cần thiết để tái sản xuất các điều kiện sản xuất: “ngay trẻ con” cũng có thể hiểu điều này như Marx nói (L. Athusser, “Avertissement aux lecteurs”, trong Le Capital, Livre I, nxb Garnỉer-Flammarion, 1969, tr. 7-26).

Cách chúng tôi diễn giải bức thư của Marx gửi Kugelmann (ngày 11.7 1868) khác Althusser trên ba điểm chính: a) sự cần thiết mà lao động xã hội và sự phân bổ nó nói lên không phải là yêu cầu tái sản xuất tự thân các điều kiện vật chất về sản xuất, mà là tái sản xuất các điều kiện xã hội về sản xuất; b) điều mà trẻ con có thể hiểu được là sự cần thiết trong mọi xã hội phải phân công lao động xã hội, chứ nó không thể hiểu sự cần thiết đó mang hình thái đặc thù gì trong phương thức sản xuất nào; c) chỉ có khoa học mới lý giải hình thái giá trị mà phân bổ lao động xã hội mang trong chủ nghĩa tư bản, khác với điều xảy ra trong trường hợp Robinson Crusoe hay trong một xã hội cộng sản, bởi trong chủ nghĩa tư bản mối quan hệ với sản phẩm lao động không có trong suốt và bị sùng bái hóa.

[146] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 11].

[147] Tư bản, Quyển III [1864-1865, t. 3, tr. 258].

[148] Joseph Schumpeter, Histoire de l’analyse économique, nxb Gallimard, 1983, t.2, tr. 297.

[149] C. Castoriadis, sđd., tr. 253-255.

[150] Tư bản, Quyển I, bản 1890 [1890, tr. 43 và 45].

[151] Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 53].

[152] Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 94].

[153] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t.1, tr. 185].

[154] Trong Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t.3, tr. 147 và tiếp], Marx ghi rằng lời phản biện do Samuel Bailey nêu lên trong “A critical dissertation on the nature, measures and causes of value”, và bởi tác giả vô danh của “Observation on certain verbal díputes in political economy”.

[155] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t.2, tr. 192; t.3, tr. 155-156].

[156] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t.3, tr. 154].

[157] Bản thảo 1857-1858 [1857-1858, t. 1, tr. 105].

[158] Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 84].

[159] Joan Robinson, Essai sur l’économie de Marx, nxb Dunod, 1971, tr. 14 và 11. Joan Robinson, John Eatwell, L’économique moderne, nxb Ediscience-McGraw Hill, 1976, tr. 38.

[160] Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 14].

[161] “Trong tính quy định vật chất của một hoạt động sản xuất cá biệt, lao động của người thợ may sản xuất ra áo chứ không sản xuất ra giá trị trao đổi của áo (…) Trong công nghiệp gia đình cổ đại, phụ nữ sản xuất áo mà không sản xuất ra giá trị trao đổi của nó”. Góp phần phê phán chính trị kinh tế học [1859a, tr. 15-16].

[162] J. Robinson, J. Eatwell, sđd., tr. 38.

[163] Cùng quan điểm với Castoriadis, có tiểu luận của Jean-Louis Maunoury, “Théorie marxiste de la valeur et normes sociales de valorisation” (Cahiers d’économie politique n˚ 9, 1984). Theo tác giả này, Marx cho rằng, “trong mọi xã hội, lao động trừu tượng đều tồn tại cụ thể”. Đó là vì Marx quan niệm nó như là tiêu phí năng lượng lao động của con người và căn cứ trên ý tưởng là tất cả hàng hóa đều là sản phẩm của lao động. Theo nghĩa này, khái niệm về lao động trừu tượng để lộ “nhân loại luận ngầm” của Marx, cho nên tác giả của Tư bản mới cho rằng “trừu tượng hóa lao động bao giờ cũng có” (sđd., tr. 105). Maunoury đi đến kết luận ngược đời rằng người ta có thể trách cứ Marx điều mà ông đã trách móc Ricardo: “tức là không có lý giải hình thái của giá trị” (tr. 107).

[164] Về mặt từ ngữ, chỉ có một sự phân biệt không được Marx thiết định rõ ràng, đó là sự phân biệt giữa lao động có ích tự nó tức hoạt động chiếm hữu tự nhiên, và lao động cụ thể với tư cách là “hình thái hiện tượng của lao động trừu tượng”. Song, cho dù dùng từ ngữ gì, sự phân biệt khái niệm, theo chúng tôi, là cần thiết, trong chừng mực chính Marx xác lập phân biệt giữa giá trị sử dụng tự nó tức tính hữu dụng của sản phẩm, và giá trị sử dụng của hàng hóa với tư cách là “vật mang giá trị” (xem phía sau Tiết 22). Sự phân biệt này càng trở nên hiển nhiên về sau khi Marx phân tích quá trình sản xuất giá trị, ở đó ông định nghĩa lao động trừu tượng như là lao động với tư cách nó tạo ra giá trị, và lao động cụ thể là lao động với tư cách là nó truyền tải giá trị (Tiết 51).

[165] Tư bản, Quyển I, bản 1875, [1875, t. 1, tr. 52].

[166] David Ricardo trình bày thuyết về giá trị-lao động của ông như sau: “Người ta hỏi tôi hiểu từ giá trị như thế nào và dựa theo chuẩn nào tôi cho rằng giá trị của một hàng hóa có thay đổi hay không. Lời đáp là tôi không biết tiêu chuẩn nào khác để nói rằng một vật nào đó có giá đắt hơn hay rẻ hơn, ngoài việc hy sinh lao động cần thiết để có được vật ấy. (…) Để xác định rằng nguyên do duy nhất thay đổi giá trị hàng hóa là lượng lao động nhiều hay ít chứa đựng trong hàng hóa, người ta chỉ cần nhất trí với nhau rằng tất cả hàng hóa đều là sản phẩm của lao động và có giá trị tùy theo [lượng] lao động mà hàng hóa chứa đựng” (“Valeur absolue et valeur d’échange”, Cahiers d’économie politique n˚ 2, 1975, tr. 253-254).

[167] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t.1, tr. 227].

[168] Các học thuyết về giá trị thặng dư [1862-1863, t.3, tr. 589].

[169] Isaak Roubine, Essais sur la théorie de la valeur, Maspéro, 1978, tr. 165-166 199-200.

[170] Trong một văn bản xuất bản sau Essais sur la théorie de la valeur, dưới nhân đề “Abstract labour and value in Marx’s system” (Capital and Class n˚ 5, 1978), Roubine xác định rằng khái niệm lao động trừu tượng “dẫn hoàn toàn đến tiền tệ” (tr. 118), và phân tích của Marx vạch rõ mối tương quan “ở bên trong và không thể tách rời” của năm khái niệm cơ bản: quan hệ sản xuất hàng hóa - lao động trừu tượng - giá trị - giá trị trao đổi - tiền tệ (tr. 137). Tuy nhiên, Roubine vẫn nghĩ rằng “làm sáng tỏ các khái niệm về giá trị trao đổi và về tiền tệ sẽ đi ra ngoài giới hạn của đề tài” (tr. 128).

[171] Xem Jairus Banaj, “From commodity to capital: Hegel’s dialectic in Marx’s Capital”, trong D. Elson (ed), Value. The representation of labour in capitalism, CSE Books, 1979, tr. 33. Phê bình cách I. Roubine đọc Chương 1 Tư bản, J. Banaj trình bày hai động tác của Chương 1 bằng cách phân biệt hai chiều kích trong quá trình hình thành giá trị: (A) biểu tượng của hàng hóa trong tiền tệ, (B) biểu tượng của lao động tư nhân như là lao động xã hội; rồi mỗi chiều kích có hai mặt: (1) lượng, (2) chất. Trình bày của Marx đi theo động tác: A.1 -> B.1.2 -> A.2.

 

(1)  Lượng

(2)  Chất

(A) Biểu tượng của hàng hóa trong tiền tệ

Giá trị trao đổi như là hiện tượng trực tiếp

[Tiết 1]

Hình thái tiền tệ như là hiện tượng vật hóa

[Tiết 3]

(B) Biểu tượng của lao động tư nhân như là lao động xã hội

Lao động xã hội cần thiết

[Tiết 1 và 2]

Lao động trừu tượng

[Tiết 1 và 2]

Có thể nhận xét rằng sơ đồ của Banaj xác lập tầm quan trọng của Tiết 3 mà Roubine bỏ qua; tuy nhiên Banaj lại bỏ qua Tiết 4 mà Roubine đã nhấn mạnh tầm quan trọng. Sơ đồ mà Banaj đề xuất cũng có thể tranh cãi ở điểm nó để người ta hiểu rằng khái niệm về lao động trừu tượng được xác lập ở các Tiết 1 và 2, trong khi, theo chúng tôi, định nghĩa của nó chỉ hoàn chỉnh ở các Tiết 3 và 4.

[172] Hans Backhaus, “Dialectique de la forme de la valeur”, Critiques de l’économie politique n˚ 18, 1974, tr. 11. Backhaus quy chiếu đến Vitali Vygotsky là tác giả cho rằng lý luận về giá trị của Marx tùy thuộc phân tích của ông về tiền tệ: “Marx xem việc lĩnh hội phạm trù tiền tệ như là tiêu chuẩn để biết người ta có thấu hiểu bản chất của giá trị hay không” (V. Vygotsky, Die Geschichte einer grossen Entdeckung. Uber die Entstehung des Werkes Das Kapital von Karl Marx, nxb Verlag Die Wirtschaft, 1967, tr. 54).

[173] Trong công trình nghiên cứu Chương 1 Tư bản, Susumu Takenaga đã làm sáng tỏ động tác hai thì của chương này: a) phân tích thực thể của giá trị tách biệt hình thái của nó, các Tiết 1 và 2 đi đến tính quy định của lao động trừu tượng như là tiêu phí về sức lao động nói chung, là một đặc tính chưa đầy đủ bởi nó không biểu hiện tính xã hội đặc thù của lao động sản xuất hàng hóa; b) với Tiết 3 về hình thái của giá trị, lao động trừu tượng được xác định lại từ tính xã hội đặc thù của nó, và chỉ sau khi xem xét sự phát sinh của vật ngang giá thì giá trị mới được xác định với đầy đủ mọi mặt.

Tuy nhiên, theo Takenaga, đặc trưng của lao động trừu tượng nêu ra trong hai tiết đầu tiên không vì thế mà sai lệch, bởi tính xã hội đặc thù của lao động trừu tượng chỉ là “một hình thái đặc biệt của tiêu phí sức lao động nói chung” (S. Takenaga, Valeur, formes de la valeur et étapes dans la pensée de Marx, nxb Peter Lang, 1985, tr. 108).

[174] Makoto Itoh đã nhấn mạnh trên tính đặc thù mácxít của phân tích hình thái của giá trị ở Tiết 3, trái với phân tích thực thể của giá trị ở Tiết 2 còn chịu ảnh hưởng của thuyết Ricardo. Song và một cách nghịch lý, tác giả lại triển khai một quan niệm về lao động trừu tượng – cụ thể như là một phạm trù không có tính quy định về hình thái và phi lịch sử: “Lao động trừu tượng kết hợp với tính cụ thể của nó hợp thành cơ sở vật chất chung của mọi xã hội” (M. Itoh, La crise mondiale, nxb EDI, 1987, tr. 81).

Lý do là Itoh đọc Chương 1 với chủ trương “tách biệt” phân tích hình thái của giá trị với phân tích thực thể của nó, tức là xử lý hình thái mà “không quy chiếu đến” đến thực thể. Chính sự tách biết ấy đưa tác giả đến một quan niệm về thực thể của giá trị chịu ảnh hưởng của Ricardo, mà mặt khác Itoh chủ trương phê phán với lý luận về hình thái của giá trị.

[175] Trong lần xuất bản đầu tiên của Chương 1 (1867), Marx có thêm một “Phần bổ sung” trong đó ông trình bày sự sùng bái như là “đặc trưng thứ tư của hình thái ngang giá”. Chương 1 của bộ Tư bản, bản 1867 [1867/1890a, tr. 139].

Print Friendly and PDF