31.3.19

Thuế đúc tiền


THUẾ ĐÚC TIỀN
Seigniorage
® Giải Nobel: FRIEDMAN, 1976 MUNDELL, 1999
Lúc khởi đầu, thuế đúc tiền chỉ thuế thu bằng hiện vật trên kim loại (bạc hay vàng) lúc được đúc để đổi thành đồng tiền. Độc quyền đúc tiền thường được giao cho một lãnh chuá (seigneur) nên thuế có tên gọi là thuế đúc tiền.
Ngày nay, thuế đúc tiền có thể được định nghĩa như giá trị thực tế của đồng tiền do Nhà nước tạo ra và sở hữu. Một nghĩa rộng hơn đưa thêm vào định nghĩa trên những thu hoạch của Nhà nước tiếp theo việc những khoản nợ danh nghĩa của Nhà nước (tiền pháp định, nợ công cộng, ) bị mất giá. Những nguồn lực này hợp thành thuế lạm phát. Theo một nghĩa khác, nhưng ít được sử dụng, thuế đúc tiền cũng là toàn bộ những mất mát về nguồn lực mà các tác nhân phải gánh chịu do buộc phải nắm giữ tiền pháp định (xem Dupuy, 1993). Trong số những mất mát này đặc biệt có những khoản tiền lãi mất đi trên những số tiền mặt được nắm giữ và đã có thể được đầu tư vào trái phiếu có lãi. Những thành tố khác nhau của thuế đúc tiền có những giá trị khác nhau tuỳ theo nước và theo thời kì. Từ 1979 đến 1986, thuế đúc tiền theo nghĩa hẹp bằng 6% những sắc thuế ở Italia, 1,3% ở Pháp và 0,8% ở Đức. Thuế này lên đến 10% của GDP ở Đức trong thời kì siêu lạm phát sau thế chiến thứ nhất (xem Barro & Grili, 1994, trang 167-168). Trong những nước phát triển, thuế lạm phát là quan trọng hơn thuế đúc tiền theo nghĩa hẹp (quy mô của nợ công cộng là lớn hơn quy mô của cơ sở tiền tệ).
Print Friendly and PDF

29.3.19

Trí tuệ nhân tạo: “Hợp tác với Trung Quốc để duy trì tính cạnh tranh toàn cầu” & Trung Quốc: WeChat sẽ đi đến đâu?

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO: ”HỢP TÁC VỚI TRUNG QUỐC ĐỂ DUY TRÌ TÍNH CẠNH TRANH TOÀN CẦU”
Khách tham quan Trung Quốc đứng trước một phần mềm an ninh đô thị dựa trên trí tuệ nhân tạo tại cuộc Triển lãm quốc tế về an ninh công cộng lần thứ 14 tại Bắc Kinh vào ngày 24 tháng 10 năm 2018. (Nguồn: Mosaic)
Biến nước Pháp thành một “Quốc gia khởi nghiệp” thực sự, một khẩu hiệu mà Emmanuel Macron đã cố lặp đi lặp lại kể từ chiến dịch tranh cử tổng thống của mình. Ngày nay, việc phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) nằm ở trung tâm của chiến lược này. Trong chuyến công du chính thức ba ngày tại Trung Quốc vào tháng 1 năm 2018, tổng thống Pháp đã dành không dưới nửa ngày để viếng thăm các công ty công nghệ cao ở Bắc Kinh, đặc biệt với việc tổ chức một diễn đàn lớn Pháp-Trung Quốc về AI. Một chiến dịch truyền thông nhằm quảng bá khả năng chuyên môn của Pháp trong lĩnh vực này. Nhưng nước Pháp có thể mang lại điều gì cho một nước Trung Quốc đã rất tiến bộ trong lĩnh vực này? Ngược lại, các công ty khởi nghiệp của Pháp và châu Âu có thể hy vọng điều gì về một sự hợp tác chặt chẽ hơn với Trung Quốc? Đối với Ludovic Bodin, một doanh nhân có trụ sở tại Bắc Kinh và đại sứ của cộng đồng French Tech [công nghệ Pháp] tại Trung Quốc, cơ hội là có thậttừ nay đó là việc thúc đẩy hoạt động xúc tiến AI ở châu Âu và sự hợp tác với quốc tế, đặc biệt là với Trung Quốc.
Print Friendly and PDF

27.3.19

Giả thuyết xưa như quy chiếu sai cho các lý thuyết hiện đại (1759)


 GIẢ THUYẾT XƯA NHƯ QUY CHIẾU SAI CHO CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI (1759)
Tác giả: Jean-Baptiste Le Rond d’Alembert*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

d'Alembert (1717-1783)

Đúng là các giả thuyết khác nhau mà người hiện đại nghĩ ra để giải thích hệ thống thế giới đều đã được người xưa tưởng tượng ra trước; và nếu chúng ta coi như, trong loại giả thuyết này, những cái có vẻ là thực đều có khả năng hiện ra một cách khá tự nhiên trong tâm trí, chúng ta sẽ không ngạc nhiên thấy rằng sự kết hợp các ý tưởng tổng quát sẽ phải sớm cạn kiệt thôi, và bởi một thứ cách mạng bó buộc, cái này sẽ thay thế cái kia một cách liên tục. Có lẽ chính vì lý do đó mà ngày nay chúng ta hầu như không có trong môn Vật lý của ta một nguyên tắc tổng quát nào mà lời phát biểu, hoặc ít ra là mầm mống của nó, đã không được tìm thấy nơi những tác giả xưa. [...] Dù sao, những gì người xưa từng tưởng tượng về hệ thống thế giới, hoặc ít ra những gì còn lại trong ý kiến ​​của họ về nó, đều rất mơ hồ và được chứng minh rất tệ, đến mức ta không thể rút ra từ chúng bất kỳ một tia sáng thực sự nào. Ta không hề tìm thấy ở đấy những chi tiết cụ thể, chính xác và sâu sắc, vốn luôn luôn là nền tảng của tính chân lý của một hệ thống; một số tác giả ưng gọi chúng là thiết bị, nhưng những chi tiết cụ thể này thực sự là cơ thể và chất nền của hệ thống, bởi vì chúng chứa đựng những bằng chứng tinh tế nhất và không thể bài bác được của nó, và vì vậy mới đúng là cái đã làm cho việc xây dựng hệ thống là khó khăn và đáng giá. Có gì nguy hại cho danh dự của Kopernik* đâu, khi một số triết gia cổ đại từng tin vào sự chuyển động của trái đất trước ông, nếu các bằng chứng họ đưa ra là hoàn toàn không đủ để ngăn cản phần đông người đương thời tin rằng mặt trời quay quanh trái đất? Có gì đe dọa sự vinh quang của Newton* đâu, nếu Empedoklês* hoặc những người khác từng có một số ý tưởng mơ hồ, với dạng hình bất định, về hệ thống lực hấp dẫn, nếu các ý tưởng này hoàn toàn thiếu vắng những chứng cớ cần thiết để hỗ trợ chúng? Nhận nợ từ Triết học cổ đại cho những giả thuyết và ý kiến ​​của chúng ta, như một nhà khoa học lừng lẫy đã làm, tưởng rằng hành động như thế là trả thù cho sự miệt thị bất công của ta đối với nó, chỉ là điều vô ích, bởi vì các nhà khoa học thực sự và những đầu óc tinh anh không bao giờ có sự khinh miệt ấy đối với triết học cổ đại. Luận văn của ông về chủ đề này, theo tôi, chẳng gây thiệt hại gì cho người hiện đại, cũng chẳng mang lại vinh quang gì cho người xưa, mà chỉ gây nhiều tai tiếng cho sự uyên bác và tỏa sáng của chính tác giả.
Print Friendly and PDF

26.3.19

Elinor Ostrom – người phụ nữ đã cứu kinh tế học khỏi thảm hoạ - bà là ai?


ELINOR OSTROM - NGƯỜI PHỤ NỮ ĐÃ CỨU KINH TẾ HỌC KHỎI THẢM HỌA – BÀ LÀ AI?
Bộ tiểu thuyết ba tập “Chúa tể của những chiếc nhẫn” (Lord of the Rings) của nhà văn J.R.R Tolkien là sự suy ngẫm về cách quyền lực đã khiến con người trở nên mục ruỗng như thế nào. Khi nỗ lực tìm hiểu lý thuyết kinh tế học, tôi thấy mình giống như Frodo trên hành trình đi đến Mordor, nhưng xét trong lịch sử tư tưởng kinh tế học gần đây, người có vai trò giống Frodo nhất chính là Elinor Ostrom.
Khi lần đầu gặp Lin tại một hội thảo năm 2009 – chỉ một vài tháng trước khi bà được trao giải Nobel kinh tế học, tôi đã gợi ý Lin kể cho tôi nghe về câu chuyện cuộc đời bà. Hãy cùng tìm hiểu về bà như một con người bằng da bằng thịt trước khi đến với tầm quan trọng của những công trình nghiên cứu của bà.
Print Friendly and PDF

23.3.19

Phan Châu Trinh – Việt Nam – và Nhật Bản


PHAN CHÂU TRINH – VIỆT NAM – và NHẬT BẢN

Nguyễn Xuân Xanh
Lời nói đầu. Kinh tế Việt Nam đang chạm mức “to be or not to be”, tồn tại hay không tồn tại, có thể cất cánh hay không theo những con rồng châu Á? Không ai dám trả lời, hoặc sẽ trả lời không. Tại sao, đó là điều chúng ta cần suy nghĩ. Lịch sử thường giúp chúng ta soi sáng những câu hỏi tại sao. Quyển sách Phan Châu Trinh của cố học giả Vĩnh Sính, vừa được nhà xuất bản Trẻ cho ra mắt, quyển sách đã gây ấn tượng mạnh lên tôi chín năm trước, là cơ hội để chúng ta nhìn lại Việt Nam trong thời khó khăn nhất để giúp chúng ta có thể hiểu thêm tình hình hôm nay. Phan Châu Trinh chỉ ra rốt ráo những khuyết tật của người Việt Nam trong tinh thần hiểu biết, cảm thương và xây dựng. Diễn thuyết xong, có lần ông nói: “Anh em ta hãy gắng mà làm đi”, thay đổi đi.
Mặt khác, năm nay, 2018, cũng là năm kỷ niệm 150 năm Nhật Bản tiến hành cuộc đại cải cách Minh Trị Duy Tân (1868). Tại sao hai dân tộc “đồng văn, đồng chủng” lại phát triển hoàn toàn khác nhau? Có phải do “ngẫu nhiên” mà người Nhật thức tỉnh và thành công không? Thưa không. Nhật Bản có những nhân tố vô cùng thuận lợi do con người kiến tạo, khiến họ nhanh chóng thực hiện được cải cách, trong khi Việt Nam không. “Đồng văn, đồng chủng” nhưng không đồng phát triển. Sự khác biệt to lớn lắm. Câu hỏi: Tại sao?
Tại Hàn Quốc, năm 1962, khi lên nắm quyền, cựu tổng thống Park Chung Hee đã cho rằng đất nước đang lâm vào một cuộc khủng hoảng con người, và cần phải tiến hành một cuộc cách mạng con người (human revolution), làm lại con người, thì mới xây dựng được một xã hội mới. Con người đã bị hư hỏng quá rồi. Ông viết:
Không có cách nào cho cuộc hồi sinh quốc gia hay sao? Không có con đường nào để tu sửa tính cách quốc gia đang bị suy sụp và xây dựng lại một nhà nước phúc lợi, dân chủ và lành mạnh hay sao?
Không có cách nào sao để thực hiện cuộc “cách mạng con người” để cho dân tộc chúng ta có thể chấm dứt thói nói dối, vứt bỏ những thói quen nịnh bợ, lười biếng, và làm một sự khởi đầu mới như những người lao động siêng năng, thực hiện cải cách xã hội và xây dựng một quốc gia không có người nghèo, một đất nước phồn vinh và giàu có?
Phải có một cách nào. Trước mặt nhân dân chúng ta đang bị vây hãm bởi thống khổ và gian truân, phải có một sự khôi phục lại. “Hãy gõ cửa, và xem kia, cửa đang mở.”
Trước hết chúng ta phải suy nghĩ về những di sản độc hại của quá khứ, thủ tiêu thói tranh chấp bè phái từ triều đại Yi (Choson) và tâm tính nô lệ, hệ quả của sự cai trị thực dân của Nhật Bản, và thiết lập vững chắc một Bộ đạo đức quốc gia. Không có một cuộc cách mạng con người, không thể có sự tái thiết xã hội.
Thập niên hiện tại của lịch sử thế giới là một thời kỳ của “thức tỉnh cho các quốc gia chậm tiến”, một thời đại của sự cạnh tranh kinh tế quanh các khu vực này. Đối với nhân dân chúng ta, thời kỳ hiện tại cung cấp một cơ hội tuyệt vời để thực hiện một cuộc phục hưng quốc gia. (nhấn mạnh của tôi)
Một sự lựa chọn khó khăn đang chờ đón chúng ta − hoặc sử dụng cơ hội này cho lợi ích tốt nhất, hoặc để bị kéo về vùng nước xoáy của thảm họa quốc gia. Một bên là sự tái thiết, một bên là sự đổ nát. Làm một quyết định đúng đắn vào thời điểm này là phép thử sống còn cho vận mệnh quốc gia.
Nhất định phải có một con đường cho quốc gia chúng ta − một xa lộ rộng lớn và thênh thang.
Print Friendly and PDF

21.3.19

Công nghệ tài chính ở Trung Quốc: từ tích hợp tài chính đến kiểm soát xã hội


CÔNG NGHỆ TÀI CHÍNH Ở TRUNG QUỐC: TỪ TÍCH HỢP TÀI CHÍNH ĐẾN KIỂM SOÁT XÃ HỘI
Chủ tịch, Giám đốc điều hành Tập đoàn Alibaba, Jack Ma. (Nguồn: Yicai Global)
Với một thị trường 730 triệu người dùng Internet, Trung Quốc chiếm ưu thế như là trung tâm thần kinh của ngành tài chính kỹ thuật số, hay “fintech [công nghệ tài chính]”. Những đại gia của các ngành công nghệ mới cắm rễ sâu nhất trong các thực hành hàng ngày của xã hội tiêu dùng Trung Quốc. Baidu, Alibaba và Tencent đã biết phát triển những hệ sinh thái toàn diện, kết hợp các thói quen sử dụng hàng ngày và dịch vụ tài chính. Thành công còn mạnh hơn nữa khi tầng lớp trung lưu Trung Quốc đã bị bỏ rơi bởi một hệ thống ngân hàng chủ yếu hướng đến việc tài trợ cho bộ máy công nghiệp. Nhưng sự vươn lên này của công nghệ tài chính cũng có mặt tối của nó. Nó tham gia vào việc tăng cường kiểm soát các hành vi xã hội.
Print Friendly and PDF

19.3.19

Người trí thức chân chính Nguyễn Hiến Lê


Nguyễn Hiến Lê (1912-1984)

NGƯỜI TRÍ THỨC CHÂN CHÍNH NGUYỄN HIẾN LÊ

Trần Khuyết Nghi
Nhà văn quá cố Nguyễn Hiến Lê, trong con mắt của những người đồng thời và của lớp hậu sinh thường được nhìn nhận như là một học giả có sự nghiệp trước tác đáng nể về đủ mọi phương diện khảo cứu, biên soạn, dịch thuật với khoảng 120 tác phẩm để đời mà hầu như tác phẩm nào cũng có một giá trị riêng biệt đáng được nhắc nhở. So với các lớp tiền phong, không phân biệt trong hay ngoài nước, ông có nhiều mặt vượt trội cả về số lượng lẫn tính đa dạng. Mà về văn phong giản dị, phương pháp làm việc khoa học, với cách trình bày bất cứ vấn đề nào cũng mạch lạc, rõ ràng và dễ hiểu dễ đi vào lòng người thì ai cũng phải chịu. Ngoài ra người ta còn trọng ông hơn nữa ở phần nhân cách, lối sống, tấm gương làm việc kiên trì nhẫn nại, cùng nhiều đức tính đáng quý khác, chứ không chỉ ở những kết quả của sự nghiệp văn chương đồ sộ mà ông đã cống hiến được cho đời. Tôi có gặp ông một lần nhưng ngắn ngủi và không có kỷ niệm gì đáng để ghi lại. Chỉ sau khi ông qua đời chừng vài năm, gặp một số người khác hiểu biết nhiều về ông hơn, tôi thấy dường như ai cũng nhắc đến công đức ông với lòng kính trọng một cách gần như tuyệt đối. Ngay như cụ Vương Hồng Sển khí phách Nam bộ ngang tàng vậy, lớn hơn ông những 8 tuổi mà cũng thừa nhận trong đời cụ chỉ quỳ lạy trước linh cữu có hai người, một là cha cụ, người thứ hai là “anh Lê”..., như lời cụ tự kể trong một bài báo viết ở đâu đó.
Nhìn chung, ông Nguyễn Hiến Lê có công rất lớn trong việc truyền bá những tinh hoa tư tưởng đông tây, đặc biệt là những tri thức có tính cách thực hành và lối sống văn hóa mới cho những người cùng thời, nhất là cho thế hệ trẻ. Nhiều người nhận rằng nhờ có ông chỉ vẽ mà họ đỡ lúng túng rất nhiều khi bước chân vào đời, nắm vững phương pháp làm việc, học tập và xây dựng được một quan niệm tương đối ổn định về cuộc sống.
Print Friendly and PDF

17.3.19

Bitcoin, tiền kĩ thuật số và blockchain: ảo ảnh hay phép lạ? (2)


BITCOIN, TIỀN KỸ THUẬT SỐ VÀ BLOCKCHAIN: ẢO ẢNH HAY PHÉP LẠ? (2)
Matthieu Montalban, đại học Bordeaux
Chúng ta đã thấy trong bài trước rằng dự án cơ bản liên quan đến Bitcoin, mà giá trị đã đạt đến đỉnh điểm của tầng bình lưu trong những tuần gần đây trước khi trải qua một sự hiệu chỉnh, sau lần tấn công mạng của một nền tảng trao đổi, một phần bị chỉ trích về mặt tính ổn định kinh tế vĩ mô cũng như về mặt chi phí môi trường nếu đồng tiền này được phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng công nghệ cơ bản, blockchain [công nghệ chuỗi khối], có những thuộc tính thú vị mà những tiềm năng của nó đáng được khám phá.

Những tiềm năng của blockchain

Để nhắc lại, blockchain có thể được xem như là một sổ ghi minh bạch, có tính phân phối [theo một kiểu nào đó], được tự động hóa và an toàn, ghi lại toàn bộ các giao dịch (hoặc hành động) đã diễn ra trong quá khứ, theo đó mỗi người tham gia có quyền truy cập vào bản sao của sổ ghi. Mỗi khối giao dịch sẽ được xác thực và “được công chứng” vĩnh viễn. Chúng ta đã thấy blockchain có thể làm cho các đồng tiền kỹ thuật số hoạt động, trong đó Bitcoin chỉ là một trường hợp mang tính biểu tượng trong số nhiều trường hợp khác. Mỗi đồng tiền kỹ thuật số có thể hoạt động theo những quy tắc hoạt động khác nhau, tùy vào thuật toán nằm sau blockchain.
Print Friendly and PDF

15.3.19

Tư duy con người phải chăng là bayesian?


TƯ DUY CON NGƯỜI PHẢI CHĂNG LÀ BAYESIAN?

Thomas Amossé, Yann-Vai Andrieu, Laura Muller
Kể từ các công trình tiên phong của Jean Piaget và Bärbel Inhelder, nhiều nghiên cứu tâm lí học thực nghiệm đã thử xác định xem các lập luận của chúng ta có theo những quy tắc của phép tính xác suất hay không. Vấn đề luôn gây tranh luận này đã có nhiều phát triển, cả về mặt lí thuyết lẫn thực nghiệm.
Trong những năm 1960, Ward Edwards và ê-kíp của ông đã tiến hành một loạt thí nghiệm nhằm xác định việc ra quyết định trong môi trường bất trắc có tuân thủ hay không một logic bayesian. Chương trình nghiên cứu độc đáo này làm cho hai bộ môn tâm lí học thực nghiệm và lí thuyết xác suất gặp gỡ nhau vào một thời điểm đặc biệt trong lịch sử của chúng: một mặt, cách tiếp cận bayesian được quan tâm trở lại sau thời đại vàng son của thống kê cổ điển của Ronald Fisher và Jerzy Neyman; mặt khác, một nhánh mới của tâm lí học được phát triển trong khuôn khổ của cuộc cách mạng nhận thức.
Những công trình của W. Edwards được các công trình của Daniel Kahneman và Amos Tversky (1973) bổ sung. Hai nhà tâm lí học này trình bày một tổng hợp của vấn đề trong tác phẩm Judgment Under Uncertainty xuất bản năm 1982 (Cambridge University Press). Các kết quả của họ sẽ bị phê phán kịch liệt, đặc biệt là bởi các nhà tâm lí học tiến hoá Gerg Gigerenzer và Ulrich Hoffrage (1995).
Print Friendly and PDF

13.3.19

“Đối với Darwin, sự đoàn kết xác định nền văn minh”


“ĐỐI VỚI DARWIN, SỰ ĐOÀN KẾT XÁC ĐỊNH NỀN VĂN MINH”
Phỏng vấn Patrick Tort
Cuộc phỏng vấn do Charles Giol thực hiện
Tác giả tác phẩm On the Origins of Species [Nguồn gốc các loài], được chụp vào năm 1881 tại nhà của ông ở Kent.
Liệu Darwin, nhà lý thuyết về sự chọn lọc tự nhiên, có xem luận đề về cuộc đấu tranh vì sự sống ở con người là chính đáng hay không? Trái với những gì mà “thuyết chọn lọc xã hội kiểu Darwin” cố gán cho ông, trong thực tế, nhà tự nhiên học vĩ đại đã nhấn mạnh rằng trong thế giới động vật con người là một ngoại lệ: trong nền văn minh, bằng một sự đảo ngược đơn lẻ, sự “thông cảm” và hợp tác đã trở thành một nhân tố của sự tiến bộ.
Cuốn sách của ông “l’Effet Darwin [Hiệu ứng Darwin]”, được xuất bản cách đây mười năm, đã đưa ra một cáo trạng đanh thép chống lại thuyết chọn lọc xã hội kiểu Darwin. Theo ông, vì sao học thuyết này, một học thuyết dựa trên lý thuyết tiến hóa để khuyến khích cuộc đấu tranh vì sự sống giữa con người với nhau, lại là một sự phản bội tư tưởng của Darwin?
Print Friendly and PDF

12.3.19

Bàn tay vô hình đã chết!

BÀN TAY VÔ HÌNH ĐÃ CHẾT!
Đã đến lúc cân nhắc lại phép ẩn dụ căn bản trong kinh tế học
David Sloan Wilson
Ngày xưa, khi một vị vua lìa trần và người kế vị lên ngôi, người ta loan báo: “Hoàng đế băng hà! Thánh Thượng vạn tuế!”. Tôi chính thức công bố cái chết của khái niệm Bàn Tay Vô Hình đồng thời giới thiệu khái niệm thay thế.
Ai cũng biết Bàn Tay Vô Hình là phép ẩn dụ của Adam Smith có hàm ý về khả năng tự vận hành của nền kinh tế mà không cần bất cứ ai phải lưu tâm đến lợi ích chung của nền kinh tế. Phép ẩn dụ này được sử dụng chỉ ba lần trong tác phẩm kinh điển của Smith, nên nó không đại diện cho toàn bộ tư tưởng của ông, nhưng nó đã ngự trị như một ông vua cùng với sự phát triển của kinh tế học tân cổ điển, con người kinh tế (Homo economicus) và tất cả những thứ tương tự.
Vị vua này rất đáng chết nhưng không dễ lấy mạng ông ta. Theo tôi, có hai đòn trí mạng rốt cuộc đã kết liễu đời ông. Đòn thứ nhất là những hậu quả tai hại do luật lệ của chính nhà vua gây ra. Nếu bạn vẫn phủ nhận điều này sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, thì sự phân rã hiện tại của Liên Minh Châu Âu (European Union) sẽ giúp bạn nhận ra chân tướng.
Đòn thứ hai chính là sự sụp đổ của thành trì lý thuyết đã chống đỡ cho cựu hoàng và sự tiếm ngôi của thành trì mới dựa trên sự kết hợp của thuyết tiến hóa và thuyết phức hợp. Theo quan điểm của thành trì lý thuyết mới, tự do tư lợi ở tầng thấp sẽ luôn mang lại lợi ích chung ở tầng cao là điều hết sức vô lý. Cựu hoàng quả là một ông vua kì quái, trần trụi. Chấm hết. Hãy chôn ông ta và sống tiếp.
Print Friendly and PDF

9.3.19

Robinson Crusoe, một cuốn tiểu thuyết được sử dụng và bị lạm dụng như thế nào?


ROBINSON CRUSOE, MỘT CUỐN TIỂU THUYẾT ĐƯỢC SỬ DỤNG VÀ BỊ LẠM DỤNG NHƯ THẾ NÀO?
Không nhân vật tiểu thuyết nào ảnh hưởng đến kinh tế chính trị bằng Robinson. Sau Rousseau, một nhà văn rất ngưỡng mộ nhân vật này – còn Marx thì ngược lại, chế giễu – những nhà kinh tế theo trường phái cận biên đã biến Robinson trở thành đại diện mang tính biểu tượng cho homo oeconomicus [con người kinh tế]. Nhưng góc nhìn này lại phản bội, một phần, chính tác phẩm của nhà văn Defoe.
Daniel Defoe (1660-1731)

Robinson Crusoe, tiểu thuyết của Daniel Defoe được xuất bản vào năm 1719 đã không chỉ là một huyền thoại văn học: nó đã tạo ra một ảnh hưởng quyết định đến các nhà kinh tế. Họ đã lấy luôn hình tượng nhân vật của Robinson làm đại diện biểu tượng của homo oeconomicus trong nền kinh tế thị trường. Theo một cách thức có vẻ nghịch lý, câu chuyện cuộc đời của một người đàn ông bị đắm tàu ​​trên mt hòn đảo hoang vắng đã được xem là hin thân ca những tác nhân được đặt trong mt xã hi đậm nét phân công lao động. Robinson chắc chắn là một trong số ít những nhân vật tiểu thuyết lại có tác động sâu đậm vào kinh tế chính trị học đến thế. Bằng chứng là trong từ điển kinh tế New Palgrave, từ điển tham khảo chuyên ngành, đã xuất hiện mục “Robinson Crusoe”, trong đó mối quan hệ giữa tiểu thuyết và việc các nhà kinh tế vận dụng nó đã được nghiên cứu và thảo luận. Đây chắc chắn là cuốn tiểu thuyết duy nhất có được một vị thế như vậy trong kinh tế học.
Print Friendly and PDF

7.3.19

Con người “vụ lợi”, một ảo tưởng của nhà kinh tế học?

CON NGƯỜI “VỤ LỢI”, MỘT ẢO TƯỞNG CỦA NHÀ KINH TẾ HỌC?
Emmanuel Petit 
Các nhà lý thuyết kinh tế học chính trị từ lâu đều cho rằng hành vi kinh tế bắt nguồn từ những động cơ thuần túy ích kỷ, do đó bảo đảm cho sự cứng rắn tự do được khởi động vào những năm 1970. Nhưng trong 30 năm qua, giáo điều này ngày càng bị tranh cãi, một số nhà kinh tế học thậm chí còn lấy chủ nghĩa vị tha làm một trong những quy luật mới của thị trường.
Mùa đông 1954: giữa cơn lạnh khủng khiếp, cha xứ Pierre kêu gọi giúp đỡ người vô gia cư. Hoạt động [từ thiện] này là một thành công. (Keystone/Hulton Archives-Getty images)
Trong suốt thế kỷ XX, nhân vật con người kinh tế [Homo economicus] là một công cụ khái niệm trung tâm mà từ đó các nhà kinh tế học đã xây dựng các mô hình và các khuyến nghị của họ về chính sách kinh tế. Tuy nhiên, ý tưởng về một con người được trang bị một lý tính đặc biệt, một ý chí tự do đáng chú ý và một khả năng tự chủ rất đáng thèm muốn vẫn bị chỉ trích rất sớm, trước hết bởi nhà kinh tế học người Áo Carl Menger (1840-1921) và trường phái lịch sử Đức vào cuối thế kỷ XIX, sau đó bởi nhà kinh tế học người Mỹ Thorstein Veblen (1857-1929) và [trường phái] xã hội học Pháp (đặc biệt là Marcel Mauss).
Print Friendly and PDF

5.3.19

Nhân ngày phụ nữ quốc tế: Madame Roland


NHÂN NGÀY PHỤ NỮ QUỐC TẾ: MADAME ROLAND
Nguyễn Xuân Xanh
“Cách mạng ăn thịt con của nó như Saturn”[1]
Pierre Vergniaud/Georg Büchner
“Nếu chúng ta không chết cho tự do, chúng ta sẽ nhanh chóng không còn gì để làm ngoài việc than khóc nó.”
Madame Roland
Chân dung của Madame Roland (1754-1793)
Lời nói đầu. Bài ngắn này được viết năm 2013, tức 5 năm trước, nay được bổ sung đôi chút. Xin giới thiệu với bạn đọc. Đây chưa phải xứng đáng là một bài giới thiệu tấm gương vĩ đại của nhân vật. Lịch sử của bà là vô cùng lôi cuốn.
Print Friendly and PDF

3.3.19

Hayek hay chủ nghĩa Bolshevik tân tự do

HAYEK HAY CHỦ NGHĨA BOLSHEVIK TÂN TỰ DO

Pierre Rimbert
"Chủ nghĩa tân tự do": thuật ngữ đã được sử dụng rất thường xuyên đến nỗi không còn gợi lên điều gì trong nhãn quan của công chúng ngoài tên gọi bán khoa học "tư duy thị trường". Giống như tất cả các hệ tư tưởng thống trị, hệ tư tưởng này làm cho chúng ta quên đi nguồn gốc của nó để tự nhận là mang tính vĩnh cửu, tự nhiên. Thế mà, ngay từ những thời điểm ban đầu, chủ nghĩa tân tự do trong thực tế là một dòng tư tưởng bên lề thời hậu chiến, mà sau đó được một nhóm nhỏ những người truyền giáo nhiệt thành truyền bá.
Một bích hoạ của Blu trong khu phố Friedrichshain-Kreuzberg, Berlin, 2007. 

Print Friendly and PDF

1.3.19

Từ Khủng hoảng Kinh tế đến Thế chiến III


TỪ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN THẾ CHIẾN III

Cuộc khủng hoảng kinh tế tiếp theo có thể sẽ dẫn đến một cuộc xung đột toàn cầu. Đây là lý do tại sao

Các phản ứng với cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 dựa quá nhiều vào các biện pháp kích thích tiền tệ, dưới hình thức nới lỏng định lượng và lãi suất gần như bằng không (hay thậm chí âm), và có quá ít cải cách về mặt cấu trúc [nền kinh tế]. Điều này có nghĩa là cuộc khủng hoảng tiếp theo có thể sẽ đến sớm – cũng như mở đường cho một cuộc xung đột quân sự có quy mô lớn.

BẮC KINH – Cuộc khủng hoảng kinh tế tiếp theo đang ở gần hơn ta nghĩ. Nhưng điều đáng lo là những gì sẽ diễn ra sau đó: trong bối cảnh xã hội, chính trị và công nghệ hiện tại, một cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, kết hợp với tình trạng bất bình đẳng thu nhập tăng cao, rất có thể sẽ leo thang thành một cuộc xung đột quân sự toàn cầu to lớn.
Print Friendly and PDF