13.10.24

Giải Nobel Vật lý được trao cho những nhà khoa học tiên phong về mạng neuron, đặt nền móng cho AI

GIẢI NOBEL VẬT LÝ ĐƯỢC TRAO CHO NHỮNG NHÀ KHOA HỌC TIÊN PHONG VỀ MẠNG NEURON, ĐẶT NỀN MÓNG CHO A.I.

Christine Olsson / TT / EPA

Giải Nobel Vật lý năm 2024 đã được trao cho hai nhà khoa học John Hopfield và Geoffrey Hinton “vì những phát minh và khám phá nền tảng đã mở đường cho lĩnh vực học máy với mạng neuron nhân tạo”.

Lấy cảm hứng từ các ý tưởng trong ngành vật lý và sinh học, Hopfield và Hinton đã phát triển những hệ thống máy tính có khả năng ghi nhớ và học hỏi từ các mẫu dữ liệu. Dù chưa từng trực tiếp cộng tác, họ đã dựa vào nghiên cứu của nhau để cùng phát triển nền móng cho cú “bùng nổ” hiện nay ở lĩnh vực học máy (machine learning) và trí tuệ nhân tạo (AI).

Mạng neuron là gì? (Và nó liên quan gì đến vật lý?)

Mạng neuron nhân tạo là nền móng của nhiều công nghệ AI mà chúng ta sử dụng ngày nay.

Giống như não bộ con người có các tế bào thần kinh kết nối với nhau thông qua các khớp thần kinh, mạng neuron nhân tạo cũng có những neuron kỹ thuật số được kết nối theo các cấu hình khác nhau. Từng neuron riêng lẻ không có gì đặc biệt. Điều đặc biệt nằm ở mô hình và cường độ của các kết nối giữa chúng.

Các neuron trong mạng nhân tạo được “kích hoạt” bởi các tín hiệu đầu vào. Những tín hiệu này được truyền từ neuron này sang neuron khác sao cho có thể chuyển đổi và xử lý thông tin đầu vào. Qua đó, mạng nhân tạo có thể thực hiện các nhiệm vụ mang tính tính toán như phân loại, dự đoán và ra quyết định.

Print Friendly and PDF

12.10.24

Tác giả là cả một đám đông

TÁC GIẢ LÀ CẢ MỘT ĐÁM ĐÔNG

Tiphaine Samoyault[*]

Về cuốn Qu’est-ce qu’un auteur mondial? Le champ littéraire transnational/Một tác giả thế giới là gì? Trường văn học xuyên quốc gia

Qu’est-ce qu’un auteur mondial?/Tác giả toàn cầu là gì? Cuốn sách chắc hẳn sẽ trở thành một tác phẩm kinh điển của khoa học xã hội và nhân văn. Là sự tổng hợp của 25 năm nghiên cứu về xã hội học văn học, cuốn sách của Gisèle Sapiro[**] gây ấn tượng bởi sự trong sáng, phong phú của tài liệu và tầm nhìn sâu rộng của nó. Nó mô tả và tra vấn cơ chế của sự công nhận văn học đồng thời trình bày lịch sử của quá trình toàn cầu hóa trường (văn học - ND). Thế nào là một tên tuổi lớn? Một tác phẩm kinh điển? Một tác phẩm kinh điển thế giới? Nó được chế tạo như thế nào? Dưới đây là một số câu trả lời cho các câu hỏi trên trong cuốn sách hấp dẫn này.

Gisèle Sapiro | Qu’est-ce qu’un auteur mondial? Le champ littéraire transnational. EHESS/Gallimard/Seuil, 448 p., 25 €

Chúng ta đã quá quen với việc liên kết một tác phẩm với tác giả của nó đến nỗi chúng ta kết hợp vinh quang với một cái tên (hoặc sự sỉ nhục, như tiểu luận Peut-on dissocier l’œuvre de l’auteur?/Chúng ta có thể tách tác phẩm khỏi tác giả không? từng cho thấy và được NXB Seuil xuất bản vào năm 2020) mà không đặt quá nhiều câu hỏi. Điều chúng ta học được từ nghiên cứu tỉ mỉ của nhà xã hội học (đồng thời là thành viên ban biên tập của tạp chí En attendant Nadeau) là một tác phẩm kinh điển thế giới được chế tạo, với nhiều tác nhân. Một mạng lưới chặt chẽ các định chế và cá nhân góp phần tạo nên sự công nhận mà cuối cùng chỉ làm nổi bật một cái tên: dịch giả, người trung gian, nhà xuất bản, người đai diện văn học, giám khảo các giải thưởng, cả một đám đông vây quanh tác giả. Giới phê bình văn học từ lâu đã cho rằng tác giả không đơn độc. Tác giả cần độc giả của mình. Với xã hội học văn học, đội ngũ nhân sự được mở rộng và các điều kiện cho phép tác giả nam hay nữ đảm bảo, mở rộng và duy trì khả năng tiếp nhận mình bao gồm nhiều giai đoạn và mạng lưới.

Print Friendly and PDF

11.10.24

Giải Nobel Vật lý được trao cho những nhà tiên phong trong lĩnh vực học máy

GIẢI NOBEL VẬT LÝ ĐƯỢC TRAO CHO NHỮNG NHÀ TIÊN PHONG TRONG LĨNH VỰC HỌC MÁY

John Hopfield và Geoffrey Hinton là những nhà tiên phong trong các phương pháp tính toán cho phép phát triển các mạng lưới nơron.

Bởi Elizabeth Gibney và Davide Castelvecchi

Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tại Stockholm công bố những người chiến thắng. Ảnh: Jonathan Nackstrand/AFP qua Getty

Hai nhà nghiên cứu phát triển các công cụ giúp hiểu các mạng nơron vốn hỗ trợ sự bùng nổ trí tuệ nhân tạo (AI) hiện nay đã giành giải Nobel Vật lý năm 2024.

John Hopfield tại Đại học Princeton ở New Jersey và Geoffrey Hinton tại Đại học Toronto, Canada cùng chia sẻ giải thưởng trị giá 11 triệu kronor Thụy Điển (1 triệu đô la Mỹ), theo công bố của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tại Stockholm vào ngày 8 tháng 10.

Cả hai đều sử dụng các công cụ từ vật lý để đưa ra các phương pháp vận hành mạng nơron nhân tạo, vốn khai thác các cấu trúc phân lớp lấy cảm hứng từ bộ não để học các khái niệm trừu tượng. Những khám phá của họ "hình thành các khối cơ sở của học máy, có thể hỗ trợ con người đưa ra quyết định nhanh hơn và đáng tin cậy hơn", Ellen Moons, chủ tịch ủy ban vật lý Nobel, nhà vật lý tại Đại học Karlstad, Thụy Điển, cho biết trong buổi công bố giải thưởng. "Mạng nơron nhân tạo đã được sử dụng để thúc đẩy nghiên cứu trên nhiều chủ đề vật lý đa dạng như vật lý hạt, khoa học vật liệu và vật lý thiên văn".

Print Friendly and PDF

10.10.24

Năng lượng tối: Phạm Quang Hưng (Virginia)

NĂNG LƯỢNG TỐI

Phạm Quang Hưng

Dept. of Physics, University of Virginia

Tôi như con thuyền đã chọn sông Hương làm bến đỗ.

Phạm Quang Hưng

Phạm Quang Hưng (1950-2024), hưởng thọ 74 tuổi.
P.Q. Hung Ph.D., 1978, UCLA

Lời nói đầu

Giáo sư Phạm Quang Hưng vừa mất chiều 7-10 tại Virginia (Mỹ) tức ngày sáng ngày 8/10/2024 giờ Việt Nam, hưởng thọ 74 tuổi. Đây là một mất mát to lớn cho cộng đồng khoa học, vật lý, và cho Việt Nam. GS Hưng là một nhà vật lý hạt thành đạt và dấn thân cho các hoạt động vật lý cho Việt Nam, cho giáo dục, cho hướng dẫn nghiên cứu sinh Việt Nam.

Anh có trong diễn đàn edu-sci của chúng tôi từ thập niên 2000, tham gia vào số Kỷ yếu Max Planck 2008. Dưới đây tôi xin đăng lại bài của Anh, để tưởng nhớ Anh.

Sau Cao Huy Thuần, Chu Phạm Ngọc Sơn, Võ Tòng Xuân và nhiều người “lính già” kiên cường khác trên mặt trận khoa học, học thuật, đến lượt Phạm Quang Hưng ra đi. Làm sao nói hết nỗi thương tiếc các anh? Các anh là những chiến sĩ, các anh không chết, mà chỉ phai nhạt dần. Xin Anh hãy bình yên ở cõi Vĩnh Hằng. Việt Nam sẽ vẫn tưởng nhớ đến Anh, cùng các bạn chiến đấu thế hệ trước, cho một nước Việt Nam phát triển, tươi sáng và hạnh phúc.

Nguyễn Xuân Xanh

Abstract. The invention of Quantum Theory and the Theory of Relativity at the beginning of the 20th century have led to the most important revolution in physics which is continuing to influence the way we understand the structure of matter at its deepest level and the universe from its infancy to its far-distant future. The startling discovery in 1998 of an expansion of our universe which is accelerating instead slowing down as earlier expected reveals the “presence” of an unknown form of energy, the so-called Dark Energy, which could have a profound impact on our understanding of the physical universe. In this article, we will present the development of crucial ideas from Quantum Theory and the Theory of Relativity to the Standard Model of Elementary Particles which successfully describes the interactions of the building blocks of matter, and finally to the mystery of the Dark Energy and its implications.

Print Friendly and PDF

8.10.24

Số phụ nữ đoạt giải Nobel Vật lý chỉ đếm trên một bàn tay – những người chiến thắng gần đây có lời khuyên cho phụ nữ trẻ trong lĩnh vực này

SỐ PHỤ NỮ ĐOẠT GIẢI NOBEL VẬT LÝ CHỈ ĐẾM TRÊN MỘT BÀN TAY NHỮNG NGƯỜI CHIẾN THẮNG GẦN ĐÂY CÓ LỜI KHUYÊN CHO PHỤ NỮ TRẺ TRONG LĨNH VỰC NÀY

Giải Nobel được coi là một trong những huy chương danh giá nhất trong khoa học. Angela Weiss/Pool Photo qua AP, File
Trong số 225 người được trao giải Nobel Vật lý, chỉ có năm người là phụ nữ. Đây là một con số rất nhỏ, và chắc chắn là nhỏ hơn 50% – tỷ lệ phụ nữ trong dân số loài người.

Mặc dù có hàng loạt nghiên cứu chỉ ra những rào cản đối với phụ nữ trong khoa học và nhiều nỗ lực nhằm tăng cường sự đại diện của họ, vật lý vẫn là lĩnh vực do nam giới thống trị. Cứ mỗi 5 nhà vật lý thì chỉ có 1 là phụ nữ, con số này không thay đổi kể từ năm 2010.

Ba trong số năm giải Nobel Vật lý được trao cho phụ nữ đều diễn ra trong thập kỷ qua. Là một nhà vật lý nữ, tôi vô cùng phấn khích khi thấy ba phụ nữ gia nhập đội ngũ những người đoạt giải Nobel Vật lý chỉ trong vài năm gần đây.

Print Friendly and PDF

6.10.24

Nguồn gốc phép biện chứng (kỳ 4)

NGUỒN GỐC PHÉP BIỆN CHỨNG (KỲ 4)

(Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “Main Currents of Marxism” của Leszek Kolakowski, bản dịch tiếng Anh của P. S. Falla, Clarendon Press, Oxford 1978.)

MỤC LỤC KỲ 1
1. Sự bất tất của hiện hữu người
2. Sự tự cứu độ của Plotinus
3. Plotinus và thuyết Plato mang màu sắc Kito giáo. Một sự truy tầm lý tính sáng tạo

Leszek Kolakowski (1927-2009)

MỤC LỤC KỲ 2
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
5. Eckhart và phép biện chứng của sự thánh hóa
6. Nicholas of Cusa. Những mâu thuẫn của Tồn tại Tuyệt đối

MỤC LỤC KỲ 3
7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
9. Thời Khai minh. Sự hiện thực hóa của con người trong sơ đồ của chủ nghĩa tự nhiên
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên

MỤC LỤC KỲ 4
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy
12. Fichte và sự tự chinh phục của tinh thần
13. Hegel. Tiến trình của ý thức hướng đến cái Tuyệt đối

* * *
Immanuel Kant (1724-1824)

11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy.
  1. Kant cho lý tính con người có quyền tối cao trái ngược với niềm tin vào một trật tự tự nhiên mà lý tính chỉ là một phần biểu hiện của nó. Trong triết học của mình Kant bác bỏ niềm hi vọng rằng lý tính có thể phát hiện ra được quy luật tự nhiên, một sự hòa hợp trước – hiện hữu, hay một Thượng Đế duy lý, hay có thể diễn giải chính mình trong sự hòa hợp đó. Như Hume có thể tranh luận, điều này không có nghĩa là mọi tri thức của chúng ta bị quy giản vào tính bất tất hay các tri giác tách biệt. Không phải mọi phán đoán của ta đều là thường nghiệm hoặc chỉ là phân tích: các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm, tức là các phán đoán không thường nghiệm nói cho ta điều gì đó về hiện thực, khuôn định cột trụ của tri thức của ta và đảm bảo tính hợp thức cùng tính hiệu lực phổ quát của nó. Nhưng – và đây là một trong những kết luận chính của Phê phán lý tính thuần túy – các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm chỉ liên hệ đến các đối tượng của kinh nghiệm khả hữu. Điều này có nghĩa là chúng không thể cung cấp nền tảng cho một siêu hình học duy lý, vì siêu hình học sẽ phải bao gồm các phán đoán tiên nghiệm tổng hợp chỉ trong trường hợp các phán đoán này là khả hữu. Tất cả những gì ta có thể hi vọng là một siêu hình học nội tại trong hình dạng một mã của các quy luật tự nhiên không phải được rút ra từ kinh nghiệm mà có thể được xác định một cách tiên nghiệm. Mọi tư tưởng kì cùng đều liên quan đến tri giác, còn những kiến tạo có tính tiên nghiệm mà lý trí của ta tất yếu phải hình thành nên chỉ có nghĩa trong chừng mực chúng có thể được áp dụng vào thế giới thường nghiệm mà thôi. Vì thế trật tự của tự nhiên, trong chừng mực liên quan đến các năng lực cấu tạo của chúng, không được tìm thấy trong tự nhiên, mà do trật tự của chính tâm thức ta áp đặt lên tự nhiên. Trật tự này thuộc về sự xếp đặt của các đối tượng trong không gian và thời gian, như nền tảng của sự lĩnh hội thuần túy, và thêm vào là hệ thống các phạm trù, tức là các khái niệm phi – toán học trao sự thống nhất cho thế giới thường nghiệm nhưng không có nguồn gốc từ trong thế giới thường nghiệm đó.
Print Friendly and PDF

4.10.24

Ở Trung quốc, Internet đang biến mất

Ở TRUNG QUỐC, INTERNET ĐANG BIẾN MẤT

“Nếu internet là tương lai của nền văn minh thì thế hệ của chúng ta sẽ không có lịch sử - vì Internet sẽ không để lại một dấu vết nào của chúng ta.”

Trong một thời gian dài ta đã tin rằng Internet là thư viện mạnh nhất trong tất cả các thư viện. Là ký ức trọn vẹn của nhân loại. Trang mạng Trung Quốc với những nội dung từ nay được sản xuất và sử dụng nhiều hơn từ các điện thoại, chứng minh điều ngược lại: Internet không lưu trữ cái gì cả. He Jiayan phân tích tỉ mỉ một cuộc cách mạng với những hậu quả dữ dội cũng như ngấm ngầm.

Tác giả: LE GRAND CONTINENT, Hình: © DPPI-SIPA

LE GRAND CONTINENT - “Từ lâu chúng ta đã quan niệm Internet như một ký ức – chúng ta đã không biết rằng đó là một ký ức rất kém cỏi”. Trong vòng một thập kỷ, ngay trong khi Internet ngày càng trở nên phổ quát bởi số người dùng, Internet đã mất đi một phần ba nội dung của nó.

Đối với Trung Quốc, sự sụp đổ này của kho lưu trữ càng nghiêm trọng hơn. He Jiayan, nhà báo Trung Quốc chuyên về mạng Internet và lĩnh vực các công nghệ mới, nghiên cứu từ những tài liệu lưu trữ về tin học trước khi có Internet di động. Ông chỉ ra rằng chính sách cứng rắn về chính trị của Trung Quốc không phải là nhân tố quan trọng nhất của sự biến mất từng mảng lớn của mạng. Sự tự kiểm duyệt và chạy đua theo lợi nhuận đã ngầm đưa đến sự biến mất của một số lượng thông tin rất lớn của các máy chủ. Vào giai đoạn mà Internet di động có vẻ đang thay thế giai đoạn đầu của Internet, sự biến mất này dường như không được thấy rõ – nhưng nó hoàn toàn có thực.

Ngoài chiều kích kỹ thuật, Jiayan báo động về sự biến mất của một ký ức chung cấu thành một nền văn hoá dân gian vẫn còn sống động, được giao phó cho các máy chủ mà ta tưởng là bất tử - ngày nay chúng đang có nguy cơ bị sụp đổ. Đối với cả một thế hệ đã xây dựng theo hướng phi vật chất cuộc sống của họ trên Internet trong hai mươi năm đầu của thế kỷ XXI, rủi ro rất cụ thể là phải sống với hai thập kỷ không có ký ức.

Print Friendly and PDF

3.10.24

Nhà kinh tế hàng đầu Trung Quốc biến mất sau khi chỉ trích Tập Cận Bình trong cuộc trò chuyện riêng tư

NHÀ KINH TẾ HÀNG ĐẦU TRUNG QUỐC BIẾN MẤT SAU KHI CHỈ TRÍCH TẬP CẬN BÌNH TRONG CUỘC TRÒ CHUYỆN RIÊNG TƯ – NGUỒN TIN CHO HAY

Theo nguồn tin, Chu Hengpeng (Chu Hằng Bằng), chuyên gia từng công tác tại một viện nghiên cứu chính sách (think tank) có ảnh hưởng của chính phủ, đã không xuất hiện trước công chúng kể từ khi đưa ra những nhận xét mang tính chỉ trích trên nền tảng WeChat.

Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình. Chu Hằng Bằng, nhà kinh tế hàng đầu của Trung Quốc tại một think tank chính phủ được cho là đã biến mất sau khi bị kỷ luật vì chỉ trích chủ tịch trong nhóm trò chuyện riêng tư. Ảnh: Noel Celis/AFP/Getty Images

Nguồn tin cho hay, nhà kinh tế hàng đầu Trung Quốc làm việc tại think tank chính phủ đã mất tích sau khi bị kỷ luật do phê bình Tập Cận Bình trong một nhóm trò chuyện riêng tư.

Ông Chu Hằng Bằng

Chu Hằng Bằng, 55 tuổi, được tin là đã chê bai nền kinh tế Trung Quốc, và có khả năng còn đề cập trực tiếp đến nhà lãnh đạo Trung Quốc, trong một nhóm WeChat riêng tư. Tờ Wall Street Journal trích dẫn nguồn tin ẩn danh cho hay sau đó ông Chu đã bị bắt giữ vào tháng 4 và bị điều tra.

Ông Chu đã làm việc cho Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc (Chinese Academy of Social SciencesCass) trong hơn 20 năm, chức vụ gần đây nhất là phó giám đốc Viện Kinh tế và giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Công. Ông được cho là đã không xuất hiện trước công chúng kể từ lần phát biểu tại sự kiện do hãng truyền thông Trung Quốc Caixin tổ chức hồi tháng 4, một sự kiện mà trước đây ông thường tham gia. Những nỗ lực của Wall Street Journal để liên lạc với ông tại nhà riêng đã không thành công. Cass chưa phản hồi các câu hỏi của tờ Guardian.

Print Friendly and PDF

2.10.24

Xem phim VIỆT VÀ NAM của Trương Minh Quý

MỘT BẢN TUYÊN NGÔN ĐỂ HÀN GẮN NHỮNG MẢNH VỠ CỦA MỘT NƯỚC VIỆT NAM ĐAU KHỔ

Tác giả: Clarisse Fabre

Nhà đạo diễn Trương Minh Quý thăm dò những chấn thương của chiến tranh, qua những khung hình cực đẹp, lung linh sáng tối, nơi mà tình dục và cái chết song hành.

Việt (Đào Duy Bảo Định) và Nam (Phạm Thanh Hải), trong “Việt và Nam” của Trương Minh Quý. PHIM NOUR

Quả là một sáng kiến độc đáo, xếp cạnh nhau hai âm tiết, mà đồng thời cũng là hai cái tên ViệtNam, để hợp thành cái tựa của bộ phim. Cái tựa không chỉ gợi lại câu chuyện của một đất nước khổ đau vì chiến tranh dài nhất thế kỷ 20 (1955-1975), mà còn kể về số phận của hai chàng trai yêu nhau – Việt (Đào Duy Bảo Định) và Nam (Phạm Thanh Hải).

Cách sắp xếp này vang vọng như một tuyên ngôn, nhìn nhận lại chấn thương của chiến tranh dưới dạng một tác phẩm gây bồi hồi xúc động.

Thế là bộ phim của Trương Minh Quý xuất hiện tại Cannes (trong chương trình Nhãn Quan Độc Đáo) nhưng không được trình chiếu tại Việt Nam. Sinh năm 1990, đạo diễn Trương Minh Quý tự nhận mình chịu ảnh hưởng của các tác giả tiền bối như Tarkovsky, Bresson và Resnais, và song song với việc này, anh vẫn mài dũa ngôn ngữ riêng của bản thân. Việt và Nam là bộ phim thứ ba của anh, sau Nhà Cây - The Tree House (2019) và Thành Phố Những Tấm Gương - The City of Mirrors, A Fictionnal Biography (2016).

Print Friendly and PDF

1.10.24

Giải Nobel kinh tế: hiểu bất bình đẳng giới trong việc làm

GIẢI NOBEL KINH TẾ: HIỂU BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG VIỆC LÀM

Tác giả:

Sara Signorelli, giảng viên tại CREST (Center for Research in Economics and Statistics), trường Đại học Bách Khoa Paris

Roland Rathelot, giáo sư kinh tế tại ENSAE (École nationale de la statistique et de l'administration économique de Paris)

Công bố ngày 9 tháng 9 năm 2024

Tóm tắt

·         Nhà khoa học nữ người Mỹ Claudia Goldin đã được trao giải Nobel về kinh tế năm 2023 cho những công trình nghiên cứu về vị trí của phụ nữ trên thị trường lao động và những phân tích của bà về bất bình đẳng về lương.

·         Bà đã chỉ ra rằng sự tham gia kinh tế của phụ nữ đã đi theo một lộ trình hình chữ “U”, chịu ảnh hưởng của những thay đổi quan trọng về mặt xã hội, chẳng hạn như viên thuốc ngừa thai.

·         Phương pháp làm việc của bà là đặc biệt mới mẻ vì bà dùng đến những dữ liệu lịch sử, bà phân tích thời gian dài và lập ra nhiều giả thuyết khác nhau.

·         Claudia Goldin mô tả một cuộc “cách mạng thầm lặng” vào đầu những năm 1970, đặc biệt được khởi động bởi việc ngừa thai, điều này đã giúp cho phụ nữ Mỹ lập kế hoạch và xây dựng sự nghiệp chuyên môn.

·         Mặc dù có nhiều tiến bộ, nhà kinh tế học này nhận thấy những bất bình đẳng về lương vẫn tồn tại dai dẵng, đặc biệt là vì những “việc làm chạy theo tiền” (emploi cupide) và hình thức việc làm linh hoạt.

Sara Signorelli
Claudia Goldin (1946-)

Claudia Goldin đã đặt trở lại vấn đề giới vào trọng tâm của khoa học kinh tế”, theo lời giải thích của ông Roland Raathelot, giáo sư kinh tế tại Viện Bách Khoa Paris. Trước Claudia Goldin, những phân tích kinh tế nói chung loại trừ phụ nữ, vốn bị ảnh hưởng bởi những lần nghỉ làm việc và bởi việc làm bán thời gian. Năm 1990, nhà kinh tế học người Mỹ này là phụ nữ đầu tiên được tuyển dụng vào khoa kinh tế của Đại học Harvard, nơi bà giảng dạy cho đến ngày nay. Như vậy, Claudia Goldin là một trong những nhà nghiên cứu nữ đầu tiên quan tâm cụ thể đến vai trò của phụ nữ trên thị trường lao động và những đặc điểm của việc làm của nữ giới. Vào tháng mười năm 2023, chính những công trình này đã đem lại cho bà giải Nobel về kinh tế. “Claudia Goldin là người đầu tiên khẳng định rằng việc làm của phụ nữ là xáo trộn lớn nhất trong cấu trúc của thị trường lao động trong thế kỷ XX”, Sara Signorelli, giảng viên kinh tế tại trường Đại học Bách khoa Paris nêu chi tiết như vậy.

Print Friendly and PDF