Công bằng
Justice
® Giải Nobel: ARRROW, 1972
–
BUCHANAN, 1986 –
NASH, 1994 –
SEN, 1998 –
VICKREY, 1996
Việc nghiên cứu những tiêu chuẩn
công bằng phân phối là một lĩnh vực mà nhiều nhà kinh tế lưỡng lự xem như là
hoàn toàn thuộc về bộ môn của mình. Tuy nhiên lĩnh vực này tập hợp một kinh văn
quan trọng, mà sự phát triển đã tăng tốc từ những năm 1970. Trong lúc trước
thời điểm ấy ít có những công trình tổng hợp thì gần đây nhiều tác phẩm đã xuất
hiện chỉ ra rõ ràng tầm quan trọng của những công trình trong lĩnh vực này (đặc
biệt xem Arrow et al., 1997; Fleurbaey, 1996; Kolm, 1997; Moulin, 1988, 1995;
Roemer, 1996; Young, 1994). Quả thật rằng ảnh hưởng của triết lí đạo dức và
chính trị trong bộ môn này là rất mạnh và đôi lúc ranh giới giữa hai bộ môn là
mong manh (ví dụ xem Haussman & McPherson, 1995; Sen, 1987). Sự nghiệp
triết lí của Rawls và của những người tiếp nối tác giả này đã để dấu ấn sâu đậm
trong kinh tế học về công bằng phân phối, bằng cách khuyến khích những cách
tiếp cận bình đẳng (xem Rawls, 1987). Nhưng cách tiếp cận kinh tế là đặc thù cả
trong phương pháp (mô hình hoá toán học) và cả trong những đối tượng nghiên cứu
của nó (gồm có nhiều vấn đề kinh tế vi mô, chứ không chỉ vấn đề công bằng xã
hội một cách tổng quát). Chính xác hơn, có thể xác định lĩnh vực này như việc
nghiên cứu những qui tắc lựa chọn xã hội và phân bổ từ những nguyên lí đạo đức
tổng quát được thể hiện bằng những mô hình đặc biệt dưới dạng tiên đề, nghĩa là
từ những đặc tính toán học mà những qui tắc này đòi hỏi.