29.8.18

Báo động về ngành kinh doanh khoa học giả mạo (2)



“TÔI ĐÃ MẮC BẪY HAI LẦN”

S. Fo. DL
Các tạp chí săn mồiphát triển mạnh dựa trên yêu cầu buộc các nhà nghiên cứu phải xuất bản nhiều [bài báo khoa học]. Nước Pháp nói muốn lành mạnh hóa bầu không khí này.
Nước Pháp không thoát khỏi hàng giả mạo khoa học. Các nhà báo của dự án hợp tác “Khoa học giả mạo”, tập hợp khoảng hai mươi tờ báo quốc tế trong đó có Le Monde, đã truy cập những cơ sở dữ liệu của các công ty từng xuất bản những tạp chí đáng ngờ hoặc từng tổ chức những cuộc hội thảo khoa học giả mạo.
Nghiên cứu của Pháp nằm trong số mười nước cộng tác lớn nhất trong danh mục chú dẫn của công ty Waset, có trụ sở ở Thổ Nhĩ Kỳ, với khoảng 1.700 tham chiếu trong số 70.000 bài báo khoa học và thuyết trình tại các cuộc hội thảo. Trong danh mục chú dẫn của các nhà xuất bản Omics và Scidom, Pháp nằm trong số hai mươi nước cộng tác hàng đầu, theo thứ tự với 800 và 700 bài báo khoa học, tuần tự trên tổng số là 58.400 và 74.000 bài báo khoa học.
Print Friendly and PDF

27.8.18

Jean-Gabriel Ganascia đả phá kịch liệt Điểm kì dị tại liên hoan Futur en Seine


JEAN-GABRIEL GANASCIA ĐẢ PHÁ KỊCH LIỆT ĐIỂM KÌ DỊ TẠI LIÊN HOAN FUTUR EN SEINE
Annabelle Laurent
Trí tu nhân to là mt lĩnh vc phc tp, gánh chịu rất nhiều định kiến. Đến đ Jean-Gabriel Ganascia, giáo sư khoa hc máy tính [Paris 6] và chuyên gia trong lĩnh vc AI t nhiu năm nay, thưng xuyên nhn thy rng lĩnh vc nghiên cu ca mình b đánh giá thp, tính thc tin luôn b nghi ng khi mà nhiu ngưi đi thoi t ý kiến rng Bn tin vào trí tu nhân to ư?” B qua nhng huyn tưng, còn rt nhiu thứ đ nói v ngày th năm tháng 6 [năm 2017], ti hi tho do Usbek & Rica t chc vi ni dung Tất cả những gì bạn muốn biết về AI nhưng không dám hỏi, nhân liên hoan Futur en Seine.
Điu đu tiên cn nhc không bao gi tha: Không, trái ngưc vi nhiu ý kiến đưc thi s không ngừng nuôi dưỡng về chủ đề này, thì AI không phi là ý tưng t trên tri rơi xung. Có th bn, nhng ngưi đang đc bài viết này còn tr hơn c thut ng AI, xut hin ln đu vào năm 1956, ti Darmouth College, Hoa K, trong tâm trí ca hai nhà toán hc đang khám phá v máy tính (chiếc máy đu tiên đưc chế to vào năm 1946). Mc tiêu ca h không phi là tạo ra ra trí tu th hai mà phân tích trí thông minh thành nhng chc năng cơ bn, và mô phng tng phn chức năng đó trên máy tính. Ví d: lp lun, chng minh các đnh lý, nhn din đi tưng trên nh, nhn din âm thanh, ngôn ng t nhiên ...”, Jean-Gabriel Ganascia cho hay.
Print Friendly and PDF

25.8.18

Báo động về ngành kinh doanh khoa học giả mạo (1)


BÁO ĐỘNG VỀ NGÀNH KINH DOANH KHOA HỌC GIẢ MẠO
Stéphane Foucart David Larousserie
Hàng năm, các tạp chí ngụy học thuật xuất bản hàng ngàn bài báo khoa học không có giá trị khoa học.
Danh sách những tạp chí "săn mồi" gây tranh luận: có một vùng xám nằm giữa các tạp chí danh tiếng thấp và những ấn phẩm gian trá. NELSON ALMEIDA / AFP
Một nghiên cứu do các nhà báo tưởng tượng ra đã được chấp nhận trong vòng chưa đầy mười ngày và đã được xuất bản vào ngày 24 tháng 4
Kiến thức cũng không thoát khỏi tệ nạn hàng giả. Phần “khoa học giả mạo” trong các ấn bản khoa học được xuất bản trên thế giới đang gia tăng đáng kể trong thập niên qua, và không hề có dấu hiệu tạm dừng trong tương lai. 23 phương tiện truyền thông quốc tế, trong đó có Norddeutscher Rundfunk (NDR), SüddeutscheZeitung, The New Yorker hay Aftenposten, Le Monde đã tiến hành một công trình hợp tác, có tên gọi là “fake science” (“khoa học giả mạo”), để điều tra mức độ và tác động của hiện tượng khoa học giả mạo này, thứ cũng không miễn trừ nước Pháp.
Khoa học giả mạo có thể trông giống điều gì? Trong một thập niên qua, hàng chục nhà xuất bản vô lương tâm – như Omics và Science Domain (Ấn Độ), Waset (Thổ Nhĩ Kỳ) và Science Research Publishing (Trung Quốc) – đã xuất bản hàng trăm tạp chí dễ dàng đến tay người đọc với những từ ngữ kêu to nhưng rỗng tuếch, có đầy đủ vẻ bề ngoài của những tạp chí học thuật thực sự. Nhưng không giống như các tạp chí học thuật thật, những tạp chí này không có ban biên tập, họ tính phí [xuất bản] các nhà nghiên cứu – vào khoảng một vài trăm euro mỗi bài – và xuất bản những “công trình” không hề được kiểm soát và một cách rất nhanh. Họ không nộp bản thảo các bài báo cáo nghiên cứu mà họ nhận được để (các đồng nghiệp) "bình duyệt" (peer review). Quy trình kiểm soát chất lượng này, điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ ấn phẩm học thuật nào, là một trong những bước then chốt trong công trình xây dựng khoa học.
Cơ chế tương tự cũng được áp dụng đối với các hội thảo khoa học: các nhà nghiên cứu, thường được mời qua email, sẽ tiến hành đăng ký, bằng cách trả tiền, để trình bày các công trình của mình. Nhưng thường không có ai – hoặc không có nhiều người – đến tham dự những hội thảo vờ vĩnh này.
Print Friendly and PDF

24.8.18

Thất nghiệp

THẤT NGHIỆP
Unemployment
® Giải Nobel: FRIEDMAN, 1976 – LUCAS, 1995
Tầm quan trọng của thất nghiệp đang hoành hành ở châu Âu kể từ hơn hai thập niên nay đã gợi lên nhiều suy nghĩ về nguồn gốc của hiện tượng này và về những phương tiện chặn đứng nó. Tuy nhiên không phải tất cả các nước đều chịu tác động của thất nghiệp một cách giống nhau. Những thành tựu rất tốt của Hoa Kì vào cuối những năm 1990 cho thấy là thất nghiệp không phải là một hiện tượng không thể né tránh, do tiến bộ kĩ thuật gây nên bằng việc tiêu huỷ triệt để việc làm. Trong thực tế, xem xét diễn tiến của việc làm, dân số hoạt động và thất nghiệp trong những nước khác nhau của OECD từ 1960 đến 1990 cho thấy là duy chỉ châu Âu chịu tác động của một gia tăng liên tục của thất nghiệp trong thời kì này. Hơn nữa việc so sánh này, được trình bày trong phần đầu của bài viết, cho thấy rõ rằng gia tăng của thất nghiệp ở châu Âu là hệ quả của việc thiếu tạo ra việc làm, so với sự thiếu hụt này trong những vùng địa lí khác có được những kết quả tốt hơn về mặt thất nghiệp. Nhận định này giúp hiểu được vì sao những giải thích về thất nghiệp chủ yếu tập trung vào những nhân tố quyết định cầu lao động. Ở cương vị này, hai loại giải thích có tính đến sự thiếu hụt của việc tạo ra việc làm. Loại giải thích thứ nhất nhấn mạnh đến việc thiếu tiêu trường mà các doanh nghiệp gặp phải, trong lúc loại giải thích thứ hai nêu lên những vấn đề khả năng sinh lời mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Phân tích kinh tế nghiên cứu những điều kiện trong đó những vấn đề khác nhau này có thể nổi lên. Trên cơ sở này, phân tích kinh tế cho phép hiểu được tác động của những chính sách kinh tế vĩ mô, của khuôn khổ thể chế và cả tác động của tăng trưởng và tiến bộ kĩ thuật trên thất nghiệp.
Print Friendly and PDF

21.8.18

Chủ nghĩa tân tự do – Hệ tư tuởng nằm ở cội nguồn của tất cả các vấn đề của chúng ta


CHỦ NGHĨA TÂN TỰ DO – HỆ TƯ TƯỞNG NẰM TRONG CỘI RỄ TẤT CẢ CÁC VẤN ĐỀ CỦA CHÚNG TA
Cuộc khủng hoảng tài chính, thảm họa môi trường và thậm chí sự trỗi dậy của Donald Trump – chủ nghĩa tân tự do đã góp phần gây ra tất cả những điều này. Tại sao cánh tả thất bại trong việc đưa ra giải pháp thay thế?
“Không có giải pháp thay thế” ... Ronald Reagan và Margaret Thatcher tại Nhà Trắng. Ảnh: Rex Features
Hãy hình dung rằng nếu người dân Liên Xô chưa bao giờ nghe nói đến chủ nghĩa cộng sản. Hệ tư tưởng thống trị cuộc sống của chúng ta, đối với hầu hết chúng ta, đều vô danh. Khi đề cập đến nó trong các cuộc thảo luận, bạn sẽ nhận được một cái nhún vai. Ngay cả khi người nghe đã nghe thuật ngữ này trước đó, họ sẽ gặp khó khăn để định nghĩa nó. Chủ nghĩa tân tự do: bạn có biết nó là gì không?
Việc tên gọi không được biết đến vừa là một triệu chứng vừa là nguyên nhân đem đến quyền lực cho chủ nghĩa tân tự do. Nó từng có một vai trò quan trọng trong một loạt các cuộc khủng hoảng đáng chú ý: như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008, vụ các công ty ngoài khơi (offshoring) về của cải và quyền lực mà Hồ sơ Panama đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua, sự sụp đổ dần dần của y tế và giáo dục công, nạn đói nghèo ở trẻ em trở lại, đại dịch bệnh cô đơn, sự sụp đổ của các hệ sinh thái, sự trỗi dậy của ông Donald Trump. Nhưng chúng ta phản ứng với các cuộc khủng hoảng này như thể chúng đang nổi lên một cách đơn lẻ, dường như ta không nhận ra rằng tất cả chúng do cùng một triết lí nhất quán gây ra hoặc làm trầm trọng thêm; một triết lí có – hoặc đã mang – một cái tên. Quyền lực vĩ đại nào có thể hơn cả sự vận hành vô danh?
Print Friendly and PDF

19.8.18

“Các con đường tơ lụa”: vì sao sự cảnh giác đang gia tăng ở châu Á

“CÁC CON ĐƯỜNG TƠ LỤA”: VÌ SAO SỰ CẢNH GIÁC ĐANG GIA TĂNG Ở CHÂU Á
Tại Malaysia, tân Thủ tướng Mahathir Mohamad muốn giảm bớt những dự án lớn với Trung Quốc trong khuôn khổ các “Con đường tơ lụa mới”. (Nguồn: South China Morning Post)
Chấp nhận các khoản tín dụng của Trung Quốc để tài trợ cho các cơ sở hạ tầng, để rồi sau đó mất tất cả mọi thứ vì khoản nợ phát sinh ư? Từ Miến Điện đến Pakistan qua Malaysia, đã có nhiều nước ngày càng cảnh giác với các “Con đường tơ lụa mới”. Để từ đó chọn một lối đi khác chăng?
TIỀN LỆ CẢNG HAMBANTOTA CỦA SRI LANKA
Theo truyền thống, Sri Lanka luôn duy trì mối quan hệ tuyệt hảo với Trung Quốc. Các quan hệ đó đã được tăng cường vào cuối những năm 2000 khi châu Âu lên án cách hành xử của chính phủ Rajapakse đối với người Tamils. Ảnh hưởng của Trung Quốc đã được củng cố và ngân hàng Eximbank [Trung Quốc] đã tài trợ việc xây dựng một cảng [biển] ở Hambantota, thành phố quê hương của tổng thống Sri Lanka. Khi được khánh thành nhân dịp sinh nhật năm thứ sáu mươi của tổng thống, cảng này đã được cứu khỏi tình trạng phá sản bằng những khoản vay mới tốn kém hơn của Trung Quốc. Tiền của Trung Quốc cũng được sử dụng để tài trợ cho việc xây dựng một sân bay quốc tế, một sân vận động bóng cricket và một đường cao tốc.
Print Friendly and PDF

18.8.18

Thế nào là cạnh tranh hoàn hảo


THẾ NÀO LÀ CẠNH TRANH HOÀN HẢO?
Tóm tắt. Cạnh tranh hoàn hảo là mô hình cơ bản của lí thuyết kinh tế thống trị. Để nắm bắt chính xác và sâu rộng đến ngọn nguồn mô hình này cách tốt nhất là giải mã cách trình bày toán học mô hình này. Làm như vậy sẽ nhận thấy là mô hình không mấy liên quan gì đến cách trình bày “bằng lời văn” của các sách giáo khoa hay văn bản phổ biến đại chúng, như trong Wikipedia. Ta có thể tự hỏi làm sao một sự lộn xộn đến thế đã tồn tại hơn một thế kỉ – và tiếp tục tồn tại – trong một bộ môn tự xem mình là chặt chẽ nhất trong số các khoa học nhân văn.
Mô hình gọi là “cạnh tranh hoàn hảo” là mô hình cơ bản, không thể né tránh của lí thuyết thống trị (tân cổ điển). Nó giữ một vị trí ưu tiên trong giảng dạy kinh tế học - ở mọi cấp độ. Các cân bằng của nó được dùng làm điểm tham chiếu hay điểm so sánh cho tất cả những kiểu khác về phân bổ các nguồn lực. Tầm quan trọng mà lí thuyết tân cổ điển dành cho mô hình này là do nó cho được một phiên bản lí tưởng hoá của “quy luật cung cầu”, trong một khuôn khổ cho phép xác lập kết quả mà lí thuyết này tự hào nhất: định lí về sự tồn tại của ít nhất một cân bằng chung (được gọi là “định lí Arrow-Debreu”).
Print Friendly and PDF

16.8.18

Lịch sử văn minh châu Âu (5): Phục Hưng – Khi đại bàng vỗ cánh


LỊCH SỬ VĂN MINH CHÂU ÂU (5): PHỤC HƯNG – KHI ĐẠI BÀNG VỖ CÁNH
Tác giả: Tôn Thất Thông, CHLB Đức
Bằng cách này hay cách khác, Phục hưng là thuật ngữ được dùng để diễn tả một khía cạnh đặc biệt của nền văn hóa châu Âu ở ngưỡng cửa năm 1500. Nền văn hóa đó khởi đầu cho lịch sử hiện đại châu Âu […]. Thời kỳ phục hưng tỏ ra là một khoảnh khắc đặc biệt trong số phận con người của xứ hoàng hôn, là tuyên ngôn mặc khải của người thế tục, là thời khắc sinh thành của thế giới hiện đại[1].
Sử gia kinh tế R. Romano và A. Tenenti, giáo sư đại học Paris
“Thời đại phục hưng” không phải là một thuật ngữ được sáng chế bởi người đương thời, mà được các nhà sử học thế kỷ 19 dùng để chỉ một giai đoạn lịch sử đặc thù ở cuối thời kỳ trung cổ châu Âu. Thuật ngữ tiếng Pháp “Renaissance” (có nghĩa là Hồi sinh – Rebirth) được nhà sử học Jules Michelet sử dụng lần đầu năm 1858. Hai năm sau, sử gia văn hóa Jacob Burckhardt người Thụy Sĩ thánh hóa nó trong tác phẩm kinh điển nổi tiếng với tựa đề “Văn hóa Phục hưng ở Ý”[2]. Dù sách được viết bằng tiếng Đức, Burckhardt cũng cố ý dùng lại thuật ngữ tiếng Pháp Renaissance trong toàn bộ nội dung và cả tựa đề[3]. Từ đó về sau, Renaissance dần dần trở thành ngôn ngữ quốc tế và phổ biến rộng trong các nước thuộc văn hóa la-tinh, mặc dù mỗi nước đều có thuật ngữ địa phương riêng và thỉnh thoảng cũng được sử dụng trong sách vở của họ. Riêng ở Ý, nơi sinh thành của phong trào phục hưng, thì thuật ngữ địa phương Rinascimento được lưu truyền phổ biến rộng.
Nói đến phục hưng, trước hết chúng ta cần phân biệt vài thuật ngữ vốn dĩ có nội dung tương đối khác nhau, nhưng rất dễ lẫn lộn với nhau.
Print Friendly and PDF

13.8.18

Cuộc điều tra mới của quốc tế nhằm khắc phục vấn đề 'khoa học giả mạo' và các hiệu ứng độc hại của nó


CUỘC ĐIỀU TRA MỚI CỦA QUỐC TẾ NHẰM KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ 'KHOA HỌC GIẢ MẠO' VÀ CÁC HIỆU ỨNG ĐỘC HẠI CỦA NÓ

Scilla Alecci
Hàng trăm nghìn nhà khoa học trên thế giới đã công bố các nghiên cứu trên những tạp chí khoa học tự biên mà không cung cấp [các bằng chứng] kiểm tra truyền thống về tính chính xác và chất lượng, theo một cuộc điều tra mới của ngành báo chí.
Hàng chục phóng viên từ các phương tiện truyền thông ở châu Âu, châu Á và Hoa Kỳ đã phân tích 175.000 bài báo khoa học được năm nền tảng khoa học giả mạo lớn nhất thế giới xuất bản, trong đó có Omics Publishing Group [Tập đoàn Xuất bản Omics] có trụ sở tại Ấn Độ và World Academy of Science, Engineering and Technology [Học viện Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ Thế giới], hay Waset, có trụ sở tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài việc không thực hiện việc bình duyệt bài hoặc phê bình của ban biên tập, các công ty phụ trách xuất bản bài báo, còn chấp nhận các bài viết của những nhân viên thuộc ngành dược phẩm và các công ty khác cũng như của những người hoài nghi về biến đổi khí hậu để quảng bá những lý thuyết có vấn đề.
Một số các nhà xuất bản đó đã gửi những email có chủ đích đến các nhà khoa học, những người đang chịu áp lực xuất bản càng nhiều bài báo càng tốt để được thăng tiến và cải thiện chương trình giảng dạy của họ, theo những kết quả mà Norddeutscher Rundfunk (NDR), WDR và ​​Süddeutsche Zeitung đã phát hiện.
Print Friendly and PDF

12.8.18

Mười lăm luận đề về nghiên cứu xuyên ngành của Gertrude Hirsch Hadorn và cộng sự


MƯỜI LĂM LUẬN ĐỀ VỀ NGHIÊN CỨU XUYÊN NGÀNH CỦA GERTRUDE HIRSCH HADORN VÀ CỘNG SỰ[1]

Bùi Thế Cường (Giới thiệu, biên dịch)
Cẩm nang Nghiên cứu Xuyên ngành (Handbook of Transdisciplinary Research) do Gertrude Hirsch Hadorn và cộng sự biên tập, xuất bản năm 2007, là một công trình được nhiều người sử dụng và trích dẫn. Trong đó, chương cuối cùng số 29 do Urs Wiesmann và cộng sự viết nhan đề Tăng cường Nghiên cứu Xuyên ngành: Một Tổng hợp 15 Luận đề (Enhancing Transdisciplinary Research: A Synthesis in Fifteen Propositions). Chương này tổng kết nội dung cuốn sách dưới dạng những luận đề về nghiên cứu xuyên ngành. Các tác giả trình bày 15 luận đề trong ba nhóm. Nhóm thứ nhất gồm sáu luận đề đầu tiên, liên quan đến định nghĩa, phạm vi, quá trình và đầu ra của xuyên ngành. Nhóm hai gồm sáu luận đề tiếp theo (luận đề bảy đến 12) đề cập đến cách xuyên ngành vượt qua trở ngại. Nhóm cuối gồm ba luận đề còn lại đề cập những thách thức khoa học, định chế khoa học và xã hội đối với xuyên ngành. Dưới đây, tôi phỏng dịch 15 luận đề do Urs Wiesmann và cộng sự trình bày.
Luận đề 1. Định nghĩa nghiên cứu xuyên ngành
Nghiên cứu xuyên ngành là nghiên cứu bao gồm sự hợp tác trong cộng đồng khoa học và một sự tranh luận giữa nghiên cứu và xã hội. Do đó, nghiên cứu xuyên ngành vượt bỏ những ranh giới giữa các bộ môn và giữa khoa học với các lĩnh vực xã hội khác và bao gồm sự thảo luận về các sự kiện, thực tiễn và giá trị.
Print Friendly and PDF

9.8.18

Trung Quốc: Thách thức kinh tế về đất hiếm đằng sau sự cáo chung của các dòng xe chạy bằng xăng

TRUNG QUỐC: THÁCH THỨC KINH TẾ VỀ ĐẤT HIẾM ĐẰNG SAU SỰ CÁO CHUNG CỦA CÁC DÒNG XE CHẠY BẰNG XĂNG

Bertrand Hartemann

Các nhân viên thanh tra Trung Quốc đi bộ dọc theo các đống đất hiếm tại cảng Liên Vân Cảng ở Giang Tô, phía bắc Thượng Hải trên bờ biển phía đông Trung Quốc, ngày 22 tháng 5 năm 2016. (Ảnh bản quyền: Wang chun/Imaginechina/via AFP)
Đó chính là dầu hỏa của Trung Quốc. Tập hợp các kim loại có tính chất từ ​​tính, nhiệt, quang và xúc tác khó thay thế, ngày nay đất hiếm là nguyên liệu không thể thiếu để sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Sự độc quyền tuyệt đối của Trung Quốc trong việc khai thác đất hiếm trên toàn cầu là một thách thức địa chính trị quan trọng. Việc Bắc Kinh, gần đây, tuyên bố sự cáo chung của các dòng xe ô-tô chạy bằng xăng và sự chuyển đổi sang các dòng xe chạy bằng điện có nguy cơ tiềm tàng làm tăng sự phụ thuộc của các nền kinh tế phương Tây vào Trung Quốc.
Print Friendly and PDF

8.8.18

Nguyên nhân, lý do, ngẫu nhiên


NGUYÊN NHÂN, LÝ DO, NGẪU NHIÊN
Tác giả: Antoine-Augustin Cournot*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa
A. Cournot (1801-1877)

Các triết gia đã bàn luận rộng rãi về ý tưởng nguyên nhân, nhưng hầu hết đều chỉ quan tâm tới ý tưởng lý do của sự vật một cách hời hợt, như thể nhân dịp bàn thêm mà thôi, mặc dù chính ý tưởng lý do mới là tổng quát hơn, và thực sự là cái ý tưởng điều tiết mà ta phải lấy làm chuẩn mực cho cả ý tưởng nguyên nhân nữa, nếu muốn xác định phạm vi và quy định giá trị của nó[1]. [...] Thử xem xét những sự kiện trong trình tự vật lý, nơi cả hai ý tưởng này đều hiện rõ, nhưng trong sự tương phản rõ rệt.
Khi chơi trò sấp ngửa, cứ mỗi lượt ta ném đồng tiền ra, chắn chắn đều có sự can thiệp của các nguyên nhân vật lý – nguyên nhân theo đúng nghĩa của từ này – như cái lực được dùng để ném đồng tiền xuống (với độ mạnh và hướng lăn khác nhau một cách hoàn toàn bất đồng ở mỗi lần ném), sức lay động và ma sát cũng không đều như vậy của không khí bao quanh, và cuối cùng là lực hấp dẫn mà định hướng cũng như cường độ là không đổi. Chính những lực này đã kết hợp khác nhau, để làm cho khi mặt sấp, lúc mặt ngửa xuất hiện, mà chúng ta – những người biết tính toán sự vận hành của các thiên thể – cũng không thể nào tính trước được kết quả. Vả lại, chính vì không nhận thấy một bất thường quan trọng nào về cấu trúc trên mặt chạm rất ít lồi lõm của đồng tiền, chúng ta mới tin rằng không có lý do gì để chờ đợi mặt này xuất hiện nhiều hơn mặt kia, nên đã lấy đồng tiền làm một công cụ để chơi hay đánh cược. Tuy nhiên, phán đoán bốc đồng này có thể sai, và chúng ta sẽ được cảnh báo ngay bởi sự xuất hiện thường xuyên đáng kể hơn của một trong hai mặt, sau một lượng lớn các lần ném. Lúc đó, chúng ta sẽ tìm hiểu, và có thể sẽ nhìn thấy lý do của sự xuất hiện thường xuyên hơn này trong một bất thường nào đó về cấu trúc của đồng tiền, trên mặt chạm, trong sự không đồng nhất của thứ kim loại sử dụng. Nhưng các lý do này, tất cả đều liên quan tới nguyên tắc quán tính của vật chất, đều không phải là những lực, cũng không phải là các nguyên nhân đúng nghĩa.
Print Friendly and PDF

6.8.18

Tài chính hóa đời sống

TÀI CHÍNH HÓA ĐỜI SỐNG
Một bài viết gần đây về BlockChain [chuỗi khối hay công nghệ chuỗi khối] đã xuất hiện trên phiên bản tiếng Ý của trang Motherboard của công ty truyền thông Vice, châm ngòi cho một loạt những cuộc nói chuyện thú vị, và nhanh chóng có một bài viết khác tiếp nối.
Trong bài viết này, tôi được mời nêu ý kiến ​​về những điều đã xảy ra với các loại BlockChain và tiền mã hóa (cryptocurrency) từ quan điểm của một tổ chức mà tôi lãnh đạo (HER, Human Ecosystems Relazioni), đây là một tổ chức đề cập đến các vấn đề dữ liệu, những mối liên kết phức tạp giữa khoa học, công nghệ, xã hội, thiết kế và nghệ thuật, cũng như các hệ quả về xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lí của các kết nối và tương tác này.
Trong công việc của tôi, hàng ngày, tôi đối mặt với nhiều quan điểm trái ngược phải xử lí những tác động do dữ liệu, các loại blockchain và tiền điện tử gây ra này, với đủ kiểu chủ thể từ những người cực giỏi kĩ thuật, cho đến các nhà kinh doanh (entrepreneur) và nhà đầu tư, từ những nhà hoạch định chính sách cho đến những người chắc chắn là những người “bình thường” - những người cần phải hiểu một tác phẩm nghệ thuật có sử dụng blockchain là gì, hoặc những người liên quan đến văn hóa, các bảo tàng, khu dân cư của thành phố. Những người - dù có thích hay không thích nó - vẫn phải làm việc với những công nghệ và ứng dụng các công nghệ này. Mà chúng thì quá đa dạng.
Tôi dành cho blockchain niềm ngưỡng mộ cao nhất của mình. Nó có thể là công nghệ có tiềm năng cao nhất cho sự đổi mới và biến đổi triệt để ngày nay. Với tất cả các giới hạn và vấn đề của nó.
Sự phê phán của tôi không phải về mặt kĩ thuật, mà là về mặt tâm lí.
Print Friendly and PDF