31.12.19

Chúc mừng năm mới 2020

 PTKT chúc Quý bạn đọc cùng gia quyến Năm Mới Mạnh Khỏe và Mọi Điều Như Ý !

Print Friendly and PDF

Nhà thống kê của thế kỉ XIX đã dự báo hoàn toàn sai lầm cho năm 2020


NHÀ THỐNG KÊ CỦA THẾ KỈ XIX ĐÃ DỰ BÁO HOÀN TOÀN SAI LẦM CHO NĂM 2020

Walter Willcox, nhà thống kê lớn vào đầu những năm 1900, đã tiên đoán là Pháp sẽ xuất khẩu trẻ em sang Hoa Kì, do bên kia Thái Bình Dương không còn sinh con.
Những tiên đoán cho năm 2020 của Walter Willcox đăng trên báo Excelsor hoàn toàn sai.
KHÁC THƯỜNG. – Các tính toán không đúng, Walter à. Khi năm 2019 đang kết thúc và năm 2020 đang giang tay đón chúng ta, HuffPost ngụp lặn trong kho lưu trữ của Thư viện quốc gia Pháp để tìm hiểu thế kỉ trước tưởng tượng năm 2020 như thế nào.
Tự hỏi tương lai sẽ như thế nào trong vài thập niên hay vài thế kỉ sắp tới sẽ như thế nào không phải là một điều hiếm có. Có người tiến hành những nghiên cứu để tiên đoán tương lai. Đôi lúc họ không mấy thành công. Đó là trường hợp của nhà thống kê Mĩ Walter Francis Willcox, bằng những tính toán của mình, đã thử hình dung dân số Mĩ vào thế kỉ XXI. Và điều tối thiểu ta có thể nói là chắc chắn ông đã phạm sai sót đâu đó.
Nhiều tờ báo ở Pháp từ năm 1911 đến năm 1933, có nhiều bài viết đề cập đến những nghiên cứu của nhà toán học này. Chẳng hạn, ngày 11 tháng giêng năm 1911, báo Excelsior đưa một tin ngắn thông tin là đến năm 2020 “nước Mĩ sẽ không còn trẻ con dưới 5 tuổi”.
Print Friendly and PDF

30.12.19

Robinson, Maupertuis và kinh tế học vĩ mô mới

ROBINSON, MAUPERTUIS VÀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ MỚI

Bernard Guerrien
Bernard Guerrien (1943-)
Tóm tắt: Kinh tế học vĩ mô “mới” với tác nhân tiêu biểu nằm ở cội nguồn của vô số mô hình, các mô hình này có những kết luận khác nhau và không phải lúc nào cũng tương thích với nhau. Tuy nhiên, các mô hình này có một điểm chung: “lời giải” của chúng là kết quả của việc tối đa hoá một hàm mục tiêu. Điều này khiến ta liên tưởng đến nguyên lí Maupertuis trong vật lí học, ở đây vai trò của “Đấng tối cao” mà Maupertuis gán cho việc tối đa hoá do “tác nhân tiêu biểu” bí mật đảm nhận.
Hiện nay có một cuộc tranh luận rất gay gắt giữa các nhà kinh tế thuộc trào lưu thống trị về hướng mà kinh tế học vĩ mô phải đi, tiếp sau thất bại hiển nhiên của các mô hình của nó khi đã hoàn toàn không thấy trước cuộc khủng hoảng khởi động năm 2008. Những người bảo vệ tự do kinh doanh được giải phóng khỏi mọi ràng buộc – mà nổi tiếng nhất là các “giải Nobel” Robert Lucas, Edward Prescott và Eugene Fama – từng thành công khi chiếm được một vị trí hàn lâm hàng đầu đã buộc phải vội vã thoái lui. Không còn có thể bảo vệ những mô hình đặt cơ sở trên ý cho rằng các thị trường phân bổ nguồn lực mọi lúc và trong mọi tình huống một cách hiệu quả, các tác nhân dự báo đúng đắn (“một cách duy lí”) các diễn tiến trong tương lai. Quả thật là các đối thủ của họ, có tư tưởng “can thiệp” hơn – mà Paul Krugman, một “giải Nobel” khác, là một nhân vật nổi bật – có một cách nhìn đối lập, ít mộng tưởng hơn về thực tế. Họ đưa ra luận điểm gọi là “keynesian” nhằm lôi kéo sự chú ý đến những điều “không hoàn hảo” và “ma sát” giải thích một số rối loạn trong hoạt động của các thị trường. Tuy nhiên họ không đoạn tuyệt với điều thiết yếu: diễn tiến của các nền kinh tế, như được quan sát, có thể được kiến giải là kết quả của lựa chọn (tối ưu) của một “tác nhân tiêu biểu” bị những ràng buộc có tính kĩ thuật và thể chế cũng như những cú “sốc” bên ngoài ít nhiều đều đặn chi phối.
Print Friendly and PDF

27.12.19

Sự đa dạng sinh học là bảo hiểm nhân thọ của chúng ta + Để bảo tồn sự đa dạng sinh học, liệu có nên cứu sống tất cả các loài có nguy cơ tuyệt chủng hay không?


“SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC LÀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ CỦA CHÚNG TA”
Gilles Kleitz
Giám đốc Cục quản lý sự chuyển tiếp sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tại Cơ quan Phát triển Pháp (AFD)
BÀI PHỎNG VẤN
Tình trạng xuống cấp của đa dạng sinh học vẫn tiếp tục và các nỗ lực để bảo tồn nó không ở tầm mức của những thách thức. Đối với Gilles Kleitz, việc đạt được tất cả các mục tiêu phát triển bền vững [ODD – Objectif de développement durable, hay SDG – Sustainable Development Goal] có tương quan với việc bảo tồn sự đa dạng sinh học.
 © naturexpose.com / Olivier Dangles & François Nowicki.
Đối với Giám đốc Cục quản lý sự chuyển tiếp sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của AFD, thì vấn đề cấp bách đối với tất cả các tác nhân về phát triển là phải hiểu được và giải thích được lý do vì sao sự đa dạng sinh học là điều kiện tồn tại của chúng ta. Sau đó chuyển sang những giải pháp đã được chứng minh là có hiệu quả.
Vì sao việc đạt được tất cả các mục tiêu phát triển bền vững, về thực chất, phụ thuộc vào việc bảo tồn sự đa dạng sinh học?
Không có một mục tiêu phát triển bền vững nào không phụ thuộc vào sự đa dạng sinh học. Các vấn đề y tế, thực phẩm, nền kinh tế, sự điều tiết của môi trường, của các đại dương... tất cả những thứ đó là sự sống. Nếu sự sống đó sụp đổ, thì mọi thứ sẽ sụp đổ. Sự đa dạng sinh học là bảo hiểm nhân thọ của chúng ta. Đó là nền tảng của sự sống và phát triển của toàn bộ nhân loại và đặc biệt là của những người nghèo nhất, sống phụ thuộc trực tiếp vào rừng, đồng cỏ, đất nông nghiệp, v.v.. Sự tồn tại của họ gắn trực tiếp với thiên nhiên.
Print Friendly and PDF

26.12.19

Nguồn gốc phép biện chứng (kỳ 3)

NGUỒN GỐC PHÉP BIỆN CHỨNG (KỲ 3)


(Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “Main Currents of Marxism” của Leszek Kolakowski, bản dịch tiếng Anh của P. S. Falla, Clarendon Press, Oxford 1978.

MỤC LỤC KỲ 1
1. Sự bất tất của hiện hữu người
2. Sự tự cứu độ của Plotinus
3. Plotinus và thuyết Plato mang màu sắc Kito giáo. Một sự truy tầm lý tính sáng tạo

MỤC LỤC KỲ 2
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
5. Eckhart và phép biện chứng của sự thánh hóa
6. Nicholas of Cusa. Những mâu thuẫn của Tồn tại Tuyệt đối



MỤC LỤC KỲ 3

7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
9. Thời Khai minh. Sự hiện thực hóa của con người trong sơ đồ của chủ nghĩa tự nhiên
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên

MỤC LỤC KỲ 4
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy
12. Fichte và sự tự chinh phục của tinh thần
13. Hegel. Tiến trình của ý thức hướng đến cái Tuyệt đối

* * *

7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại

  1. Sự mâu thuẫn, hay đúng hơn là đối kháng được quan niệm như một phạm trù bản thể học lần đầu tiên xuất hiện trong các trước tác của Bohme, giống như một đám mây nặng hơi nước, xoáy tít, song đã mở ra một chương mới trong lịch sử phép biện chứng. Bức tranh thế giới như một cảnh tượng xung đột vũ trụ giữa các lực lượng đối địch tất nhiên là một hình ảnh truyền thống, và tái xuất hiện lúc này lúc khác trong các phiên bản khác nhau của thần học Mani giáo. Nhưng việc cho toàn bộ hiện thực là một bãi chiến trường giữa các lực lượng đối lập là một chuyện, còn quy xung đột thành sự rạn nứt trong một cái Tuyệt đối duy nhất là một chuyện khác.
  2. Các tác phẩm mang tính thấu thị của Boehme là sự tiếp tục của thuyết Plato có tác động ở những nhà bất đồng phiếm thần luận của thời Cải cách tôn giáo và, giống như trong trường hợp của Franck và Weigel, nhiều ý tưởng lặp lại bằng ngôn ngữ khác được tìm thấy từ Eckhart và Thần học Đức (Theologia germanica). Bên trong trường phái này Bohme là một người phát kiến. Đi theo truyền thống của các nhà giả kim thuật, ông xem thế giới hữu hình như một tập hợp các kí hiệu khả giác và khả đọc tiết lộ những hiện thực vô hình, nhưng từ quan điểm của ông, sự tiết lộ này là một phương tiện tất yếu nhờ đó Thượng Đế ngoại hiện hóa và tỏ lộ chính mình. “Bậc hành giả bất diệt kiếm tìm bản ngã và phát hiện ra chính mình” nhân đôi chính mình, có thể nói, và hiện lên từ một trạng thái bất động bất phân biệt để trở thành Thiên Chúa đích thực. Vì thế ta thấy trong ý niệm về thần tính của Boehme cũng một sự hàm hồ như trong các trước tác của Eckhart, và vọng âm hai hiện thể đầu tiên của Plotinus. Thiên Chúa khai mở là Thiên Chúa đã tự chuyển hóa trong sự sáng tạo, nhưng ngài chỉ có thể làm như vậy theo cách là cái thống nhất thực sự trong ngài xuất hiện dưới lớp vỏ của các lực đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. “Trong ánh sáng, lực này là ngọn lửa của tình yêu thần linh; trong bóng tối nó là ngọn lửa của cơn thịnh nộ của Thượng Đế, nhưng chỉ có một ngọn lửa. Nó tự chia tách mình thành hai nguyên lý, để một cái đi đến biểu lộ ra trong cái kia. Vì ngọn lửa thịnh nộ là biểu hiện của tình yêu lớn lao: ta nhận ra ánh sáng trong bóng tối, nếu không thì ánh sáng không thể được nhận ra” (Mysterium magnum, viii. 27). Bằng cách hiện lên từ trong đơn độc và vượt quá những ranh giới của mình trong quá trình tìm kiếm chính mình, Thượng Đế tất yếu sáng tạo ra một thế giới chia biệt trong đó các phẩm tính chỉ có thể được hiện thực hóa nhờ những cái đối lập của nó. Bohme chủ yếu suy nghĩ về sự đối kháng nội tại nảy sinh trong linh hồn con người bởi những ham muốn trái ngược. Màn kịch thiết yếu của sáng tạo diễn ra trong cá nhân bị giằng xé bởi các lực đối lập nhau. Ngôi nhà đích thực của linh hồn là ở trong Thượng Đế, người đã gieo vào linh hồn mầm mống của ân sủng, nhưng đồng thời linh hồn đó cũng tha thiết theo đúng ý chí của riêng mình. Vì thế không có sự trở về với Thiên Chúa mà không có xung đột nội tại, bằng con đường tự phủ nhận, cuối cùng khao khát hòa hợp chế ngự được thôi thúc hướng về tự khẳng định.
  3. Thuyết thần trí của Boehme, có thể nói, là một sự tự thức nhận bí hiểm về nghịch lý trung tâm cố hữu trong ý tưởng về một Hữu thể tuyệt đối sáng tạo nên một thế giới hữu hạn: thế giới hữu hạn vừa là sự thể hiện ra vừa là sự phủ nhận đấng sáng tạo của nó, và nó không thể là cái này mà không có cái kia. Trong chừng mực linh hồn tuyệt đối lựa chọn trở nên hiển hiện, nó chắc chắn mâu thuẫn với chính mình. Thế giới của những tồn tại hữu hạn, được tạo ra bởi sự nhất thể của nguồn cội của nó, không thể hoàn toàn chống lại lực thúc đẩy nó quay trở lại với nguồn gốc; song, khi nó đã hiện hữu, nó cũng không thể nào trốn thoát khỏi sự thôi thúc khẳng định chính mình trong tính hữu hạn của mình. Trong thuyết thần trí của Bohme, xung đột này lần đầu tiên hiện ra một cách rõ ràng như là sự đối kháng của hai năng lượng vũ trụ xuất hiện từ sự chia rẽ trong động lực ban sơ của sáng tạo.
  Print Friendly and PDF

23.12.19

Các rủi ro của tình trạng khí hậu nóng lên khi cả thế giới đều chuyển sang sử dụng điều hòa


CÁC RỦI RO CỦA TÌNH TRẠNG KHÍ HẬU NÓNG LÊN KHI CẢ THẾ GIỚI ĐỀU CHUYỂN SANG SỬ DỤNG ĐIỀU HÒA


Nước Mỹ từ lâu đã tiêu tốn quá nhiều năng lượng để sử dụng điều hòa hơn tất cả các quốc gia khác cộng lại nhưng chuyện này sắp thay đổi.
Các thiết bị điều hòa trong một chung cư ở Bắc Kinh. Trung Quốc được dự báo là sẽ vượt Mỹ để trở thành quốc gia tiêu thụ điện năng lớn nhất cho nhu cầu sử dụng điều hòa vào năm 2020. Ảnh: Jeff Hutchens / Getty Images
Thế giới đang ấm dần lên, thu nhập đang tăng lên, và các gia đình có quy mô nhỏ hơn đang sống trong những ngôi nhà lớn hơn ở những khu vực nóng hơn. Kết quả là có sự bùng nổ trong thị trường điều hòa không khí doanh số thế giới vào năm 2011 đã tăng 13% so với năm 2010, và đà tăng này được dự báo là ​​sẽ tăng tốc trong những thập kỷ tới.
Theo ước tính sơ bộ của tôi, các loại điều hòa dân dụng, thương mại và công nghiệp trên toàn thế giới sẽ tiêu thụ ít nhất 1.000 tỷ kW/h mỗi năm. Chỉ riêng các máy điều hòa ở Mỹ đã tiêu thụ từ 7 đến 10 tỷ gallon dầu xăng mỗi năm. Và khi nhu cầu sử dụng điện ở các khu vực ấm hơn ngày một tăng, tình hình tiêu thụ năng lượng cho việc làm mát trên thế giới có thể bùng nổ gấp 10 lần vào năm 2050, việc này vô hình trung tạo ra một lực đẩy vô cùng lớn nhưng đáng ngại cho tình trạng biến đổi khí hậu.
Print Friendly and PDF

22.12.19

Nguồn gốc phép biện chứng (kỳ 2)

NGUỒN GỐC PHÉP BIỆN CHỨNG (KỲ 2)

(Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “Main Currents of Marxism” của Leszek Kolakowski, bản dịch tiếng Anh của P. S. Falla, Clarendon Press, Oxford 1978.

MỤC LỤC KỲ 1
1. Sự bất tất của hiện hữu người
2. Sự tự cứu độ của Plotinus
3. Plotinus và thuyết Plato mang màu sắc Kito giáo. Một sự truy tầm lý tính sáng tạo

Leszek Kolakowski (1927-2009)

MỤC LỤC KỲ 2
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
5. Eckhart và phép biện chứng của sự thánh hóa
6. Nicholas of Cusa. Những mâu thuẫn của Tồn tại Tuyệt đối

MỤC LỤC CÁC KỲ SAU
7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
9. Thời Khai minh. Sự hiện thực hóa của con người trong sơ đồ của chủ nghĩa tự nhiên
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy
12. Fichte và sự tự chinh phục của tinh thần
13. Hegel. Tiến trình của ý thức hướng đến cái Tuyệt đối

* * *

J. S. Eriugena (815-877)
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
  1. Ý tưởng này chắc hẳn được thể hiện lần đầu tiên, dù không đầy đủ, trong trước tác của Eriugena. Từ đó nó đã trở nên thiết yếu với mọi thuyết thần bí thuộc loại phiếm thần ở phía Bắc, và ta có thể tìm thấy nguồn gốc của nó hầu hết từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thời Phục Hưng của đế chế Carolingian đến Hegel. Nói một cách phổ quát nhất, nó là ý niệm về cái Tuyệt Đối tiềm năng (một cái nửa – Tuyệt đối, nếu có thể cho phép nói như thế), cái Tuyệt Đối tiềm năng này đạt được tính hiện thực toàn vẹn bằng cách tiến hóa từ chính nó một hiện thực không tuyệt đối được đặc trưng bởi sự vô thường, bất tất và cái ác; những hiện thực không tuyệt đối này là một giai đoạn tất yếu trong sự trưởng thành của cái Tuyệt Đối hướng đến tự hiện thực hóa mình, và chức năng của giai đoạn này biện minh cho tiến trình lịch sử thế giới. Trong và thông qua chúng, đồng thời trên hết trong và thông qua con người, Thượng Đế đạt tới chính bản thân Ngài: sáng tạo ra một linh hồn hữu hạn, giải phóng linh hồn đó khỏi tính hữu hạn của mình và nhận lại nó vào trong bản thân mình, và bằng cách làm như vậy ngài làm giàu cho Tồn tại của chính mình. Linh hồn con người là công cụ nơi mà Thượng Đế đạt được sự trưởng thành và từ đó đạt tới vô hạn; đồng thời bằng quá trình này linh hồn trở nên vô hạn, không còn xa lạ với thế giới, và giải phóng chính mình khỏi tính bất tất, khỏi sự đối lập giữa chủ thể và đối tượng. Thượng Đế và nhân loại vì thế giống nhau ở chỗ đều được hoàn tất trong màn kịch vũ trụ; vấn đề của cái Tuyệt Đối và vấn đề của sự sáng tạo được giải quyết cùng một lúc. Triển vọng về tính hoàn tất cuối cùng của sự thống nhất của Tồn tại trao ý nghĩa cho sự hiện hữu của con người từ điểm nhìn về sự tiến hóa của Thượng Đế, đồng thời từ điểm nhìn về chính bản thân con người khi anh ta đạt đến sự hiện thực hóa nhân tính hoặc thần tính của mình.
Print Friendly and PDF

19.12.19

Sức ỳ của ý thức khoa học Việt Nam

SỨC Ỳ CỦA Ý THỨC KHOA HỌC VIỆT NAM

Nguyễn Lê Tiến & Nguyễn Xuân Xanh

Nguyễn Xuân Xanh
Bài dưới đây được trích từ một cuộc đối thoại tự phát (sau đó được các tác giả biên tập lại và bổ sung) trên mạng Tủ sách Nhất nghệ tinh ngày 2 tháng 7 năm 2019 và những ngày sau đó. Đề tài: Tại sao Việt Nam không có ý thức khoa học mạnh mẽ? Tại sao các bậc đàn anh uyên thâm như Phạm Quỳnh hay ngay cả Hoàng Xuân Hãn có đủ điều kiện hiểu biết Đông Tây mà lại không xem khoa học đáng quan tâm mấy trong sự học quốc gia so với các ngành nhân văn khác? Đa số giới tinh hoa như thế chứ không riêng hai ông. Trong khi đó ở Nhật Bản và tiếp đến là Trung Quốc, ý thức về sự đổi đời quốc gia bằng khoa học, công nghệ chiếm vị trí hàng đầu trong nhận thức của giới tinh hoa trên đường xây dựng quốc gia mới, để cứu đất nước khỏi sự lạc hậu nghìn năm, và bắt kịp văn minh phương Tây. Nhật Bản và lần lượt các quốc gia xung quanh đã thay đổi hẳn lịch sử của họ. Vì sao tại Việt Nam, ý thức khoa học hôm nay trong toàn xã hội vẫn là “ngọn đèn trước gió”, trong khi vận mệnh đất nước lại đang gắn chặt với nó? C.P. Snow nói về khoảng cách giữa hai nền văn minh ở xã hội Anh: văn minh khoa học và văn minh văn học. Nhưng ở VN chúng ta hầu như chưa có nền văn minh thứ nhất phát triển. Chúng tôi muốn tìm hiểu tại sao có sự hụt hẫng đó. Tìm nguyên do của sự lạc hậu dai dẳng là một việc khó, nhưng không thể không làm. Vì nó như lưỡi gươm damocles treo lơ lửng trên đầu và đe dọa sự tồn vong của chúng ta.
Print Friendly and PDF

17.12.19

COP25: Những thách thức mang tính rất chính trị


COP25: NHỮNG THÁCH THỨC MANG TÍNH RẤT CHÍNH TRỊ

Hội nghị lần thứ 25 các quốc gia thành viên Công ước về biến đổi khí hậu lần thứ 25 sẽ được tổ chức tại Madrid từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 12. Đằng sau tính chất kỹ thuật của các cuộc thảo luận được công bố, tiềm ẩn những thách thức mang tính rất chính trị.
Hội nghị thường niên lần thứ 25 các quốc gia thành viên Công ước về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (COP25) đã khai mạc vào hôm thứ Hai này tại Madrid, sẽ diễn ra trong hai tuần đàm phán. Hội nghị được dự kiến tổ chức trong năm nay tại châu Mỹ Latinh, tuy nhiên, nước chủ nhà, Chile, đã từ chối tổ chức vào giờ chót. Đối mặt với sự giận dữ của các cuộc biểu tình đường phố và sự tranh cãi xã hội, chính quyền ở Santiago, vào ngày 30 tháng 10, đã từ chối tổ chức cuộc họp này, tạo ra một sự hỗn loạn về mặt hậu cần cho Ban Thư ký Liên hợp quốc, cho gần hai trăm phái đoàn chính thức và hàng ngàn người tham dự thuộc các tổ chức xã hội dân sự.
Một cú đánh đặc biệt nặng nề đối với tất cả những đại diện các nước phía Nam, những nước phải vật lộn để tìm nguồn tài chính cho việc di chuyển các phái đoàn của mình. Tây Ban Nha đã đề xuất tổ chức hội nghị COP25 lần này, dưới sự chủ tọa của Chile, ở Madrid và đã thành công một cách khéo léo trong việc tổ chức, trong vòng chưa đầy bốn tuần, những gì thông thường phải mất gần một năm để chuẩn bị. Và như vậy đã tránh được việc hội nghị lần này bị tổ chức trễ hạn, trong bối cảnh mà chương trình nghị sự của cuộc đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu đã đặc biệt dày đặc.
Print Friendly and PDF

16.12.19

Nguồn gốc phép biện chứng (Kỳ 1)

NGUỒN GỐC PHÉP BIỆN CHỨNG (KỲ 1)

(Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “Main Currents of Marxism” của Leszek Kolakowski, bản dịch tiếng Anh của P. S. Falla, Clarendon Press, Oxford 1978.

MỤC LỤC KỲ 1
1. Sự bất tất của hiện hữu người
2. Sự tự cứu độ của Plotinus
3. Plotinus và thuyết Plato mang màu sắc Kito giáo. Một sự truy tầm lý tính sáng tạo


Leszek Kolakowski (1927-2009)
MỤC LỤC CÁC KỲ SAU
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
5. Eckhart và phép biện chứng của sự thánh hóa
6. Nicholas of Cusa. Những mâu thuẫn của Tồn tại Tuyệt đối
7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
9. Thời Khai minh. Sự hiện thực hóa của con người trong sơ đồ của chủ nghĩa tự nhiên
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy
12. Fichte và sự tự chinh phục của tinh thần
13. Hegel. Tiến trình của ý thức hướng đến cái Tuyệt đối

* * *

1. Sự bất tất của hiện hữu người

Nếu khát vọng của triết học đã và sẽ là lĩnh hội bằng trí tuệ tính toàn thể của Tồn tại thì động lực đầu tiên của nó đến từ nhận thức về sự bất toàn của con người. Nhận thức này cùng với giải pháp khắc phục sự bất toàn của con người bằng cách thấu hiểu Tính toàn thể chính là những di sản mà triết học thừa hưởng từ thần thoại.
Print Friendly and PDF

13.12.19

Tình trạng ô nhiễm và công nghệ số: bước đầu nhận thức


TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM VÀ CÔNG NGHỆ SỐ: BƯỚC ĐẦU NHẬN THỨC
Hai bản báo cáo, từ Green IT và Arcep, đều chỉ ra tình trạng ô nhiễm theo cấp số nhân của công nghệ số.
Các số liệu và báo cáo tích tụ [ngày càng nhiều] và biên bản ghi nhận đều dứt khoát: công nghệ số gây ra tình trạng ô nhiễm. Tình trạng phát thải khí nhà kính, cạn kiệt một số tài nguyên thiên nhiên... việc phát triển các công nghệ mới, nhìn bề ngoài có vẻ phi vật chất, nhưng lại có một tác động hiển nhiên đến môi trường.
Công ty Green IT [Điện toán xanh], trong một báo cáo được công bố vào ngày 22 tháng 10, đã tường thuật chi tiết dấu ấn của thế giới công nghệ số lên môi trường: Nếu công nghệ số là một quốc gia, thì nó sẽ có khoảng từ hai đến ba lần dấu ấn của nước Pháp.” Dấu hiệu của bước đầu nhận thức, khi cơ quan giám sát ngành [bưu chính chính viễn thông] của Pháp, Arcep (Cơ quan điều tiết viễn thông điện tử và bưu chính), cũng nắm lấy chủ đề này và đã công bố một bản phân tích vào ngày 23 tháng 10.
Print Friendly and PDF

11.12.19

Làm thế nào để trở thành triết gia? Nghệ thuật phỏng định hợp lý (1942)


LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH TRIẾT GIA? NGHỆ THUẬT PHỎNG ĐỊNH HỢP LÝ (1942)
Tác giả: Bertrand Russell*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa
Bertrand Russell (1872-1970)

Trong thời gian sống và dạy học, diễn thuyết tại Hoa Kỳ (1938-1944), Bertrand Russell đã cho xuất bản, năm 1942, ba tiểu luận trong tủ sách “Làm Thế Nào Để…” (“How To Series”) của nhà xuất bản Haldeman-Julius, với tựa đề là: How to Become a Philosopher (số 7), How to Become a Logician (số 8), và How to Become a Mathematician (số 9). Cả ba về sau được tái bản chung trong một quyển sách mỏng, dưới  tựa đề là The Art of Philosophizing, với ba chương lần lượt mang các tên mới The Art of Rational Conjecture, The Art of Drawing Inferences, The Art of Reckoning.
Khi chọn dịch quyển sách mỏng này sang tiếng Việt, chúng tôi cũng đồng thời quyết định giữ lại cả hai tựa, cũ và mới, cho cùng cả ba chương sách. Vì vậy, bài dịch đưa lên TLGD hôm nay, như một lời mời đọc, sẽ là: Làm Thế Nào Để Trở thành Triết Gia? Nghệ Thuật Phỏng Định Hợp Lý.
Mặt khác, để bản dịch dễ đọc hơn, chúng tôi cũng đã thêm vào đây nhiều tiểu tựa và chú thích không có trong nguyên bản. Một số chú thích có thể được tìm lại sau này, dưới dạng được triển khai thêm, ở các phụ lục liên quan trong phần Phụ Lục.
Print Friendly and PDF

9.12.19

Khi đã bỏ túi giải Nobel, những người được giải thưởng nên cảnh giác với “căn bệnh Nobel”

KHI ĐÃ BỎ TÚI GIẢI NOBEL, NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC GIẢI THƯỞNG NÊN CẢNH GIÁC VỚI “CĂN BỆNH NOBEL”
Ngay cả một số nhà nghiên cứu lớn đôi khi cũng nói điều quá đáng.
AFP
Sau khi nhận giải, những người được giải thưởng nên cảnh giác với “căn bệnh Nobel”.
KHOA HỌC – Đây là ngày trọng đại đối với một số ít các nhà khoa học được lựa chọn cẩn thận. Chủ nhật này, ngày 10 tháng 12, những người được giải thưởng năm 2017 sẽ nhận Giải Nobel. Giải thưởng nổi tiếng, một dạng Chén Thánh tuyệt đối trong hầu hết các ngành khoa học, thường biến một nhà nghiên cứu vô danh thành người nổi tiếng chỉ bằng một cái búng tay. Cùng với tất cả những bất cập kèm theo. Điều đáng chú ý là [người được giải] bị đánh thức vào nửa đêm để nhận thông báo, rồi phải trả lời câu hỏi của cánh các nhà báo.
Nhưng cũng có một vấn đề ít được biết đến, nhưng vẫn ảnh hưởng đến nhiều người được giải thưởng. Thi thoảng, chúng ta gọi đó là “căn bệnh Nobel”, đặc biệt bởi những người theo chủ nghĩa hoài nghi khoa học, những người đặt nghi vấn về tất cả những khẳng định nào không được xác thực bởi các thực tế.
Ví dụ, từ điển hoài nghi định nghĩa “căn bệnh Nobel”: “nỗi đau buồn của một số người được giải Nobel, một đau buồn dẫn họ đến việc chấp nhận những ý tưởng khoa học kỳ lạ hoặc sai trái, thường xảy ra rất lâu sau này trong cuộc sống của họ”.
Print Friendly and PDF