6.3.22

Thời đại thái cực 1914 (8): Chiến tranh Lạnh

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (8)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ hai

THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

Chương 8

CHIẾN TRANH LẠNH

 

“Dù rằng Nga Xô nuôi ý đồ mở rộng vòng ảnh hưởng bằng mọi phương tiện có thể, cách mạng thế giới không còn nằm trong cương lĩnh của nó, và trong hoàn cảnh nội bộ của Liên bang Soviet, tuyệt đối không còn gì cổ vũ cho việc trở lại truyền thống cách mạng trước đây nữa. Mọi sự so sánh giữa mối họa của nước Đức trước chiến tranh và mối họa Soviet ngày nay phải tính đến [...] những khác biệt cơ bản [...]. Nguy cơ xảy ra một đại họa đột ngột với Nga do đó là vô cùng nhỏ so với Đức”.

Frank ROBERTS,

đại sứ quán Vương quốc Anh tại Moskva,

gửi Bộ ngoại giao, London, 1946,

trong JENSEN, 1991, tr. 46.

 

“Nền kinh tế chiến tranh đã tạo ra “ổ ấm” cho hàng chục nghìn viên chức quan liêu, mặc quân phục hay thường phục, ngày ngày tới cơ quan để chế tạo vũ khí hạt nhân hay chuẩn bị chiến tranh hạt nhân; cho hàng triệu công nhân mà công ăn việc làm lệ thuộc vào hệ thống khủng bố hạt nhân; cho những nhà khoa học và kĩ sư được tuyển dụng để tạo ra “bước đột phá công nghệ” tột cùng để bảo đảm an ninh hoàn toàn; cho những người gia công chẳng dại gì từ bỏ lợi nhuận dễ dàng; cho những nhà trí thức hiếu chiến rao bán những lời hăm dọa và ca ngợi chiến tranh”.

Richard BARNET (1981, tr. 97)

 

I

 

 

Thời đoạn 45 năm, giữa hai quả bom nguyên tử ném xuống Nhật Bản và sự cáo chung của Liên bang Soviet không phải là một thời kì thuần nhất trong lịch sử thế giới. Như chúng ta sẽ thấy ở những chương sau, đầu thập niên 1970 có thể coi là đường phân thủy của thời kì này (x. chương 9 và 14). Nhưng tình thế chủ đạo kéo dài cho đến ngày Liên Xô sụp đổ – sự đối đầu liên tục giữa hai siêu cường trỗi lên từ Thế chiến thứ Hai, mà người gọi là “Chiến tranh Lạnh” – khiến cho người ta coi giai đoạn lịch sử này như một tổng thể.

Thomas Hobbes (1588-1679)

Thế chiến thứ Hai vừa kết thúc thì loài người đã lâm vào một cái mà người ta có lí để coi là cuộc Thế chiến thứ Ba, tuy đó là một kiểu chiến tranh rất đặc biệt. Bởi vì, như đại triết gia Thomas Hobbes nhận xét, “chiến tranh không chỉ là chiến trận, không chỉ là những trận giao tranh thực địa; mà còn diễn ra trong khoảng thời gian mà ý chí đối đầu nhau trong những trận thư hùng đã thể hiện thực sự” (Hobbes, Léviathan, ch. 13). Cuộc Chiến tranh Lạnh giữa phe Hoa Kỳ và phe Liên Xô chế ngự sân khấu quốc tế trong suốt nửa sau của Thế kỉ ngắn XX, không nghi ngờ gì nữa, rõ ràng là một “khoảng thời gian” như thế. Toàn thể mấy thế hệ đã trưởng thành dưới bóng những trận giao tranh hạt nhân mà hầu như mọi người đều nghĩ có thể nổ ra bất cứ lúc nào, và sẽ tàn sát nhân loại. Sự thật là ngay những người không tin vào khả năng một trong hai phe chủ động tấn công cũng khó mà không cảm thấy bi quan, bởi vì “quy luật Murphy”, theo đó “nếu tình hình có khả năng trở thành xấu, thì tình hình sớm muộn thế nào cũng xấu đi”, vốn là một đặc trưng khá hằng định của cõi người. Theo dòng thời gian, lại càng chồng chất những điều có thể xấu đi, về mặt chính trị cũng như về phương diện công nghệ học, trong sự đối đầu hạt nhân thường trực dựa trên giả thuyết là chỉ có mối lo “MAD” (viết tắt cụm từ Mutual Assured Destruction/Đôi bên chắc chắn huỷ diệt lẫn nhau, đồng thời mad cũng có nghĩa là điên cuồng) mới chặn tay cả đôi bên, không bên nào dám bấm trước vào cái nút khởi động cuộc tự sát có quy hoạch của nền văn minh nhân loại. Rốt cuộc, điều ấy đã không xảy ra, mặc dầu cuộc chiến tranh đó, trong suốt 40 năm trường, xem như mỗi ngày đều có khả năng bùng nổ.

Đặc điểm của Chiến tranh Lạnh, khách quan mà nói, là không có nguy cơ gần kề xảy ra chiến tranh thế giới. Hơn nữa, tuy cả hai bên đều không ngần ngại khoa trương ngôn từ của ngày tận thế (nhất là phía Mỹ), chính quyền của cả hai siêu cường đều chấp nhận sự phân bố lực lượng trên thế giới đã thỏa thuận vào lúc kết thúc Thế chiến thứ Hai, thật ra là một sự bố trí không cân xứng nhưng không ai phản đối. Liên Xô kiểm soát hay duy trì ảnh hưởng của mình trên một phần trái đất – là khu vực mà Hồng quân hay lực lượng cộng sản các nước khác đã chiếm lĩnh khi Thế chiến thứ Hai kết thúc – mà không tìm cách dùng vũ lực để mở rộng thêm vùng ảnh hưởng. Hoa Kỳ thì kiểm soát và khống chế vùng đất còn lại của thế giới tư bản, Tây bán cầu và các đại dương, thừa kế di sản bá quyền của các cường quốc thực dân cũ. Bù lại, Hoa Kỳ không can thiệp vào vùng coi là bá quyền của Liên Xô.

Franklin D. Roosevelt (1882-1945)
Winston Churchill (1874-1965)

Ở châu Âu, giới tuyến đã được vạch ra vào những năm 1943-1945 trong khuôn khổ những thỏa thuận tại các cuộc họp thượng đỉnh giữa Roosevelt, Churchill và Stalin, song cũng là do sự kiện là chỉ có Hồng quân mới thực sự có khả năng đánh bại Hitler. Có vài điều lấn cấn, đặc biệt khi bàn đến Đức và Áo, cuối cùng được giải quyết bằng cách phân chia nước Đức theo vùng chiếm đóng quân sự Đông-Tây và triệt thoái mọi quân đội ra khỏi Áo. Thế là Áo trở thành một thứ Thụy Sĩ thứ hai: một nước nhỏ, đứng trung lập, mà sự phồn vinh trường tồn khiến người ta thèm thuồng, nhưng có lẽ cũng vì thế mà Áo được mô tả như “một nước chán ngắt”. Liên Xô miễn cưỡng chấp nhận để cho Tây Berlin tồn tại như khu vực phương Tây nằm lọt thỏm trong lãnh thổ Đông Đức; và không có ý biến Tây Berlin thành mục tiêu khai chiến.

Ngoài cương vực châu Âu, tình hình không rõ rệt, trừ trường hợp Nhật Bản thì ngay từ đầu Hoa Kỳ đã quyết định đơn phương chiếm đóng toàn bộ, loại trừ không những Liên Xô mà cả các đồng minh khác. Điều dễ tiên đoán là sự kết liễu của các đế chế cũ: năm 1945 điều này đã hiển nhiên ở lục địa châu Á. Nhưng ngược lại, định hướng chính trị của các quốc gia được thành lập trong thời kì hậu – thực dân lại chẳng có gì đương nhiên cả. Như chúng ta sẽ thấy (xem ch. 12 và 15), trong suốt thời kì Chiến tranh Lạnh, châu Á sẽ là nơi hai siêu cường liên tục tranh giành hậu thuẫn và ảnh hưởng. Đó là vùng va chạm, có khả năng xảy ra những cuộc đụng độ vũ trang, và quả thực đã xảy ra. Khác với tình hình châu Âu, ranh giới khu vực kiểm soát của cộng sản không thể tiên đoán, đương nhiên càng không thể thỏa thuận trước trong khuôn khổ những cuộc thương lượng, dù chỉ là tạm thời và mập mờ. Thành ra, Liên Xô thì không nóng ruột muốn thấy cộng sản giành được Trung Quốc, nhưng điều ấy đã xảy ra[1].

Tuy nhiên, ngay trong khu vực mà chẳng bao lâu nữa người ta sẽ gọi tên là “Thế giới thứ Ba”, chỉ trong vòng vài ba năm, đã bắt đầu xuất hiện những nhân tố của sự ổn định quốc tế. Phần đông các quốc gia hậu – thuộc địa mới, mặc dầu họ không ưa Hoa Kỳ và phe Hoa Kỳ đến đâu, đều không phải là cộng sản: thật ra, đa số các nước này về mặt nội trị thì chống cộng, về mặt đối ngoại thì “không liên kết” (nghĩa là đứng ngoài khối quân sự của Liên Xô). Tóm lại, “phe cộng sản” không có dấu hiệu bành trướng nào đáng kể từ thời kỳ cách mạng Trung Hoa cho tới những năm 1970, thời kỳ mà Trung Cộng không còn đứng trong phe này nữa (xem ch. 16).

Sự thật là tình hình thế giới đã tương đối ổn định ngay ít lâu sau chiến tranh và tiếp tục ổn định cho đến giữa thập niên 1970, khi mà hệ thống quốc tế và các thành phần khác nhau của nó lại bước sang một thời kỳ khủng hoảng chính trị và kinh tế kéo dài. Cho đến lúc đó, hai siêu cường vẫn chấp nhận sự phân chia không bình đẳng trên bản đồ thế giới. Cả hai đã tìm cách giải quyết những vấn đề phân tuyến mà không tạo ra những cuộc đụng đầu vũ trang có thể suy biến thành chiến tranh, và, ngược lại với hệ tư tưởng và ngôn ngữ Chiến tranh Lạnh, cả hai đều giả định là có thể chung sống hòa bình với nhau. Ở thời điểm tới hạn, mỗi bên vẫn tin vào sự biết điều của bên kia, ngay cả khi cả hai ngoài mặt đang đứng bên bờ chiến tranh, thậm chí đang chiến tranh. Chẳng hạn như năm 1950-1953, trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, có sự tham gia chính thức của người Mỹ, còn người Nga thì không, Washington thừa biết rằng có tới 150 máy bay Trung Quốc thực ra là máy bay Liên Xô, do phi công Liên Xô cầm lái (Walker, 1993, tr. 75-77). Thông tin này đã được giữ bí mật vì người ta rất hiểu rằng Moskva thật sự không muốn chiến tranh. Năm 1962, trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba, ngày nay chúng ta biết rằng (Ball, 1992, 1993) quan tâm chủ yếu của cả hai phe là không để những hành động hiếu chiến bị bên kia hiểu nhầm là thực sự khai chiến.

Sự thỏa thuận ngầm này – nói Chiến tranh Lạnh nhưng làm hòa bình lạnh – được duy trì cho đến những năm 1970. Liên Xô biết, hay đúng hơn, đã hiểu ra, ngay từ năm 1953, rằng những lời của Hoa Kỳ kêu gọi “đẩy lui” chủ nghĩa cộng sản chỉ là những lời hò hét suông trên đài phát thanh khi xe tăng Liên Xô an nhiên tái lập lại trật tự cộng sản bằng cách đập tan cuộc nổi loạn của công nhân ở Đông Đức. Như thế là phương Tây không đụng tới vùng thống trị của Liên Xô, điều này được xác nhận lần nữa khi nổ ra cuộc cách mạng Hungari năm 1956. Chiến tranh Lạnh dù có ráng sức nâng lên ngang tầm ngôn từ hung hãn nhằm giành thế thượng phong, thậm chí tiêu diệt đối phương, thực ra không phải là một cuộc chiến tranh trong đó chính phủ các nước đưa ra những quyết định cơ bản: đúng hơn đó là một cuộc chiến tranh diễn ra trong bóng tối giữa các cơ quan mật vụ được công khai thừa nhận hay không. Ở phương Tây, cuộc đối đầu này lại đẻ ra một sản phẩm phái sinh khá tiêu biểu cho tình hình quốc tế căng thẳng: đó là những bộ tiểu thuyết gián điệp với những sát thủ tung hoành trong bóng tối. Trong thể loại này, với nhân vật James Bond của Ian Fleming và những anh hùng “xam xám” của John Le Carré – cả hai tác giả này đã từng làm việc trong các cơ quan tình báo – người Anh, trong một thời gian dài, đã giữ được thế thượng phong, bù lại sự suy sụp của vương quốc trong thế giới quyền lực thực. Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp một vài nước yếu kém thuộc Thế giới thứ Ba, các điệp vụ của KGB, của CIA và cơ quan mật vụ của những nước khác thường chẳng có mấy ý nghĩa nếu nói về mặt chính trị cường quốc, dù rằng có những vụ đầy bi thảm.

Harry S. Truman (1884-1972)
Douglas MacArthur (1880-1964)

Trong tình huống như vậy, thử hỏi trong suốt thời kỳ căng thẳng kéo dài của Chiến tranh Lạnh, có lúc nào thực sự là hiểm họa chiến tranh thế giới chăng? (đây cố nhiên không kể tới những loại tai nạn đương nhiên có thể xảy ra cho những người trượt băng miệt mài trên lớp băng quá mỏng). Đó là câu hỏi khó trả lời. Thời kỳ có tính bùng nổ cao nhất có lẽ là thời kỳ bắt đầu từ tháng ba 1947, lúc “học thuyết Truman” được trình bày công khai (“Tôi tin rằng đường lối chính trị của Hoa Kỳ phải ủng hộ nhân dân các nước tự do đang phải chống trả lại âm mưu nô dịch hóa của những thiểu số vũ trang hay của những áp lực ngoại lai”) cho đến tháng tư 1951, khi cũng chính tổng thống Truman cách chức Douglas MacArthur, tư lệnh quân đội Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) vì ông tướng này đẩy quá xa những tham vọng quân sự của mình. Đó là thời kì mà Mỹ không hoàn toàn hoang tưởng khi e sợ sẽ xảy ra suy sụp xã hội hay nổ ra cách mạng trong phần đất không thuộc Liên Xô của lục địa Âu-Á: gì thì gì, năm 1949, người cộng sản Trung Quốc đã chiếm được chính quyền. Ngược lại, Liên Xô phải đối đầu với Hoa Kỳ vừa nắm độc quyền vũ khí hạt nhân vừa tung ra những tuyên bố chống cộng hăng hái và nạt nộ, trong khi những rạn vỡ đầu tiên đã xuất hiện trong khối Soviet năm 1948 với sự li khai của Tito ở Nam Tư. Thêm vào đó, từ năm 1949 Trung Quốc lại về tay một chính phủ cộng sản không những sẵn sàng lao vào một cuộc chiến tranh mới ở Triều Tiên, mà, khác hẳn chính quyền các nước khác, còn sẵn sàng tiến hành chiến tranh vì nghĩ rằng mình vẫn sẽ tồn tại sau một đại họa hạt nhân[2]. Trong tình thế như vậy, mọi khả năng đều có thể xảy ra.

Rồi đến ngày Liên Xô sở hữu các vũ khí hạt nhân – bom nguyên tử (1949) thì bốn năm sau Hiroshima; bom hydro (1953) thì chín tháng sau [Mỹ] – vì hai siêu cường hiển nhiên từ bỏ chiến tranh như là công cụ đối đầu chính trị, bởi vì trong cục diện mới, chiến tranh khác nào cùng nhau tự sát. Không biết là họ có ý đồ dùng vũ khí hạt nhân để tấn công một nước thứ ba chăng – Hoa Kỳ năm 1951 ở Triều Tiên, hay năm 1954 để cứu nguy Pháp ở Việt Nam; Liên Xô năm 1969 trong cuộc đụng độ với Trung Quốc. Thực hư thế nào không biết, nhưng thực tế là họ không làm. Ngược lại, đã có nhiều dịp họ đe dọa sử dụng hạt nhân tuy chắc chắn là họ không có ý thực hành: đó là khi Hoa Kỳ muốn đẩy nhanh cuộc hòa đàm ở Triều Tiên và Việt Nam (1953, 1954), khi Liên Xô muốn ép Anh và Pháp phải rút khỏi Suez năm 1956. Khổ một nỗi, vì biết chắc rằng không một siêu cường thực sự muốn bấm nút nên họ lại càng dễ khoa chân múa tay để gây áp lực đàm phán hay (trong trường hợp nước Mỹ) vì những lí do chính trị nội bộ, mỗi bên đều tin chắc rằng bên kia cũng không muốn chiến tranh. Niềm tin ấy đúng là có căn cứ, nhưng nó cũng đã làm hao mòn dây thần kinh của nhiều thế hệ. Năm 1962, chỉ trong vòng vài ngày, cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba suýt nữa đã đẩy thế giới vào một cuộc chiến tranh vô ích và trong suốt một thời gian, nó đã gây kinh hoàng cho cả những người ở cấp quyết định tối cao, khiến cho họ phải quay trở về cung cách ứng xử thuần lí hơn[62].

 

II

 

Paul Samuelson (1915-2009)

Làm sao lí giải được 40 năm đối đầu vũ trang và huy động lực lượng mà chỉ dựa trên một giả thuyết không thực, thậm chí hiển nhiên là vô căn cứ, là trái đất bất an tới mức cuộc chiến tranh thế giới có thể nổ ra bất cứ lúc nào, và cách duy nhất để tránh xảy ra chiến tranh là hai bên cùng ngăn đe nhau một cách thường trực? Trước tiên, Chiến tranh Lạnh dựa trên niềm tin của phương Tây, bây giờ nhìn lại thì thấy vô lí, nhưng khi Thế chiến thứ Hai vừa kết thúc, nó dường như rất tự nhiên, đó là: Thời đại Tai họa vẫn chưa kết thúc và tương lai của chủ nghĩa tư bản thế giới cũng như của xã hội liberal không hề được bảo đảm. Phần đông các nhà quan sát chờ đợi sau chiến tranh sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, ngay cả ở Mỹ, tương tự như đã xảy ra sau Thế chiến thứ Nhất. Năm 1943, một nhà kinh tế học sẽ được giải Nobel đã nêu ra khả năng nước Mỹ sẽ phải chịu đựng “thời kì thất nghiệp và đổ vỡ công nghiệp dài lâu mà chưa có nền kinh tế nào đã trải qua” (Samuelson, 1943, tr. 51). Và trên thực tế, những kế hoạch hậu chiến của chính quyền Mỹ nhằm phòng ngừa một cuộc Đại Khủng hoảng hơn là ngăn ngừa một cuộc xung đột mới – trước ngày toàn thắng, Washington chỉ xử lí tình huống chiến tranh mới một cách tạm bợ và không nhất trí (Kolko, 1969, tr. 244-246).

Sở dĩ Washington dự đoán sẽ xảy ra “những náo loạn lớn sau chiến tranh”, đe dọa “sự ổn định – xã hội, chính trị và kinh tế – của thế giới” (Dean Acheson, do Kolko trích dẫn, 1969, tr. 485) là vì khi cuộc giao tranh chấm dứt, các nước tham chiến, ngoài Hoa Kỳ ra, đều trở thành bình địa, người Mỹ tưởng rằng dân chúng các nước đều đói rét, tuyệt vọng và có lẽ đã trở thành triệt để, sẵn sàng nghe theo lời kêu gọi làm cách mạng xã hội, chấp nhận những chính sách kinh tế đi ngược lại hệ thống quốc tế của tự do kinh doanh, tự do mậu dịch, tự do đầu tư, những quyền tự do mà họ tin rằng sẽ cứu vãn nước Mỹ và thế giới. Thêm nữa, hệ thống quốc tế tiền chiến đã sụp đổ, để lại Hoa Kỳ trong vị trí mặt đối mặt với một Liên Xô cộng sản vừa được củng cố thêm nhờ những lãnh thổ rộng lớn ở châu Âu, và những vùng đất còn rộng lớn hơn nữa ngoài châu Âu, mà tương lai chính trị đầy vẻ bất trắc: chỉ có một điều chắc chắn là trong thế giới bùng nổ và bất ổn này, bất cứ biến cố nào dường như cũng có khả năng làm suy yếu chủ nghĩa tư bản và Hoa Kỳ đồng thời củng cố cường quốc đã ra đời trong và vì cách mạng.

Ngay sau cuộc chiến tranh, tình hình chủ đạo của nhiều nước được giải phóng hay bị chiếm đóng dường như đã làm suy yếu vị trí của những chính khách ôn hòa. Ngoài sự ủng hộ của các đồng minh phương Tây, họ bị sự công kích – trong nội bộ chính quyền và bên ngoài chính quyền – của người cộng sản mà thế lực, sau cuộc đại chiến, chưa bao giờ lớn mạnh như vậy, ở khắp các nước, và ở một vài nước, đã trở thành chính đảng số một và có nhiều cử tri nhất. Chủ tịch Hội đồng chính phủ Pháp (thuộc đảng Xã hội) bay sang Washington để báo động là nếu không nhận được viện trợ kinh tế, chính phủ có cơ bị đánh đổ, nhường chỗ cho cộng sản. Mùa màng thất bát năm 1946, tiếp theo là mùa đông 1946-47 lạnh ghê gớm, càng làm cho các chính khách châu Âu lo sợ, và cùng với họ là các cố vấn của tổng thống Mỹ.

Harold Macmillan (1894-1986)
John F. Kennedy (1917-1963)

Trong tình hình như vậy, không có gì ngạc nhiên khi cuộc liên minh trong thời chiến giữa đại cường quốc tư bản chủ nghĩa và đối tác XHCN, từ nay đứng đầu toàn bộ vùng ảnh hưởng của mình, đã đổ vỡ: đó cũng là quy luật thường tình của mọi sự liên minh, ngay cả những liên minh thuần nhất hơn thế, khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, rõ ràng là điều này không giải thích được tại sao chính sách của Hoa Kỳ – còn các đồng minh và vệ tinh của Washington (ngoại trừ nước Anh) hiển nhiên không nhiệt huyết như thế – lại được xây dựng trên một kịch bản ác mộng, ít nhất trong những lời tuyên bố công khai: kịch bản một siêu cường Moskva có thể bất cứ lúc nào sẽ chiếm đoạt thế giới, và giật dây chỉ huy một “âm mưu cộng sản toàn cầu” vô thần, lúc nào cũng sẵn sàng xông lên công phá thành lũy của tự do. Điều này càng không thể lí giải được ngôn từ tranh cử của một John Fitzgerald Kennedy năm 1960, vào một thời đại mà khó ai dám khẳng định rằng “thế giới hiện đại tự do của chúng ta: dạng thức mới của chủ nghĩa tư bản” – nói như thủ tướng Anh Harold Macmillan (Horne, 1989, tập II, tr. 283) – đang phải đương đầu với một hiểm họa trực diện[63].

Vì sao viễn ảnh mà những “nhà chuyên nghiệp của Bộ ngoại giao Mỹ” phác họa ra sau chiến tranh đã được gọi là “viễn ảnh tận thế”? (Hughes, 1969, tr. 28). Vì sao, ngay một nhà ngoại giao Anh điềm tĩnh, người đã bác bỏ mọi so sánh Liên Xô với nước Đức Nazi, lại có thể gửi báo cáo từ Moskva rằng thế giới “từ nay phải đương đầu với một nguy cơ mới tương đương với những cuộc chiến tranh tôn giáo thế kỉ XVI, trong đó chủ nghĩa cộng sản tranh giành sự thống trị thế giới với chế độ dân chủ xã hội phương Tây và hình thái Mỹ của chủ nghĩa tư bản”? (Jensen, 1991, tr. 41, 53-54; Roberts, 1991). Bởi vì, ngày nay rõ ràng (và ngay từ những năm 1945-47, điều này cũng đã được coi là khả năng lớn) là Liên Xô không có ý đồ bành trướng – càng không có ý đồ gây hấn – và không hề tính tới việc phát triển chủ nghĩa cộng sản ra ngoài giới hạn đã thỏa thuận trong các cuộc hội nghị thượng đỉnh 1943-1945. Thật vậy, trong khi Moskva kiểm soát các nước đàn em và các đảng Cộng sản, các đảng này đã cam kết không xây dựng những nhà nước theo mô hình Liên Xô, mà xây dựng những chế độ kinh tế hỗn hợp trong khuôn khổ những thể chế dân chủ nghị viện đa đảng, không liên quan gì tới “chuyên chính vô sản” và “càng không” phải là chế độ độc đảng, mà trong các tài liệu nội bộ, đảng Cộng sản đánh giá là “không ích lợi và cũng không cần thiết” (Spriano, 1983, tr. 265). Những chế độ cộng sản duy nhất không chịu đi theo đường lối này lại ở những nước mà cuộc cách mạng đã từng được Stalin tích cực cổ vũ, nay thoát ra khỏi vòng kiểm soát của Moskva: chẳng hạn như Nam Tư. Thêm vào đó, và điều này ít người để ý, Liên Xô đã giải ngũ – quân số vốn là con chủ bài quân sự của Liên Xô – nhanh chóng không kém Hoa Kỳ: từ quân số kỉ lục 12 triệu năm 1946, Hồng quân đến cuối năm 1948 chỉ còn 3 triệu binh sĩ (New York Times, 24 tháng mười 1946; 24 tháng mười 1948).

Joseph Stalin (1878-1953)

Mọi phân tích thuần lí đều cho thấy Liên Xô không phải là mối họa trực tiếp đối với bất cứ ai ở ngoài vùng chiếm đóng của Hồng quân. Bước ra khỏi cuộc đại chiến, Liên Xô là một đất nước hoang tàn, mất máu và kiệt quệ, nền kinh tế hòa bình tơi tả, chính quyền thì nghi ngờ dân chúng, vì ngoài vùng Đại Nga, một bộ phận khá lớn dân chúng đã tỏ ra không mấy thiết tha với chế độ. Dọc theo biên giới phía tây, trong mấy năm liền, chính quyền Liên Xô gặp khó khăn với những đội quân du kích quốc gia người Ukraina và những dân tộc khác. Đứng đầu nhà nước Liên Xô là một nhà độc tài – J. V. Stalin (xem ch. 13) – bên trong sắt đá bao nhiêu, thì bên ngoài rụt rè bấy nhiêu. Liên Xô rất cần viện trợ kinh tế, mà cường quốc duy nhất có thể cung cấp là Hoa Kỳ, nên ít nhất là trong ngắn hạn, chẳng dại gì mà Liên Xô lại muốn làm phật lòng Hoa Kỳ. Đã hẳn là người cộng sản, Stalin tin tưởng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa cộng sản: trong ý nghĩa đó, sự cộng tồn giữa hai hệ thống sẽ không bền lâu. Song, theo quan điểm của những nhà làm kế hoạch kinh tế Liên Xô, thì ngay sau chiến tranh thế giới, kinh tế tư bản chủ nghĩa không bị khủng hoảng. Họ không hề nghi ngờ gì về tuổi thọ của chủ nghĩa tư bản dưới sự thống soái của Hoa Kỳ mà tài nguyên và quyền lực tăng cường là những điều hết sức hiển nhiên (Loth, 1988, tr. 36-37). Chính điều này làm cho Liên Xô nghi ngại và lo sợ[64]. Thái độ của Liên Xô sau ngày chiến tranh kết thúc là thái độ phòng thủ, hoàn toàn không phải là thái độ gây hấn.

George Kennan (1904-2005)

Chính tình hình của mỗi bên đã đưa đẩy hai phe tới chính sách đối đầu. Ý thức được vị trí bấp bênh và bất an của mình, Liên Xô đối mặt với Hoa Kỳ, còn Hoa Kỳ thì nhận thức rõ sự bấp bênh và bất an ở Trung Âu và Tây Âu, cũng như tương lai bất định của đại bộ phận châu Á. Cho dù không có sự đối lập về hệ tư tưởng, có lẽ sự đối đầu này cũng vẫn sẽ diễn ra. George Kennan, nhà ngoại giao Mỹ đã đề xướng học thuyết “đắp đê” (containment) vào đầu năm 1946, học thuyết đã được Washington hăng hái hưởng ứng, bản thân ông ta cũng không tin rằng nước Nga muốn tiến hành một cuộc thánh chiến vì chủ nghĩa cộng sản, và sự nghiệp ngoại giao sau này của Kennan cũng cho thấy ông ta không phải là một “thập tự quân” về tư tưởng (trừ khi Kennan đấu đá với đường lối của đảng dân chủ mà ông ta vốn coi thường). Là một chuyên gia giỏi về nước Nga, xuất thân từ trường phái ngoại giao kỳ cựu về chính sách cường quốc (các bộ ngoại giao châu Âu không thiếu những chuyên gia thuộc trường phái này), Kennan coi nước Nga, Sa hoàng hay Soviet, là một xã hội lạc hậu và man di, đặt dưới quyền cai trị của những con người mà động cơ là “tâm lí bất an truyền thống và bản năng của người Nga”: một quốc gia khép kín đối với thế giới bên ngoài, luôn luôn bị đặt dưới ách thống trị của những nhà độc tài, chỉ tìm thấy “an ninh” trong cuộc đấu tranh bền bỉ, sống mái nhằm tận diệt cường quốc địch thủ, hơn là tìm kiếm những sự liên minh và thỏa hiệp. Vì thế mà nước Nga chỉ biết “logic của sức mạnh”, chứ không biết thế nào là lý trí. Trong quan niệm của Kennan, đương nhiên chủ nghĩa cộng sản càng làm cho nước Nga xưa cũ trở thành nguy hiểm hơn: sức mạnh thô bạo của một cường quốc được nhân lên bởi một chủ nghĩa không tưởng tàn khốc mà mục tiêu là chiếm lĩnh toàn thế giới. Nói cách khác, “cường quốc đối thủ” duy nhất của nước Nga, là Hoa Kỳ, nhất thiết phải “đắp đê” chung quanh nước Nga, cho dù nước Nga không phải là cộng sản đi nữa.

Ngược lại, đứng từ quan điểm của Moskva, chiến lược thuần lí duy nhất để bảo vệ và phát huy vị thế mới của mình, một vị thế cường quốc trên thế giới, đáng gờm nhưng mỏng manh, cũng y chang như vậy: không thỏa hiệp. Hơn ai hết, Stalin biết xấp bài trong tay mình quá tồi. Hoàn toàn không có khả năng thương lượng về vị thế mà Roosevelt và Churchill đề xuất vào thời điểm mà nỗ lực của Liên Xô là thiết yếu để đánh thắng Hitler và lúc đó người ta còn nghĩ rằng nó cần thiết cho cả chiến thắng đối với Nhật Bản. Liên Xô có thể chấp nhận rút khỏi những vị trí ở bên kia những giới tuyến đã được thoả thuận trong những năm 1943-1945, nhất là ở Yalta – ví dụ như đường biên giới Iran và Thổ Nhĩ Kì năm 1945-1946; ngược lại, mọi ý đồ sửa đổi những thỏa thuận ở Yalta chỉ có thể bị dứt khoát từ chối. Chữ niet (không) của Molotov, bộ trưởng ngoại giao Liên Xô, trong mọi cuộc hội nghị quốc tế đã trở nên trứ danh. Về phía Hoa Kỳ thì họ có sức mạnh, dù chỉ là một sức mạnh sít sao. Cho đến tháng chạp 1947, họ không có máy bay để vận chuyển 12 quả bom nguyên tử đã được chế tạo xong, và cũng không có đủ quân nhân có khả năng lắp ráp (Moïsi, 1981, tr. 78-79). Moskva thì không có quả bom nào. Washington khăng không chịu nhượng bộ điều gì, trừ phi Moskva cũng phải nhượng bộ: song đó chính là điều Moskva không thể, dù đổi lại họ sẽ nhận được sự viện trợ kinh tế mà họ hết sức mong muốn, vả lại người Mỹ không hề chịu viện trợ, viện cớ đã “đánh mất” bản yêu cầu viện trợ hậu chiến mà Liên Xô đã trao cho Mỹ trước khi họp Yalta.

Tóm lại, phía Hoa Kỳ thì lo ngại vì nguy cơ một ngày kia Liên Xô có thể chiếm ưu thế, còn Moskva thì lo ngại vì sự ưu việt hiện thực của Hoa Kỳ trên mọi phần trái đất ở ngoài khu vực chiếm đóng của Hồng quân. Chẳng tốn kém gì nhiều là có thể biến một đất nước Liên Xô đang kiệt quệ và nghèo túng thành một khu vực “khách hàng” của nền kinh tế Mỹ, lúc đó là nền kinh tế mạnh mẽ hơn nền kinh tế của tất cả các nước khác cộng lại. Đường lối cứng rắn do đó là sách lược logic. Moskva hãy lật ngửa các con bài của mình!

Chính sách cứng rắn, thậm chí chính sách kình địch thường trực của cả hai bên không nhất thiết dẫn tới nguy cơ chiến tranh có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Trong thế kỉ XIX, các ngoại trưởng Anh đều coi chiến lược “đắp đê” ngăn chận khuynh hướng bành trướng của nước Nga Sa hoàng (theo kiểu Kennan đã nói ở trên) là điều đương nhiên phải làm, song họ biết rất rõ rằng hiếm có những thời điểm đối đầu công khai, và càng hiếm hơn nữa là các cuộc khủng hoảng chiến tranh. Sự cứng rắn đôi bên không nhất thiết dẫn tới đường lối chính trị một mất một còn, không nhất thiết dẫn tới chiến tranh tôn giáo. Nhưng ở đây, có hai nhân tố đã góp phần chuyển dịch cuộc đối đầu từ lãnh vực lí tính sang lãnh vực cảm tính. Cũng như Liên Xô, Hoa Kỳ là đại biểu cho một hệ tư tưởng, mà phần đông người Mỹ thành thực tin tưởng rằng đó là khuôn mẫu cho toàn thế giới. Khác với Liên Xô, Mỹ là một nước dân chủ. Khổ một nỗi, phải nói rằng, trong hai nước, Hoa Kỳ có lẽ là nước nguy hiểm nhất.

James Forrestal (1882-1949)
Joseph McCarthy (1908-1957)

Bởi vì, tuy Liên Xô cũng biến sự đối kháng giữa hai khối thành sự đối kháng giữa Thánh thiện và Quỷ dữ, song chính phủ Soviet không cần phải tranh thủ sự ủng hộ của đa số trong quốc hội, không phải lo thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống và bầu cử lưỡng viện. Chính phủ Mỹ thì ngược lại. Chính vì hai mục tiêu ấy, mà chủ nghĩa chống cộng hối hả như sắp đến ngày tận thế trở thành một công cụ rất thuận tiện: chống cộng là đường lối hết sức hấp dẫn, đối với cả những chính khách trong thâm tâm không hoàn toàn tin tưởng vào những điều mà họ phát biểu trong các bài diễn văn, và tất nhiên đối với một James Forrestal (1882-1949), bộ trưởng hải quân của tổng thống Truman, là người khá điên rồ về mặt lâm sàng, đến mức ông ta trông thấy người Nga nhảy qua cửa sổ đột nhập vào phòng ông ta ở bệnh viện và đã tự sát. Có một ngoại thù đe dọa Hoa Kỳ là điều hết sức thuận tiện đối với những chính phủ đã nhận định, chính xác, rằng nước họ từ nay là một cường quốc trên thế giới – sự thật, bỏ xa các nước khác – và nhận thức rằng “chủ nghĩa cô lập” hay “chủ nghĩa bảo hộ” phòng ngự là chướng ngại chủ yếu về mặt đối nội. Nếu chính nước Mỹ cũng không an toàn, thì dứt khoát nó không thể trốn tránh trách nhiệm – và ân sủng – là lãnh đạo thế giới như nó đã đảm nhiệm sau cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất. Nói cụ thể, nhờ cơn hystérie (cuồng loạn) của dư luận, các tổng thống dễ tìm ra ngân sách khổng lồ cần thiết để thực hiện chính sách của mình từ túi tiền của những công dân vốn không ưa đóng thuế. Mà chủ nghĩa chống cộng lại rất được lòng dân trong một quốc gia được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa cá nhân và kinh doanh tư nhân, với một dân tộc tự định vị mình bằng ngôn từ mang nặng ý thức hệ (“chủ nghĩa Mỹ”) và sẵn sàng được thiên hạ coi mình là đối cực của cộng sản (Ta chớ nên quên lá phiếu bầu cử của di dân từ các nước Đông Âu đã bị Soviet hóa). Cuộc săn phù thủy “cộng phỉ” điên cuồng bẩn thỉu và phi lí ở Mỹ không phải do chính phủ phát động, mà do những chính khách mị dân tầm thường (trong đó có những phần tử cũng chẳng chống cộng gì ghê gớm gì đâu, thí dụ như thượng nghị sĩ Joseph McCarthy đã trở thành nổi tiếng) đã tìm thấy món bở trong việc nhìn đâu cũng thấy kẻ nội thù[65]. Từ lâu, J. Edgar Hoover (1895-1972), tay giám đốc hầu như bất khả xâm phạm của Cục điều tra trung ương (FBI), đã biết lợi dụng điều này để củng cố bộ máy của mình. Acheson, một trong những nhân vật chủ chốt chủ trương Chiến tranh Lạnh, đã gọi cuộc tố cộng này là “cuộc tấn công của bọn người Nguyên thủy” (Acheson, 1970, tr. 462). Nó vừa tạo điều kiện thuận lợi vừa gây ra những ràng buộc cho chính sách của Washington, thúc đẩy nó đi theo hướng cực đoan. Điều này đặc biệt đúng trong những năm tiếp theo thắng lợi của cộng sản ở Trung Quốc, mà tất nhiên là người ta đổ tội lên đầu Moskva.

J. Edgar Hoover (1895-1972)

Cùng lúc đó, có những chính khách quan tâm tới cử tri đưa ra một đòi hỏi mang hội chứng của bệnh tâm thần phân liệt là phải vạch ra một chính sách khả dĩ ngăn chận làn sóng “cộng sản xâm lược” mà lại tiết kiệm ngân sách và gây ra tối thiểu phiền toái trong cuộc sống của người Mỹ. Điều này buộc Washington và đồng minh của mình phải chọn lựa một chiến lược chủ yếu dựa trên vũ khí hạt nhân, coi trọng bom đạn hơn là yếu tố nhân sự, không những thế, lại là một chiến lược “trả đũa” đáng gờm hơn nữa, được công bố năm 1954. Chiến lược này đe dọa sẽ dùng vũ khí hạt nhân đánh trả bất luận kẻ xâm lược tiềm thể nào, ngay cả trong trường hợp địch thủ chỉ mở ra một cuộc tấn công hạn chế bằng vũ khí quy ước. Tóm lại Hoa Kỳ gồng mình đứng tấn một cách hung hãn, với một khoảng du di chiến thuật tối thiểu.

Dwight D. Eisenhower (1890-1969)

Và cứ như thế, hai phe cùng lao vào một chạy đua vũ trang dẫn thẳng tới sự cùng nhau hủy diệt, với những tướng lĩnh và trí thức quân sư “hạt nhân”, mà nhiệm vụ nghề nghiệp là làm như không biết gì tới sự điên cuồng ấy. Cả hai bên đều bị mắc kẹt trong cái gọi là “Phức hợp quân sự - công nghiệp”, theo cách gọi của cựu tổng thống Eisenhower, một người ôn hòa thuộc trường phái cũ, là người lãnh đạo nước Mỹ trong cuộc tuột dù xuống cõi vô lí nhưng bản thân không bị lây bệnh; nói cách khác, đó là một sự tích lũy ngày càng tăng sức người và sức của vào việc chuẩn bị chiến tranh. Chưa bao giờ, trong một thời kì hòa bình ổn định, các cường quốc lại tập trung từng ấy phương tiện. Như người ta có thể tiên đoán, cả hai Phức hợp quân sự - công nghiệp được chính phủ khuyến khích sử dụng những khả năng dư thừa để dụ dỗ và vũ trang các nước đồng minh và lệ thuộc – và, quan trọng không kém, chiếm đoạt được những thị trường béo bở, đồng thời giữ riêng cho mình sử dụng những trang thiết bị hiện đại nhất và, cố nhiên, các loại vũ khí hạt nhân. Bởi lẽ, trên thực tế, hai siêu cường giữ cho riêng mình độc quyền về vũ khí hạt nhân. Năm 1952, người Anh chế tạo ra bom của họ với mục đích, nực cười thay, là giảm bớt sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ; trong thập niên 1960 tới phiên người Pháp (mà kho vũ khí hạt nhân thực sự là độc lập đối với Mỹ) và Trung Quốc. Ngày nào Chiến tranh Lạnh còn tiếp diễn, các nước này coi như không đáng kể. Sang tới những năm 1970 và 1980, thêm vài nước đạt tới khả năng chế tạo bom hạt nhân, trong đó có Israel, Nam Phi, Ấn Độ, nhưng sự phổ biến vũ khí hạt nhân chỉ thực sự trở thành một vấn đề quốc tế nghiêm trọng vào năm 1989, tức là sau khi chấm dứt trật tự thế giới lưỡng cực được quy định bởi sự đối đầu của hai siêu cường.

Charles de Gaulle (1890-1970)

Như vậy thì trách nhiệm Chiến tranh Lạnh thuộc về ai? Cuộc tranh luận về vấn đề này, trong một thời gian dài, đã diễn ra như một trận đấu bóng bàn về tư tưởng giữa một bên là những người đổ hết tội lên đầu Liên Xô và một bên là trường phái “xét lại” (phải nói chủ yếu là người Mỹ) theo đó, trách nhiệm chủ yếu là do Hoa Kỳ, cho nên cũng dễ có xu hướng đứng về phía những nhà trung gian lịch sử giải thích nguyên nhân Chiến tranh Lạnh là do hai bên càng ngày càng sợ lẫn nhau – từ lúc đụng đầu cho đến ngày “hai phe vũ trang bắt đầu động viên hàng ngũ đứng dưới hai ngọn cờ kình địch” (Walker, 1993, tr. 55). Đó là một phần sự thật, nhưng không phải tất cả sự thật. Đúng là sự sợ hãi lẫn nhau giải thích cái mà người ta gọi là sự “đóng băng” các mặt trận trong thời kì 1947-1949; sự chia cắt từng bước nước Đức làm hai, từ năm 1947 cho đến khi xây dựng bức tường Berlin năm 1961; sự thất bại của những người chống cộng trong phe phương Tây, trừ tướng De Gaulle, đã hoàn toàn dấn thân vào liên minh quân sự dưới sự thống soái của Mỹ; và ở phía bên kia giới tuyến, ngoại trừ thống chế Tito của Nam Tư, là sự bất lực, không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Moskva. Nhưng điều đó không giải thích được tại sao Chiến tranh Lạnh mang giọng điệu của ngày tận thế. Giọng điệu ấy cất lên từ Mỹ. Chính phủ của tất cả các nước Tây Âu, bất luận có hay không có đảng Cộng sản lớn mạnh, đều đồng tâm nhất trí chống cộng và quyết tâm tự vệ chống lại một cuộc tấn công có thể của cộng sản. Nếu được hỏi, giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, họ chọn ai, thì sẽ không có một chính phủ nào do dự, kể cả những chính phủ, vì lí do lịch sử, hay chính trị, hay do giải pháp thương lượng đã dàn xếp, đều gắn bó với chính sách trung lập. Thực ra, chỉ một thời gian sau ngày chiến tranh kết thúc, tại những nước ít nhiều có thể được xếp vào các nước dân chủ, “âm mưu cộng sản quốc tế” không còn đóng một vai trò nào trong đời sống chính trị nội bộ. Trong các nước dân chủ, Hoa Kỳ là nước duy nhất mà các tổng thống – như Kennedy năm 1960 – đều trúng cử trên lập trường chống cộng, trong khi về mặt nội trị, cộng sản ở Mỹ cũng vô nghĩa lí chẳng khác Phật giáo ở Ireland. Chính Washington đã tiêm nhiễm tinh thần thập tự chinh vào cái Realpolitik của cuộc đối đầu quốc tế và liên tục nuôi dưỡng tinh thần ấy. Sự thật, vấn đề không phải là nguy cơ trừu tượng về mối họa cộng sản thống trị thế giới, mà là duy trì sự thống soái hiện thực của Hoa Kỳ: điều này thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ tuyên truyền tranh cử của Kennedy[66]. Song cũng cần thêm rằng: không phải các nước dính kết với NATO phấn khởi gì với chính sách Mỹ, nhưng họ vẫn sẵn sàng chấp nhập sự thống soái của Hoa Kỳ; đó là cái giá phải trả để được Mỹ bảo vệ, chống lại sức mạnh quân sự của một hệ thống chính trị mà họ gớm ghiếc, và điều này vẫn tiếp tục ngày nào hệ thống đó còn tồn tại. Cũng như Washington, chính phủ các nước này cảnh giác đối với Liên Xô. Tóm lại, “đắp đê” là chính sách chung tất cả các nước này, chứ chủ trương diệt cộng thì không.

 

III

 

Tuy rằng khía cạnh hiển nhiên nhất của Chiến tranh Lạnh là sự đối đầu về quân sự, và thêm vào đó, về phía phương Tây, là cuộc chạy đua cuồng nhiệt về vũ khí hạt nhân, song đó không phải là tác động lớn nhất của Chiến tranh Lạnh. Vũ khí hạt nhân không được đem ra dùng. Ngược lại, các cường quốc hạt nhân đã lao mình vào ba cuộc chiến tranh lớn (nhưng đó không phải là chiến tranh giữa họ với nhau). Bị chiến thắng của cộng sản ở Trung Quốc làm rúng động, năm 1950, người Mỹ và đồng minh của họ (dưới danh nghĩa Liên Hợp Quốc) can thiệp vào Triều Tiên để ngăn chận không cho chế độ cộng sản Bắc Triều Tiên tràn xuống miền Nam. Cuộc chiến tranh rốt cuộc là bất phân thắng bại. Cũng trong chiều hướng ấy, họ đã can thiệp ở Việt Nam, và đã thua. Còn Liên Xô thì năm 1988, sau 8 năm viện trợ quân sự cho chính phủ bạn chống lại lực lượng du kích do Washington ủng hộ và Pakistan tiếp viện, Liên Xô đã phải rút khỏi Afghanistan. Tóm lại, bao nhiêu vũ khí vật tư tốn kém của nền công nghệ cao cấp được xây dựng trong cuộc chạy đua giữa hai siêu cường rốt cuộc đã không mang lại thắng lợi. Nguy cơ chiến tranh thường trực đã làm nảy sinh những phong trào hòa bình quốc tế, chủ yếu nhằm chống lại việc chế tạo và triển khai vũ khí hạt nhân: thỉnh thoảng, ở một vài vùng châu Âu, phong trào này trở thành những phong trào đại chúng, và những thập tự quân của Chiến tranh Lạnh coi đó là thứ vũ khí bí mật của cộng sản. Các phong trào đấu tranh đòi giải trừ vũ khí hạt nhân cũng không mang lại kết quả quyết định nào, dù rằng có một phong trào cụ thể, của thanh niên Mỹ bị gọi nhập ngũ sang chiến đấu ở Việt Nam (1965-1975) tỏ ra hiệu quả hơn. Vào cuối thời kì Chiến tranh Lạnh, các phong trào này để lại đằng sau chúng hồi tưởng về những đại nghĩa và một vài dấu tích kì thú bên lề, tỉ dụ như cái biểu trưng chống hạt nhân đã được các môn phái “phản” văn hóa sau 1968 sử dụng, và trong giới những người bảo vệ môi trường, cái thành kiến ăn sâu chống lại bất cứ điều gì liên quan tới năng lượng hạt nhân.

Hiển nhiên hơn nhiều là các hệ quả chính trị của Chiến tranh Lạnh. Gần như ngay từ đầu, nó đã phân cực thế giới đặt dưới sự kiềm tỏa của hai siêu cường thành hai “phe”, mỗi phe đều có sự chia rẽ sâu sắc. Các chính phủ đoàn kết dân tộc chống phát-xít, là những chính quyền đã đưa châu Âu ra khỏi cuộc đại chiến (trừ 3 nước tham chiến chủ chốt là Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh, đây cũng là điều có ý nghĩa), thì trong những năm 1947-1948 đã tan vỡ và trở thành những chính phủ thuần nhất, hoặc thân cộng, hoặc chống cộng. Ở phương Tây, cộng sản biến mất khỏi chính quyền và trở thành những Paria (đẳng cấp cùng khổ ở Ấn Độ) chính trị. Hoa Kỳ đã chuẩn bị dùng quân sự để can thiệp ở Italia nếu năm 1948 ĐCS Italia thắng cử. Tương tự, tại các nước “dân chủ nhân dân” đa đảng, Liên Xô đã diệt trừ những người không cộng sản, đặt các nước này dưới nền “chuyên chính vô sản”, cụ thể là chuyên chính của các đảng Cộng sản. Một thứ Quốc tế cộng sản thu nhỏ một cách kì lạ vào châu Âu (đặt tên là Kominform) được đặt ra để đối đầu với Hoa Kỳ, rồi tới năm 1956 khi khí hậu quốc tế đã giảm nhiệt thì được lặng lẽ giải thể. Liên Xô siết chặt sự kiểm soát của họ ở Đông Âu, trừ một biệt lệ khá đặt biệt là Phần Lan: năm 1948, Phần Lan đã loại cộng sản ra khỏi chính quyền trong khi nước này còn nằm trong vòng kiểm soát của Liên Xô. Cho đến nay, vẫn chưa hiểu tại sao Stalin lại không thiết lập ở Phần Lan một chế độ chư hầu. Có lẽ vì Stalin e ngại khả năng người Phần Lan sẽ vũ trang kháng chiến (như họ đã kháng chiến trong những năm 1939-1940 và 1941-1942), và chắc chắn Stalin không muốn phải đối mặt với một cuộc chiến tranh ngoài tầm kiểm soát của mình. Ở Nam Tư của Tito, Stalin tìm cách áp đặt ách thống trị, nhưng thất bại, và năm 1948 Nam Tư đã đoạn tuyệt với Moskva nhưng không chạy sang phe bên kia.

Như có thể đoán trước, từ đó trở đi, chính sách của phe cộng sản là “nhất phiến nguyên khối”, nhưng “phiến đá” xem ra cũng dễ vỡ, điều này càng ngày càng rõ sau biến cố 1956 (xem ch. 16). Chính trị các nước châu Âu liên kết với Mỹ thì ít đơn điệu hơn vì hầu hết các chính đảng bản địa, trừ cộng sản, đều chung một điểm là ghét Liên Xô. Đường lối ngoại giao thì bất luận đảng nào lên cầm quyền cũng vậy. Còn ở hai nước cựu thù là Nhật Bản và Italia, Hoa Kỳ đã đơn giản hóa ván bài chính trị bằng cách tạo dựng một chế độ độc đảng thường trực. Ở Tokyo, họ khuyến khích thành lập Đảng Tự do Dân chủ (1955), và ở Italia, bằng cách, ngay từ nguyên tắc, loại trừ ra khỏi chính quyền đảng đối lập tự nhiên (vì đó là đảng Cộng sản), họ đã đặt nước Italia vào bàn tay của Đảng Dân chủ Kitô giáo, khi cần thiết thì có thêm một hai đảng èo ọt: tự do, cộng hòa v.v.. Từ đầu thập niên 1960, chính đảng duy nhất có trọng lượng còn lại, là đảng Xã hội, đã gia nhập liên minh cầm quyền, sau khi họ đã chấm dứt nhiều năm liên minh với cộng sản (năm 1956). Tại Nhật Bản và Italia, điều này dẫn tới hậu quả là cố định Cộng sản (ở Nhật Bản là Xã hội) ở vai trò đại chính đảng đối lập và thiết lập một chính thể trong đó tham nhũng trở thành định chế đạt tới một quy mô lớn tới mức, năm 1992-1993, khi nó được phơi bày, chính người Italia và người Nhật cũng bị sốc. Cứ như thế, chính quyền và phe đối lập đứng nguyên vị nhờ thế cân bằng giữa hai siêu cường, và đã sụp đổ khi thế cân bằng này không còn nữa.

Mặc dầu Hoa Kỳ đã nhanh chóng từ bỏ chính sách cải lương và chống độc quyền mà các cố vấn của thời tổng thống Roosevelt lúc đầu đã áp đặt ở hai nước bị chiếm là Đức và Nhật Bản, cuộc thế chiến đã loại trừ ra khỏi sân khấu chính trị chủ nghĩa Nazi, chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa quốc gia bộc lộ của người Nhật, và cả một bộ phận phái hữu và các phong trào quốc gia chủ nghĩa, khiến cho các nước đồng minh của Mỹ cũng được an tâm. Lúc ấy chưa thể nào huy động vào cuộc đấu tranh của “thế giới tự do” chống lại “chủ nghĩa toàn trị” những phần tử chống cộng hết sức đắc lực này, ví dụ như các hội đoàn lớn ở Đức đã được phục hồi và các zaibatsu (tài phiệt) Nhật Bản[67]. Cơ sở chính trị của các chính quyền phương Tây thời kì Chiến tranh Lạnh bao gồm các xu hướng đi từ phái tả Dân chủ - Xã hội cho đến phái hữu ôn hòa không thuộc lực lượng “quốc gia chủ nghĩa” của thời tiền chiến. Chỗ dựa đặc biệt thuận tiện là những đảng liên hệ tới Giáo hội Kitô, bởi vì một mặt Giáo hội không thua ai về mặt chống cộng và bảo thủ, mặt khác các đảng “Dân chủ Kitô giáo” (xem ch. 4) lại có thành tích thực thụ chống phát-xít và cả một chương trình xã hội (không XHCN). Do đó, các đảng Dân chủ Kitô giáo sau năm 1945 đã đóng một vai trò trung tâm trong đời sống chính trị phương Tây: ngắn hạn ở Pháp, lâu dài hơn ở Đức, Italia, Bỉ và Áo (xem thêm phần V ch. 9).

Song tác động của Chiến tranh Lạnh vào chính trị quốc tế của châu Âu lại còn mạnh hơn hẳn so với ảnh hưởng của nó vào nội trị của châu lục này. Nó đã đẻ ra “Cộng đồng châu Âu” với tất cả những vấn đề hệ lụy: một hình thái tổ chức chính trị tuyệt nhiên chưa từng có, dưới dạng thức một cơ quan thường trực (ít nhất là dài lâu) để sáp nhập các nền kinh tế, và trong một phạm vi nào đó, các hệ thống pháp chế của một số quốc gia độc lập. Khởi đầu có 6 nước: Pháp, CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Bỉ và Luxembourg. Đến cuối Thế kỉ XX Ngắn, thì có thêm 9 nước khác (Anh, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Hi Lạp, Thụy Điển) gia nhập, vào lúc mà, cũng như mọi sản phẩm khác của Chiến tranh Lạnh, hệ thống này đang lung lay: trên nguyên tắc, tổ chức này sẽ tiến tới sáp nhập cả về chính trị, và về kinh tế thì càng đi xa hơn nữa.

Cũng như nhiều thứ ở châu Âu sau 1945, “Cộng đồng” được tạo ra bởi Hoa Kỳ và đồng thời cũng để chống lại Hoa Kỳ. Cộng đồng châu Âu minh họa sức mạnh cũng như sự lập lờ, thậm chí cả những hạn chế của nước Mỹ; nó cũng biểu lộ sức mạnh của những nỗi lo sợ đã gắn kết các nước trong liên minh chống Liên Xô. Không phải chỉ đơn thuần là nỗi sợ đối với Liên Xô. Chẳng hạn như đối với nước Pháp, thì Đức vẫn là mối đe dọa chủ yếu; và trong một chừng mực nào đó, các nước châu Âu đã từng tham chiến hay bị chiếm và ngày nay cùng đứng trong NATO, liên kết với Hoa Kỳ và một nước Đức vừa khôi phục về kinh tế và mới vũ trang trở lại – cũng may còn bị chia cắt – cũng chia sẻ nỗi e ngại trước sự trỗi dậy của một anh khổng lồ ở Trung Âu. Cố nhiên, có cả nỗi sợ Mỹ: là đồng minh cần thiết chống Liên Xô, Mỹ cũng là một nước khả nghi, khó tin cậy, đó là không kể rằng – điều này không có gì lạ – Hoa Kỳ có thể đặt quyền lợi sự thống soái của Mỹ trên thế giới lên trên tất cả, kể cả quyền lợi của đồng minh. Không nên quên rằng, trong mọi toan tính về thế giới hậu chiến, và trong tất cả các quyết định từ sau năm 1945, “tiền đề của mọi nhà hoạch định chính sách là ưu thế kinh tế của nước Mỹ” (Maier, 1987, tr. 125).

May mắn cho các đồng minh của nước Mỹ, là năm 1946-1947 Washington cảm thấy tình hình Tây Âu căng thẳng tới mức phải dành ưu tiên khẩn cấp cho phát triển một nền kinh tế mạnh mẽ ở châu Âu, và ít lâu sau đó, ở Nhật Bản: cho nên mới có kế hoạch Marshall, một chương trình đầy cao vọng nhằm vực dậy nền kinh tế châu Âu, bắt đầu vào tháng sáu 1947. Khác viện trợ kinh tế trước đó – thành tố của một chính sách ngoại giao kinh tế khá hung hăng – nội dung chủ yếu của kế hoạch Marshall là trợ cấp chứ không phải là cho vay. Thêm một điều may nữa cho các nước châu Âu, là ban đầu Mỹ chủ trương một kế hoạch kinh tế thế giới hậu chiến dựa trên tự do mậu dịch, hoán chuyển tiền tệ tự do, cạnh tranh tự do, đặt dưới sự thống soái của Mỹ; may thay kế hoạch ấy không hiện thực, bởi ít nhất một lẽ: châu Âu và Nhật Bản ngày càng khát Đô la, mà đồng Đô la ngày càng hiếm, họ hết sức khó khăn trong việc chi trả, do đó vấn đề tự do hóa mậu dịch và thanh toán chưa thể nào đặt ra. Mặt khác, Washington cũng không thể nào buộc các nước châu Âu chấp nhận lí tưởng của mình về một kế hoạch châu Âu duy nhất, dẫn tới xây dựng một châu Âu bản sao của mô hình Hoa Kỳ về cơ chế chính trị cũng như về kinh tế, một nền kinh tế phồn vinh dựa trên tự do kinh doanh. Viễn ảnh ấy không hấp dẫn tí nào với người Anh vẫn tự coi mình là một cường quốc trên thế giới, cũng như đối với người Pháp vẫn ấp ủ giấc mơ một nước Pháp hùng mạnh và một nước Đức suy yếu, chia đôi. Song, đối với Mỹ, một châu Âu thực sự khôi phục, nằm trong một liên minh quân sự chống Liên Xô, vế đối logic của kế hoạch Marshall – NATO, Tổ chức Hiến chương Bắc Đại Tây Dương 1949 – thì trên thực tế phải dựa trên sự tồn tại của một nước Đức mạnh về kinh tế và được tái vũ trang. Cho nên điều tốt nhất mà Pháp có thể làm được là hòa trộn công việc làm ăn của Tây Đức với công việc làm ăn của Pháp, đến mức không thể nào nổ ra xung đột quyền lợi giữa hai nước. Pháp bèn đưa ra đề nghị Liên hiệp châu Âu theo kiểu của họ: đó là “Cộng đồng châu Âu về Than và Thép” (1951), đến năm 1957 dẫn tới sự ra đời của “Cộng đồng Kinh tế châu Âu” (EEC) hay “Thị trường chung”. Về sau, người ta gọi đơn giản là “Cộng đồng châu Âu” (EC), và, từ năm 1993 trở đi, “Liên hiệp châu Âu” (EU). Bản doanh của EU đặt tại Bruxelles, nhưng trái tim của nó là khối đoàn kết Pháp-Đức. Như thế, Cộng đồng châu Âu được tạo ra như một giải pháp thay thế kế hoạch sáp nhập châu Âu của Mỹ. Một lần nữa, Chiến tranh Lạnh kết thúc sẽ làm rạn nứt nền tảng của Cộng đồng châu Âu và sự liên kết Pháp-Đức, nhất là do sự mất cân bằng nảy sinh từ việc thống nhất nước Đức năm 1990 với những vấn đề kinh tế bất ngờ phát xuất từ sự kiện này.

Tuy Hoa Kỳ không áp đặt được từng chi tiết kế hoạch kinh tế - chính trị đối với châu Âu, nhưng Hoa Kỳ vẫn đủ mạnh để chi phối hành xử của châu Âu về mặt quốc tế. Chính sách liên minh chống Liên Xô là của Mỹ, các kế hoạch quân sự là của Mỹ. Nước Đức được tái vũ trang, những khát vọng trung lập hóa ở châu Âu bị đàn áp mạnh mẽ; mưu toan duy nhất của mấy cường quốc châu Âu nhằm đeo đuổi một chính sách quốc tế độc lập với Hoa Kỳ – cuộc tấn công kênh Suez năm 1956 của liên quân Anh-Pháp chống Ai Cập – đã phải dẹp ngay dưới áp lực của Washington. Một quốc gia đồng minh hay chư hầu cùng lắm chỉ có thể từ chối, không hội nhập hoàn toàn trong liên minh quân sự nhưng không bước ra khỏi liên minh (như tướng De Gaulle đã làm).

Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh tiếp tục kéo dài, có một khoảng cách ngày càng lớn giữa một bên là sự sự thống soái áp đảo của Mỹ về quân sự, và từ đó chính trị, trong liên minh, và bên kia là sự suy yếu từng bước của ưu thế kinh tế. Tỉ trọng nền kinh tế thế giới từ nay chuyển từ Hoa Kỳ sang châu Âu và Nhật Bản, mà Hoa Kỳ cho rằng mình đã cứu sống và tái thiết (xem ch. 9). Đồng Đô la năm 1947 rất khan hiếm, sau đó chảy thành suối thành sông, ngày càng chảy siết – nhất là từ những năm 1960 – vì chính quyền Mỹ càng ngày càng bội chi để tài trợ cho những ngân sách khổng lồ của hoạt động quân sự trên thế giới, nhất là chiến tranh Việt Nam (từ sau năm 1965), và cho chương trình bảo hộ xã hội tham vọng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Hòn đá tảng của nền kinh tế kế hoạch hóa của thế giới, được Hoa Kỳ bảo đảm, đồng Đô la cứ suy yếu dần. Trên lí thuyết, nó được bảo đảm bằng những thỏi vàng ở kho Fort Knox, là nơi chứa đựng 3/4 kho vàng dự trữ của thế giới; nhưng trên thực tế, đồng Đô la ngày càng trở thành những mớ giấy hay những hàng chữ trong sổ sách; nhưng vì sự ổn định của Đô la được bảo đảm bằng một khối lượng vàng nhất định, người châu Âu thận trọng, dưới sự dẫn đường của người Pháp cực kì thận trọng và gắn bó với bản vị truyền thống là vàng, thích đổi tiền giấy (có thể mất giá) lấy vàng thỏi. Thế là từng khối vàng được lấy ra khỏi kho Fort Knox, và giá vàng tăng theo luật cung cầu. Trong gần suốt thập niên 1960, sự ổn định của đồng Đô la, và đi theo nó là sự ổn định của hệ thống thanh toán quốc tế, không còn dựa trên kho dự trữ của Hoa Kỳ, mà dựa trên sự thỏa thuận của các ngân hàng trung ương các nước châu Âu – dưới áp lực của Mỹ – đồng ý không đòi hỏi chuyển đổi Đô la thành vàng[*] và chấp nhận liên kết với một “Tập đoàn Vàng” nhằm ổn định giá vàng trên thị trường.

Tình trạng này không thể dài lâu. Năm 1968, “Tập đoàn Vàng” cạn túi, bị giải thể. Đồng Đô la mất đi tính chuyển đổi trên thực tế. Tháng tám 1971, điều này được chính thức thừa nhận: biến mất theo là sự ổn định của hệ thống thanh toán quốc tế và sự kiểm soát hệ thống ấy của Hoa Kỳ hay bất cứ nền kinh tế quốc gia nào.

Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, thì bá quyền kinh tế của Mỹ cũng chẳng còn là bao, đến nỗi tài nguyên quốc gia của Hoa Kỳ không còn khả năng tài trợ cho sự bá quyền về quân sự. Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 chống Irak, một chiến dịch quân sự chủ yếu là của Mỹ, đã được tài trợ một cách tự nguyện hay miễn cưỡng bởi các nước ủng hộ Washington. Đó là một trong số rất hiếm những cuộc chiến tranh mà một cường quốc lớn tiến hành đã kiếm lời được. Cũng may cho mọi người tham chiến – ngoại trừ người dân Irak – là chuyện này đã ngã ngũ trong vòng mấy tuần lễ.

 

IV

 

Sang đầu thập niên 1980, có một thời gian chiến tranh có vẻ đã ngập ngừng nhường chỗ cho lương tri. Những năm tháng hiểm nghèo – từ 1947 cho đến những biến cố thảm kịch của chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) – đã trôi qua mà không nổ ra chiến tranh thế giới. Tương tự, thế chiến cũng không bùng nổ trong những cuộc địa chấn làm đảo điên khối Soviet sau cái chết của Stalin (1953), nhất là vào giữa thập niên 1950. Thành thử các nước Tây Âu chẳng phải đối phó với những cuộc khủng hoảng xã hội mà lại trải qua một thời kì phồn vinh bất ngờ. Trong biệt ngữ truyền thống của các nhà ngoại giao cựu trào, sự giảm bớt căng thẳng được gọi là “hòa hoãn”. Đối với chúng ta, hai tiếng “hòa hoãn” đã trở thành quen thuộc.

Nikita Khrushchev (1894-1971)

Danh từ này xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thập niên 1950, khi Nikita S. Khrushchev đã củng cố được ưu thế mặc dầu đã đôi lần phải lùi bước hay dừng lại trước sức ép của những thế lực “tân Stalin” (1958-1964). “Ông K” cũng tựa như viên kim cương to đẹp nhưng chưa được mài dũa. Tin tưởng vào cải cách và chung sống hòa bình – cũng không nên quên là ông ta đã mở toang cổng các trại tập trung của Stalin – “K” đã chế ngự sân khấu chính trị quốc tế suốt những năm sau đó. Có lẽ đó là người tiểu nông đầu tiên trong lịch sử đã leo lên tột đỉnh quyền bính của một đại cường quốc. Nhưng sự hòa hoãn đã phải trải qua một thời kì đối đầu gay go một cách khác thường gữa một bên là Khrushchev thích chơi bài tháu cáy và tung ra những quyết định tùy hứng, và bên kia là John F. Kennedy (1960-1963) khoái những trò múa may chính trị và là tổng thống Mỹ được đánh giá quá cao nhất trong thế kỉ XX. Thành ra hai siêu cường được đặt dưới sự lãnh đạo của hai kịch sĩ liều mạng trong một giai đoạn – điều này ngày nay người ta khó nhớ ra – mà phương Tây tư bản chủ nghĩa có cảm tưởng mình đang mất đà so với nền kinh tế của các nước XHCN (mà tốc độ tăng trưởng trong những năm 1950 cao hơn các nước tư bản). Các nước XHCN đã chẳng chứng minh sự ưu việt (chốc lát) về công nghệ học so với Hoa Kỳ với thắng lợi ngoạn mục của các vệ tinh và những nhà du hành vũ trụ Liên Xô đó sao? Đó là không kể thắng lợi không ai ngờ của cộng sản ở Cuba, cách bán đảo Florida chỉ có mấy chục km (xem ch. 15)?

Mặt khác, có hai điều làm cho Liên Xô quan ngại: ngôn từ mập mờ, nhưng thường hay hiếu chiến của Washington; và sự đoạn tuyệt sâu sắc với Bắc Kinh bây giờ thẳng thừng lên án Moskva ăn phải bả chủ nghĩa tư bản, buộc Khrushchev vốn mong muốn hòa bình phải công khai tỏ thái độ cứng rắn đối với phương Tây. Đồng thời, sự tăng tốc đột ngột của quá trình giải thực và cách mạng trong Thế giới thứ Ba (xem các chương 7, 12 và 15) thoạt trông có vẻ thuận lợi đối với Liên Xô. Thế là, bồn chồn nhưng tự tin, Hoa Kỳ đương đầu với một Liên Xô tự tin nhưng bồn chồn tại Berlin, Congo và Cuba.

Giai đoạn hai bên đe dọa lẫn nhau và triển khai chiến lược đứng sát bờ vực thẳm dẫn tới kết quả là một tình hình thế giới tương đối ổn định, hai siêu cường thỏa thuận ngầm với nhau là không làm nhau khiếp sợ và cũng không làm thế giới phải khiếp sợ theo: biểu tượng của tình hình này là đường dây “điện thoại đỏ” (1963) nối liền Nhà Trắng với điện Kremlin. Năm 1961, Bức tường Berlin ở châu Âu đã khóa chặt đường ranh giới bất định cuối cùng giữa Đông và Tây. Hoa Kỳ chấp nhận một Cuba cộng sản ở ngay trước ngõ nhà mình. Những đốm lửa giải phóng và chiến tranh du kích mà cách mạng Cuba châm ngòi ở châu Mỹ Latin, hay bập bùng theo cao trào giải thực ở châu Phi, rốt cuộc không trở thành những đám cháy rừng: ngược lại, dường như những đốm lửa ấy bập bùng rồi tắt ngấm (xem ch. 15). Năm 1963, Kennedy bị ám sát. Năm 1964 Khrushchev phải về vườn: bộ máy quan liêu Liên Xô đã sa thải “ông K” và lựa chọn một cung cách tiếp cận chính trị bớt hùng hổ. Trong những năm 1960 và đầu thập niên 1970, người ta chứng kiến một vài biện pháp có ý nghĩa nhằm kiểm soát và hạn chế vũ khí hạt nhân: hiệp định cấm thử vũ khí, nỗ lực ngăn chận việc phổ biến vũ khí hạt nhân (các nước đã có vũ khí hạt nhân trong tay và các nước không nghĩ tới việc chế tạo thì đồng ý, còn những nước đang chế tạo, như Pháp, Trung Quốc và Israel, thì không), đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược (SALT) giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, thậm chí có cả sự thỏa thuận nhất định về tên lửa chống tên lửa (ABM) của hai bên. Cuối cùng, và quan trọng hơn cả, là sự giao thương giữa hai siêu cường, từ lâu đã bị tắc nghẽn vì lí do chính trị, bắt đầu phát triển. Tình hình có triển vọng khả quan.

Leonid Brezhnev (1906-1982)

Vậy mà không phải. Vào giữa thập niên 1970, thế giới bước sang một giai đoạn mà người ta đã gọi là cuộc Chiến tranh Lạnh thứ hai (xem ch. 15). Điều này diễn ra cùng lúc với một thay đổi lớn trong nền kinh tế toàn cầu: năm 1973, bắt đầu một cuộc khủng hoảng kéo dài hai thập niên với đỉnh điểm vào đầu thập niên 1980 (xem ch. 14). Tuy nhiên, lúc đầu, các tác nhân trong cuộc cờ giữa hai siêu cường cũng không quan tâm tới sự thay đổi khí hậu kinh tế này – ngoại trừ việc giá dầu đột ngột tăng giá, do cú đấm thành công của khối các nước sản xuất dầu OPEC: đó cũng là một trong những chỉ dấu chứng tỏ sự thống trị thế giới của Hoa Kỳ tiếp tục bị suy yếu. Cả hai siêu cường đều tỏ ra tương đối hài lòng với sức khỏe kinh tế của mình. Hiển nhiên là Hoa Kỳ không bị suy thoái kinh tế tác động mạnh như châu Âu. Còn Liên Xô thì cho rằng sự việc vẫn diễn tiến bình thường: đúng là Thần thánh muốn hủy diệt ai thì bắt đầu bằng cách làm cho kẻ đó tự mãn. Leonid Brezhnev, người kế vị Khrushchev, trong suốt 20 năm đã chủ trì cái mà các nhà cải cách Liên Xô gọi là “thời kì trì trệ”, dường như có lí do để lạc quan: nhất là cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã nhân gấp bốn lần giá trị các mỏ dầu hỏa và khí đốt khổng lồ được phát hiện từ giữa thập niên 1960 ở Liên Xô.

Tuy nhiên, ngoài kinh tế ra, có hai hiện tượng tương tác với nhau dường như làm thay đổi sự quân bình giữa hai siêu cường. Hiện tượng thứ nhất xem ra là một sự đại bại và bất ổn của Hoa Kỳ sau khi đã lao vào một cuộc chiến tranh lớn. Giữa những cảnh truyền hình bạo loạn và biểu tình đòi hòa bình, cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm mất tinh thần và chia rẽ dân tộc Mỹ, làm thất bại một tổng thống Hoa Kỳ. Sau 10 năm giao tranh (1965-1975), cuộc chiến tranh đã kết thúc bằng sự đại bại và cuộc rút lui được cả thế giới chứng kiến. Không những thế, cuộc chiến tranh cho thấy rõ sự cô lập của Hoa Kỳ, bởi vì trong tất cả các đồng minh của Mỹ ở châu Âu, chẳng có nước nào đưa quân sang Việt Nam, dù chỉ là tượng trưng, để chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ. Tại sao Hoa Kỳ lại lao mình vào một cuộc chiến tranh mà sự thất bại có thể thấy trước, mà các nước đồng minh, các nước trung lập, thậm chí cả Liên Xô cũng đã cảnh báo từ đầu[68]? Quả là khó hiểu, nếu ta quên khung cảnh đám mây mù dầy đặc ngộ nhận, nhầm lẫn, đa nghi trong đó các tác nhân chính của Chiến tranh Lạnh đã mò mẫm dò đường.

Henry Kissinger (1923-)
Richard Nixon (1913-1994)

Và dường như vì chiến tranh Việt Nam chưa đủ để chứng minh sự cô lập của nước Mỹ, thì năm 1973 cuộc chiến tranh Yom Kippur giữa một bên là Israel – mà Hoa Kỳ trở thành đồng minh gần gũi nhất ở Trung Đông – và bên kia là quân đội Ai Cập và Syria – được Liên Xô ủng hộ – càng làm cho sự cô lập của Mỹ thêm hiển nhiên. Vì rằng khi Israel lâm vào thế cùng đường, cầu cứu Mỹ tiếp tế khẩn cấp, thì các nước đồng minh của Mỹ ở châu Âu đều từ chối, không chịu để cho máy bay Mỹ được sử dụng các căn cứ quân sự của Mỹ trên lãnh thổ của họ, nước duy nhất cho phép Mỹ là Bồ Đào Nha, thành lũy của chủ nghĩa phát-xít thời tiền chiến. Thế là cầu tiếp viện từ Hoa Kỳ sang Israel phải bắc qua quần đảo Azores. Không hiểu vì sao Hoa Kỳ cho rằng việc này liên quan tới lợi ích mất còn của mình. Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (cùng với tổng thống Richard M. Nixon còn đang phải ngăn chận nhưng vô vọng quá trình truất phế) đã ra lệnh báo động hạt nhân (lần đầu tiên từ cuộc khủng hoảng tên lửa năm 1961): đây là một hành động tiêu biểu cho sự thiếu thực tâm của nhân vật khôn khéo và cynic này. Nó không làm lay chuyển các nước đồng minh của Hoa Kỳ vì quan tâm lớn của họ là bảo đảm việc cung cấp dầu mỏ từ Trung Đông, chứ không phải là thủ đoạn của Hoa Kỳ ở đây, mặc dù Washington khăng khăng (nhưng không mấy tin tưởng) rằng đó là biện pháp thiết yếu cho cuộc đấu tranh toàn cầu chống chủ nghĩa cộng sản. Bởi vì, thông qua tổ chức OPEC, các quốc gia Arab Trung Đông đã làm những gì có thể để ngăn chận sự viện trợ cho Israel bằng cách cắt đứt nguồn dầu mỏ và bằng cách đe dọa cấm vận dầu mỏ. Thông qua việc này, họ đã khám phá ra rằng họ có thể nhân giá dầu mỏ trên thị trường thế giới. Và bộ ngoại giao của tất cả các nước trên hoàn cầu không thể không thấy rằng Hoa Kỳ hùng mạnh là thế trước mắt không làm gì cả, và muốn làm cũng không được.

Việt Nam và Trung Đông đã làm suy yếu Washington nhưng tự nó, điều này không làm thay đổi thế cân bằng giữa hai siêu cường, cũng như không làm thay đổi bản chất cuộc đụng đầu trên các chiến trường khu vực của Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, từ 1974 đến 1979, lại có thêm một làn sóng cách mạng tràn qua cả một vùng thế giới (xem ch. 15). Đó là đợt xáo trộn thứ ba trong Thế kỉ XX Ngắn, đợt này dường như làm nghiêng cán cân về phía đối phương của Hoa Kỳ, vì một số nước châu Phi, châu Á, và cả châu Mỹ, đã được lôi kéo vào quỹ đạo Liên Xô, cụ thể là họ cho Liên Xô đặt những căn cứ quân sự, nhất là hải quân, ở ngoài vòng cương tỏa mà cho đến nay Liên Xô phải cam chịu ở lục địa Âu-Á. Chính sự trùng hợp giữa làn sóng cách mạng thứ ba và những thất bại công khai của Hoa Kỳ đã khởi động cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ hai. Giai đoạn xung đột này hỗn hợp hai hình thái: một là, những cuộc chiến tranh cục bộ ở Thế giới thứ Ba, do Mỹ tiến hành một cách gián tiếp vì từ nay Mỹ tránh lặp lại sai lầm ở Việt Nam là đưa quân sang tham chiến; hai là, một sự tăng tốc phi thường của cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân – hình thái thứ nhất rõ ràng ít phi lí tính hơn hình thái thứ hai.

Tình hình châu Âu hiển nhiên đã được ổn định – cuộc cách mạng Bồ Đào Nha năm 1974 và sự kết thúc chế độ Franco ở Tây Ban Nha năm 1975 không hề làm thay đổi tình thế – các đường giới tuyến đã được vạch ra minh bạch, nên hai siêu cường đã chuyển dịch địa bàn đối đầu của họ sang Thế giới thứ Ba. Ở châu Âu, sự hòa hoãn đã mang lại cho Hoa Kỳ của Nixon (1968-1974) và Kissinger cơ hội tranh thủ được hai thắng lợi lớn: Liên Xô bị trục xuất ra khỏi Ai Cập và, có ý nghĩa hơn nữa, việc thu nạp không chính thức Trung Quốc vào liên minh chống Liên Xô. Đợt sóng cách mạng có thể nhắm vào những chính quyền bảo thủ được Hoa Kỳ bảo trợ trên khắp thế giới mang lại cho Liên Xô cơ hội giành lại thế chủ động. Trong khi đế chế Bồ Đào Nha ở châu Phi sụp đổ và rơi vào tay cộng sản (Angola, Mozambique, Guinée - Bissau - Cape Verde), còn hoàng đế Ethiopia bị lật đổ bởi một cuộc cách mạng thiên về phương Đông, hải quân Liên Xô trên đà phát triển có thêm được căn cứ trên hai bờ Ấn Độ Dương còn Shah [Hoàng đế] bị lật đổ ở Iran, thì nước Mỹ tràn ngập một cuộc thảo luận công khai và trong hậu trường trong một bầu không khí khá bấn loạn. Không cuồng loạn thì không thể nào giải thích tại sao hồi đó (trừ phi, có một phần lí do là họ hoàn toàn không biết gì về địa hình châu Á), người Mỹ lại có thể khẳng định một cách nghiêm chỉnh rằng việc Liên Xô đưa quân vào Afghanistan là bước đầu của một cuộc nam tiến nhắm đi tới Ấn Độ Dương và Vịnh Ba Tư mục tiêu chẳng bao lâu họ sẽ đạt được[69]? (xem ch. 16-III) Thế của phương Tây sẽ chấm dứt nếu phương Tây không phô trương sức mạnh. Sau khi Khrushchev đổ, chính quyền Liên Xô không còn giữ thận trọng nữa mà ngày càng mạnh dạn trong công việc quốc tế, thái độ này càng làm cho những “thập tự quân” Chiến tranh Lạnh ở Mỹ tin tưởng vào nhận định của họ.

Tâm lí cuồng loạn ở Washington cố nhiên không dựa trên suy luận hiện thực. Trái nghịch với uy tín bị tổn thương, quyền lực của Hoa Kỳ thực ra lớn mạnh hơn hẳn quyền lực của Liên Xô. Nếu so sánh nền kinh tế và trình độ công nghệ của hai phe, thì sự ưu việt của phương Tây (và Nhật Bản) là vô song. Phải trả giá bằng những nỗ lực khổng lồ, người Liên Xô cương cường và cứng rắn, đã xây dựng thành công được một nền kinh tế tốt đẹp nhất so với tình hình thế giới những năm 1890 (nếu căn cứ vào Jowitt, 1991, tr. 278), song ở thập niên 1980, thử hỏi Liên Xô được gì khi mà họ sản xuất thêm được 80% thép, làm ra được khối lượng gang thô gấp hai lần Hoa Kỳ, số lượng máy kéo gấp năm lần Hoa Kỳ, nhưng lại thất bại, không thích ứng được với một nền kinh tế dựa trên nền tảng silicon và phần mềm tin học (xem ch. 16)? Không có một bằng chứng hay dấu hiệu bằng chứng cho thấy Liên Xô muốn có chiến tranh (ngoại trừ cuộc chiến tranh chống Trung Quốc, có lẽ thế!), càng không có chuyện Liên Xô chuẩn bị tấn công phương Tây bằng quân sự. Những kịch bản tiến công hạt nhân cấp tập được các thập tự quân của Chiến tranh Lạnh và các cơ quan tuyên truyền chính thức tung ra chỉ là những sản phẩm “tự biên tự diễn”. Tác động của chúng rốt cuộc là đã làm cho Liên Xô tưởng rằng phương Tây có thể tấn công Liên Xô trước để phòng ngừa, thậm chí năm 1983, có thể sẽ tấn công ngay (Walker, 1993, chương 11), khiến cho Liên Xô đã phát động một phong trào hòa bình chống vũ khí hạt nhân lớn mạnh nhất trong thời kì Chiến tranh Lạnh: phong trào chống triển khai một loạt những tên lửa loại mới ở châu Âu.

Các nhà sử học thế kỉ XXI sau này không còn những kỉ niệm sống động về những năm 1970-1980 sẽ băn khoăn không hiểu nổi sự điên cuồng hiển nhiên trong cơn sốt quân sự và những lời hô hào đậm mùi tận thế, trong cách ứng xử thường khá kỳ quặc trên trường quốc tế của các chính quyền Mỹ, nhất là trong những năm đầu của thời tổng thống Reagan (1980- 1988). Họ sẽ phải đo lường được độ sâu của mặc cảm bại trận, bất lực và nhục nhã của giới cầm quyền Mỹ, trong những năm 1970 – mặc cảm càng nặng nề hơn vì sự hoang mang hiển nhiên ở dinh tổng thống trong giai đoạn mà một vụ bê bối tồi tệ đã buộc Nixon phải từ chức và nhường chỗ cho hai người kế tục không đủ tầm cỡ. Đỉnh điểm của thời kì nhục nhã này là vụ các nhà ngoại giao Mỹ bị nước Iran cách mạng giam làm con tin; cuộc cách mạng nổ ra ở hai nước nhỏ ở Trung Mỹ, và cuộc khủng hoảng dầu mỏ quốc tế lần thứ hai – tổ chức OPEC một lần nữa lại nâng giá dầu lên mức kỉ lục.

Chính sách của Ronald Reagan, lên làm tổng thống năm 1980, chỉ có thể hiểu được nếu ta xem nó như một cố gắng nhằm rửa sạch mối nhục bằng cách chứng tỏ ưu thế và sự vô địch không thể tranh cãi của Hoa Kỳ, dù cho phải chứng tỏ điều đó bằng những động tác biểu dương sức mạnh quân sự nhằm vào những cọc tiêu cố định, thí dụ như cuộc đổ bộ lên hòn đảo Grenada nhỏ bé ở vùng biển Caribe (1983), cuộc tấn công Libya ồ ạt bằng hải quân và không quân (1986), và cuộc đổ bộ ồ ạt và vô lí hơn nữa ở Panama (1989). Có lẽ chính vì Reagan là một diễn viên hạng xoàng của Hollywood mà ông ta hiểu rõ não trạng của nhân dân Mỹ, cảm nhận được lòng tự ái của người dân Mỹ đã bị tổn thương tới mức nào. Rốt cuộc, chấn thương ấy chỉ được chữa lành bởi sự sụp đổ dứt điểm, không dự trù và bất ngờ, của kẻ thù chủ yếu, khiến cho Hoa Kỳ trở thành cường quốc toàn cầu duy nhất. Dẫu sao, người ta có thể nhìn thấy trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 sự bồi thưởng muộn màng của những thử thách ghê gớm năm 1973 và 1979, khi mà cường quốc lớn nhất thế giới phải bó tay trước những quyết định của một tổ hợp mấy quốc gia nhỏ yếu của Thế giới thứ Ba đe dọa bóp nghẹt nguồn tiếp tế dầu mỏ của mình.

Như vậy, cuộc thập tự chiến chống lại “Đế chế của cái Ác” mà chính quyền của tổng thống Reagan ra sức tiến hành – ít nhất về mặt công khai – được chủ trương như là một phương pháp trị liệu cho Hoa Kỳ, hơn là một mưu đồ hữu hiệu để lập lại cân bằng thế giới. Sự thật là sự cân bằng ấy đã được tái lập một cách an nhiên ngay từ cuối thập niên 1970 khi NATO – dưới thời tổng thống Hoa Kỳ thuộc Đảng dân chủ và chính phủ Đức, Anh thuộc Đảng Dân chủ-xã hội và Công đảng – bắt đầu tái vũ trang, cùng lúc đó thì các nhà nước châu Phi phái tả, ngay từ đầu, đã thất bại trước những phong trào và những nhà nước do Mỹ ủng hộ: cuộc phản công này khá thành công ở Trung Phi và Nam Phi, là khu vực mà Hoa Kỳ hợp đồng hành động với chế độ apartheid ác hiểm của Nam Phi, và không thành công lắm ở vùng Sừng Châu Phi. Trong cả hai khu vực này, người Nga được sự hỗ trợ quý báu của đoàn viễn chinh Cuba, bằng chứng sự gắn bó của Fidel Castro đối với sự nghiệp cách mạng ở Thế giới thứ Ba và sự liên minh với Liên Xô. Sự tham gia của Reagan vào cuộc Chiến tranh Lạnh khác hẳn về bản chất.

Margaret Thatcher (1925-2013)
Friedrich Hayek (1899-1992)

Nó không nghiêng về thực tiễn mà thiên về lãnh vực tư tưởng: nó nằm trong khuôn khổ phản ứng của phương Tây trước thời đại của những xáo động và những bất trắc mà thế giới dường như đã lao vào sau khi kết thúc Thời đại Hoàng kim (xem ch. 14). Trước thất bại hiển nhiên của các chính sách kinh tế - xã hội của Thời đại Hoàng kim, thời kỳ cầm quyền kéo dài của những chính quyền trung phái và pha màu Xã hội - Dân chủ đã kết thúc. Khoảng năm 1980, những chính phủ thuộc phái hữu tư tưởng, gắn bó với một dạng thức cực đoan của chủ nghĩa vị kỉ kinh tế và thả lỏng, lên nắm chính quyền ở nhiều nước: trong số đó, nổi bật là Reagan và con người năng nổ và đáng gờm là bà Thatcher ở Anh (1979-1990). Đối với phái hữu mới này, chủ nghĩa tư bản với chính sách bảo hộ xã hội do nhà nước chủ trì trong hai thập niên 1950 và 1960, sang những năm 1970 thì không được thành tựu kinh tế hỗ trợ nữa, vẫn bị họ coi là một biến tướng của chủ nghĩa xã hội (“Con đường nô dịch” theo cách gọi của nhà kinh tế kiêm tư tưởng von Hayek) mà Liên Xô là biểu tượng hoàn chỉnh. Reagan đã tiến hành Chiến tranh Lạnh không những để chống lại “Đế chế của cái Ác” ở nước ngoài, mà chống lại di sản của Franklin D. Roosevelt ở trong nước nữa: chống lại Nhà nước ban phát và mọi hình thức can thiệp khác của nhà nước. Kẻ thù của chính quyền Reagan là chủ nghĩa “Liberal” (cái “từ bắt đầu bằng chữ L” như họ nhắc đi nhắc lại trong các cuộc tranh cử tổng thống, mà không phải là không có tác dụng) cũng như chủ nghĩa cộng sản.

Mikhail Gorbachev (1931-)

Vì Liên Xô sụp đổ vào ngay cuối thời kì Reagan, nên cố nhiên các nhà tuyên truyền Mỹ khoe khoang là chính cuộc đấu tranh của họ đã bẻ gãy và đánh sập Liên Xô. Hoa Kỳ đã chủ động tiến hành Chiến tranh Lạnh và đã giành toàn thắng: kẻ địch đã đại bại thảm hại. Đó là cách viết lịch sử của những phần tử thập tự chiến những năm 1980, không đáng để ta phải bận tâm bàn luận. Hoàn toàn không có gì chứng tỏ chính phủ Mỹ đã hi vọng hay xem xét tới khả năng Liên Xô sắp sụp đổ, thậm chí Hoa Kỳ không hề chuẩn bị trước tình huống này. Tất nhiên, chính quyền Mỹ hi vọng gây được áp lực lên kinh tế Liên Xô, nhưng các cơ quan tình báo Mỹ đều báo cáo (sai) là Liên Xô vẫn vững mạnh và có thể duy trì cuộc chạy đua vũ khí với Hoa Kỳ. Đầu thập niên 1980, người ta vẫn cho rằng (và như vậy là lầm tưởng) Liên Xô vẫn ở thế tiến công trên toàn thế giới. Thật ra, bất luận những người soạn diễn văn cho tổng thống Reagan viết gì đi nữa, bất luận những ý nghĩ gì nảy ra trong đầu óc không phải lúc nào cũng sáng suốt của ông, bản thân Reagan thực sự tin tưởng vào sự chung sống giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, nhưng sự chung sống ấy không thể dựa trên sự cân bằng gớm ghiếc do hai bên khủng bố lẫn nhau bằng vũ khí hạt nhân. Mơ ước của Reagan là một thế giới hoàn toàn giải trừ vũ khí hạt nhân. Và cuộc gặp thượng đỉnh kì lạ và sốt nóng tổ chức vào mùa thu năm 1986 trong không khí cận Bắc cực của Iceland cho thấy rằng đó cũng là ước mơ của tân tổng bí thư ĐCS Liên Xô Mikhail Sergeyevich Gorbachev.

Chiến tranh Lạnh chấm dứt khi một trong hai siêu cường, hay cả hai, nhận thức được sự vô lí bi thảm của cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân; và khi một bên, hay cả hai, chấp nhận là bên kia thành thực. Có lẽ điều này dễ làm đối với người lãnh đạo Liên Xô hơn là đối với người lãnh đạo Mỹ bởi vì, khác hẳn Washington, Moskva chưa bao giờ xem Chiến tranh Lạnh là một cuộc thập tự chinh (và có lẽ cũng vì Moskva không phải đối phó với một công luận bị kích động). Nhưng cũng chính vì thế mà đối với người lãnh đạo Liên Xô, thuyết phục được phương Tây tin rằng mình thực tâm là một điều khó. Bởi vậy phải nói là phương Tây mang một món nợ rất lớn đối với Gorbachev, vì chính Gorbachev đã lấy sáng kiến chủ động, và một mình ông đã thuyết phục được chính quyền Mỹ và chính quyền những nước khác rằng ông thực sự mong muốn những điều ông nói ra. Tuy nhiên, cũng không nên đánh giá thấp phần đóng góp của tổng thống Mỹ, mà chủ nghĩa lý tưởng đã phá tan được bức màn dầy đặc bao quanh ông, bức màn làm bằng những nhà tư tưởng, những phần tử cuồng tín, những kẻ cơ hội, những tay côn đồ quyết tử và những kẻ chuyên nghiệp của Chiến tranh Lạnh. Reagan đã chịu được thuyết phục. Trên thực tế, Chiến tranh Lạnh đã kết thúc tại hai cuộc gặp thượng đỉnh ở Reykjavik (1986) và Washington (1987).

Phải chăng sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã kết liễu chế độ Soviet? Hai hiện tượng ấy rõ ràng có liên quan tới nhau song đứng về mặt lịch sử đó là hai hiện tượng tách biệt. Chủ nghĩa xã hội Liên Xô có tham vọng là giải pháp thay thế toàn diện cho chủ nghĩa tư bản thế giới. Thế mà chủ nghĩa tư bản không sụp đổ và không có dấu hiệu sẽ sụp đổ – nhưng người ta có thể tự hỏi, không biết điều gì sẽ xảy ra nếu như năm 1981, tất các các nước XHCN và Thế giới thứ Ba đã vay nợ các nước tư bản, đồng lòng nhất loạt vỗ nợ – tiền đồ của chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào khả năng thi đua với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa toàn cầu, một nền kinh tế đã được cải cách sau cuộc Đại Khủng hoảng và Thế chiến thứ Hai, sau đó đã thay đổi thông qua cuộc cách mạng “hậu công nghiệp” về thông tin và công nghệ thông tin những năm 1970. Sau năm 1960, rõ ràng là càng ngày chủ nghĩa xã hội càng tụt hậu. Nó đã mất khả năng cạnh tranh. Và một khi mà cuộc thi đua diễn ra dưới dạng đối đầu giữa hai siêu cường chính trị, quân sự và tư tưởng, thì sự thua kém sẽ dẫn tới khánh tận.

Hai siêu cường đã đưa nền kinh tế quốc gia của họ trải qua những thử thách ghê gớm, thậm chí đã làm chúng biến dạng trong cuộc chạy đua vũ trang ào ạt và vô cùng tốn kém, nhưng chế độ tư bản chủ nghĩa đã hấp thu được món nợ 3.000 tỉ Đô la – chủ yếu là do chi phí quốc phòng – trong thập niên 1980 của Hoa Kỳ, trước đó là nước chủ nợ lớn nhất thế giới. Trong khi đó thì ở bên trong cũng như bên ngoài, chẳng có ai đứng ra chia sẻ áp lực tương đương do chi tiêu của Liên Xô gây ra, những chi tiêu rất lớn so với sản xuất của Liên Xô: 1/4 GDP, còn chi phí quốc phòng của Mỹ khoảng giữa thập niên 1980 chỉ bằng 7% GDP. Nhờ tác động của một cơ may về lịch sử cũng như về chính trị, Hoa Kỳ chứng kiến những biến đổi của Nhật Bản và Cộng đồng châu Âu mạnh mẽ tới mức, đến cuối thập niên 1970, tỉ trọng nền kinh tế của các nước này đã vượt kinh tế Mỹ 60%. Ngược lại, các nước đồng minh và lệ thuộc Liên Xô thì tự mình không đứng vững. Mỗi năm, các nước này khiến Liên Xô phải tốn hàng chục tỉ Đô la. Moskva hi vọng sự huy động của Thế giới thứ Ba sẽ làm thất bại sự thống trị của chủ nghĩa tư bản trên thế giới: đứng về mặt địa lí cũng như về dân số, Thế giới thứ Ba chiếm 80% thế giới. Nhưng về mặt kinh tế, nó chỉ giữ một vị trí ngoại vi. Về mặt công nghệ thì khỏi cần tranh cãi: sự ưu việt của phương Tây gia tăng một cách lũy thừa. Tóm lại, ngay từ đầu, Chiến tranh Lạnh là một cuộc đấu vật không cân xứng.

Song sự hủy hoại của chủ nghĩa xã hội không phát sinh từ cuộc đụng đầu với chủ nghĩa tư bản và siêu cường của nó. Quá trình này là sự kết hợp giữa một mặt là các khuyết tật ngày càng rõ mồn một đã làm tê liệt nền kinh tế XHCN, mặt khác là sự xâm lăng tăng tốc của một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa toàn cầu năng động, tiên tiến và áp đảo hơn nhiều. Nếu như hiện thực diễn ra đúng như ngôn ngữ Chiến tranh Lạnh mô tả, nghĩa là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, “thế giới tự do” và “chủ nghĩa toàn trị”, là hai bờ của một vực thẳm ngăn cách không thể nào lấp đầy, mọi cố gắng bắc cầu đều bị gạt bỏ[70], thì có thể nói Chiến tranh Lạnh hoặc sẽ dẫn tới cuộc tự sát hạt nhân của cả hai bên, hoặc sẽ cho phép cả bên yếu cũng tồn tại. Bởi vì nền kinh tế kế hoạch hóa, dù vô hiệu và èo ọt đến đâu, cũng vẫn sống được khi nó thu mình sau bức màn sắt: có thể nó cứ từ từ xìu xuống, nhưng không nhất thiết sụp đổ trong một thời gian ngắn[71]. Chính sự tương tác giữa nền kinh tế kiểu Soviet và nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa từ những năm 1960 trở đi đã làm cho chủ nghĩa xã hội dễ bị thương tổn. Trong thập niên 1970, khi các nhà lãnh đạo phe XHCN chọn phương án khai thác những tài nguyên mới của thị trường (giá dầu, vay mượn dễ dàng, v.v.), thì chính họ đã tự đào mồ chôn mình (xem ch. 16). Nghịch lí của Chiến tranh Lạnh nằm ở đó: sự đắm tàu của Liên Xô bắt nguồn ở sự hòa hoãn chứ không phải từ cuộc đối đầu.

Tuy nhiên, trong một ý nghĩa nào đó, những phần tử cực đoan của Chiến tranh Lạnh ở Washington nói cũng không hoàn toàn sai. Như về sau nhìn lại thì thấy, cuộc Chiến tranh Lạnh đích thực đã chấm dứt vào năm 1987 với cuộc gặp thượng đỉnh Washington, nhưng điều ấy không thể được thừa nhận một cách phổ biến chừng nào người ta chưa thấy rõ ràng Liên Xô không còn là một siêu cường, thậm chí một cường quốc bình thường, nữa. 40 năm sống trong sợ hãi và nghi ngờ, liên tục gieo trồng và gặt hái “răng rồng” quân sự - công nghiệp, không thể nào một sớm một chiều mà phai nhạt. Guồng máy của các cơ quan phụ trách chiến tranh ở cả hai bên vẫn tiếp tục vận hành. Mỗi sáng kiến chủ động của bên này đều bị cơ quan tình báo của bên kia, vốn quen nghề “nhìn đâu cũng thấy địch”, nghi ngờ đó là một âm mưu nhằm làm cho bên mình lơ là cảnh giác để đánh úp. Sự sụp đổ của Đế chế Soviet năm 1989, sự tan vỡ và giải thể của chính Liên bang các nước cộng hòa XHCN Soviet năm 1989-1991 không cho phép khẳng định như vậy nữa, và tất nhiên, không thể cho rằng “chẳng có gì thay đổi cả” nữa.

 

V

 

Nhưng, thử hỏi, cái gì đã thay đổi? Chiến tranh Lạnh đã biến đổi sân khấu quốc tế trên ba vế. Trước hết, nó đã hoàn toàn triệt tiêu hay che lấp mọi cuộc xung đột và tranh đua (trừ một cuộc xung đột duy nhất) đã chi phối đời sống chính trị thế giới trước Thế chiến thứ hai. Một số cuộc xung đột đã biến đi cùng với những đế quốc của Thời đại Đế chế, kéo theo những tranh giành về thuộc địa giữa các thế lực thực dân. Những xung đột khác cũng phai mờ đi bởi vì các “đại cường” (trừ hai “đại cường” đã trở thành siêu cường) đã bị đẩy xuống bảng hai hay bảng ba của đời sống chính trị quốc tế, quan hệ giữa họ với nhau đã mất đi tính chất tự lập hoặc chỉ còn quy mô khu vực. Sau năm 1947, Pháp và (Tây) Đức đã chôn sâu “rìu chiến tranh”: chẳng phải vì một cuộc xung đột Pháp-Đức không thể nào xảy ra nữa – các chính phủ nối tiếp nhau ở Pháp luôn luôn nghĩ tới điều này – nhưng vì cả hai nước đều ở trong phe Hoa Kỳ, và sự bá quyền của Washington ở Tây Âu đã loại trừ khả năng Tây Đức vượt ra ngoài vòng kiểm soát. Dẫu sao đi nữa, thật đáng ngạc nhiên khi thấy mối quan tâm lớn của các quốc gia sau các cuộc đại chiến đã tan biến nhanh chóng như vậy trên sân khấu quốc tế: các nước thắng trận thì e ngại trước các kế hoạch hồi phục của các nước thua trận, các nước thua trận thì làm những dự án để triệt tiêu tác động của sự thất trận. Ở phương Tây, chẳng mấy ai thật sự lo ngại trước việc CHLB Đức và Nhật Bản ngoạn mục trở lại vị trí cường quốc lớn, tái vũ trang nhưng không có vũ khí hạt nhân, miễn là cả hai nước thực chất vẫn là thành viên thứ yếu trong liên minh Mỹ. Ngay cả Liên Xô và các đồng minh của Liên Xô, tuy họ tố cáo hiểm họa Đức mà họ đã trải qua những kinh nghiệm cay đắng, nhưng đó là chính sách tuyên truyền chứ không xuất phát từ lo sợ thực sự. Moskva sợ, không phải là sợ lực lượng vũ trang Đức, mà sợ những dàn tên lửa NATO đặt trên lãnh thổ Đức. Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh chấm dứt rồi, vẫn có thể nổi lên những xung đột quyền lực khác.

Vế thứ hai: Chiến tranh Lạnh đã đóng băng tình thế quốc tế, và do đó, đã ổn định một cục diện về cơ bản có tính chất di động và tạm bợ. Nước Đức là ví dụ hiển nhiên nhất. Trong suốt 46 năm trời, nước Đức bị chia cắt – trên thực tế, nếu không nói là về mặt pháp lí, cả một thời gian dài – làm ba khu vực: miền Tây, từ năm 1949 trở thành nước CHLB; miền Trung, về mặt pháp lý từ năm 1954, trở thành nước Cộng hòa Dân chủ; miền Đông, ở phía đông sông Oder - Neisse, thì bị Liên Xô và Ba Lan chia nhau, phần lớn dân cư người Đức bị trục xuất. Chiến tranh Lạnh chấm dứt, Liên Xô tan rã, hai miền trung và tây thống nhất, còn lại những vùng bị Liên Xô sáp nhập ở Đông Phổ trơ trọi, cách biệt nước Nga bởi quốc gia Lithuania từ nay độc lập. Người Ba Lan chỉ nhận được lời hứa của người Đức là tôn trọng đường biên giới 1945, nên cũng không mấy yên tâm. Ổn định không có nghĩa là hòa bình. Ngoài châu Âu ra, Chiến tranh Lạnh không phải là thời kì vắng tiếng giao tranh. Từ năm 1948 đến năm 1989, không năm nào không có một cuộc xung đột vũ trang khá nghiêm trọng nổ ra ở đâu đó. Tuy nhiên, các cuộc xung đột này đã được chế ngự hoặc dập tắt vì người ta sợ chúng sẽ biến thành chiến tranh mở rộng – nghĩa là chiến tranh hạt nhân – giữa các siêu cường. Yêu sách của Irak về Koweit – nước bảo hộ nhỏ thời Anh, nhiều dầu mỏ, nằm ở đỉnh vịnh Ba Tư, độc lập từ năm 1961 – đã được đưa ra từ lâu và liên tục được nhắc đi nhắc lại. Nó chỉ biến thành chiến tranh khi mà vịnh Ba Tư không còn là ngòi nổ hầu như tự động cho một cuộc đối đầu giữa hai siêu cường. Trước năm 1989, chắc chắn Liên Xô, nguồn cung cấp chủ yếu vũ khí của Irak, đã khuyên răn Bagdad đừng lao vào một cuộc phiêu lưu nào trong khu vực này.

Đời sống chính trị ở bên trong mỗi nước tất nhiên không bị giữ nguyên trạng như quan hệ quốc tế, trừ phi sự thay đổi tác động, hay có vẻ tác động đến quan hệ lệ thuộc của nước ấy với siêu cường thống soái. Hoa Kỳ không sẵn sàng chấp nhận những người cộng sản hay thiên cộng lên cầm quyền ở Italia, Chile hay Guatemala, cũng như Liên Xô không từ bỏ quyền đưa quân sang các nước anh em khi chính quyền các nước này muốn li khai, như Hungary và Tiệp Khắc. Cũng phải nói là Moskva “khó tính” hơn Washington trong thái độ đối với sự đa dạng của các nước bạn hay chư hầu, nhưng ngược lại, khả năng tự khẳng định ở các nước này của Moskava cũng thua kém hơn. Từ lâu trước năm 1970, Moskva đã mất hẳn khả năng kiểm soát Nam Tư, Albania và Trung Quốc. Moskva cũng phải cam chịu cách hành xử đôi khi rất độc lập của các nhà lãnh đạo Cuba và Romania. Còn đối với các nước Thế giới thứ Ba mà Liên Xô cung cấp vũ khí và cùng kẻ thù chúng là chủ nghĩa đế quốc, thì ngoài quyền lợi chung, Liên Xô hoàn toàn không nắm được họ. Không nước nào chịu để cho đảng Cộng sản bản địa hoạt động hợp pháp. Rốt cuộc là sự kết hợp quyền lực, ảnh hưởng chính trị, tham nhũng và cái logic của thế lưỡng cực và của chủ nghĩa chống đế quốc đã duy trì sự phân chia thế giới một cách ít nhiều ổn định. Trừ Trung Quốc ra, không có quốc gia đáng kể nào đã thực sự chuyển từ phe này sang phe kia, nếu không do một cuộc cách mạng từ bên trong mà không siêu cường nào có thể chủ mưu hoặc ngăn cản được: Hoa Kỳ đã phải trải qua tình huống này trong thập niên 1970. Ngay những đồng minh của Hoa Kỳ, mà đường lối chính trị ngày càng bị sự liên minh ràng buộc – thí dụ như các chính quyền Tây Đức sau năm 1969 trong chính sách Ostpolitik, cũng không rút ra khỏi khối liên minh ngày càng gò ép. Những thực thể về chính trị thì bất lực, bất ổn và không thể nào bảo vệ được, không có khả năng sống còn trong bối cảnh rừng rú quốc tế – đầy rẫy trong khu vực nằm giữa Biển Đỏ và Vịnh Ba Tư – vẫn cứ tồn tại lây lất. Cái bóng hình nấm của quả bom hạt nhân đã bảo đảm sự sống còn của những chế độ như Arabia Saudi hay Koweit, chứ không phải là những chế độ dân chủ tự do phương Tây. Chiến tranh Lạnh đúng là thời kì thuận lợi đối với những quốc gia nhỏ bé: sau Chiến tranh Lạnh, sự khác biệt giữa những vấn đề đã được giải quyết và những vấn đề đã bị xếp xó trở nên hiển nhiên.

Thứ ba, Chiến tranh Lạnh đã khiến cho thế giới tràn ngập vũ khí tới mức không tưởng tượng nổi. Đó là hậu quả tự nhiên của 40 năm trong đó các nước công nghiệp lớn đã đua nhau trang bị vũ khí đề phòng một cuộc chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. 40 năm đua tranh giữa hai siêu cường để tranh thủ bạn bè, mở rộng ảnh hưởng bằng cách phân phát vũ khí khắp nơi, đồng thời cũng là 40 năm chiến tranh triền miên ở “cường độ thấp”, thỉnh thoảng cũng có những thời điểm rực lửa. Những nền kinh tế bị quân sự hóa cao độ, và bất luận thế nào, với những Phức hợp quân sự - công nghiệp to lớn đầy ảnh hưởng, nên tất nhiên là muốn bán vũ khí ra nước ngoài, ít nhất là để làm yên lòng chính phủ, chứng tỏ rằng họ không chỉ ngốn những ngân sách quân sự khổng lồ mà không mang lại lợi nhuận kinh tế gì. Trào lưu những chính quyền quân nhân chưa từng thấy (xem ch. 12) là cả một thị trường béo bở, một phần được các siêu cường viện trợ hào phóng, một phần do thu nhập, nhờ cuộc cách mạng dầu mỏ, đã tăng lên gấp bội, vượt mức chờ đợi của những Sultan, những cheikh của Thế giới thứ Ba. Người người nước nước đều xuất khẩu vũ khí. Các nền kinh tế XHCN và một số nước tư bản chủ nghĩa thoái trào chẳng còn món hàng có sức cạnh tranh nào khác để mang ra thị trường thế giới. Nhưng khu vực mậu dịch gieo rắc chết chóc này không chỉ liên quan tới những vật tư quân sự quy mô mà chỉ các bộ máy công quyền mới có thể tìm mua. Thời đại chiến tranh du kích và khủng bố đã kích cầu những vũ khí nhẹ, dễ di chuyển nhưng cũng thừa sức phá hủy và sát hại, đồng thời giai tầng cặn bã của các thành phố thế kỉ XX cũng cung cấp loại vũ khí này cho thị trường thường dân. Trong xã hội đen, súng liên thanh Uzi (Israel), Kalachnikov (Nga) và chất nổ Semtex (Tiệp Khắc) là những tên gọi thông dụng.

Và cứ như thế, Chiến tranh Lạnh kéo dài. Những cuộc chiến tranh nhỏ trước đó giữa những lực lượng thân siêu cường này và những lực lượng thân siêu cường kia vẫn tiếp diễn một cách cục bộ sau khi cuộc giao tranh cũ đã kết thúc, chống lại những người đã khởi động cuộc chiến cũ nhưng nay muốn kết thúc. Ở Angola, những phiến quân UNITA vẫn ở tại chỗ và chống lại chính quyền sau khi người Nam Phi và người Cuba đã rút khỏi đất nước đau thương này, còn Liên Hợp Quốc và Hoa Kỳ đã lên án UNITA và thừa nhận đối phương. Nhưng UNITA vẫn còn phương tiện để tiếp tục. Còn Somalia thì được Liên Xô cung cấp vũ khí khi nhà vua Ethiopia đứng về phía Mỹ, rồi được Mỹ giúp súng đạn khi Ethiopia cách mạng đứng về phe Liên Xô, rốt cuộc Somalia bước vào thế giới sau Chiến tranh Lạnh như một đất nước hoang tàn vì nạn đói và cuộc giao tranh vô chính phủ giữa những bộ tộc: Somalia thiếu thốn đủ mọi thứ, nhưng thừa mứa súng đạn, mìn và xe vận tải quân sự. Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc huy động phương tiện để mang lại lương thực và hòa bình. Công cuộc này xem ra khó hơn là mang lại súng đạn, vũ khí. Ở Afghanistan, Hoa Kỳ đã hào phóng cung cấp cho các bộ tộc chống cộng tiến hành chiến tranh du kích những ống phóng tên lửa chống máy bay “Stinger”, họ dự tính rất chính xác là vũ khí này sẽ hóa giải ưu thế trên không của Liên Xô. Khi người Nga rút khỏi Afghanistan rồi, cuộc chiến tranh vẫn cứ tiếp tục – chỉ khác một điều là không còn máy bay để hạ, các bộ tộc đem Stinger ra bán trên thị trường quốc tế, mang lại món lời to lớn. Mỹ không còn cách nào khác hơn là xin mua lại với giá 100.000 US$ mỗi cái, song cũng không đạt kết quả (International Herald Tribune, 5.7.1993, tr. 24; La Republica, 6.4.1994): “Die ich rief die Geister, werd ich nun nicht los”, nhân vật phù thủy tập sự của Goethe đã từng kêu trời: “Ta đã gọi âm binh lên, bây giờ không tống khứ chúng được nữa”[72].

Nguyễn Ngọc Giao dịch

Maisons-Alfort, Val-de-Marne, Pháp

Nguồn: Dịch giả gởi trực tiếp cho PTKT, 07.2021.




Chú thích:

[60] Báo cáo của Jdanov về tình hình thế giới, mở đầu hội nghị thành lập Kominform, tháng chín 1947, nổi bật ở một điểm: hoàn toàn không đả động gì tới Trung Quốc; trong khi đó thì Indonesia và Việt Nam được xếp vào hàng ngũ những nước “đứng về phe chống đế quốc”, còn Ấn Độ, Ai Cập và Syria là những nước “cảm tình” (Spriano, 1983, tr. 286). Tháng tư 1949, khi Tưởng Giới Thạch rút khỏi thủ đô Nam Kinh, đại sứ Liên Xô là người duy nhất trong ngoại giao đoàn đã tìm cách theo Tưởng rút về Quảng Châu. Sáu tháng sau, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Walker, 1993, tr. 63).

[61] Nghe đâu Mao Trạch Đông đã nói với Togliatti, thủ lĩnh cộng sản Italia: “Có ai nói với đồng chí là Italia sẽ tồn tại (sau cuộc chiến tranh hạt nhân) đâu? Nhưng sẽ còn tồn tại ba trăm triệu người Trung Quốc, và như thế là nhân loại sẽ trường tồn”. Năm 1957, “Mao đã làm cho các đồng chí cộng sản các nước phải sửng sốt khi ông ta hoan hỉ coi chiến tranh hạt nhân là tất yếu, thậm chí là có lợi vì đó là cái giá phải trả để tiêu diệt chủ nghĩa tư bản” (Walker, 1993, tr. 126).

[62] Lãnh tụ Liên Xô Nikita S. Khrushchev quyết định đặt tên lửa Liên Xô ở Cuba để cân bằng với tên lửa của Hoa Kỳ đã đặt từ trước ở Thổ Nhĩ Kì, sát biên giới Liên Xô (Burlatsky, 1992). Hoa Kỳ đe dọa chiến tranh, buộc Khrushchev phải rút tên lửa khỏi Cuba, nhưng Hoa Kỳ cũng rút tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kì. Lúc đó, người ta giải thích cho tổng thống Kennedy rằng tên lửa của Liên Xô không hề làm thay đổi thế cân bằng chiến lược, song chúng đè nặng lên hình ảnh của tổng thống trong dư luận (Ball, 1992, tr. 18; Walker, 1988). Những tên lửa mà Hoa Kỳ rút ra khỏi Thổ Nhĩ Kì được trình bày như là những vũ khí “lạc hậu”.

[63] “Kẻ thù là chính trị hệ thống cộng sản: tàn khốc, tham vọng vô độ, không ngừng nghỉ trong cuộc chạy đua giành quyền thống trị thế giới […]. Đây không phải là một cuộc chạy đua giành ưu thế vũ khí mà thôi. Đây còn là cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai hệ tư tưởng đối nghịch: một bên là tự do dưới bóng Thượng Đế, một bên là chế độ độc tài vô thần tàn khốc” (Walker, 1993, tr. 132).

[64] Lẽ ra Liên Xô còn nghi ngại hơn nhiều nữa nếu họ được biết rằng các tham mưu trưởng quân đội Mỹ đã lên kế hoạch ném bom nguyên tử 20 thành phố lớn nhất của Liên Xô trong vòng 10 tuần lễ sau ngày kết thúc chiến tranh thế giới (Walker, 1993, tr. 26-27).

[65] Từ dưới bùn đen của cuộc tố cộng, chính khách duy nhất có tầm cỡ đã ngoi lên được là Richard M. Nixon, nhân vật khó coi nhất trong các tổng thống Mỹ sau chiến tranh (1968-1974).

[66] “Chúng ta sẽ huy động toàn bộ sức lực để trở lại vị trí số một. Không có nếu, không có nhưng gì cả: trở lại vị trí số một, đơn giản thế thôi. Tôi muốn rằng thế giới không còn phải tự hỏi ông Khrushchev đang làm gì. Tôi muốn toàn thế giới tự hỏi Hoa Kỳ làm gì” (Beschloss, 1991, tr. 28).

[67] Tuy nhiên, ngay từ đầu, các cơ quan tình báo và những bộ phận chính quyền không lộ diện trên sân khấu chính trị đã có chủ trương sử dụng các phần tử phát-xít cũ.

[68] “Nếu muốn như vậy thì các vị hãy vào rừng rậm Việt Nam mà chiến đấu. Người Pháp đã đánh nhau ở đó trong bảy năm trời, cuối cùng đã phải rút đi. Người Mỹ có thể kéo dài hơn một chút, nhưng rồi cũng phải rút đi thôi”: Khrushchev nói với Dean Rusk, năm 1961 (Beschloss, 1991, tr. 649).

[69] Một biểu hiện nữa của quan niệm địa lí kì quái đó là người ta giải thích rằng nếu lực lượng Sandino nắm quyền ở Nicaragua, thì hiểm họa quân sự chỉ còn cách biên giới bang Texas vài ngày đường đi bằng xe vận tải.

[70] Chỉ cần xem người Mỹ đã biến danh từ “Phần Lan hóa” thành một lời thóa mạ, sỉ nhục như thế nào.

[71] Có thể lấy ví dụ nước cộng hòa cộng sản sơn cước nhỏ bé là Albania: nước này nghèo nàn và lạc hậu nhưng vẫn tồn tại suốt ba thập niên khi nó hầu như hoàn toàn biệt lập với thế giới. Mãi tới khi bức tường che chắn Albania khỏi thế giới sụp đổ rồi thì nền kinh tế Albania mới đổ sụp theo.

[72] Bài thơ Der Zauberlehrling (Tên phù thủy tập sự) của Johann Wolfgang von Goethe.

[*] [chú thích của người dịch] Hội nghị Bretton Woods (1944) đánh dấu vai trò nổi trội của đồng Đô la Mỹ trong trật tự kinh tế thế giới mới với việc trên thực tế, sau thế chiến thứ II, các nước không thuộc khối XHCN đã từ bỏ chế độ bản vị vàng để định giá đồng bản tệ theo đồng Đô la Mỹ (35 US $ = 35 ounce vàng).

Print Friendly and PDF