NGUỒN GỐC PHÉP BIỆN CHỨNG (KỲ 4)
(Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “Main Currents of Marxism” của Leszek Kolakowski, bản dịch tiếng Anh của P. S. Falla, Clarendon Press, Oxford 1978.)
1. Sự bất tất của hiện hữu người
2. Sự tự cứu độ của Plotinus
3. Plotinus và thuyết Plato mang màu sắc Kito giáo. Một sự truy tầm lý tính sáng tạo
 |
Leszek Kolakowski (1927-2009) |
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
5. Eckhart và phép biện chứng của sự thánh hóa
6. Nicholas of Cusa. Những mâu thuẫn của Tồn tại Tuyệt đối
7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
9. Thời Khai minh. Sự hiện thực hóa của con người trong sơ đồ của chủ nghĩa tự nhiên
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên
MỤC LỤC KỲ 4
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy
12. Fichte và sự tự chinh phục của tinh thần
13. Hegel. Tiến trình của ý thức hướng đến cái Tuyệt đối
* * *
 |
Immanuel Kant (1724-1824) |
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy.
- Kant cho lý tính con người có quyền tối cao trái ngược với niềm tin vào một trật tự tự nhiên mà lý tính chỉ là một phần biểu hiện của nó. Trong triết học của mình Kant bác bỏ niềm hi vọng rằng lý tính có thể phát hiện ra được quy luật tự nhiên, một sự hòa hợp trước – hiện hữu, hay một Thượng Đế duy lý, hay có thể diễn giải chính mình trong sự hòa hợp đó. Như Hume có thể tranh luận, điều này không có nghĩa là mọi tri thức của chúng ta bị quy giản vào tính bất tất hay các tri giác tách biệt. Không phải mọi phán đoán của ta đều là thường nghiệm hoặc chỉ là phân tích: các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm, tức là các phán đoán không thường nghiệm nói cho ta điều gì đó về hiện thực, khuôn định cột trụ của tri thức của ta và đảm bảo tính hợp thức cùng tính hiệu lực phổ quát của nó. Nhưng – và đây là một trong những kết luận chính của Phê phán lý tính thuần túy – các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm chỉ liên hệ đến các đối tượng của kinh nghiệm khả hữu. Điều này có nghĩa là chúng không thể cung cấp nền tảng cho một siêu hình học duy lý, vì siêu hình học sẽ phải bao gồm các phán đoán tiên nghiệm tổng hợp chỉ trong trường hợp các phán đoán này là khả hữu. Tất cả những gì ta có thể hi vọng là một siêu hình học nội tại trong hình dạng một mã của các quy luật tự nhiên không phải được rút ra từ kinh nghiệm mà có thể được xác định một cách tiên nghiệm. Mọi tư tưởng kì cùng đều liên quan đến tri giác, còn những kiến tạo có tính tiên nghiệm mà lý trí của ta tất yếu phải hình thành nên chỉ có nghĩa trong chừng mực chúng có thể được áp dụng vào thế giới thường nghiệm mà thôi. Vì thế trật tự của tự nhiên, trong chừng mực liên quan đến các năng lực cấu tạo của chúng, không được tìm thấy trong tự nhiên, mà do trật tự của chính tâm thức ta áp đặt lên tự nhiên. Trật tự này thuộc về sự xếp đặt của các đối tượng trong không gian và thời gian, như nền tảng của sự lĩnh hội thuần túy, và thêm vào là hệ thống các phạm trù, tức là các khái niệm phi – toán học trao sự thống nhất cho thế giới thường nghiệm nhưng không có nguồn gốc từ trong thế giới thường nghiệm đó.