17.10.25

Những người đạt giải Nobel năm nay đã thay đổi tư duy về tăng trưởng kinh tế như thế nào

NHỮNG NGƯỜI ĐẠT GIẢI NOBEL NĂM NAY ĐÃ THAY ĐỔI TƯ DUY VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NHƯ THẾ NÀO

Tác giả: Antonio Navas

Những người đạt giải đã được công bố tại một buổi lễ ở Stockholm. EPA/ANDERS WIKLUND THỤY ĐIỂN

Điều gì khiến một số quốc gia giàu có trong khi những quốc gia khác lại nghèo? Liệu có điều gì mà một quốc gia có thể làm để cải thiện mức sống cho người dân của mình hay không? Các nhà kinh tế học đã trăn trở về điều này hàng thế kỷ. Nếu câu trả lời cho câu hỏi thứ hai là “có”, thì tác động của nó đến đời sống người dân có thể rất đáng kinh ngạc.

Giải thưởng Sveriges Riksbank về các Khoa học Kinh tế năm nay (thường được gọi là giải Nobel kinh tế) đã được trao cho ba nhà nghiên cứu đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi này: Philippe Aghion, Peter Howitt và Joel Mokyr.

Trong phần lớn chiều dài lịch sử nhân loại, sự đình đốn kinh tế là chuẩn mực - còn tăng trưởng kinh tế hiện đại chỉ mới xuất hiện gần đây xét từ quan điểm lịch sử. Những người đạt giải năm nay được vinh danh vì những đóng góp trong việc giải thích cách thức đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững.

Vào đầu những năm 1980, các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế hầu hết chịu ảnh hưởng từ các công trình của nhà kinh tế học người Mỹ Robert Solow. Một kết luận quan trọng đã được rút ra: trong dài hạn, tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người được quyết định bởi sự tiến bộ công nghệ.

Tuy nhiên, khuôn khổ [lý thuyết] của Solow không giải thích được cách công nghệ tích lũy theo thời gian, cũng như vai trò của các thể chế và chính sách trong việc thúc đẩy sự tiến bộ công nghệ. Do đó, lý thuyết này không thể lý giải vì sao các quốc gia lại tăng trưởng khác nhau trong thời gian dài, hay loại chính sách nào có thể giúp một quốc gia cải thiện hiệu suất tăng trưởng dài hạn.

Chúng ta có thể lập luận rằng đổi mới công nghệ đến từ phần công việc của các nhà khoa học, những người ít bị tiền bạc thúc đẩy hơn so với phần còn lại của xã hội. Nếu vậy, các quốc gia sẽ khó mà can thiệp – đổi mới công nghệ sẽ là kết quả của chính lợi ích và động lực của các nhà khoa học.

Nhưng suy nghĩ đó đã thay đổi với sự xuất hiện của lý thuyết tăng trưởng nội sinh (endogenous growth theory), một lý thuyết nhằm giải thích các tác lực nào thúc đẩy đổi mới. Lý thuyết này bao gồm các công trình của Paul Romer, người đạt giải Nobel [Kinh tế] năm 2018, cũng như hai người đạt giải năm nay là Aghion và Howitt.

Ba tác giả này ủng hộ các lý thuyết cho rằng tiến bộ công nghệ về bản chất bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp cố gắng tạo ra sản phẩm mới (Romer) hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm hiện có (Aghion và Howitt). Để các doanh nghiệp nỗ lực tạo ra bước đột phá mới, họ cần có những khuyến khích phù hợp.

Sự phá hủy mang tính sáng tạo (creative destruction)

Trong khi Romer công nhận tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ (intellectual property) nhằm tưởng thưởng cho các doanh nghiệp về mặt tài chính khi tạo ra các sản phẩm mới, thì khuôn khổ của Aghion và Howitt lại nêu bật tầm quan trọng của thứ được gọi là “sự phá hủy mang tính sáng tạo” (creative destruction).

Ở đây sự đổi mới là kết quả của cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang nỗ lực tạo ra những sản phẩm chất lượng tốt nhất để đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng. Trong khuôn khổ của họ, một đổi mới mới ra đời đồng nghĩa với việc thay thế một đổi mới đang tồn tại.

Trong mô hình cơ bản của họ, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là rất quan trọng để tưởng thưởng cho các doanh nghiệp vì [dám] đổi mới. Tuy nhiên, đổi mới không đến từ những doanh nghiệp dẫn đầu mà đến từ những doanh nghiệp mới gia nhập ngành. Các doanh nghiệp hiện hữu không có động lực đổi mới tương tự [như các doanh nghiệp mới gia nhập ngành] vì điều đó sẽ không cải thiện vị thế của họ trong ngành. Do đó, việc bảo hộ quá mức sẽ tạo ra rào cản gia nhập và có thể làm chậm tăng trưởng.

Nhưng điều ít được khai thác trong các công trình của họ là ý tưởng rằng mỗi đổi mới đều tạo ra người thắng (người tiêu dùng và các doanh nghiệp đổi mới) và kẻ thua (các doanh nghiệp và người lao động gắn với công nghệ cũ, nay bị thay thế). Những căng thẳng này có thể định hình vận mệnh tăng trưởng của một quốc gia – như các nghiên cứu khác đã chỉ ra, những người sở hữu công nghệ cũ có thể tìm cách cản trở đổi mới.

Đây chính là điểm Mokyr bổ sung hoàn hảo cho các công trình này bằng cách cung cấp bối cảnh lịch sử. Tác phẩm của Mokyr tập trung vào nguồn gốc của Cách mạng Công nghiệp và lịch sử tiến bộ công nghệ từ thời cổ đại cho đến nay.

Mokyr chỉ ra rằng mặc dù các khám phá khoa học là phông nền cho sự tiến bộ công nghệ dài hạn (technology progress), nhưng một khám phá khoa học [riêng lẻ] không đảm bảo sẽ tạo ra một bước tiến công nghệ [thực tế].

Chỉ khi thế giới hiện đại bắt đầu áp dụng tri ​​thức được các nhà khoa học khám phá vào những vấn đề giúp cải thiện cuộc sống con người, loài người mới được chứng kiến sự tăng trưởng bền vững. Trong cuốn sách The Gifts of Athena (“Quà tặng của Athena”) của mình, Mokyr lập luận rằng thời kỳ Khai sáng đã làm thay đổi động lực của các nhà khoa học.

Những người đạt giải năm 2025 là Joel Mokyr, Philippe Aghion và Peter Howitt. Ill. Niklas Elmehed © Nobel Prize Outreach

Trong các tác phẩm của Mokyr, ông cho rằng để duy trì tăng trưởng, điều quan trọng là tri​​ thức phải được lưu truyền và tích lũy. Đây chính là tinh thần đã thấm nhuần trong Cách mạng Công nghiệp và cũng chính là động lực thúc đẩy sự ra đời của tổ chức mà tôi đang làm việc – Đại học Sheffield, một tổ chức được ngành công nghiệp thép hỗ trợ tài chính vào thế kỷ 19.

Các tác phẩm sau này của Mokyr nhấn mạnh vai trò then chốt của một nền văn hóa tri thức trong việc thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao mức sống của người dân. Do đó, việc cởi mở với những ý tưởng mới trở nên vô cùng quan trọng.

Tương tự như vậy, khuôn khổ của Aghion và Howitt đã trở thành một công cụ chuẩn mực trong kinh tế học. Nó đã được sử dụng để khám phá nhiều câu hỏi quan trọng về phúc lợi của con người: mối quan hệ giữa cạnh tranh và đổi mới, thất nghiệp và tăng trưởng, tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập, và toàn cầu hóa, cùng nhiều chủ đề khác.

Các phân tích dựa trên khuôn khổ của họ vẫn đang tác động lên cuộc sống của chúng ta ngày nay. Chúng hiện diện trong các cuộc tranh luận chính sách xoay quanh dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạođổi mới xanh. Đồng thời, phân tích của Mokyr về cách tích lũy tri​​ thức đặt ra một câu hỏi trọng tâm về việc các quốc gia có thể làm gì để khuyến khích hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và cải thiện cuộc sống của người dân.

Tuy nhiên giải thưởng năm nay cũng là lời cảnh báo về các hậu quả của việc phá hoại các động cơ của tăng trưởng. Khi các nhà khoa học hợp tác với các doanh nghiệp để nâng cao mức sống, đó chính là tiên dược cho tăng trưởng. Làm suy yếu khoa học, toàn cầu hóa và cạnh tranh có lẽ không phải là công thức đúng đắn.

Antonio Navas

Tác giả

Antonio Navas

Giảng viên cấp cao về Kinh tế học, Đại học Sheffield

Tuyên bố công khai

Antonio Navas không làm việc, tư vấn, sở hữu cổ phần hay nhận tài trợ từ bất kỳ công ty hoặc tổ chức nào có thể hưởng lợi từ bài báo này và không có bất kỳ mối liên kết có liên quan nào ngoài giới học thuật của mình.

Đối tác

Đại học SheffieldĐại học Sheffield cung cấp tài trợ với tư cách là đối tác sáng lập của The Conversation UK.

Xem tất cả các đối tác

DOI

https://doi.org/10.64628/AB.5pqqr6hph

Người dịch: Nguyễn Thị Trà Giang

Nguồn: How this year’s Nobel winners changed the thinking on economic growth, The Conversations, 14.10.2025

Print Friendly and PDF