31.7.22

Thời đại thái cực 1914 (12): Thế giới thứ ba

THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991 (12)

THE AGE OF EXTREMES

Tác giả: Eric J. Hobsbawm; Người dịch: Nguyễn Ngọc Giao

PTKT: Kể từ tháng 8.2021, chúng tôi lần lượt đăng tiếp các chương còn lại của tác phẩm Thời đại thái cực 1914-1991. Để có một cái nhìn chung giới thiệu tác giả và tác phẩm, mời bạn đọc lại bài Nhà sử học của hai thế kỷ.

MỤC LỤC

Lời tựa và Cảm tạ

Lời tựa bản tiếng Pháp

Hình ảnh minh họa

Chú thích các hình ảnh

Thế kỉ nhìn từ đường chim bay

Phần thứ nhất - THỜI ĐẠI TAI HỌA

chương 1 Thời đại chiến tranh toàn diện

chương 2 Cách mạng thế giới

chương 3 Dưới đáy vực thẳm kinh tế

chương 4 Sự suy sụp của chủ nghĩa liberal

chương 5 Chống kẻ thù chung

chương 6 Nghệ thuật, 1915-1945

chương 7 Sự cáo chung của các Đế chế

Eric J. Hobsbawm (1917-2012)

Phần thứ hai - THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

chương 8 Chiến tranh Lạnh

chương 9 Thời đại Hoàng kim

chương 10 Cách mạng xã hội, 1945-1990

chương 11 Cách mạng văn hóa

chương 12 Thế giới thứ Ba

chương 13 “Chủ nghĩa xã hội hiện tồn”

Phần thứ ba: SỤP ĐỔ

chương 14 Những thập niên Khủng hoảng

chương 15 Thế giới thứ Ba và cách mạng

chương 16 Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội

chương 17 Tiền phong hấp hối: nghệ thuật sau 1950

chương 18 Phù thủy và đồ đệ tập việc: các ngành khoa học tự nhiên

chương 19 Tiến tới thiên niên kỉ mới

* * *

Phần thứ hai

THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

Chương 12

THẾ GIỚI THỨ BA

 

“[Tôi gợi ý], nếu không có sách để đọc, thì buổi tối ở các đại trang trại [Ai Cập] nặng nề quá, ngược lại, một cái ghế bành và một cuốn sách hay, ngồi dưới hàng hiên gió mát, cuộc đời dễ chịu biết bao. Bạn tôi đáp lời ngay: “Bộ anh tưởng, ở vùng này, buổi tối sau bữa ăn, một tay điền chủ có thể ngồi yên dưới mái hiên, đèn sáng rọi trên đầu, mà không bị bắn chết ngay à?”. Điều ấy, lẽ ra tôi phải nghĩ ra trước mới phải”.

Russel PASHA, 1949

Trong làng mỗi lần câu chuyện bàn tới sự tương trợ và cho vay tiền giúp dân làng, lập tức sẽ có người than thở sao bây giờ người ta khó hơn trước nhiều […]. Lần nào cũng như lần nào, có người nói thêm bây giờ chuyện tiền nong người dân làng tính toán dữ lắm. Rồi người ta nhắc chuyện “thời xưa”, thời xưa người ta sẵn sàng giúp đỡ đùm bọc nhau”.

M. B. ABDUL RAHIM, 1973 (trong Scott, 1985, tr. 188)

 

I

Quá trình phi thực dân hóa và cách mạng đã làm đảo lộn hoàn toàn bản đồ chính trị thế giới. Con số các quốc gia châu Á độc lập được cộng đồng quốc tế thừa nhận đã nhân lên 15 lần. Ở châu Phi năm 1939 chỉ có một nước, nay năm chục. Ngay ở châu Mỹ, cuộc giải thực đầu thế kỉ XX đã để lại khoảng hai chục nước cộng hòa “latino”, nay có thêm mươi, mười hai nước. Song điều quan trọng không phải ở con số các nước, mà ở sức nặng của họ, ở áp lực dân số rất lớn và ngày càng tăng của tổng thể các nước này.

Đó chính là hậu quả của sự bùng nổ dân số trên thế giới sau Thế chiến thứ Hai. Điều này đã và đang làm thay đổi thế quân bình dân số toàn cầu. Từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, có lẽ trước nữa, từ thế kỉ XVI, thế quân bình nghiêng về dân cư châu Âu và gốc Âu. Năm 1750, nhóm dân cư này chưa tới 20% dân số toàn cầu; đến năm 1900, lên tới xấp xỉ 1/3. Thời đại Tai họa đã làm đóng băng tình hình, nhưng bắt đầu từ giữa thế kỉ XX, dân số thế giới đã tăng trưởng với nhịp độ chưa từng có, và sự tăng trưởng này diễn ra chủ yếu ở những khu vực trước đó nằm dưới quyền cai trị (hoặc sắp sửa) của một nhúm đế quốc. Nếu ta coi các nước giàu trong OECD hợp thành “thế giới phát triển”, thì dân số các nước này mới gần tới 15% dân số thế giới: con số phần trăm này cứ giảm dần, nếu không kể tới luồng di dân, vì tại nhiều nước “phát triển”, số sinh đẻ không bù lại được số tử vong.

Print Friendly and PDF

29.7.22

Sử trắc học

SỬ TRẮC HỌC

Cliometry

è Giải Nobel: FOGEL, 1993 NORTH, 1993

Robert W. Fogel (1926-2013)
Douglass North (1920-2015)

Sử trắc học, thước đo của Clio, nữ thần của Lịch sử, đã trở thành, trong những năm 1960, một trong những cách nắm bắt và nghiên cứu quá khứ. Như thế sử trắc học, được xem như lịch sử kinh tế mới (new economic history) hay như lịch sử kinh trắc hoá (McCloskey, 1987) nhằm phân tích những biến cố và cấu hình lịch sử bằng những phương pháp tiên tiến của thống kê học và những khái niệm rút ra từ lí thuyết kinh tế. Claudia Goldin đã tóm tắt đúng phương pháp này: Sử trắc học đơn giản là việc áp dụng lí thuyết kinh tế và những phương pháp định lượng vào việc nghiên cứu lịch sử (Goldin, 1995). Những chủ đề tạo lập của cách tiếp cận mới này (mà W. R. Fogel, được nhận giải Nobel kinh tế 1993 cùng với D. C. North, là một trong những người đi đầu) chủ yếu được áp dụng vào lịch sử kinh tế Mĩ thế kỉ XVIII và XIX: biện minh kinh tế của cuộc chiến giành độc lập, đánh giá lại vai trò của đường sắt trong sự tăng trưởng của nước Mĩ, phân tích tính hiệu quả của hệ thống đồn điền sử dụng nô lệ, nguyên nhân và chi phí của cuộc chiến Nam-Bắc phân tranh, quá trình xây dựng lại miền Nam Hoa Kì. Phân tích chi phí-lợi thế, việc sử dụng những tương quan nhưng nhất là phương pháp phản sự kiện (mô phỏng những tình thế lịch sử ảo để so sánh chúng, về mặt hiệu quả, với những tình thế đã xảy ra trong lịch sử) sẽ là những công cụ được sử dụng nhiều nhất. Những phương pháp này sẽ là đối tượng của một cuộc tranh luận quyết liệt về mặt phương pháp luận được các nhà sử học truyền thống xem, một cách đúng đắn, là không có khả năng tính đến sự phong phú và tính phức tạp của quá khứ.

Print Friendly and PDF

28.7.22

Lô-gic học và triết lý khoa học (J. Piaget, 1949)

Từ khóa: Lô-gic học ; Khoa học – Triết lý ; Piaget, Jean – Trích đoạn

LÔ-GIC HỌC VÀ TRIẾT LÝ KHOA HỌC (1949)

Tác giả: Jean Piaget*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Jean Piaget (1896-1980)

Là nhà lô-gic học xuất thân từ tâm lý học, Jean Piaget phân biệt Lô-gic học đích thực như một thứ toán lô-gic (logistique) mà vai trò là hình thức hóa dần dần mọi thao tác của lý trí”, với triết lý khoa học (nhận thức)[1] mà ông quan niệm như triết lý khoa học phát sinh, nghĩa là một thứ triết lý khoa học kết hợp, vừa phương pháp lịch sử-phê phán (historico-critique – nhằm vẽ lại sự phát triển của những ý niệm mà một khoa học nhất định đã sử dụng trong suốt lịch sử của nó), vừa phương pháp tâm lý-phát sinh (psycho-génétique – nhằm vẽ lại sự phát sinh của mọi ý niệm và phạm trù cốt yếu của tư tưởng” trong sự tiến hóa tâm lý của cá nhân, như một thứ phôi học của trí tuệ).

*

Có một điểm đồng thuận giữa các nhà lô-gic học, bất kể họ thuộc trường phái nào, đó là sự phân tích lô-gic liên quan đến một số mệnh đề có thể là đúng hoặc sai, hay nói cách khác, là đối tượng của lô-gic học liên quan tới cái đúng và cái sai. Cho dù đây là lô-gic quy phạm (nghệ thuật tư duy đúng, hay việc chuẩn hóa các quy tắc về cái đúng), là lô-gic phản tỉnh (phân tích thứ tư duy tự cho bản thân nó là đúng), là thuật toán lô-gic (logistique) mang sắc thái của Platôn, duy danh hoặc vật lý, nhưng đều đề cập đến sự phân biệt giữa cái đúng hoặc cái sai. Như vậy, chúng ta có thể nói, như một xấp xỉ đầu tiên, rằng lô-gic học là môn học nghiên cứu về cái tri ​​thức đúng, xét trong các hình thức chung nhất của nó.

Print Friendly and PDF

26.7.22

Số người chết thực sự trong đại dịch: nhiều hơn hàng triệu người so với con số chính thức

SỐ NGƯỜI CHẾT THỰC SỰ TRONG ĐẠI DỊCH: NHIỀU HƠN HÀNG TRIỆU NGƯỜI SO VỚI CON SỐ CHÍNH THỨC

Các quốc gia đã ghi nhận khoảng năm triệu ca tử vong do COVID-19 trong hai năm, nhưng số người chết vượt mức trên toàn cầu ước tính gấp đôi hoặc thậm chí gấp bốn lần con số này.

Tác giả: David Adam

Một gia đình đứng bên mộ một người thân đã mất vì COVID-19 ở Manaus, Brazil, vào tháng 5 năm 2020. Nguồn: Andre Coelho/Getty

Ngày Thanh Minh năm ngoái đánh dấu một cột mốc nghiệt ngã. Vào ngày 1 tháng 11, dữ liệu chính thức cho thấy số người chết trên toàn cầu do đại dịch COVID-19 đã vượt qua 5 triệu người. Hiện con số này đã đạt mức 5,5 triệu. Nhưng số liệu đó là một ước tính quá thấp. Hồ sơ về số tử vong vượt mức [excess mortality] – một độ đo bao hàm việc so sánh tất cả các trường hợp tử vong được ghi lại với những trường hợp dự kiến sẽ xảy ra – cho thấy số người đã chết trong đại dịch cao hơn rất nhiều.

Tính toán xem còn bao nhiêu người chết là một thách thức nghiên cứu phức tạp. Việc này không đơn giản chỉ là đếm số tử vong vượt mức ở mỗi quốc gia. Các nhà khoa học đã nhận thấy một số dữ liệu chính thức về vấn đề này vẫn còn thiếu sót. Và có hơn 100 quốc gia không thu thập được số liệu thống kê đáng tin cậy về số ca tử vong dự kiến ​​hoặc thực tế, hoặc không công bố chúng kịp thời. Các nhà nhân khẩu học, nhà khoa học dữ liệu và các chuyên gia y tế công cộng đang nỗ lực thu hẹp những bất trắc đối với một ước tính toàn cầu về số ca tử vong do đại dịch gây ra. Những nỗ lực này, từ cả giới học giả và báo chí, sử dụng hàng loạt phương pháp từ hình ảnh vệ tinh của nghĩa trang đến điều tra tận nhà và các mô hình học máy cố gắng ngoại suy những ước tính toàn cầu từ dữ liệu có sẵn.

Print Friendly and PDF

24.7.22

Vấn đề các ông lớn công nghệ của Trung Quốc: ngay trong một nền kinh tế nhà nước quản lý, các công ty kỹ thuật số vẫn phát triển quá mạnh

VẤN ĐỀ CÁC ÔNG LỚN CÔNG NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC: NGAY TRONG MỘT NỀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, CÁC CÔNG TY KỸ THUẬT SỐ VẪN PHÁT TRIỂN QUÁ MẠNH

Tác giả: Joanne Gray Yi Wang

Nền kinh tế kỹ thuật số của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng trong hai thập kỷ qua, với các ngành dịch vụ, truyền thông và thương mại chuyển sang hoạt động trực tuyến.

Chính phủ Trung Quốc, nói chung, đã khuyến khích công dân họ chấp nhận các công nghệ kỹ thuật số trong mọi khía cạnh đời sống hàng ngày. Ngày nay, Trung Quốc có khoảng một tỷ người dùng Internet.

Trung Quốc đã nói rõ mục tiêu của họ là trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về cơ sở hạ tầng và công nghệ kỹ thuật số. Vai trò dẫn đầu về công nghệ kỹ thuật số được coi là yếu tố then chốt đối với sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong tương lai, trong nước và trên quốc tế.

Giống như các nước phương Tây, Trung Quốc đã chứng kiến sự trỗi dậy của một nhóm nhỏ nền tảng kỹ thuật số có sức thống trị hoặc các “ông lớn công nghệ” công ty internet. Chúng tôi đã nghiên cứu các nỗ lực gần đây của Trung Quốc nhằm điều tiết các công ty này, có thể rút ra những bài học nào cho các quốc gia phương Tây, vốn đang cố gắng quản lý các vấn đề lớn về công nghệ của chính nước họ.

Print Friendly and PDF

23.7.22

Các trường đại học Trung Quốc sẽ rời khỏi bảng xếp hạng quốc tế?

CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC SẼ RỜI KHỎI BẢNG XẾP HẠNG QUỐC TẾ?

Tác giả: Alessia Lefébure[*]

Lễ tốt nghiệp ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, miền Trung Trung Quốc, ngày 23 tháng 6 năm 2021. AFP

Ngày 9/5, ba trường đại học Trung Quốc tuyên bố ý định “rút tên khỏi các bảng xếp hạng quốc tế. Thông báo, được các cơ quan báo chí quốc gia chính thức đưa ra, liên quan đến Đại học Nhân dân (Renmin) ở Bắc Kinh cũng như các trường đại học Nam Kinh và Lan Châu, nằm ở các tỉnh Giang Tô, phía đông đất nước, và ở tỉnh Cam Túc, ở phía tây bắc, nơi giao nhau của cao nguyên Tây Tạng và Mông Cổ.

Nếu ba trường đại học này được công nhận ở Trung Quốc dựa trên quy mô và lịch sử của chúng, tên của chúng ít được biết đến ở bên ngoài biên giới quốc gia, vì chúng không thuộc “các trường đại học đẳng cấp thế giới”, những cơ sở đẳng cấp thế giới này được đánh giá hàng năm bởi các tổ chức xếp hạng quốc tế khác nhau.

Các thông báo của các trường đại học này là một phản ứng tức thì cho bài phát biểu của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong chuyến thăm Đại học Nhân dân. Vào ngày 25 tháng 4, ông này đã phát biểu một cách kịch liệt về sự cần thiết của Trung Quốc tiếp tục củng cố vị thế của các trường đại học của họ để biến chúng thành những tham chiếu trên thế giới nhưng “với những nét đặc trưng của Trung Quốc”. Vào dịp này, Tập Cận Bình đã tuyên bố rõ ràng rằng sự xuất sắc về mặt hàn lâm quốc tế không thể đạt được nếu đi theo các nước khác hoặc áp dụng các mô hình hoặc tiêu chuẩn nước ngoài.

Print Friendly and PDF

22.7.22

Twitter, Elon Musk và bóng ma độc quyền, cuộc phỏng vấn với Barry Lynn

TWITTER, ELON MUSK VÀ BÓNG MA ĐỘC QUYỀN, CUỘC PHỎNG VẤN VỚI BARRY LYNN

Việc Elon Musk đề nghị Twitter đã gây ra nhiều phản ứng về nguy cơ đè nặng lên các nền dân chủ do sự tập trung [quyền lực] của các phương tiện truyền thông. Thông qua một phân tích lịch sử về diễn tiến các hệ thống kiểm soát và quản trị các công ty độc quyền, trong cuộc phỏng vấn này, cây viết Barry Lynn đã đề xuất suy nghĩ lại việc áp dụng các quy tắc cạnh tranh và biện hộ cho một công cuộc tái đầu tư vào năng lực sản xuất.

Ảnh: © Patrick Pleul/Pool via AP, File

Tác giả: Renaud Lassus

NHỮNG ĐIỂM CHÍNH

   Từ nay, Twitter có một số đặc điểm của ngành dịch vụ công cộng. Việc Elon Musk có thể mua lại Twitter đặt ra một mối đe dọa đối với việc bảo tồn đặc tính mở của không gian công cộng.

  Hiến pháp Hoa Kỳ dự trù cần phải quản lý các phương tiện truyền thông, sao cho chúng bao giờ cũng phục vụ lợi ích công cộng. Tuy nhiên, quá trình độc quyền hóa trong lĩnh vực kỹ thuật số có xu hướng làm cho nguyên tắc này bị lâm nguy.

·   Người châu Âu và người Mỹ cần phải cùng nhau hành động để hạn chế phạm vi quyền lực của các ông lớn kỹ thuật số và thực thi việc tôn trọng các quy tắc cạnh tranh trên quy mô toàn cầu.

Cho dù quá trình hiện nay có vẻ bị trì hoãn do cuộc chiến pháp lý xoay quanh số lượng tài khoản Twitter, ông nghĩ gì về viễn cảnh Elon Musk mua lại Twitter?

Khả năng mua lại Twitter của Elon Musk đặt ra những vấn đề cơ bản về cách thức mà tình hình này sẽ tác động đến nền dân chủ Hoa Kỳ. Trước hết, có một thực tế là Elon Musk là người giàu nhất thế giới. Ông ấy đã có một ảnh hưởng rất lớn, đặc biệt trong các vấn đề chính trị. Vì thế, có nhiều khả năng dẫn đến tình huống, theo đó quyền lực ảnh hưởng to lớn sẽ rơi vào tay một người duy nhất. Thách thức thứ hai là Twitter, từ nay, là một công cụ thiết yếu cho các cuộc tranh luận công khai. Nền tảng này, từ nay, mang một số đặc điểm của ngành dịch vụ công cộng. Chính vì lý do đó mà chính phủ Hoa Kỳ cần phải hành động để đảm bảo việc bảo tồn đặc tính rộng mở không gian công cộng.

Print Friendly and PDF

20.7.22

Cần có nhiều phụ nữ làm lãnh đạo hơn nữa về vấn đề khí hậu

CẦN CÓ NHIỀU PHỤ NỮ LÀM LÃNH ĐẠO HƠN NỮA VỀ VẤN ĐỀ KHÍ HẬU

Ảnh: JEWEL SAMAD/AFP via Getty Images

Tác giả: YVONNE AKI-SAWYERR

Mặc dù được nhìn nhận rộng rãi rằng nữ giới ít được tham gia các diễn đàn về khí hậu và bảo tồn, vấn đề này vẫn tồn tại. Do nữ giới phải chịu nhiều rủi ro nhất từ các cuộc khủng hoảng môi trường và đã chứng minh rằng nữ giới thực hiện những chính sách môi trường tốt hơn nam giới, hiện trạng trên là không công bằng và thiển cận.

FREETOWN - “Càng lên cao; càng có ít phụ nữ hơn.” Nhận định này của người đạt giải Nobel Hòa bình và người tiên phong về môi trường Wangari Maathai, phản ánh một thực tế quen thuộc với tất cả phụ nữ khao khát vị trí lãnh đạo, và nó đã mang lại một ý nghĩa mới đối với tôi khi cuộc khủng hoảng khí hậu ngày càng gia tăng. Mặc dù đã rõ rằng phụ nữ và trẻ em gái sẽ phải đối mặt với rủi ro cao hơn và gánh nặng lớn hơn do biến đổi khí hậu, nhưng họ vẫn chưa được đại diện đầy đủ trong các cuộc đàm phán về khí hậu và môi trường.

Năm 2019, Báo cáo Thành phần Giới của Liên Hợp Quốc lưu ý rằng số lượng phụ nữ đại diện trong các cơ quan trong Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu không phù hợp với nỗ lực tạo cân bằng về giới. Để đáp lại, các quốc gia thành viên đã thông qua kế hoạch hành động về giới tại Hội nghị về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (COP25) vào năm 2019. Kế hoạch công nhận rằng “sự tham gia và lãnh đạo đầy đủ, có ý nghĩa và bình đẳng của nữ giới trong tất cả các khía cạnh của quá trình UNFCCC[*] và trong chính sách và hành động khí hậu cấp quốc gia và địa phương là rất quan trọng để đạt được các mục tiêu lâu dài về khí hậu”.

Print Friendly and PDF

17.7.22

“Kinh tế học quy ước”: giữa phản tư và đánh giá chuyên gia

“KINH TẾ HỌC QUY ƯỚC”: GIỮA PHẢN TƯ VÀ ĐÁNH GIÁ CHUYÊN GIA[1]

Alain Desrosières

Alain Desrosières (1940-2013)

Hai trào lưu phi chính thống của khoa học kinh tế xuất hiện ở Pháp trong những năm 1970 và 1980: trường phái điều tiết và kinh tế học quy ước. Cả hai đều có sự tham gia của những nhà nghiên cứu từng được đào tạo là kĩ sư, nặng về toán học. Tuy nhiên họ khác nhau ở cách sử dụng các phương pháp thống kê và kinh trắc, vốn ít quan trọng hơn đối với các nhà kinh tế quy ước. Trào lưu nghiên cứu kinh tế học quy ước được phát động trong một số đặc biệt của tạp chí Revue économique vào tháng ba năm 1989. Sáu tác giả đã cộng tác để khởi thảo một tuyên ngôn về một cách tiếp cận mới của khoa học kinh tế. Thế mà bốn người trong số họ được đào tạo như là nhà thống kê. Họ đã quen biết nhau và cùng làm việc ở Viện quốc gia thống kê và nghiên cứu kinh tế (INSEE) từ giữa những năm 1970 đến giữa những năm 1980: François Eymard-Duvernay, André Orléan, Robert Salais và Laurent Thévenot. Duy chỉ Jean-Pierre Dupuy và Olivier Favereau là không có quan hệ với INSEE. Thế mà nhiều nghiên cứu phong phú được tiến hành sau đó từ hệ ý mới này ít sử dụng những phương pháp định lượng (đặc biệt là kinh trắc học) được coi trọng trong kinh tế học chính thống, hay trong những trào lưu phi chính thống như trường phái điều tiết.

Giải thích điều có vẻ là nghịch lí này thôi thúc tái hiện thời khắc này trong lịch sử dài hơn của kinh tế học và của các khoa học xã hội. Chúng tôi thấy ở đây một giai đoạn ngã rẽ của các khoa học này, diễn ra kể từ những năm 1980, kéo theo một thay đổi sâu sắc cương vị khoa học và chính trị của những kĩ thuật định lượng. Đặc biệt, việc xem xét thời khắc này dẫn đến vấn đề những quan hệ tinh tế các quan hệ giữa, một mặt, sự quan tâm đến tính phản tư và, mặt khác, một nhu cầu đánh giá chuyên gia hướng đến khoa học kinh tế. Do truyền thống riêng của Pháp về các đoàn thể kĩ sư, một vài thành viên của INSEE, trong những năm từ 1960 đến 1980, đã có một vai trò đặc biệt, đáng ngạc nhiên theo quan điểm của thế giới anglo-saxon, trong giai đoạn này của lịch sử các khoa học xã hội[2].

Print Friendly and PDF

16.7.22

Nhà toán học Ukraine trở thành người phụ nữ thứ hai giành được huy chương Fields danh giá

NHÀ TOÁN HỌC UKRAINE TRỞ THÀNH NGƯỜI PHỤ NỮ THỨ HAI GIÀNH ĐƯỢC HUY CHƯƠNG FIELDS DANH GIÁ

Maryna Viazovska, nhà nghiên cứu về hình học của các khối cầu, là một trong bốn người chiến thắng giải thưởng đáng mơ ước năm nay.

Tác giả: Davide Castelvecchi

Maryna Viazovska nổi tiếng với nghiên cứu về đóng gói hình cầu. Ảnh: Fred Merz (CC-BY-SA)

Nhà lý thuyết số người Ukraine Maryna Viazovska là một trong bốn người giành được Huy chương Fields năm 2022, một trong những danh hiệu cao nhất của toán học được trao theo truyền thống cho những người dưới 40 tuổi. Những người đoạt giải còn lại là James Maynard, một nhà lý thuyết số tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh; June Huh, một chuyên gia về tổ hợp tại Đại học Princeton ở New Jersey; và Hugo Duminil-Copin, nhà nghiên cứu vật lý thống kê tại Viện Nghiên cứu Khoa học Cao cấp (IHES) gần Paris. Liên minh Toán học Quốc tế (IMU) đã công bố những người chiến thắng tại một lễ trao giải ở Helsinki vào ngày 5 tháng 7.

Bryna Kra, nhà toán học tại Đại học Northwestern ở Evanston, Illinois, chủ tịch Hiệp hội Toán học Hoa Kỳ, cho biết: “Tất cả những người đoạt huy chương đều cực kỳ xứng đáng và đầy tài năng, cho thấy sự sinh động của việc nghiên cứu toán học khắp thế giới.”

Viazovska, làm việc tại Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ ở Lausanne (EPFL), là người phụ nữ thứ hai từng giành được giải thưởng này. Cô nổi tiếng nhất với lời giải cho bài toán đóng gói khối cầu – tìm sự sắp xếp của các khối cầu sao cho chúng chiếm được phần thể tích lớn nhất trong một khối – trong tám chiều.

Print Friendly and PDF

14.7.22

Tạp chí Khoa học Phổ thông 1934-1942

TẠP CHÍ KHOA HỌC PHỔ THÔNG 1934-1942

Hà Dương Tường

Lời nói đầu.

Tạp chí Khoa học phổ thông là tờ tạp chí phổ biến khoa học thứ ba của VN tính theo thứ tự thời gian, như đã được giới thiệu trên các bài viết về hai tờ đầu: Khoa học Tập chí và Tạp chí Khoa học của nhà khoa học Nguyễn Công Tiễu. Tờ thứ tư, Báo Khoa học của các ông Nguyễn Xiển và Hoàng Xuân Hãn sẽ được giới thiệu trong một bài sắp tới.

Lẽ ra, bài viết này đã ra mắt bạn đọc từ gần hai năm nay nhưng con virut quái ác Covid-19 đã làm chậm lại mọi thứ! Nhưng trong cái rủi có cái may. Vì không thể tới Thư viện quốc gia Pháp (BNF) trong nhiều tháng, người viết đã nghe theo chỉ dẫn của một người bạn là nhân viên của BNF, viết thư đề nghị với Thư viện số hoá mấy tạp chí này, và sau nhiều lần thư đi, thư lại, đã được Thư viện đồng ý. Tiếp theo là nhiều tháng chờ đợi ban kỹ thuật của Thư viện tiến hành công việc (trong điều kiện đại dịch chưa lui bước trên đất Pháp), và tin vui nhận được vào tháng 5.2021: cả ba tờ Tạp chí Khoa học, Khoa học phổ thông[1] và Báo Khoa học đều đã được số hoá, dưới hình thức ảnh sao chụp của từng trang, tuy còn bất tiện cho việc tìm kiếm thông tin nhưng lợi thế lớn là người đọc có thể, qua mạng Internet, đọc chúng từ nhà (còn tờ Khoa học Tập chí thì đã được số hoá từ trước đó). Như vậy, cả 4 tờ tạp chí phổ biến khoa học của Việt Nam thời thuộc Pháp (trước 1945) đều đã được số hoá, và bạn đọc có thể tìm xem chúng trên mạng https://gallica.bnf.fr/ của BNF.

Xin trân trọng cảm ơn Thư viện Quốc gia Pháp[2] và những người quản lý đầy tinh thần trách nhiệm của họ.

HDT

Vài thông tin chung

Bìa số 1 (phần trên)

Chu kỳ

Khoa học Phổ thông (KHPT) số 1 ra ngày 1/9/1934, với chu kỳ “mỗi tháng xuất bản hai kỳ”, đề ngày 1 và 16 mỗi tháng. Chu kỳ này được ghi ngay trên bìa báo kể từ số 2, nhưng những năm cuối, kể từ tháng 11.1939 tới khi đình bản vì chiến tranh vào cuối năm 1942, báo chỉ ra được mỗi tháng một kỳ. Tổng cộng là 158 số (trong đó có nhiều số kép - số Tết, hoặc số kỉ niệm ngày thành lập báo, số đặc biệt về một chủ đề nào đó), tuy nhiên, bộ sưu tập của BNF chỉ có 139 số - chẳng hạn, thiếu các số 115 (1.6.1939) tới 123 (1.10.1939), hiển nhiên là vì những khó khăn do thế chiến thứ hai gây ra. Như vậy Khoa học Phổ thông ra đời ba năm sau đồng nghiệp Khoa học Tạp chí (KHTC) của ông Nguyễn Công Tiễu (số 1 ra ngày 1.7.1931) và đình bản hai năm rưỡi sau (KHTC số cuối là số 232, đề ngày “1er Juillet - Août.1940”). Có thể nói hai tờ đã “song hành” trong phần lớn thời gian sống của mình (khoảng 6 năm trời trên hơn 8 năm của KHPT và 10 năm của KHTC). Tuổi đời đó của cả hai tờ không phải là nhỏ nếu ta so sánh với 750 tờ báo tiếng Việt đã lần lượt xuất bản trong nước kể từ năm 1865 cho đến 1954: thật vậy, theo thống kê của tác giả Trần Hữu Quang (Xã hội học báo chí, nxb Trẻ 2006), “trong tổng số 750 tờ báo kể trên, 81% không tồn tại quá ba năm, 42% không quá một năm”. Điều đó cho thấy, tuy những người viết lịch sử tri thức Việt Nam ít quan tâm tới mảng báo phổ biến khoa học này, số độc giả đương thời đã kiên trì hỗ trợ mục tiêu mà các tờ báo này đặt ra. Nên nhớ, những tờ nổi tiếng hơn nhiều như Phong hoá tuần báo (1932-1936), Ngày nay (1935-1940) cũng chỉ sống được 5 hay 6 năm.

Print Friendly and PDF