30.6.21

Euro 2020 - giải đấu bóng đá quy tụ các tay chơi lớn đến từ Trung Quốc và Hoa Kỳ

 

EURO 2020 - GIẢI ĐẤU BÓNG ĐÁ QUY TỤ CÁC TAY CHƠI LỚN ĐẾN TỪ TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ

Simon Chadwick, Paul Widdop

(Nguồn Simon Lehmann / Alamy Stock Photo)

Với việc giải bóng đá Euro 2020 đang diễn ra sau một năm đại dịch bị trì hoãn, người hâm mộ bóng đá sẽ hy vọng vào màn trình diễn tuyệt vời của những cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu. Một số người trong chúng ta sẽ xem giải đấu diễn ra trên TV hãng Hisense của chúng tôi, và nhiều người sẽ chọn đặt một vài đồ uống giải khát giữa hai hiệp, có thể thông qua dịch vụ giao hàng Just Eat, nhiều khả năng được gửi bằng chiếc điện thoại di động Vivo.

Say sưa với những lon bia Heineken, khi các bàn thắng được ghi, những người ủng hộ sẽ tải các clip ăn mừng lên TikTok. Và sau trận chung kết, còn cách nào tốt hơn để nạp nhiều năng lượng hơn là đặt một kỳ nghỉ trên trang Booking.com, có lẽ là bay trên chiếc máy bay của hãng Qatar Airways.

Trong khi người hâm mộ dán mắt vào nỗ lực của các cầu thủ trị giá hàng tỷ bảng trên sân cỏ, một trận đấu kiếm tiền lớn khác sẽ diễn ra. Euro là một trong những sự kiện thể thao lớn nhất thế giới và là nơi dành cho các nhà tài trợ và đối tác của các công ty (chỉ một vài trong số họ được đề cập ở trên).

Đổi lại việc được phơi bày trước con mắt của thế giới, các nhà tài trợ Euro trả một khoản tiền khổng lồ. Rất khó để nói về việc này, vì các khoản phí là dữ liệu nhạy cảm về mặt thương mại. Song trong một trường hợp - đó là Alipay (một phần của đế chế Alibaba) - người ta tin rằng công ty Trung Quốc đã trả 176 triệu bảng cho một hợp đồng 8 năm.

Print Friendly and PDF

29.6.21

Chính sách tiêm chủng có “hiệu quả” không?

CHÍNH SÁCH TIÊM CHỦNG CÓ “HIỆU QUẢ” KHÔNG?

Emmanuel Didier[1]

Được công ty McKinsey tư vấn, chính phủ (Pháp - ND) quan niệm chính sách tiêm chủng như là một loạt các mục tiêu được định lượng dựa trên các phương pháp vay mượn từ ngành quản lý. Nhưng một khi thước đo trở thành mục tiêu, nó không còn là thước đo tốt nữa - và gây ra những tác động xấu, chẳng hạn như sự thao túng mơ hồ các con số và cuộc chạy đua giành kết quả. May mắn thay, phương pháp benchmark được triển khai cho vắc xin khác với các quy trình truyền thống ở chỗ cơ quan đánh giá không được xác định rõ ràng, và vẫn để mở, chúng ta đừng quá bi quan, khả năng cho một đánh giá dân chủ.

==============================================

Emmanuel Didier (1970-)

Vắc xin có phải là cánh cửa để thoát khỏi cơn khủng hoảng không? Chính phủ dường như tin chắc vào điều này, khi được ủng hộ bởi hội đồng khoa học vốn, trong khuyến cáo ​​mới nhất, mô tả chiến dịch tiêm chủng là “một hy vọng lớn để hạn chế tác động hoặc thậm chí giải quyết phần lớn đại dịch Covid-19”. Do đó, một cuộc “chạy đua với thời gian” diễn ra giữa một mặt là việc tiêm phòng cho người dân và mặt khác là sự thâm nhập của vi rút vào dân chúng, đặc biệt là của biến thể được gọi là “biến thể Anh”.

Vấn đề mà chính phủ gặp phải trước tiên là sự phản đối thụ động của những người “chống vắc xin.” Vào cuối năm 2020, một phần ba người Pháp không tin rằng vắc xin sẽ an toàn, khiến Pháp trở thành nhà vô địch thế giới của những người còn dè dặt về việc tiêm chủng. Mặt khác, chính phủ gần đây đã phải đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng về sự cung ứng và hậu cần làm cho cuộc đua bị chậm lại.

Print Friendly and PDF

27.6.21

Giới khoa học báo động nhưng giới chính trị không làm gì cả... Có thật đơn giản vậy không?

GIỚI KHOA HỌC BÁO ĐỘNG NHƯNG GIỚI CHÍNH TRỊ KHÔNG LÀM GÌ CẢ… CÓ THẬT ĐƠN GIẢN VẬY KHÔNG?

Tác giả: Sélim Louafi[*]

Tháng mười năm 2015, chủ tịch của GIEC, Hoesung Lee (người đầu tiên bên trái) gặp gỡ tổng thống François Hollande tại điện Élysée. ERIC FEFERBERG/POOL/AFP

Với đại dịch Covid-19, nghiên cứu khoa học đã được đẩy lên mặt tiền của quang cảnh truyền thông. Tuy nhiên động tác này không mới; nó đi theo con đường đã được mở ra từ bốn mươi năm nay, đặc biệt là đối với những thách thức về môi trường.

Dù đó là những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu hay đa dạng sinh học – được đặc trưng bởi những mức độ rất cao về sự phức tạp và những điều không chắc chắn về mặt khoa học và bởi những bất đồng sâu sắc về các giá trị và lợi ích giữa các tác nhân -, khoa học vẫn được yêu cầu rất mạnh để giúp xác định các vấn đề, xây dựng các giải pháp hay đánh giá các chính sách đang được thực hiện.

Tầm vóc chính trị của nghiên cứu

Không có tuần nào mà không có một nghiên cứu mới nhắc nhở chúng ta về sự nghiêm trọng của các thách thức về môi trường. Song song đó, lại xác nhận một thực tế thường quá rõ ràng khi cần chuyển những báo cáo đầy lo lắng này thành những hành động chính trị mạnh mẽ: không có gì xảy ra cả!

Giới chính trị thường bị trách cứ, còn bản thân giới khoa học thì như thế nào? Và phải chăng vấn đề không hành động cũng xuất phát từ khoa học và từ khó khăn của nó khi phải suy nghĩ một cách thích hợp về các chiều kích chính trị của các đối tượng và các cách thực hành việc tạo ra tri thức?

Ở đây chúng ta trở lại với một vài ý tưởng rập khuôn vốn tồn tại bền bỉ và đã ngăn cản không cho thấy những mối quan hệ thường phức tạp giữa khoa học và chính trị.

Print Friendly and PDF

26.6.21

A. Einstein: Tấm gương lớn của Tư duy độc lập

 

ALBERT EINSTEIN

TẤM GƯƠNG LỚN CỦA TƯ DUY ĐỘC LẬP

Nguyễn Xuân Xanh 


,,

Mục đích (của giáo dục) phải là đào tạo những cá nhân biết tự hành động và tư duy độc lập, nhưng lại nhìn thấy nhiệm vụ cao cả nhất của cuộc đời trong sự phục vụ cộng đồng.

Albert Einstein

Sức mạnh lớn nhất của Einstein với tư cách nhà khoa học là tính không chạy theo lề thói. Ông từ chối chấp nhận quyền uy và quy ước. Điều đó đúng không những trong khoa học của ông. Nó cũng còn hiển nhiên trong cách nhìn chính trị và trong đời sống cá nhân của ông.

Walter Isaacson

Lời nói đầu

1) Giữa không khí học tập sôi động ngày càng gia tăng, mỗi người cố gắng vươn lên học hỏi nhiều hơn, tốt hơn, “tham vọng” hơn, có tính “ganh đua” hơn, thì có một tiếng nói khác thầm lặng và bình dị hơn: Albert Einstein. Quan niệm giáo dục của ông “hiền hòa”, khiêm tốn, tự nhiên hơn, nhưng không thiếu sự sâu sắc và tính chất bền vững. Ông học để hiểu, và hiểu biết là niềm vui, cũng như để có cơ hội phụng sự xã hội. Ông học vì óc tò mò nguyên sơ thánh thiện, và muốn hiểu những bí ẩn còn chứa đằng sau tấm màng tri thức của thời đại ông, ở thế giới vô cùng lớn và vô cùng nhỏ. Ông thường lặp đi lặp lại, ông không thông minh, mà chỉ tò mò, và kiên trì theo đuổi.

Dưới đây là một số nét của tư duy giáo dục Einstein. Ông cho thấy, còn có con đường, một thái độ triết lý khác để tiếp cận việc học hiệu quả, có chiều sâu, không rầm rộ, không ganh đua, không nhồi nhét, không áp lực, tự do và nhân văn hơn. Ông học mà không bị “tha hóa”, đúng hơn học để ông đích thực là ông hơn, để độc lập trong tư duy và nhận định, để mình không bị che mắt bởi những chân lý đã có sẵn, từ đó giúp ông nhìn thấy những ý tưởng hoàn toàn mới và có tính cách mạng.

Print Friendly and PDF

24.6.21

Sự phi thực dân hoá bất khả thi của ngành khoa học xã hội Pháp?

SỰ PHI THỰC DÂN HÓA BẤT KHẢ THI CỦA NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI PHÁP?

Stéphane Dufoix[*]

Hình vẽ trên tường của họa sĩ Monkey Bird, ở đầu đường vào đại học Nanterre.

Sau cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc gia của tờ Journal du dimanche vào ngày 25 tháng 10, một diễn đàn quy tụ một trăm học giả trên Le Monde đã tiến hành việc bảo vệ nhận xét của vị bộ trưởng này về “chủ nghĩa cánh tả Hồi giáo (islamo-gauchisme)” nhưng cũng về nguy cơ được các hệ tư tưởng sau thể hiện:

“các ý thức hệ duy bản địa (indigénisme), thuần chủng tộc (racialisme) “phi thực dân (décoloniale)” (được chuyển từ các đại học ở Bắc Mỹ về), “rất hiện hữu” trong các trường đại học và “nuôi dưỡng sự căm thù “Người da trắng” và nước Pháp.”

Pierre-André Taguieff (1946-)
Stéphane Dufoix (1970-)

Nó giống như một điệp khúc nhàm chán lặp đi lặp lại. Trong hai năm qua, thường là vào mùa thu, một nhóm trí thức và học giả cho xuất bản trên một nhật báo hay một tạp chí một văn bản tập thể tố giác sự chi phối mà một tổ hợp chính trị và ý thức hệ không rõ ràng (lờ mờ), tự khoác cái áo hào nhoáng của khoa học, đã có thể áp đặt, trong những năm gần đây, trên đại học và rộng hơn trên thế giới trí thức.

Vào tháng 11 năm 2018, chính “chiến lược bá chủ của nhóm này đã bị tố cáo trong tạp chí Le Point. Vào tháng 12 năm 2019, trên tạp chí L'Express lần này và theo sự xúi giục của Pierre-André Taguieff, “những kẻ rao hàng bịp bợm thời hậu thực dân” đã bị chỉ trích vì nhìn thấy chủ nghĩa thực dân ở khắp mọi nơi và vì muốn tìm kiếm “sự đáng kính về mặt học thuật” trong Đại học Pháp.

Print Friendly and PDF

22.6.21

Phỏng vấn: Tác giả của cuốn ‘Châu Á vận hành như thế nào?’

PHỎNG VẤN: TÁC GIẢ CỦA CUỐN ‘CHÂU Á VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?’

Sam Roggeveen



PHẦN 1

Tháng trước, blogger của trang Marginal Revolution, Tyler Cowen, đã mô tả tác phẩm Châu Á vận hành như thế nào? Thành công và thất bại của khu vực năng động nhất thế giới [How Asia Works: Success and Failure in the World’s Most Dynamic Region] của Joe Studwell là ‘cuốn sách kinh tế yêu thích nhất của tôi trong năm nay [2013]’. Do đó tôi quyết định tìm hiểu nguyên nhân của sự ồn ào này.

Tôi quyết định tự mình tìm hiểu sự tán thưởng này, và phải nói rằng hiếm khi những định kiến ​​kinh tế ca tôi lđược kiểm chứng kĩ lưỡng đến như vậy. Cuốn sách này thách thức rất nhiều quan niệm về thị trường tự do mà tôi đã cho là đương nhiên, và khi cuộc phỏng vấn này diễn ra, tôi sẽ cố gắng đưa ra một số trong những ý tưởng đó với Studwell. Dưới đây là câu hỏi đặt bối cảnh mở đầu của tôi và câu trả lời của Joe Studwell.

aaaa
Sam Roggeveen
Tyler Cowen (1962-)

SR: Châu Á vận hành như thế nào là một sự công kích táo bạo vào cái mà chúng ta có thể gọi là đồng thuận tân tự do về những gì khiến cho các nền kinh tế phát triển. Ông cho rằng chủ nghĩa bảo hộ và chính sách công nghiệp thực sự là những công cụ chính sách quan trọng đối với các đất nước đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, và các chính phủ châu Á đã áp dụng mô hình này với các mức độ thành công khác nhau.

Đây là một ý nghĩ gần như dị thường trong cuộc tranh luận kinh tế ở phương Tây, và tôi nghi ngờ rất nhiều độc giả của trang web này sẽ lập tức bác bỏ nó. Vậy đâu là những khía cạnh chính của sự phát triển kinh tế của châu Á mà ông sẽ đưa ra để chứng minh cho quan điểm của mình?

JS: Tôi có sự phân biệt giữa ‘kinh tế học học tập’ [economics of learning] và ‘kinh tế học năng suất’ [economics of efficiency]. Các nước nghèo thiếu năng lực công nghệ và có vốn con người chất lượng thấp. Đây là lý do tại sao họ cần tập trung nguồn vốn có thể đầu tư vào quá trình học tập và quá trình học tập như vậy đòi hỏi sự bao bọc và bảo vệ cũng như cả sự cạnh tranh.

Print Friendly and PDF

20.6.21

Marx và Lịch sử thế giới

MARX VÀ LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Bài viết nằm trong tạp chí International Review of Social History [Đánh giá quốc tế về lịch sử xã hội] • số ra Tháng 2 năm 2018

Michael R. Krätke

Đại học Lancaster

© 2018 Internationaal Instituut voor Sociale Geschiedenis

THÔNG TIN CHUNG

Marx và lịch sử thế giới

MICHAEL R. KRÄTKE

Khoa Xã hội học, Bowland North, Đại học Lancaster, Lancaster, Vương quốc Anh LA1 4YN

E-mail: m.kraetke@lancaster.ac.uk

Karl Marx (1818-1883)
Friedrich Engels (1820-1895)

TÓM TẮT: Vào năm 1881-1882, Marx đã tiến hành các nghiên cứu lịch sử mở rộng, bao gồm phần lớn của những gì mà sau đó được gọi là “lịch sử thế giới”. Bốn quyển sổ ghi chép lớn với trích đoạn từ các tác phẩm của chủ yếu hai nhà sử học hàng đầu trong thời đại của ông là Schlosser và Botta, vốn phần lớn vẫn chưa được công bố. Trong bài viết này, các nghiên cứu cuối cùng của Marx về diễn trình lịch sử thế giới được đặt trong bối cảnh: các nghiên cứu lịch sử trước đó của Marx và công trình đang thực hiện nhưng chưa hoàn tất của ông về việc phê phán kinh tế chính trị. Phạm vi và độ sâu của các ghi chép của ông thực là đáng kinh ngạc vượt xa khỏi lịch sử châu Âu và thực tế là bao hàm cả nhiều phần khác của thế giới. Việc tập trung vào các nghiên cứu này của Marx ủng hộ sự giải thích trong bài viết này: tác giả của bộ Tư bản bị thu hút bởi quá trình hình thành lâu dài của các nhà nước hiện đại cũng như hệ thống các nhà nước châu Âu, một trong những điều kiện tiên quyết quan trọng của sự phát triển chủ nghĩa tư bản hiện đại ở châu Âu.

“Toàn bộ lịch sử cần phải được nghiên cứu lại theo một cách khác!” Friedrich Engels (1890)[1]

C. G. G. Botta (1766–1837)
F. C. Schlosser (1776–1861)

Marx được xem là người (đồng) sáng lập của cái gọi là “quan niệm duy vật về lịch sử”; dù ông đã không sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Không thể phác thảo về một “lý thuyết lịch sử” như vậy, hay chính xác hơn, một lý thuyết về “quá trình lịch sử thế giới” mà không nghiên cứu chi tiết về lịch sử, mà không có một sự hiểu biết chính xác về khối lượng khổng lồ, hỗn độn của “các sự kiện”, của các tài liệu, của tất cả các loại tư liệu bị sót được tái khám phá, về các truyền thống, về lịch sử được ghi chép (và do đó từng được diễn giải). Đối với các khoa học xã hội, chủ đề nghiên cứu là toàn bộ lịch sử loài người và đi kèm với điều kiện vật chất. Do đó, mọi khoa học xã hội chính là khoa học “lịch sử và xã hội”. Trong bản thảo rời rạc của cuốn Hệ tư tưởng Đức (German Ideology), đoạn sau đây đã khẳng định ngắn gọn, có tính cương lĩnh (và không rõ ràng lắm): “Chúng ta chỉ biết có một khoa học duy nhất, đó là khoa học về lịch sử”.[2] Từ lập trường ban đầu này, không chỉ Marx mà cả Engels “đều không bao giờ rời xa […] về bản chất” khỏi điều này.[3]

Print Friendly and PDF

18.6.21

Covid-19 ở Châu Á: Tại sao đại dịch bùng phát trở lại là một cảnh báo đối với chúng ta

COVID-19 Ở CHÂU Á: TẠI SAO ĐẠI DỊCH BÙNG PHÁT TRỞ LẠI LÀ MỘT CẢNH BÁO ĐỐI VỚI CHÚNG TA

Hubert Testard

Tiêm ngừa Covid-19 với liều vắc-xin CoronaVac của phòng thí nghiệm Trung Quốc Sinovac, tại sân bay quốc tế Suvarnabhumi ở Bangkok, ngày 28 tháng 4 năm 2021. Tính đến ngày 31 tháng 5, Thái Lan đã tiêm ngừa cho 5,2% dân số họ. (Ảnh của Lillian SUWANRUMPHA/AFP) (Ảnh của LILLIAN SUWANRUMPHA/AFP qua Getty Images)

Vào năm 2020, các nước Đông Á đã chứng minh tính hiệu quả của họ trong cuộc chiến chống Covid-19. Phản ứng rất nhanh, không có biện pháp nửa vời, kiểm soát nghiêm ngặt biên giới, sử dụng trí tuệ nhân tạo và các công cụ kỹ thuật số một cách có hệ thống... Họ đã có thể kiềm chế đại dịch và duy trì số ca lây nhiễm và tử vong ở mức rất thấp, từ 100 đến 200 lần thấp hơn so với số ca lây nhiễm và tử vong ở Châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Đến năm 2021, điều ngược lại đang xảy ra. Các nước phương Tây đã nhanh chóng bắt tay vào các chiến dịch tiêm ngừa đại trà, làm giảm đáng kể sự lưu hành của virus. Liên minh châu Âu chậm hơn người Anglo-Saxon hai tháng, nhưng từ đó đang tiến triển với tốc độ ngang bằng. Ngược lại, các nước châu Á đã ngủ quên trên vòng nguyệt quế. Với niềm tin kiểm soát được đại dịch, chính phủ các nước châu Á đã tụt hậu đáng kể trong việc phát triển các chiến dịch tiêm ngừa. Một số nước, như Ấn Độ, thậm chí đã không còn tin vào các nguy cơ lây nhiễm khi cho phép tổ chức các cuộc tụ tập đông người. Họ đã bị trừng phạt rất nhanh: dịch bệnh bùng phát trở lại, với cường độ mãnh liệt ở một số quốc gia và việc vận động tiêm ngừa cuối cùng đã trở thành một ưu tiên hàng đầu.

Print Friendly and PDF

16.6.21

Từ cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản tài chính đến cuộc khủng hoảng của nhà nước tân tự do: Covid-19

TỪ CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TÀI CHÍNH ĐẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA NHÀ NƯỚC TÂN TỰ DO: COVID-19

Robert Boyer[1]

Sự sụt giảm của hoạt động kinh tế liên quan đến đại dịch Covid-19 thường được so sánh với các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính trước đây. Nhưng những cuộc khủng hoảng này, nếu chúng nối tiếp nhau, không phải là sự lặp lại của một hình thức kinh điển: do đó sẽ sai lầm nếu lặp lại các chiến lược để thoát khỏi cuộc khủng hoảng trước đó. Vượt qua cái bề ngoài, thực tế là chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng của Nhà nước, không có khả năng khôi phục các điều kiện để phục hồi lâu dài sự thịnh vượng kinh tế và tính chính đáng chính trị gắn liền với nó.

Các ngành khoa học, cả kinh tế học và khoa học luận, đều bị tra vấn trong các cuộc khủng hoảng lớn vốn làm nổi bật sự bất lực của các hệ chuẩn thống trị để có thể thuật lại một tình huống mà người đương thời cho là chưa từng có. Trong chừng mực các biểu tượng học thuật đóng một vai trò nhất định trong việc hình thành và biện minh các chính sách kinh tế, đặc trưng của các diễn tiến này còn là sự hỗn loạn của các nhà ra quyết định công và tư.

Sự bùng nổ của Covid-19 được xem như là một công cụ phân tích cả về sự phát triển của các chế độ tư bản nền tảng đương đại và những trở ngại mà hệ tư tưởng chính thống (doxa) của các chính sách kinh tế và xã hội, được định hình bởi sự chiến thắng của các ý tưởng tân tự do, gặp phải. Trong khi hầu hết các chính phủ không thể ngăn chặn làn sóng thứ hai của đại dịch, một sự phân tích lịch sử và so sánh cho phép đưa ra các giả thuyết và diễn giải ngay từ bây giờ.

Print Friendly and PDF

15.6.21

Đại dịch Covid-19 là một con thiên nga trắng

ĐẠI DỊCH COVID-19 LÀ MỘT CON THIÊN NGA TRẮNG

Đại dịch sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra. Ngay từ tháng 3 năm 2020, Nicholas Taleb đã nhắc lại điều này. Phân tích của ông về việc quản lý các kế hoạch cứu trợ cho lĩnh vực hàng không ở Hoa Kỳ vào lúc bắt đầu cuộc khủng hoảng tạo điều kiện để tiếp tục suy nghĩ, thì châu Âu đang chuẩn bị triển khai kế hoạch phục hồi của họ.

Tác giả: Mark Spitznagel, Nassim Nicholas Taleb

Người dịch: Lucas Gourlet

Chính phủ Mỹ đang hành động để cứu vãn các hãng hàng không – Boeing và các hãng khác bị ảnh hưởng tương tự bởi cuộc khủng hoảng y tế[*]. Mặc dù chúng tôi đã nhấn mạnh, một cách rõ ràng đến việc cần phải cứu vãn các hãng này, thì có thể sẽ có những vấn đề đặt ra về đạo đức, kinh tế và cấu trúc liên kết với cách thức được chọn để thực hiện điều đó. Nếu nghiên cứu lịch sử các gói cứu trợ liên quan đến sự phá sản kinh tế, thì chắc chắn những vấn đề như trên sẽ xuất hiện.
Print Friendly and PDF

13.6.21

Lí thuyết ra quyết định

LÍ THUYẾT RA QUYẾT ĐỊNH

Decision theory

🠊 Giải Nobel: ALLAIS, 1988 ARROW, 1972 MCFADDEN, 2000 NASH, 1994 SAMUELSON, 1970 SELTEN, 1994 SIMON, 1978 VICKREY, 1996

R. Duncan Luce (1925-2012)

Howard Raiffa (1924-2016)

Thuật ngữ lí thuyết ra quyết định được Luce và Raiffa sử dụng lần đầu tiên trong tác phẩm Games and Decision (1957) của họ. Lí thuyết ra quyết định là một tập những mô hình kinh tế có mục đích công thức hoá hành vi lựa chọn của một tác nhân kinh tế giữa nhiều hành động có thể trong một bối cảnh không chắc chắn. Lí thuyết này kéo theo khái niệm quan hệ sở thích về những hành động, định đề về tính duy lí nhất quán, một dạng của tính duy lí thực chất đối lập với tính duy lí thủ tục (Simon, 1986) và việc tìm kiếm thường xuyên sự phù hợp với thực tế. Trong hầu hết những thiết kế của lí thuyết này, lí thuyết liên quan đến một tác nhân kinh tế cá thể, nhưng có một số mô hình nhằm vào những quyết định của nhóm (Raiffa, 1968; Marschack & Radner, 1972; Munier & Shakun, 1988). Mặt khác, người ta có thói quen phân biệt những lí thuyết chuẩn tắc tương ứng với một hiểu biết tư biện độc lập với những ứng dụng, những lí thuyết chỉ dẫn và những lí thuyết mô tả. Tuy nhiên nếu khía cạnh chỉ dẫn của lí thuyết ra quyết định ít gây nhầm lẫn, trong nghĩa là khía cạnh này tương ứng với những mô hình có tính hoạt động hỗ trợ việc ra quyết định cho phép thông báo và giải quyết những vấn đề lựa chọn trong thực tiễn thì các khía cạnh chuẩn tắc và mô tả là đan lồng nhau. Đó là vì lí thuyết ra quyết định, như mọi lí thuyết kinh tế hiện đại, có thể được cải tiến không ngừng (Moessinger, 1996) và tiến triển bằng việc lần lượt thiết kế những hệ thống tiên đề được những thử nghiệm thường nghiệm gợi ý và kiểm định. Như Luce và Raiffa nhấn mạnh, lí thuyết lợi ích kì vọng là hòn đá tảng của lí thuyết ra quyết định…

Print Friendly and PDF

12.6.21

Các nước ‘không Covid’ bị mắc bẫy trong chiếc lồng vàng như thế nào

CÁC NƯỚC ‘KHÔNG COVID’ BỊ MẮC BẪY TRONG CHIẾC LỒNG VÀNG NHƯ THẾ NÀO

Ngày 06/06/2021

Khi đưa ra một bản tổng kết y tế mẫu mực, thì các nước ‘không Covid-19’ đang đối mặt với một sự bùng phát lây nhiễm, trong khi việc tiêm ngừa virus cho người dân họ đã bị tụt lại phía sau.

Tác giả: Quang Pham

Nhà báo, chuyên mục Khoa học và Môi trường

WILLIAM WEST VIA AFP. Một người qua đường trước tấm biển khuyến khích người dân ở nhà tại Melbourne vào ngày 28 tháng 5, trong khi thành phố trải qua một đợt phong tỏa mới.

CORONAVIRUS – Đó là gáo nước lạnh giội vào người dân Melbourne. Vào ngày 2 tháng 6 vừa qua, nhà chức trách đã thông báo gia hạn phong tỏa thêm bảy ngày ở thành phố lớn thứ hai của Úc. Trên thực tế, Úc đang đối mặt với một sự trỗi dậy trở lại của coronavirus, khi xuất hiện biến thể virus được gọi là biến thể Delta, hay biến thể Ấn Độ, trên lãnh thổ họ, một biến thể virus có khả năng lây nhiễm nhiều hơn. Thế mà, đất nước này lại là một trong những nước giỏi nhất trong cuộc chiến chống lại đại dịch.

Úc, giống như New Zealand, Đài Loan, Singapore, Việt Nam hoặc Trung Quốc, là những nước được gọi là ‘không Covid’, có nghĩa là áp dụng một chiến lược diệt trừ coronavirus, được một số nhà dịch tễ học coi là công thức chiến thắng để ngăn chặn dịch bệnh. Nhưng kể từ tháng 5, tất cả các nước này đã hứng chịu những “áp lực mạnh mẽ từ virus”, theo lời giải thích, cho trang Huffpost, của nhà dịch tễ học Antoine Flahault và giám đốc Viện Y tế Toàn cầu (ISG) tại Đại học Geneva, người ủng hộ việc áp dụng chiến lược ‘không Covid’. Với làn sóng virus mới hiện nay, chiến lược ‘không Covid’, từng được một số người cho là mẫu mực, dường như cũng bộc lộ những giới hạn của nó.

Print Friendly and PDF

10.6.21

Hệ thống tín dụng xã hội. Cách Trung Quốc đánh giá, khen thưởng và trừng phạt người dân


HỆ THỐNG TÍN DỤNG XÃ HỘI. CÁCH TRUNG QUỐC ĐÁNH GIÁ, KHEN THƯỞNG VÀ TRỪNG PHẠT NGƯỜI DÂN

Emmanuel Dubois de Prisque
Nhà nghiên cứu cộng tác viên ở viện Thomas More[i], đồng tác giả của La Chine e(s)t le monde [Trung Quốc v(l)à thế giới] (NXB Odile Jacob, 2019).
Emmanuel Dubois de Prisque

“Hệ thống tín dụng xã hội” của Trung quốc gồm việc đánh giá, thưởng và trừng phạt các công dân tùy vào cách xử sự của họ. Dự án này, thành hình vào lúc mà Bắc Kinh chuẩn bị cho sự gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), lúc bấy giờ lấy cảm hứng từ các hệ thống của Phương Tây đánh giá khả năng vay và hoàn trả của các công ty và các hộ. Nhưng nó đã có một sự chuyển hướng quan trọng trong mười năm vừa rồi dưới tác động của ý thức hệ đặc thù của Trung Quốc hiện đại. Nay thì Bắc Kinh khẳng định là “nước dẫn đầu thế giới” trong lãnh vực “tín dụng xã hội” và đề nghị phổ biến những thực tiễn này ở nước ngoài, đặc biệt trong khuôn khổ của dự án Các con đường tơ lựa mới. Cần phải cấp bách hiểu biết về những gì mà “hệ thống tín dụng xã hội” nói về văn hóa chính trị của Trung Quốc.
“Hệ thống tín dụng xã hội” (社会信用体系 HTTDXH), dự án của chính phủ Trung quốc nhắm tới việc đánh giá và chấm điểm các công dân cũng như các tổ chức (công và tư) gây sự lo lắng và sự nghi vấn ở Phương Tây. Dưới ngòi bút của các nhà nghiên cứu và các nhà bình luận, tính từ “orwellien”[ii] được sử dụng rất nhiều, cũng như sự quy chiếu về tập truyền hình Mỹ Black Mirror[iii], làm như những gì đang xảy ra đã được các tiểu thuyết và các phim truyền hình viễn tưởng của Phương Tây lĩnh hội (nắm bắt) - đó cũng có thể là một cách để ép điều không biết trên về điều đã biết, kéo thực tế sang phía hư cấu và biểu hiện sự lo sợ mà vẫn tự trấn an. Tuy nhiên, và đây là một điều mà ai cũng biết, dự án này nằm trong một bối cảnh văn hóa, xã hội và chính trị đặc thù của Trung Quốc. Mặc dù Trung quốc bị công nghệ kỹ thuật số mê hoặc mà vẫn phản bội nó, không thể hiểu được sáng kiến này nếu không quan tâm đến lịch sử dài hạn và đến bản chất của phương thức lãnh đạo đế chế và cộng sản của đất nước này. Chỉ sự vạch rõ hậu cảnh văn hóa và lịch sử này mới làm cho dự án được hiểu rõ.
Print Friendly and PDF