30.11.22

Kinh tế bóng đá bước vào một kỷ nguyên mới

KINH TẾ BÓNG ĐÁ BƯỚC VÀO MỘT KỶ NGUYÊN MỚI

Luc ArrondelRichard Duhautois

Tại Doha (Qatar), các tòa nhà đang được trang trí lại theo màu sắc của bóng đá. Giuseppe Cacace/AFP

Ý tưởng cho rằng bóng đá là “chiếc gương” của xã hội thường được đưa ra trong các phòng khánh tiết [của giới thượng lưu] và tỏ ra khá đúng, xét từ quan điểm kinh tế. Branko Milanovic, chuyên gia được công nhận về chủ đề bất bình đẳng và là nhà phân tích tinh tế của quả bóng tròn, đã có nhận xét khá rõ về điều này: “Bóng đá là chiếc gương của xã hội, nơi mà sự bất bình đẳng đã tăng lên theo cấp số nhân trong ba thập kỷ qua”, ông giải thích trong mục bình luận của tạp chí Forbes.

Branko Milanovic (1953-)
Richard Giulianotti

Vào thời điểm World Cup [Giải vô địch bóng đá thế giới] bị phê phán vì các điều kiện tổ chức về mặt xã hội và môi trường, bóng đá thế kỷ XXI cũng không tránh khỏi những cuộc tranh luận lớn hiện nay về kinh tế, đặc biệt là các cuộc tranh luận về vấn đề tăng trưởng kinh tếbất bình đẳng. Theo chúng tôi, tất cả những câu hỏi đó là dấu hiệu của một sự chuyển biến lịch sử và kinh tế của môn thể thao này.

Theo nhà xã hội học người Anh Richard Giulianotti, bóng đá đã trải qua bốn thời kỳ phát triển trong lịch sử. Thời kỳ truyền thống kéo dài từ khi thiết lập các quy tắc của luật chơi vào cuối thế kỷ XIX cho đến Thế Chiến thứ nhất; thời kỳ đầu hiện đại, tương ứng với thời kỳ giữa các hai cuộc thế chiến, khi sáng tạo ra các cuộc thi đấu; thời kỳ muộn hiện đại, chứng kiến sự xuất hiện của chuyên nghiệp hóa, kết thúc vào cuối những năm 1980; trong khi thời kỳ hậu hiện đại bắt đầu, thời kỳ của truyền thông hóa, tự do hóa thị trường lao động và tăng trưởng kinh tế.

Luận cứ mà chúng tôi bảo vệ trong một công trình mới nhất là, ngày nay, chúng ta đang ở buổi bình minh của một kỷ nguyên mới được gọi là siêu hiện đại.

Print Friendly and PDF

28.11.22

Bruno Latour: một cái chết không đúng lúc, một công trình cho tương lai

BRUNO LATOUR: MỘT CÁI CHẾT KHÔNG ĐÚNG LÚC, MỘT CÔNG TRÌNH CHO TƯƠNG LAI

Patrice Maniglier[*]

Bruno Latour đã qua đời, và cái chết này, theo cách mà nó được ghi nhận trong lịch sử, dường như xảy ra không đúng lúc vì nó đến vào đúng thời điểm mà nhà tư tưởng vĩ đại này cuối cùng cũng nhận được sự thừa nhận mà ông xứng đáng có, và đặc biệt bị Pháp, đất nước của ông, từ chối từ lâu nay. Nó đặc biệt đến khi chúng ta cần ông ấy nhất, và khi chúng ta nhận thức được điều đó.

Tất nhiên, không bao giờ có thời điểm tốt để chết. Nhưng cái chết của Bruno Latour là một trong những cái chết xảy ra không hợp thời, không đúng lúc nhất, một cái chết có một mối quan hệ bị ngăn trở nhất với thời đại của mình mà ta có thể tưởng tượng, đúng là một cái chết xảy ra không hợp thời. Đúng là không đúng lúc.

Trước hết qua cách nó đến trong cuộc đời của ông, trong cuộc đời của chúng ta. Cho dù rằng ông đã dự đoán nó (cái chết) từ nhiều năm nay, chuẩn bị cho điều này đối với rất nhiều người (bao gồm cả bản thân tôi) coi trọng cá nhân ông - và tôi chưa bao giờ thấy ai chăm chút và quan tâm nhiều đến việc làm dịu đi cái chết của chính mình đối với những người ông ấy bỏ lại. Những năm gần đây ông đã cho thấy khả năng đáng kinh ngạc để đánh lừa cái chết, khi dường như ông được phấn chấn bởi một niềm vui sống động trong suy nghĩ, một mong muốn mãnh liệt để chuyển hướng sự vận hành của thế giới trong phạm vị của mình, khiến cho chính cái chết, kinh ngạc, cũng phải lùi bước (nhiều người sẽ nhớ những cuộc trò chuyện, những hội nghị, những cuộc phỏng vấn, nơi niềm vui làm việc về một vấn đề chung đã thúc đẩy ông đến mức ông dường như quên đi bệnh tật và đau đớn, với sự ham muốn suy nghĩ hòa nhập với sức sống dưới con mắt bối rối của chúng tôi). Đã rất nhiều lần, ông đã thành công trong việc bác bỏ những tiên lượng y khoa đen tối nhất đến nỗi chúng tôi rốt cuộc chỉ tin nửa vời vào chúng, khiến cho cái chết này cuối cùng đã đến một cách tương đối khá bất ngờ. Tất nhiên, rốt cuộc, cái chết cũng phải đến: bất chấp mọi thứ.

Print Friendly and PDF

26.11.22

COP27: vì sao châu Á không còn cho thấy sự táo bạo trong cuộc chiến chống lại sự biến đổi khí hậu

COP27: VÌ SAO CHÂU Á KHÔNG CÒN CHO THẤY SỰ TÁO BẠO TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG LẠI SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Hubert Testard

Nhà đàm phán Trung Quốc về khí hậu, Giải Chấn Hoa (Xie Zhenhua), tại diễn đàn COP27 ở Sharm el-Sheikh, Ai Cập vào ngày 8 tháng 11 năm 2022. (Nguồn: SCMP)

Sau nhiều thông báo quan trọng tại COP26, các nước châu Á-Thái Bình Dương đã làm khá ít việc trước khi bắt đầu COP27. Chỉ có Ấn Độ, Úc và Indonesia đã đưa ra những đóng góp mới có tầm quan trọng tương đối. Đúng là chương trình nghị sự của COP27, vốn tập trung vào việc triển khai các cam kết trước đây, các vấn đề tài trợ và thích ứng với sự biến đổi khí hậu, đã đặt khu vực châu Á đang phát triển vào một vị thế khá thoải mái. Trung Quốc và Nhóm G77, do Pakistan làm chủ tịch, có thể gây một áp lực tối đa lên các nước phát triển để gia tăng nỗ lực tài trợ cho các nước đang phát triển, và khiến các nước phát triển chấp nhận thảo luận về các khoản bù đắp cho những nước dễ tổn thương nhất. Mặt khác, Trung Quốc cũng lấy cớ chuyến thăm Đài Loan của bà Nancy Pelosi để đình chỉ sự hợp tác với Hoa Kỳ về vấn đề khí hậu và trì hoãn việc công bố bản kế hoạch hành động chống lại khí thải mê-tan.

COP26 từng là dịp để các nước chính ở Châu Á-Thái Bình Dương đưa ra một loạt thông báo quan trọng. Phần lớn các nước đã chọn mục tiêu trung hòa carbon, trong đó có ba nước quan trọng nhất (Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia), với một triển vọng hòan thành mục tiêu này kể từ năm 2050 đến năm 2070. Có rất ít chi tiết củng cố độ tin cậy của các mục tiêu mới này trong giai đoạn chuẩn bị cho COP27. Mặt khác, nhất là khi khu vực châu Á đang phát triển đang ở vị thế là bên yêu cầu các vấn đề tài trợ và các khoản bù đắp.

Print Friendly and PDF

24.11.22

Về mối nguy kinh khủng của nạn đọc sách (Voltaire, 1765)

Từ khoá: Sách báo – Xuất bản và Phổ biến – tk 18; Voltaire – Trích đoạn

VỀ MỐI NGUY KINH KHỦNG CỦA NẠN ĐỌC SÁCH (1765)

Tác giả: Voltaire*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Mặc dù máy in được Johannes Gutenberg [người gọi Ả Rập gọi là Aywan Kutanbark] phát minh từ năm 1440 tại Mainz, nó chỉ được phổ biến trên Đế Chế của Uthman[1] (Osman, Ottoman) từ khoảng 1727. Đây là một sự chậm trễ (khoảng 3 thế kỷ!) đã làm tốn khá nhiều giấy mực, nhưng giới sử gia không đạt được đồng thuận về nguyên nhân của hiện tượng. Có chăng một đạo luật ngăn cấm việc sử dụng và phổ biến máy in, nghề in trên lãnh thổ này?

Về sự kiện, một quyển sách đầu tiên bằng tiếng Ả Rập đã được in năm 1514, nhưng tại Fano, một thành phố Ý. Cũng đã có nhiều nhà máy in xuất hiện trên Đế Chế của Uthman từ thế kỷ thứ XV, nhưng chủ nhân là người nước ngoài (Hy Lạp, Armenia, Do Thái), và chỉ in sách bằng ngôn ngữ của họ. Đến năm 1587, Sultan Murat III mới ký một sắc lệnh chính thức cho phép bán loại sách Ả Rập in ở nước ngoài trên lãnh thổ của Đế Chế. Ibrahim Müteferrika (kẻ cải đạo, gốc Hung) là người Hồi Giáo đầu tiên mở nhà in năm 1727 tại Stamboul (Istanbul) để in sách bằng tiếng Ả Rập, nhưng bên ngoài lĩnh vực tôn giáo; để rồi sau khi xuất bản được khoảng 17 tác phẩm khoa học, nhà in phải đóng cửa năm 1742 vì sự phản đối bạo lực từ các phường hội của giới sao chép sách thủ công (copistes). Tuy nhiên, không có dấu vết nào về một đạo luật cấm đoán máy in và nhà in ban xuống từ Nhà Nước. Ý kiến trung dung, được cho rằng có xác suất đúng nhất, là nếu có sự chậm trễ, thì sự kiện này có thể được giải thích bằng các lý do tôn giáo, văn hoá, mỹ thuật (mỗi sách chép tay là một tiểu phẩm mỹ thuật độc đáo có thể đem trưng bày, hợp với thị hiếu của các gia đình giàu sang, vốn là lượng độc giả chủ yếu trên Đế Chế), hơn là chính trị. Hơn nữa, nếu có sự cấm đoán chính thức bằng pháp luật, hẳn Voltaire đã không ngần ngại nêu tên kẻ đã ký đạo luật, thay vì phải đặt ra một nhân vật tưởng tượngJoussouf-Chéribi[2].

Thật ra, Đế Chế của Uthman chỉ là bối cảnh bên ngoài của văn bản được dịch dưới đây. Ở Voltaire (1694-1778), bài văn thể hiện thuật viết lách (vừa viết, vừa lách), mượn chuyện người để nói chuyện ta của ông. Bối cảnh bên trong mới là đối tượng đả kích thực sự của tác giả. Đương thời, trong nhận thức của đại chúng, Đông phương vẫn là một đề tài hấp dẫn, còn đầy nét huyền bí, khác lạ, tuy đã có vẻ tụt hậu so với phương Tây, trừ trong hai lĩnh vực quan trọng còn tệ hại ngang nhau là tôn giáo và chính trị. Ở Pháp, bất chấp đối kháng Nhà Nước - Nhà Thờ (Giáo Hội), cả hai bắt tay nhau trước đe doạ chung là bọn người mà đời sau gọi là các triết gia (les philosophes)[3], trong đó Voltaire, Rousseau là những ngôi sao sáng chói.

Về tôn giáo, Voltaire quan niệm một Thượng Đế mà sự tồn tại được biểu lộ trong thế giới tự nhiên như nguyên lý tạo lập vũ trụ, hoàn toàn dựa trên tư tưởng thuần lý (“L’univers m’embarrasse, et je ne puis songer que cette horloge existe et n’ait point d’horloger” – Les Cabales, 1772), chứ không phải trên sự tiết lộ của các tôn giáo mặc khải (Ki-tô Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo), một Thượng Đế của lý tính chứ không phải của đức tin hay phụng thờ. Vì vậy: một mặt, ông căm ghét sự cuồng tín ở các thiết chế tôn giáo đương thời (Giáo Hội, giáo quyền, giáo điều…); mặt khác, không có lý do gì để tin rằng ông đánh giá Ki-tô Giáo cao hơn Hồi Giáo, hoặc ngược lại. Về chính trị, đời sau cho rằng Voltaire đã có thể chấp nhận một nền quân chủ ôn hoà và tự do hơn, được các triết gia soi sáng.

Dù sao, với tuyên ngôn “Tôi viết để hành động = J’écris pour agir” và hành động là mệnh lệnh “Nghiền nát những bỉ ổi = Écrasez l'Infâme” (bỉ ổi = mê tín, cuồng tín, bất dung), ông giễu cợt những tồi tệ chính trị và xã hội, bênh vực những nạn nhân của sự độc đoán tôn giáo và chính trị trên đất nước ông, bằng mọi hình thức (thơ, văn, kịch, kiến nghị, tố cáo, châm biếm, đả kích, phỉ báng…), với những cái giá không nhỏ từng phải trả (đòn hội chợ ngoài đường, đối tượng của vài chiếu tống giam (lettre de cachet), nằm ngục Bastille 11 tháng, phải tránh khỏi Paris, phải trốn ra nước ngoài, nhiều tác phẩm bị tịch thu, cấm hoặc đốt…

Khi mất năm 1778, Voltaire để lại hai dòng chữ sau: “Tôi ra đi, trong sự tôn kính Thượng Đế (với nghĩa ở trên), yêu thương bạn hữu, không oán giận kẻ thù, và căm ghét mê tín”. Linh cữu của ông được đưa vào điện Panthéon năm 1791.

Print Friendly and PDF

22.11.22

Biến đổi khí hậu đang ngốn lấy hàng nghìn tỷ USD – và các nước thu nhập thấp đang phải trả giá

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐANG NGỐN LẤY HÀNG NGHÌN TỶ USD – VÀ CÁC NƯỚC THU NHẬP THẤP ĐANG PHẢI TRẢ GIÁ

Các phân tích về ảnh hưởng của nắng nóng khắc nghiệt cho thấy những nước thu nhập thấp ở vùng nhiệt đới đã gánh chịu thiệt hại tài chính lớn nhất.

Miryam Naddaf

Một đầm phá khô cạn ở Colombia, nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi cái giá của các đợt sóng nhiệt. Ảnh: Juan David Moreno Gallego/Anadolu Agency/Getty

Biến đổi khí hậu đến nay đã gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đô la cho nền kinh tế toàn cầu, nhưng một nghiên cứu phân tích hậu quả kinh tế của các đợt nắng nóng trên toàn thế giới trong khoảng thời gian 20 năm thấy rằng các quốc gia có thu nhập thấp ở khu vực nhiệt đới đã gánh chịu phần lớn những thiệt hại này.

Nghiên cứu được công bố vào ngày 28 tháng 10 trên tạp chí Science Advances[1], ước tính rằng nền kinh tế toàn cầu đã mất từ ​​5 nghìn tỷ USD đến 29 nghìn tỷ USD từ năm 1992 đến năm 2013, hậu quả của sự nóng lên toàn cầu do con người thúc đẩy. Nhưng ảnh hưởng tồi tệ nhất là ở các quốc gia nhiệt đới có thu nhập thấp, dẫn tới thu nhập quốc gia của các nước này giảm trung bình 6,7%, trong khi các quốc gia có thu nhập cao chỉ giảm trung bình 1,5%.

Nguồn: Ref. 1

Nghiên cứu cũng nhấn mạnh việc cần phải đưa ra các chính sách khí hậu nhằm giải quyết vấn đề bất công về môi trường. Kai Kornhuber, một nhà khoa học khí hậu tại Đại học Columbia ở Thành phố New York, cho biết phát hiện này “sẽ hỗ trợ các cuộc thảo luận về mất mát và thiệt hại, một chủ đề chính trong [hội nghị thượng đỉnh Liên Hợp Quốc] COP27 sắp tới.”

Print Friendly and PDF

20.11.22

Thời đại thái cực 1914 (16): Sự cáo chung của Chủ Nghĩa Xã Hội

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (16)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

Phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

Phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ ba

SỤP ĐỔ

Chương 16

SỰ CÁO CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 

“Sức khỏe của đất nước này [nước Nga cách mạng] cần một điều kiện là không hình thành một thứ chợ đen về quyền lực (như bản thân Giáo hội đã sa vào cái nạn này). Nếu quyền lực và tiền bạc kết hợp theo kiểu châu Âu cũng thâm nhập vào nước Nga, thì nước sẽ không mất, đảng có lẽ cũng sẽ còn, nhưng chủ nghĩa cộng sản sẽ tiêu ma ở Nga”.

Walter BENJAMIN, (1979, tr. 195-6)

“Một xác tín chính thức duy nhất không còn là kim chỉ nam duy nhất hướng dẫn hành động nữa. Hơn là một hệ tư tưởng, có một thứ hỗn hợp cung cách suy nghĩ và khuôn khổ quy chiếu, pha trộn và chung sống với nhau, không những trong xã hội mà trong cả nội bộ Đảng và nội bộ lãnh đạo […]. “Chủ nghĩa Mác-Lê” cứng nhắc và pháp quy chỉ còn trong mỹ từ diễn văn chứ không đáp ứng được những nhu cầu thực sự của chế độ”.

M. LEWIN, Kerblay

(1983, tr. XXVI)

“Chìa khóa của hiện đại hóa là phát triển khoa học và kĩ thuật. Cứ ngồi mà lải nhải thì cương lĩnh hiện đại hóa của ta sẽ chẳng đi tới đâu; chúng ta cần tri thức và chuyên gia… Thế mà ngày nay xem ra Trung Quốc chậm tới 20 năm so với các nước phát triển về mặt khoa học, kĩ thuật và giáo dục… Ngay từ thời Minh Trị, người Nhật đã hết sức cố gắng trong các lĩnh vực này. Cuộc Phục hưng Minh Trị có thể nói là một đợt hiện đại hóa do giai cấp tư sản Nhật Bản mới ra đời thực hiện. Là những người vô sản, chúng ta cần phải, chúng ta có khả năng, làm tốt hơn thế”.

ĐẶNG Tiểu Bình,

Tôn trọng tri thức, tôn trọng chuyên gia (1977)

 

I

 

Trong những năm 1970, có một nước XHCN rất lo lắng về sự lạc hậu tương đối của mình về mặt kinh tế, vì ở ngay cạnh Nhật Bản, thành tựu ngoạn mục nhất của các nước tư bản. Không thể coi chế độ cộng sản Trung Quốc đơn thuần là một biến tướng của chế độ cộng sản Liên Xô, lại càng không thể coi đó là một nhân tố trong hệ thống chư hầu của Liên Xô. Trước hết là vì chủ nghĩa cộng sản đã thắng lợi ở một nước đông dân hơn hẳn Liên Xô, cũng như hơn mọi nước trên thế giới. Mặc dù thống kê dân số Trung Quốc không có gì chắc chắn, song có thể khẳng định cứ năm người sống trên mặt đất thì có một người ở CHND Trung Hoa. (Lại có cả một khối người Hoa khá đông ở Đông Á và Đông Nam Á). Hơn nữa, đứng về mặt dân tộc, Trung Hoa là một nước thuần nhất hơn phần đông các nước khác (người Hán chiếm gần 94% dân số); không những thế, có lẽ từ ít nhất 2.000 năm nay, đó là một thực thể chính trị thống nhất và duy nhất, dù đã kinh qua những thời kỳ rối ren. Lại nữa, trong phần lớn thời gian 2.000 năm ấy, Đế chế Trung Hoa, và có lẽ phần đông những người dân Trung Hoa có một ý niệm nào đó về vấn đề này, đều nghĩ rằng Trung Quốc là trung tâm, là mô hình của nền văn minh thế giới. Ngoại trừ một vài biệt lệ nhỏ, tất cả những nước khác có chế độ cộng sản, kể cả Liên Xô, đều là những nước lạc hậu và đứng ngoài lề về mặt văn hóa, và họ tự coi như vậy khi so sánh với bất luận một trung tâm văn hóa tiên tiến và mẫu mực nào. Một triệu chứng rất hiển lộ của mặc cảm tự ti này là việc Liên Xô thời Stalin nói rất hăng là không hề lệ thuộc phương Tây về trí tuệ và công nghệ, khăng khăng nói rằng tất cả những phát minh lớn, từ điện thoại tới hàng không, đều là những phát minh bản địa[149].

Print Friendly and PDF

18.11.22

Từ ASEAN đến G20: Trung Quốc cố đánh bóng lại hình ảnh của mình khi đối mặt với Hoa Kỳ

TỪ ASEAN ĐẾN G20: TRUNG QUỐC CỐ ĐÁNH BÓNG LẠI HÌNH ẢNH CỦA MÌNH KHI ĐỐI MẶT VỚI HOA KỲ

Pierre Antoine Donnet

Tổng thống Mỹ Joe Biden và người đồng cấp Trung Quốc Tập Cận Bình dự kiến có cuộc hội đàm tại Bali trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh G20 do Indonesia đăng cai tổ chức vào ngày 15-16/11/2022. (Nguồn: CM)

Phải chăng các đường cong đang đảo ngược? Tại hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN, bắt đầu vào hôm thứ Năm ngày 10 tháng 11 ở Phnom Penh và bế mạc vào hôm Chủ nhật tuần này ngày 13 tháng 11, cũng như tại hội nghị G20 được tổ chức ở Bali vào thứ Ba ngày 15 tháng 11 và thứ Tư ngày 16 tháng 11, Trung Quốc đang cố đánh bóng lại một hình ảnh bị hoen ố ít nhiều trên trường quốc tế. Về phía Hoa Kỳ, do Tổng thống Joe Biden đại diện, người đã phấn chấn lên sau kết quả các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, khá tích cực cho ông, Hoa Kỳ có ý định củng cố sự hiện diện của họ ở châu Á.

Nhận định đầu tiên đối với mười nước thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á là Trung Quốc không còn là động lực tăng trưởng kinh tế trong khu vực. Nhiều nước, lần đầu tiên sau một thời gian rất dài, đã đạt được những kết quả rõ ràng tốt hơn đáng kể. Một nhận định nặng trĩu những hậu quả đối với Trung Quốc, vì điều đó sẽ làm giảm vị thế và vai trò của nước này trên trường thế giới, đặc biệt ở châu Á.

Việc lôi cuốn các nước láng giềng và, nếu cần, khiến họ sợ hãi là một thao tác ngày càng khó khăn đối với Bắc Kinh. Nhưng điều đó sẽ không ngăn Trung Quốc cố gắng xuất hiện dưới một vẻ thuận lợi ở Phnom Penh. Tại Diễn đàn ASEAN lần này, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã ca tụng những thành quả của một nước Trung Quốc luôn luôn năng động. Nhưng sức nặng chính trị của Lý giờ đây là không đáng kể, do ông đã bị loại khỏi Bộ Chính trị của Đảng tại Đại hội lần thứ 20 của ĐCSTQ, vừa kết thúc vào ngày 5 tháng 11.

Ngoài ra, nhà cựu lãnh đạo tương lai của chính phủ Trung Quốc sẽ đối mặt với Joe Biden, người sẽ không gặp quá nhiều khó khăn để thuyết phục một số nước ASEAN rằng sự hiện diện của Mỹ trong khu vực là một sự đảm bảo cho sự ổn định địa chiến lược, nơi mà Trung Quốc đã làm dấy lên nhiều lo ngại về mặt quân sự. Tổng thống Hoa Kỳ cũng sẽ không quên so sánh sự ổn định tương đối của nền dân chủ Mỹ, vốn cuối cùng đã trở lại bình lặng hơn sau các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, so với một chế độ Trung Quốc đã tỏ ra cứng rắn, một cách đáng kể, tại Đại hội vừa qua của ĐCSTQ.

Print Friendly and PDF

16.11.22

Khí hậu: vấn đề gai góc về trách nhiệm lịch sử của các nước phát triển

KHÍ HẬU: VẤN ĐỀ GAI GÓC VỀ TRÁCH NHIỆM LỊCH SỬ CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN

Tác giả: Michel Damian[*] Patrick Criqui[**]

SaintLouis (Sénégal), vào tháng tám năm 2021, một bé gái quan sát công trình xây dựng một con đê chống lại nước dâng vì khí hậu nóng lên. John Wessels/AFP

Các bạn sẽ không bỏ qua: Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung về khí hậu của Liên Hiệp Quốc khai mạc ngày thứ hai 7/11/2022 tại Charm el-Cheikh, Ai Cập. Các cuộc thảo luận, hứa hẹn sẽ gay go, sẽ tiếp tục cho đến ngày 18 tháng 11 tới. Thật vậy, đây sẽ là hội nghị các bên (COP) đầu tiên mà vấn đề bồi thường tài chính cho những thiệt hại mà các nước đang phát triển phải chịu sẽ là ưu tiên trong chương trình nghị sự.

Cuộc gặp gỡ thượng đỉnh này, qui tụ gần 200 quốc gia, sẽ bị gây rối bởi sự mất tin tưởng ngày càng gia tăng của các nước đang phát triển đối với các nước phát triển (phương Nam/phương Bắc), bởi những yêu sách được lặp lại bởi nhóm “các nước đang phát triển + Trung Quốc”, với chí ít là 6,5 tỷ người trong số 8 tỷ của hành tinh!

Print Friendly and PDF

15.11.22

Biểu đồ động (infographics) trên Phân Tích Kinh Tế

BIỂU ĐỒ ĐỘNG (INFOGRAPHICS)

TRÊN PHÂN TÍCH KINH TẾ

Kính chào Quý bạn đọc!

Nhân kỷ niệm ngày PTKT lên mạng – 15.11.2014 –, hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến quý bạn một phương tiện trình bày dữ liệu và thông tin rất đặc biệt và hữu ích, đó là Biểu đồ động (Infographics). Do tính chất rất mới mẻ và tương đối đa dạng của nó mà sau nhiều năm chúng tôi mới đủ số lượng bài (được dịch từ nhiều nguồn) đã lên mạng để viết một bài giới thiệu ngắn gọn như sau.

Biểu đồ nói chung thường được trình bày dưới dạng “tĩnh” và do tính chất “tĩnh” của nó nên thường làm chúng ta phải tốn rất nhiều… giấy mực hoặc nhiều trang bài viết để trình bày thông tin cho một vấn đề, điều này có thể được khắc phục dễ dàng nếu chúng ta dùng biểu đồ động. Một biểu đồ động, với khả năng tích hợp với số lượng thông tin gần như không hạn chế, có thể chuyển tải gấp 10 hoặc nếu nói không ngoa, gấp cả 100 lần so với biểu đồ thông thường.

Vì quý bạn đọc đến với PTKT qua nhiều “ngõ” khác nhau (tức là bằng những thiết bị khác nhau), vào những thời điểm khác nhau và với những chủ đề ưa thích khác nhau, nên chúng tôi mạo muội chọn ra hai biểu đồ động trong hai bài dưới đây để giới thiệu công cụ này theo cách chúng gây nhiều khó khăn, thách thức và “ấn tượng” nhất với mình, chứ không phải chủ đích của PTKT nhằm khơi lại các chủ đề hay vấn đề liên quan đến nội dung hai bài viết. Nếu quý bạn đọc quan tâm hơn, xin mời theo các liên kết ở cuối bài viết này để được tham khảo nhiều biểu đồ động hơn.

Biều đồ động thứ nhất muốn giới thiệu nằm trong bài “Miễn dịch cộng đồng trên toàn cầu vẫn nằm ngoài khả năng do phân phối vắc xin không công bằng - 99% người dân ở các nước nghèo vẫn chưa được tiêm chủng”, chúng tôi biểu diễn lại sau đây:

Print Friendly and PDF

14.11.22

Di sản thực sự của Gregor Mendel: làm khoa học cẩn thận, nghiêm túc và khiêm tốn

DI SẢN THỰC SỰ CỦA GREGOR MENDEL: LÀM KHOA HỌC CẨN THẬN, NGHIÊM TÚC VÀ KHIÊM TỐN

Các thí nghiệm của vị giáo sĩ đã đặt nền tảng cho di truyền học – và cách tiếp cận tinh tế với nghiên cứu của ông thực sự truyền cảm hứng.

Mendel đã chỉ ra rằng màu hoa ở cây đậu có thể được di truyền. Bông hoa ở trung tâm là sự lai giống giữa bông hoa màu hồng và bông màu trắng. Ảnh: Kho lưu trữ Khoa học Oxford/Print Collector/Getty
Di truyền học cực kỳ phức tạp. Chúng ta biết điều này qua hàng thập kỷ tìm hiểu sinh học phân tử, từ các kết quả nghiên cứu về trình tự sắp xếp và phân tích bộ gien và từ kiến ​​thức ngày càng tăng của chúng ta về cách gien tương tác với môi trường. Vậy làm thế nào mà một thầy dòng Augustinian, một người thầy và nhà khoa học công dân Gregor Mendel đã xoay sở để mô tả các nguyên tắc di truyền vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay – từ công trình ông thực hiện một mình trong khu vườn tu viện của mình vào những năm 1850 và 1860?

Nhiều chi tiết đã thất lạc xuyên suốt lịch sử, vì các ghi chú về những thí nghiệm của Mendel, bao gồm các quan sát tạm thời và phương pháp làm việc của ông, đã bị thiêu hủy sau khi ông qua đời, như Kim Nasmyth tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh, mô tả trong một bài báo thuộc mục Quan điểm trên Nature Reviews Di truyền học [Genetics][1].

Nhưng từ các công trình đã xuất bản của ông, cũng như từ các tư liệu lịch sử được đưa ra ánh sáng gần đây, rõ ràng Mendel là một nhà khoa học cẩn thận; thận trọng, kiên nhẫn và sát sao với dữ liệu. Những phẩm chất này giúp cho ông có những khám phá vượt qua thử thách của thời gian. Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông vào ngày 22 tháng 7 năm 1822 là dịp để tôn vinh và công nhận một người khổng lồ trong khoa học. Peter van Dijk tại KeyGene ở Wageningen, Hà Lan và các đồng nghiệp của ông viết trong một bài báo thuộc mục Quan điểm trên Nature Genetics[2]: “Nhìn lại qua những gì đã được biết về tế bào vào giữa thế kỷ 19, có thể thấy Mendel đã đi trước thời đại của mình hàng thập kỷ.”

Print Friendly and PDF