19.9.14

Khoa học luận kinh tế

Khoa học luận kinh tế

Trong tất cả những bộ môn nhằm mô tả và giải thích những sự kiện trong đó con người trực tiếp tham gia, có lẽ Kinh tế học là ứng viên tốt nhất để được danh hiệu khoa học. Bộ môn này có một bộ máy mạnh để thu thập và xử lí thống kê những sự kiện cũng như một tính phong phú lí thuyết mà tinh thần và những công cụ luôn được đổi mới từ hai hay ba thế kỉ nay. Tuy nhiên nếu xét đến tính không chắc chắn của những dự báo bộ môn này cho phép có được và tính đa dạng của những giải thích được những môn đồ xuất sắc nhất của bộ môn đề xuất, đôi lúc một cách đồng thời, thì ta không khỏi hoài nghi, hay ít ra là dè dặt. Tuy vậy, nên chăng phải hiểu đúng nghĩa của nó nhận định khôi hài và chua cay của bà Joan Robinson (1962: 26): “Như thế, kinh tế học tiếp tục con đường của nó, vừa đi vừa cà thọt, một chân trong những giả thiết không được kiểm tra và chân kia trong những khẩu hiệu không thể kiểm tra được”? ... Ở đây nhà triết học không có chủ ý quyết định như một luật gia về tính chính đáng của tham vọng bộ môn muốn trở thành một khoa học mà chỉ phác thảo một phân tích về những lí do để có được niềm tin và hi vọng ấy. Đây chỉ là việc nhận diện những mục tiêu của bộ môn kinh tế và những cách khác nhau mà bộ môn này tiếp cận đối tượng của nó. Không phải là triết gia muốn thế chỗ nhà kinh tế để bàn vào chi tiết những phương thức và chỉ dạy phương pháp cho nhà kinh tế. Hẳn là không thể tư duy triết học đúng cách về một khoa học mà không xem xét kĩ những cách tiếp cận thật sự của khoa học này; và sẽ là một việc phù phiếm khi ngẫm nghĩ về hình ảnh một khoa học lí tưởng và không có da có thịt. Nhưng nếu một tư duy khoa học luận phải nhắm vào một khoa học cụ thể, được xác định một cách lịch sử, thì tư duy này chỉ nhằm kiến giải ý nghĩa của khoa học ấy, làm rõ những khái niệm, vấn đề và có thể phát hiện những hướng bị che giấu. Quan tâm đến những công cụ và khám phá, suy nghĩ này tuy vậy không thể được lẫn lộn với một lịch sử hay một công nghệ, và càng không thể lẫn lộn với một tương lai học.      
1. Tiến bộ trong khoa học kinh tế
Như thế câu hỏi đầu tiên của triết gia, khi đi học và lắng nghe các nhà kinh tế, liên quan đến một nét chung cho những bộ môn khác nhau đã được xác lập như một khoa học, một nét đụng đến ý nghĩa lịch sử tổng quát của một tri thức như vậy: có hay không một tiến bộ của tri thức kinh tế, và nếu có, bản chất của tiến bộ này là gì? Chắc chắn là câu trả lời cho phần đầu câu hỏi là có. Lịch sử của Kinh tế học hiển nhiên cho thấy là có sự tiến bộ, ở chỗ ngày càng có nhiều hiện tượng được tính đến, được nắm bắt trong tính phức hợp của chúng, được nhận diện một cách chi tiết hơn. Cũng còn có tiến bộ ở chỗ việc hệ thống hoá các hiện tượng là phong phú hơn, những nguyên lí chính xác hơn được đề nghị để giải thích những hành vi kinh tế, việc phát biểu những mắt xích nhân quả ngày càng viện đến biểu thức toán học. Chúng ta sẽ còn phải trở lại tầm rộng lớn, ý nghĩa và giới hạn của những tiến bộ tổng quát này khi xét đến những vấn đề do đối tượng của nhận thức kinh tế đặt ra.
Trước mắt tự đặt mình trong một cách nhìn rất tổng quát, nếu trước hết ta tìm hiểu những thời điểm dễ nhận diện nhất và có tính quyết định nhất của tiến bộ trên đã hiện ra như thế nào trong lịch sử thì ta khám phá là tiến bộ hiện ra chủ yếu dưới hai khía cạnh. Một dạng đổi mới thứ nhất xuất phát từ việc tính đến một hiện tượng xã hội đại trà và tương đối mới. Đó là trường hợp của sự đổ dồn tiền tệ[1] đối với các nhà trọng thương, của sự bành trướng của nền công nghiệp và trạng thái nô lệ của công nhân đối với Marx, của việc mở rộng thất nghiệp đối với Keynes. Một lực đổi mới khác, bề ngoài có tính chất nội tại, là việc ứng dụng một phương pháp tư duy mới đối với những hiện tượng đã được biết đến trước đó. Đó là trường hợp của học thuyết cận biên, rồi của học thuyết tân cổ điển, với việc phổ biến những khái niệm vi phân rồi đến những khái niệm topo của giải tích hiện đại. Ta nhận xét rằng ví dụ này nêu bật những hệ quả của việc đưa một công cụ toán học vào; nhưng một thay đổi của phương pháp tư duy những hiện tượng hoàn toàn không quy về dạng đặc biệt này. Như vậy, có lẽ đặc trưng cho một khía cạnh của sự tiến bộ của Kinh tế học đương đại là việc chuyển sự nhấn mạnh ban đầu từ khái niệm cân bằng đến những khái niệm khác nhau về không cân bằng, một chuyển dịch độc lập với mọi hình thức hoá toán học. Tất nhiên hai phương thức đổi mới bộ môn kinh tế này luân phiên nhau và được kết hợp ít nhiều với nhau một cách chặt chẽ trong những thành tựu thực tiễn. Hơn nữa, hai phương thức này bị những cách nhìn ý thức hệ đã sinh ra hay gắn liền với chúng xâm nhập và bóp méo. Ở đây chúng tôi hiểu hệ ý thức trong nghĩa rộng, nghĩa là mọi quan điểm có hệ thống buộc sự quan sát và giải thích phải phụ thuộc vào việc truyền bá một số lí tưởng, và có xu hướng thay thế lí lẽ, lịch sử và khái niệm bằng những mong muốn, huyền thoại và hình ảnh. Chính sự giao thoa giữa hệ tư tưởng và nhận thức khách quan đã phát sinh ra tính luận chiến và tính không khoan nhượng của những “hệ chuẩn” (paradigme), mà dạng sắc sảo đặc trưng cho thời sơ khoa học (proto science) hay ít ra là những trạng thái còn chưa được khai phá của khoa học. Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng có thể có một khoa học kinh tế lí tưởng, không có quan hệ gì đến một hệ tư tưởng. Trong nghĩa nào và đến mức nào sự thông đồng này là không thể tránh khỏi, đó là câu hỏi phải nêu lên khi xem xét quan hệ của khoa học này với thực tiễn. Một mối quan hệ mà trong trường hợp của của mọi tri thức khoa học về những hiện tượng con người và khác với những gì xảy ra cho các khoa học tự nhiên, đặt ra một vấn đề thuần túy khoa học luận, gắn với thực chất của tri thức này. Nhưng trước đó cần phải hình dung một cách tổng quát những vấn đề mà đối tượng đặc biệt của Kinh tế học đặt ra.          

2. Vấn đề đối tượng của một khoa học kinh tế
2.1 Nội sinh và ngoại sinh
Có lẽ là hầu hết các nhà kinh tế đồng tình rằng bộ môn của họ có xu hướng mô tả và giải thích việc sử dụng và phân bổ những nguồn lực hiếm hoi hầu thỏa mãn những nhu cầu hay mong muốn của con người sống trong xã hội. Nhưng cách đặc trưng Kinh tế học như thế để bỏ ngõ nhiều câu hỏi mà bộ môn này che giấu đằng sau việc sử dụng bình thường những từ như: việc làm, phân phối, nhu cầu, nguồn lực hiếm hoi, xã hội ... Dễ dàng chứng minh là từ việc kiến giải, đặc trưng và nhấn mạnh mỗi một từ này sẽ có được những hướng nghiên cứu và mệnh đề học thuyết khá khác nhau. Ở đây chỉ giới hạn ở việc nêu rõ một vài khía cạnh chủ yếu của những khó khăn do chính đối tượng của Kinh tế học đặt ra.
Và trước hết, đến mức nào có thể tách biệt hiện tượng kinh tế khỏi những hiện tượng khác được gọi là hiện tượng xã hội? Đây không chỉ là khó khăn riêng của nhà kinh tế nhưng còn có ảnh hưởng qua lại đến nhà xã hội học, nhà dân tộc học và trong một chừng mực nhất định đến mọi môn đồ của một khoa học về con người trong xã hội. Có thể nào tháo khớp mà không phương hại đến “hiện tượng xã hội tổng thể” (fait social total), nói theo thuật ngữ của Marcel Mauss? Hẳn là mọi tri thức khoa học đòi hỏi một trừu tượng hoá, điều kiện mà vật lí học lẫn hoá học đều tuân thủ tùy theo những lĩnh vực mà tiến hoá của những khoa học này đã ít nhiều cô lập. Nhưng đối với những hiện tượng xã hội, vấn đề còn bỏ ngõ là, ví dụ, những yếu tố mà nhà kinh tế đã phân chia ra còn có ý nghĩa hay không, và ý nghĩa này là riêng cho yếu tố đó và tương đối độc lập hay không. Nhà kinh tế thường tự giải phóng khỏi nỗi nghi ngờ này bằng cách đưa vào, trong trạng thái hay trong những qui trình được nhà kinh tế nghiên cứu, những biến “ngoại sinh”. Những biến này do môi trường cung cấp và được giả định là cho được một khung hay những điều kiện tương đối cứng nhắc cho sự vận hành của những biến “nội sinh” mà nhà kinh tế tìm cách biểu hiện những quan hệ. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể chấp nhận đặt bối cảnh “ngoại sinh” ở ngoài cuộc. Có thể là tác động của ít nhất một số những biến loại này phát huy ảnh hưởng ngay trong chính hệ thống, phản ứng lại trước những biến “nội sinh”, và do đó hoạt động trên cùng một bình diện như những biến này. Trong trường hợp này, điều khoản “những điều kiện khác không thay đổi” là một mẹo đánh lừa. Chính vì thế mà vừa rồi FranVois Perroux đề nghị thêm vào cơ chế cạnh tranh “ràng buộc, một sản phẩm kinh tế bị bỏ quên”. Nhưng chỉ một nghiên cứu về những cấu trúc và những quan hệ động của những nhóm can dự vào đời sống kinh tế mới có thể rút ra được những yếu tố xã hội học dưới một dạng riêng biệt cho việc đưa những yếu tố này vào trong những phương trình của Kinh tế học. Dầu sao đi nữa, hình như sự thâm nhập lẫn nhau giữa Kinh tế học và xã hội học, đặc biệt là một xã hội học chính trị và một lí thuyết đủ tổng quát và chính xác về những quyền lực là một việc không thể né tránh mãi.   
2.2 Những khái niệm vi mô và vĩ mô
Nếu ta bỏ qua khó khăn đầu này và tạm thời chấp nhận, một điều có vẻ phải chăng, khả năng tách những hiện tượng đặc biệt kinh tế hơn ra khỏi những hiện tượng xã hội thì còn lại vấn đề nối khớp cái vĩ mô với cái vi mô. Sự phân biệt vĩ mô và vi mô, ngày nay có mặt trong mọi sách kinh tế, không bao phủ hết những ý mà các từ này gợi lên. Có lẽ, những biến kinh tế vĩ mô quy về đúng với những tập hợp lớn: tổng sản phẩm quốc gia, tỉ suất thất nghiệp, cung tiền ... Tuy nhiên, sự phân biệt chủ yếu không hẳn là có tính định lượng mà là định tính, và đúng hơn ứng với những mức độ trừu tượng hoá khác nhau. Trên quan điểm kinh tế vi mô, người ta hình dung những tác nhân như những trung tâm lựa chọn và ra quyết định, và những sản phẩm và nguồn lực được xem là tách biệt, và nói theo cách của E. Malinvaud “tôn trọng tính cá thể” của những tác nhân và sản phẩm ấy. Như thế kinh tế học vi mô phát triển như một lí thuyết về sự hình thành giá cả và ấn định những số lượng sản xuất của một sản phẩm nhất định, trong một cuộc chơi sản xuất và trao đổi tương đối trừu tượng của những tác nhân cá nhân hoặc doanh nghiệp nhằm hoàn thành một cách tốt nhất những mục tiêu của họ. Trên quan điểm kinh tế vĩ mô, người ta hình dung nhiều hơn đến những quan hệ có thể phỏng đoán được giữa các biến thiên của những đại lượng quan sát, những tác nhân kinh tế như vậy hiện ra, một cách tập thể, như những chỗ dựa hay những nền nơi những đại lượng được quy về hơn là những diễn viên có ý đồ trong sự hình thành những đại lượng này. Các “hộ gia đình”, các “doanh nghiệp”, các “cơ quan” là những chủ sở hữu những di sản và thu nhập. Nhà kinh tế đề nghị những quan hệ giữa những khối lượng và những chuyển động của những đại lượng này mà không quy chúng về, ít nhất là một cách trực tiếp, những chiến lược.
Ta nhận xét rằng việc đối lập vĩ mô vi mô là tương đối mới xảy ra gần đây thôi. Kinh tế học tiền cổ điển của những nhà trọng thương và trọng nông, và Kinh tế học cổ điển của Smith, Ricardo, J. B. Say (kể cả kinh tế học của Marx) không có sự phân biệt này. Những học thuyết này, ngày nay chúng ta có thể nói như vậy, xử lí một cách kinh tế vi mô những hiện tượng kinh tế vĩ mô được quy về những nhóm xã hội được trình bày như những người chủ chốt, những chủ thể tập thể. Quan điểm kinh tế vi mô chỉ đặc biệt nổi lên ở các nhà cận biên, với phép tính cá nhân về những lợi ích, và quan điểm này không rõ ràng đối lập với một kinh tế học vĩ mô. Cho dù cặp thuật ngữ này được Frisch đề xuất năm 1932, sự đối lập chỉ thực sự bắt đầu với Keynes, khi những hiện tượng như thất nghiệp, và những biến như tỉ suất tổng đầu tư được xem xét vì chính bản thân chúng, và khi những “chính sách kinh tế vĩ mô” được hình dung và đi vào thực tiễn.                     
 Tuy nhiên, quả đúng là những quan hệ kinh tế vĩ mô thường được xem như cần được giải thích, xét đến cùng, bằng những cơ sở vi mô.
Khoa học của chúng ta chưa hoàn thành sự hợp nhất của lí thuyết kinh tế vi mô về việc phân bổ các nguồn lực với lí thuyết kinh tế vĩ mô về tiền tệ, tài chính công cộng và những quan hệ quốc tế ...” (E. Malinvaud, LeVons de théorie microéconomique, tái bản lần thứ ba, 1975: 10).
Một thiếu sót mà chắc là ông lấy làm tiếc và coi như tạm thời. Còn Maurice Allais, trong những tác phẩm của ông, hình như không cho rằng sự phân biệt vi mô/vĩ mô là quan trọng, và trong tác phẩm lớn của ông đã xem quan điểm vĩ mô như một phương pháp phụ trợ trong số những phương pháp khác:
Lí thuyết về những tổng đại lượng, lí thuyết cạnh tranh không hoàn hảo, lí thuyết trò chơi ... phải đến sau (lí thuyết những lựa chọn, lí thuyết cân bằng chung), với tư cách phụ trợ và xấp xỉ thứ nhì” (1952, chương 1).
Như vậy đâu là ý nghĩa của sự phân biệt này? Một ý tự nhiên là so sánh sự phân biệt này với phân biệt của các nhà vật lí giữa lĩnh vực của vật lí học vĩ mô và vật lí học vi mô, hay chính xác hơn giữa những mức độ khác nhau của sự phân biệt này. Một so sánh như thế chỉ bổ ích một phần, ở chỗ là trong cả hai trường hợp, những hiện tượng vĩ mô được hiểu như những hệ quả thống kê của những hiện tượng “cá thể” ở cấp độ vi mô. Mặt khác có thể tìm thấy trong Kinh tế học tính chất chủ yếu không quan sát được của một số khía cạnh của vật lí vi mô, nếu ta nghĩ rằng nội quan và ngay cả thí nghiệm, ứng dụng vào việc quan sát những thị hiếu và những quyết định cá nhân, ở mức cao nhất sáng tạo nên những giả tượng (artefact) ít đáng tin cậy để có thể xem đấy là nguồn gốc cho một hiểu biết thực nghiệm có giá trị (tất nhiên là chúng tôi dùng từ “thực nghiệm” trong nghĩa triết học là có liên quan đến thí nghiệm, không có hàm ý xấu nào). Tuy nhiên, quả sẽ là mạo hiểm nếu khẳng định đơn thuần rằng lí thuyết vi mô đối với lí thuyết vĩ mô trong Kinh tế học cũng giống như lí thuyết vi mô đối với lí thuyết vĩ mô trong vật lí học. Như vậy, trong số những khác biệt riêng, thì nhận định về thời gian và việc đưa thời gian, dưới những dạng khác nhau, như là một biến thật sự chứ không đơn giản là một cột mốc vào trong những hiện tượng kinh tế không thể được tiến hành giống nhau ở cấp kinh tế vi mô và cấp kinh tế vĩ mô. Vì chỉ ở cấp độ vĩ mô thì việc tính đến thời gian mới có một vai trò vô cùng thiết yếu, những giai đoạn công nghệ của việc đưa thời gian trở vào và cách xử lí thời gian về mặt khái niệm, theo tôi, là một trong những nét chính của lịch sử hiện đại của Kinh tế học. Mặt khác, quan điểm kinh tế vĩ mô được gắn một cách cơ bản với những triển vọng ứng dụng nhận thức này, dù cho, một cách nghịch lí, những triển vọng này lại đưa trở vào một tác nhân cá thể và có chủ tâm, một nhà kế hoạch hoá và nhà điều hoà, có thể so sánh được với những tác nhân của kinh tế học vi mô. Nhưng ngược lại, chính quan điểm kinh tế vi mô có vai trò chính trong những nhận định lí thuyết về lợi thế tập thể. Dù sao đi nữa, có muốn dùng kinh tế học vi mô làm cơ sở cho kinh tế học vĩ mô hay không thì vấn đề hiểu và lí giải quan hệ vĩ mô vi mô vẫn không được giải quyết hoàn hảo, và thường là được đặt không đúng cách.                        

2.3 Quan sát những hiện tượng
Vĩ mô hay vi mô, đối tượng kinh tế, như mọi đối tượng của một khoa học thực nghiệm, hiện lên vừa như một thiết kế tri thức trừu tượng vừa như một nguồn những dữ liệu quan sát được. Nay ta xét trước khía cạnh thứ nhì. Về mặt này, chúng tôi nhấn mạnh đến ba loại vấn đề khác nhau mà việc thu thập những dữ kiện kinh tế đặt ra.
Thứ nhất, việc đặc thù hoá thực nghiệm những tổng đại lượng được kinh tế vĩ mô bàn đến có những khó khăn về mặt nguyên tắc: bằng cách nào chuyển từ vô số những dữ liệu riêng lẻ và có thể là không đồng nhất sang một đại lượng duy nhất được giả định là tượng trưng cho các dữ liệu riêng lẻ này ở cấp độ một “đại lượng tổng gộp”. Việc gộp những dữ liệu cho phép xác định sản xuất, theo khối lượng của một quốc gia hay của một ngành công nghiệp, hay một chỉ số giá, tất nhiên không thể đơn giản quy về những phép tính trung bình. Nhà thống kê, trong mỗi trường hợp, phải làm rõ những điều kiện hình thức đòi hỏi ở một hàm làm sao ứng với những tập hợp dữ liệu một con số duy nhất, và xây dựng một vật thể toán học tính toán được, thỏa mãn những đòi hỏi trên trong những giới hạn chấp nhận được. Những tiêu chuẩn gộp được đề nghị, mà thường chỉ được thỏa mãn bằng những phương thức khá võ đoán, không phải lúc nào cũng giúp trả lời câu hỏi then chốt: thật sự cái gì đã được quan sát, cái gì đã được đo đạc?  
Thứ nhì một số khái niệm trừu tượng đưa vào lí thuyết có vẻ khó đo được một cách thật sự. Ví dụ, Hicks (1956) bàn về khái niệm thặng dư của người tiêu dùng cho rằng đây là “một cách cực kì thuận tiện để định hình ý tưởng” hơn là biểu hiện của một đại lượng thực tế. Tuy nhiên chớ để những khái niệm như thế được các nhà kinh tế sử dụng làm ta nghi ngờ tính thực nghiệm của khoa học của họ, vì cùng một hiện tượng khoa học luận đó cũng xảy ra trong những khoa học tự nhiên khi một số đại lượng được định nghĩa dưới những điều kiện không thực hiện được ví dụ như entropi sẽ mất hết ý nghĩa nếu ta đòi hỏi là thí nghiệm phải nắm bắt trực tiếp chúng. Không vì thế mà những khái niệm này ít có hiệu quả do khả năng gợi mở của chúng và do những hệ quả trên những đại lượng đo được mà chúng cho phép tính toán. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi một nhà kinh tế như M. Allais muốn thiết lập cho những đại lượng kinh tế những “hệ thống đơn vị cơ bản” với, bên cạnh những đại lượng “cụ thể” (như thời gian và giá trị) là những đại lượng “trừu tượng” (ví dụ sự thỏa mãn và sự “ao ước”) không nắm bắt trực tiếp được, và giống như trong những hệ thống đại lượng vật lí ông phát biểu những quan hệ chiều kích. Ví dụ, trong hệ thống [S, Q, W, q] (thỏa mãn, số lượng sản phẩm, giá trị, thời gian), sự “ao ước” hay thỏa mãn cận biên có chiều kích S. Q. q-1. Dù cho việc hiệu chỉnh những hệ thống như thế có vẻ khó khăn, có lẽ một ngày nào đó phải có một sự thỏa thuận rõ ràng giữa các nhà kinh tế trên vấn đề này, như đã được Jevons đề nghị.
Thứ ba, có nhiều khó khăn quan trọng trong việc thu thập thật sự những dữ liệu dưới dạng sử dụng được và đánh giá mức tin cậy cần dành cho những độ đo các dữ liệu đó, và điều này thường bị lờ đi. Oskar Morgenstern (1963) trước đây đã xem xét không khoan nhượng vấn đề này trong một quyển sách có sức công phá lớn. Ông tố giác, với bằng chứng rõ ràng, việc dung túng ảo tưởng về tính chính xác của những số liệu không có ý nghĩa, và nhất là không cho biết độ xấp xỉ có thể của các số liệu. Dùng một nghiên cứu của S. Kuznets về việc thiết lập số liệu thu nhập quốc gia của Hoa Kì để làm ví dụ, ông nhận xét là tác giả này ước lượng rằng sai số là ít nhất 10%, một biên độ hình như không có gì là quá đáng. Nhưng cần phải thấy rằng với một con số khoảng 500 tỉ đô la, sai số có thể là gấp ba lần số xuất khẩu của Hoa Kì ... Mặt khác, dù sai số chỉ giới hạn ở mức 5 %, nếu ước lượng của GDP trên hai năm tăng từ 550 đến 560 tỉ thì tỉ suất tăng trưởng có thể biến động, với những giả thiết sai số cực kì, giữa - 7,9 và + 12,5 % trong lúc nếu giải định là GDP được đo một cách chính xác thì tỉ suất tăng trưởng là 1,8 %. Ta thấy là, theo cách nói ôn hoà của O. Morgenstern, những tỉ suất tăng trưởng được công bố lạm dụng những con số sau dấu phẩy, “như hiện có là không có giá trị cho những sử dụng khắt khe đòi hỏi phải vận dụng những tỉ suất này”. Dù cho ngày nay tình hình đã được cải thiện rõ rệt, có lẽ phải kết luận với tác giả này là Kinh tế học có một nhu cầu cấp bách cải tiến những phương thức thu thập số liệu, và ít nhất là buộc phải công bố những ước lượng về biên độ sai số kèm theo số liệu. Nếu thiếu sót trên, đến ngày nay vẫn còn nhận thấy, hoàn toàn không cấm cản việc xây dựng các lí thuyết thì luôn phải ngại rằng người ta rút ra từ những mô hình, với những con số quá bấp bênh, những “ứng dụng lố lăng”.         

2.4 Mô hình hoá
Việc ước lượng những giá trị thực nghiệm các tham số của một mô hình tất nhiên cũng gặp những bất trắc như trên và có thể dẫn đến việc là những kết luận được rút ra từ mô hình có những biên độ biến thiên quá đỗi khiến cho các kết luận này là vô nghĩa. Đây là lúc nêu lên vấn đề bản chất và chức năng của những mô hình trong Kinh tế học.
Cần nhắc lại rằng khái niệm mô hình, hiểu trong nghĩa rộng như là một biểu trưng của những hiện tượng bằng những phần tử trừu tượng được tổ chức trong một cấu trúc, là cần thiết cho mọi tri thức khoa học. Tính trừu tượng của biểu trưng này, sự đòi hỏi làm rõ dưới dạng logic hay toán học của cấu trúc, là những điều kiện của mọi tri thức thực chứng và có hiệu quả về những hiện tượng. Nhưng những phương thức của việc cấu trúc hoá này thay đổi tùy theo những lĩnh vực nghiên cứu. Trong Kinh tế học, cần có một phân biệt chính giữa những mô hình kinh trắc và những mô hình được chúng tôi gọi là “lí thuyết”, do không có thuật ngữ nào đặc thù hơn (vì cả hai loại mô hình, trong một nghĩa nào đó, đúng là những mô hình lí thuyết). Đặc điểm của những mô hình kinh trắc là các tham số (ta biết là toán học phân biệt những tham số của các biến với những hằng số. Những giá trị được gán cho các tham số, và tạm thời không được xác định, chỉ rõ những trường hợp ứng dụng của cấu trúc chung của mô hình. Có thể nói rằng đó là những biến cấp hai, những biến cấu trúc) của những mô hình này được đưa vào một cách rõ ràng để có thể ước lượng chúng thật sự. Do đó đây là những biểu trưng mà chúng tôi gọi một cách ẩn dụ là “địa phương”, để đối lập với những lí thuyết tổng quát hay mô hình tổng thể mà tầm rộng lớn loại trừ việc ước lượng thật sự những tham số. Như thế ta có thể đối lập một “lí thuyết cân bằng chung”, kiểu Walras hay kiểu Debreu, với những mô hình mô tả những hiện tượng đặc biệt của sản xuất và trao đổi, dù cho những mô hình này liên quan đến một tập hợp to lớn, chẳng hạn như nền kinh tế của một quốc gia. Hơn nữa dường như người ta không đòi hỏi ở một mô hình kinh trắc rằng những quan hệ giữa các đại lượng được giả định là đo được luôn có một ý nghĩa vượt quá nhận xét thuần túy và đơn giản rằng có một sự ổn định nhất định. Ví dụ, đó là trường hợp của mô hình Pareto nổi tiếng về sự phân phối thu nhập. Trên quan điểm này thì một mô hình kinh trắc có thể là một mô hình mô tả tốt, trong lúc những quan hệ được kiểm tra bằng thực nghiệm mà mô hình đề nghị vẫn là một câu đố không được lí giải. Trong cách nhìn riêng của kinh trắc học, điều được nhấn mạnh là việc ước lượng những tham số, hơn là tầm quan trọng và ý nghĩa của một hệ thống tổng thể, những quan hệ giữa các biến, hơn cả (như nhận xét của E. Malinvaud, 1981) việc thử thách và xác định hiệu lực mô hình. Sự ra đời và phát triển của một trào lưu kinh trắc học riêng trong nửa thế kỉ qua, không nghi ngờ gì, là một giai đoạn chủ yếu của lịch sử Kinh tế học. Nhưng không vì thế mà không thể có hai nhận xét sau:
1.   Có những khó khăn không được thừa nhận đầy đủ từ việc chuyển tức khắc một tư tưởng kinh trắc học, phong phú ở mức “địa phương”, đến việc biểu trưng tổng thể một nền kinh tế. Việc ước lượng, và ngay cả việc đồng nhất hoá, những tham số ở cấp độ này trở thành đặc biệt tế nhị; và vai trò cũng như mức độ ổn định của những điều kiện ngoại sinh có khả năng bị coi nhẹ khiến cho không còn bảo đảm được những điều kiện có hiệu lực của mô hình. Những mô hình keynesian, dù cho có đổi mới và ngay cả ở thời điểm xuất hiện của chúng đã đổi mới khoa học kinh tế phơi bày chỗ hở cho sự phê phán này khi gợi ý xử lí một cách kinh trắc những phương trình tổng quát mà một số tham số khó có thể ước lượng được một cách xác đáng. 
2.   Việc chỉ nghiên cứu độc nhất những mô hình kinh trắc có thể đưa nhà kinh tế lạc lối vào việc phát hiện những quan hệ mà tính ổn định chỉ có tính ngẫu nhiên hay phái sinh. Có lẽ đây là nguy cơ mà một trong những nhà kinh trắc đầu tiên và nổi tiếng của Pháp muốn cảnh báo khi ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải kèm thêm một “mối quan tâm về tổng hợp” vào sự phục tùng thực nghiệm (M. Allais, 1968).                  
Ngược lại, những mô hình chúng tôi gọi là “lí thuyết”, không nhằm trực tiếp vào việc ứng dụng số liệu trong thế giới những hiện tượng quan sát được, nhấn mạnh đến việc giải thích hiện tượng. Walras và Cournot, dù không cho rằng những mô tả trừu tượng của họ về thị trường có thể bám sát những tiến hoá cụ thể, muốn xem xét những quan hệ có thể hiểu được giữa những yếu tố định lượng của nền kinh tế bằng lăng kính của lập luận toán học. Tương tự như thế, những đại lượng kinh tế vĩ mô được đưa vào một cách rõ ràng từ thời các nhà kinh tế Thụy Điển và thời Keynes trước hết được nối với nhau bằng những hệ thống có thể hiểu được rồi tiếp đấy mới được, có lẽ là hơi sớm, ước lượng thực nghiệm; những ước lượng này có lẽ là không mấy đáng tin do định nghĩa khá lỏng lẻo của những hệ thống này. Vả lại tính hiểu được được hiểu theo nghĩa lato, latissimo sensu (theo nghĩa rộng và cực rộng - ND). Thật vậy, một số quan hệ có tính chất thuần túy kế toán, chỉ đơn thuần áp dụng những phép số học vào các đại lượng gộp. Nhưng như thế sẽ nhanh chóng có sự phân biệt giữa những đại lượng dự kiến, ex ante, và những phương trình thực sự được thực hiện giữa các đại lượng, ex post. Như vậy là đã chuyển sang một loại quan hệ khác, ít chắc chắn hơn. Những quan hệ này định nghĩa hành vi của các tác nhân, hoặc là theo tinh thần đặc biệt kinh tế vi mô, viện đến tâm lí đơn sơ của người tiêu dùng và của nhà doanh nghiệp, hoặc theo một tinh thần kinh tế vĩ mô hơn, bằng cách chỉ ghi nhận những quan hệ ổn định trung bình giữa những đại lượng: thu nhập và tiết kiệm, đầu tư và năng suất cận biên của tư bản, thật sự hoặc dự kiến. Trong mọi trường hợp, đều có nhiều câu hỏi khoa học luận thiết yếu, tập trung vào đó mọi khó khăn.
1.   Bằng cách nào đưa vai trò của thời gian vào các mô hình. Tất nhiên như đã ghi nhận ở trên, đây không chỉ đơn giản là tiến trình của thời gian, một biến trung lập, dọc theo đó có thể tịnh tiến không phân biệt mọi hiện tượng, như trong cơ học duy lí. Đây là thời gian như một sự tích lũy lịch sử, và một nguồn bất trắc. Thật vậy, trong một chừng mực lớn trong Kinh tế học, việc đạt đến một trạng thái nhất định bằng một con đường nào đó chứ không phải bằng một con đường khác có thể làm thay đổi, trong trạng thái này, những khả năng phát triển tiềm tàng tương lai, điều này có nghĩa là, trong ngôn ngữ của vật lí học, ở đây có lẽ không có những “biến trạng thái”. Cũng trong một chừng mực lớn, tất nhiên những tác nhân kinh tế chỉ biết những yếu tố của tương lai, và cả những yếu tố của hiện tại lẫn của quá khứ, cơ sở cho hành vi của họ, một cách ít nhiều không chắc chắn.      
2.   Trong Kinh tế học ý nghĩa của tính nhân quả là gì? Trong một mô hình lí thuyết, quan hệ nhân quả thường được thay thế bằng quan hệ đồng ấn định, ngặt hay ngẫu nhiên, của những biến trong một hệ thống, và quan hệ này là ít nhiều phức tạp tùy theo tính chất toán học của những phương trình nối liền các quan hệ này. Nhưng khi việc mô tả nền kinh tế đi gần tới kiểu mô tả kinh trắc thì quan hệ có thể nói là trực tiếp nhân quả lấy lại chỗ đứng của nó. Những mô hình “địa phương” đặt thành tiên đề những quan hệ giữa các biến, hầu hết những quan hệ này là tuyến tính, và vấn đề là phải quyết định xem mối liên hệ được giả định có được những quan sát xác nhận không. Lấy một ví dụ đơn giản trong trường hợp có những chuỗi thời gian của hai biến xt và yt, nhà kinh trắc, sau khi đã loại bỏ đi những xu hường chung của mỗi biến thử điều chỉnh tuyến tính hai chuỗi với nhau, lần lượt kiểm định hai giả thiết cạnh tranh nhau:     
cho một dãy những thời điểm 1, 2, ... u do nhà kinh trắc chọn. Tính “nhân quả một chiều” từ x đến y, ví dụ, sẽ được chấp nhận nếu kiểm định gạt bỏ giả thiết là tất cả những au đều đồng thời bằng không, trong lúc kiểm định đối xứng không gạt bỏ giả thiết cho rằng tất cả những bu đều không đồng thời bằng không. Ta hiểu rằng khái niệm nhân quả, cho dù những kiểm định thống kê có tinh vi đến mấy, ở đây vẫn hơi thô kệch. Nhưng theo tôi, điều quan trọng là chính ngay khái niệm quan hệ nhân quả một chiều, thường là lu mờ trong khái niệm lí thuyết về hệ thống, được phục hồi vào hàng khái niệm kinh trắc chủ yếu. Điều này luôn xảy ra, ngay cả trong tri thức về tự nhiên, khi ta rời xa lí thuyết hoá khoa học để tới gần thực tiễn, và như thế tiến đến giới hạn của nghệ thuật xử lí những tình thế riêng lẻ.
3.   Chúng ta vừa ghi nhận việc ưu tiên vận dụng những quan hệ tuyến tính. Một cách tổng quát hơn, đâu là những toán học cần thiết cho việc hình thức hoá các mô hình kinh tế? Ở đây cần đặt riêng ra một bên những công cụ của kinh trắc học: những phép tính tương quan bằng các phương pháp bình phương bé nhất, những thuật toán rút ra từ phép tính xác suất ... Công nghệ này, ngày càng mạnh và tinh vi, là ít đặc thù, và điều cần tìm hiểu là quan hệ giữa công cụ riêng của mô hình hoá với những khái niệm kinh tế. Việc sử dụng phép tính vi phân rõ ràng trùng khớp với việc các nhà cận biên đề xuất những khái niệm kinh tế vi mô mới. Và từ Pareto đến Samuelson và Hicks, các nhà kinh tế càng làm chủ những công cụ toán học này, đặc biệt là trong thao tác những tỉ số vi phân định nghĩa các “độ co dãn”. Một cách khá tổng quát, dường như ở đây, chủ yếu công cụ có hai hiệu ứng. Một mặt, nó cho phép việc xác định, thật ra là rất trừu tượng, nhưng chính xác những điều kiện vận hành của các thị trường. Mặt khác, ở một cấp độ trừu tượng hơn, nó đã đưa các nhà toán học kinh tế phát biểu rõ ràng và giải quyết vấn đề khái niệm của sự tồn tại và tính ổn định lí thuyết của một cân bằng thị trường. Trong trường hợp cuối này, một Gérard Debreu không chỉ vận dụng đến kho giải tích cổ điển mà phải dùng đến những khái niệm topo chính xác của giải tích hiện đại. 
Tuy nhiên, cần nêu lên một hướng toán học hóa khác của những mô hình kinh tế, đặc biệt mà đại diện là lí thuyết trò chơi và lí thuyết đối ngẫu của qui hoạch tuyến tính. Ở đây đại số, hơn là giải tích, thống trị. Đã được đưa vào trong những thao tác những bảng Leontief, những khái niệm đại số cung cấp cho Kinh tế học những thuật toán giải và những công cụ cấu trúc hoá các mô hình. Nhưng hướng toán học này về cơ bản không khác với hướng thứ nhất, vì ở cội nguồn của hướng này có Brouwer và von Neuman, những nhà toán học đã gợi ý cho Debreu.           
Ngày nay cũng như hôm qua, không thể chỉ ra loại công cụ toán học nào là thích hợp nhất. Như M. Allais đã nhận xét năm 1968, ngày nay nguy cơ không phải là kinh tế học thiếu vận dụng đến toán học mà là nguy cơ “lạm dụng” công cụ này, trong nghĩa là trong các tạp chí thường có những bài tập thuần túy toán học, mô tả, theo từ ngữ của Kolm, những “thế giới không tồn tại” (1986: 9) và giải quyết những vấn đề tưởng tượng. Nhưng từ nay không thể không biết đến, dù có những mặt thái quá, vai trò của toán học hoá. Chỉ có thông qua việc toán học hoá mới có thể lần gỡ ra những tác động qua lại phức tạp, và chỉ có nó mới đòi hỏi và gợi ý cho việc phát biểu rõ ràng những nguyên lí và tiền định. Ngược lại, chỉ khi lần hồi các khái niệm được làm rõ và hình thành rõ nét hơn đối tượng của khoa học kinh tế thì toán học mới được sử dụng một cách thích hợp và hiệu quả hơn. Hoặc là lúc đó sẽ sinh ra những phần toán học để đáp ứng những nhu cầu mới, hoặc là các nhà kinh tế, như đã từng xảy ra trong vật lí học, khám phá trong kho mênh mông của những toán học đã có những khái niệm đang chờ đợi được sử dụng.

2.5 Giả thiết, tiên đề và nguyên lí
Những mô hình, cho dù được cấu trúc bằng phương tiện nào đi nữa, đều dựa một cách rõ ràng, không ít thì nhiều, trên những tiên đề hay nguyên lí được giả định là đặc trưng cho sự vận hành của nền kinh tế. Những giả định trước này có vai trò nào trong sự nhận thức và chúng có chức năng gì trong việc thiết kế các mô hình?
Trước hết chúng làm cho việc phát biểu và vận dụng các mô hình được dễ dàng hơn, làm cho những lập luận logic hay việc ứng dụng toán học đơn giản hay hiệu quả hơn, hoặc đơn giản hơn cho phép vận dụng những lập luận này. Đó là trường hợp thường được sử dụng của những giả thiết biến thiên tuyến tính, ngay cả khi tầm vóc lĩnh vực biến thiên khiến chúng trở thành đáng nghi ngờ; đó cũng là trường hợp của những giả thiết về tính độc lập. Khi tính đến những vấn đề tồn tại và ổn định của các nghiệm, những giả định trước trở nên trừu tượng và đặc thù hơn. Ví dụ người ta đòi hỏi là tập những vectơ tượng trưng cho tiêu dùng của một tác nhân là một tập lồi, đóng, bị chặn dưới và có điểm gốc; hay là hàm lợi ích của mỗi tác nhân phải là một hàm liên tục, tăng, khả vi đến cấp hai và lồi ngặt (Malinvaud). Hẳn là những phát biểu như thế có thể được dịch một cách xấp xỉ bằng những đặc tính trực giác; tuy nhiên lí do tồn tại thật sự của chúng là có tính kĩ thuật hơn là thể hiện một sự trung thành với một khách thể thực nghiệm. Nhưng quả thật là nhà kinh tế còn đề nghị những tiên đề mà chức năng chính là hình thức hoá những ý tưởng cụ thể hơn liên quan đến các hiện tượng kinh tế, và thường như thế là những ý của lí lẽ thông thường, đôi khi được làm chính xác hơn và cứng nhắc hơn. Đó là trường hợp của nguyên lí tối đa hoá thỏa mãn của người tiêu dùng hay lợi nhuận của doanh nghiệp, hay “qui luật” giảm dần của thỏa mãn cận biên, hay đặc tính keynesian của hàm tiêu dùng. Những nguyên lí này như Robbins (An Essay on the Nature and Significance of Economic Science trong Hahn and Hollis, 1979: 39) viết:
đúng là hợp chất của kinh nghiệm hằng ngày nên chỉ cần phát biểu ra là thấy ngay tính hiển nhiên của chúng”.
Vâng, có lẽ là đúng như thế. Nhưng trong chừng mực là những khái niệm được huy động là khá mơ hồ để có thể chấp nhận, do chính bản chất của chúng, chính những xấp xỉ sẽ không còn chấp nhận được trong việc phát biểu chính xác và trừu tượng của tiên đề. Nếu dưới dạng này, đặc tính trở thành một trùng ý lặp thừa, hoặc một định nghĩa danh nghĩa thì khái niệm cũng không vì thế mà trở thành ít chính đáng và ít hữu ích cho việc triển khai hệ thống.            
Nhưng vấn đề chính thường được đặt ra là mối tương quan giữa các giả thiết, tiên đề và nguyên lí với thực nghiệm. Một thái độ cực đoan được von Mises bảo vệ cho rằng khoa học kinh tế là một khoa học 
tiên nghiệm và không thực nghiệm ... Suy cho cùng, logic và khoa học có hiệu lực phổ biến của hành động con người đều đồng nhất và giống nhau” (Epistemological Problems of Economics, in Hahn and Hollis, 1979: 61).
Ở đây, Von Mises theo quan điểm của Spinoza, theo đó hành vi con người là hoàn toàn suy ra từ những nguyên lí và định nghĩa đơn giản. Nhưng không thể xác lập hay bác bỏ một quan niệm như thế về Kinh tế học, trong chừng mực mà người bảo vệ quan điểm đó luôn tìm ra được trong “những điều kiện thể hiện” của hành động con người, vốn là những hành động thực nghiệm, một biện minh cho những tình thế đi chệch hướng. Khéo léo hơn nhưng không kém nghịch lí là luận điểm được bàn nhiều của Milton Friedman. Đối với tác giả này, không cần phải đối chiếu những tiên đề và nguyên lí của một mô hình hoàn toàn lí thuyết với thực nghiệm. Theo ông, hiệu lực của một lí thuyết được những hệ quả của lí thuyết đó xác thực nên ý cho rằng sự phù hợp của những giả định trước với thực tế làm tăng thêm hiệu lực của lí thuyết là một định kiến “về cơ bản là sai lầm” và ông còn tuyên bố là “một lí thuyết càng có ý nghĩa bao nhiêu thì những giả định trước của lí thuyết đó càng xa thực tế bấy nhiêu ...” (Essays in Positive Economics, in Hahn and Hollis, 1979: 26). Một đánh giá phải chăng những tiên đề của các nhà kinh tế khó có thể xác minh câu nói dí dỏm này. Tuy nhiên, quả thật ý tưởng kiểm tra thực nghiệm những tiên đề che phủ một hiểu lầm không chỉ riêng khoa học này mới có. Những phát biểu cơ bản như thế nhất thiết nằm ở một cấp độ trừu tượng cao đòi hỏi sự trung lập hoá nhiều trường hợp và đôi lúc là những trường hợp quan trọng đến độ là không thể nào thực hiện được việc trung lập hoá này trong một thí nghiệm, và có thể việc trung lập hoá này là mâu thuẫn với những điều kiện của một thí nghiệm thật sự. Đó là trường hợp trong cơ học của nguyên lí quán tính vì việc kiểm định nguyên lí này đòi hỏi việc cách li triệt để một động tử và do đó đòi hỏi sự phân rã hoàn toàn của phần còn lại của vũ trụ. Tuy nhiên, trong Kinh tế học, còn hơn cả trong những khoa học khác, có lẽ tính phi thực tế của những nguyên lí và tiên đề không bao giờ chỉ gắn với những đòi hỏi giới hạn, và ý nghĩa thực nghiệm của những nguyên lí và tiên đề vẫn hiện diện một cách trực giác trong những điều kiện xấp xỉ và liên tục phải chăng, cho dù quả thật là những điều kiện này là rất gián tiếp nếu những khái niệm của những giả định trước là ở mức trừu tượng hoá cao. Nhưng trong mọi trường hợp, nhìn từ góc độ hiểu biết bằng các mô hình, tức nhìn từ quan điểm của khoa học, cho rằng tầm quan trọng và ích lợi của những nguyên lí chủ yếu tùy thuộc vào những hệ quả có thể rút ra từ những nguyên lí đó là một điều đúng đắn. Ngược lại, có thể nào dừng lại ở đây nếu cũng muốn bao quát quan hệ giữa khoa học và thực tiễn vì thư thế phải chăng ta lại buộc một lần nữa tìm hiểu ý nghĩa của những tiên đề và nguyên lí đối với thân phận con người được hình dung như một tổng thể sống?      

3. Khoa học và thực tiễn 
Quả thật là trong những khoa học về con người việc áp dụng những tri thức lí thuyết có những nét rất đặc biệt. Vẫn luôn là vấn đề chuyển từ khái niệm trừu tượng tới cá thể cụ thể; nhưng trong trường hợp của những khoa học về con người, việc cá thể hoá là điểm thiết yếu của hiện tượng con người, trong lúc việc cá thể hoá những sự vật trong những tri thức ứng dụng khác, có thể dễ dàng quy về những trường hợp điển hình và chung. Nhưng ở đây chúng tôi không xem xét bản thân công nghệ đi từ cái lí thuyết xuống những ứng dụng được tiến hành theo ba phương thức khác nhau, dù thường là được kết hợp với nhau: sự chẩn đoán tình trạng của nền kinh tế, so với sơ đồ lí thuyết đã lựa chọn; liệu pháp áp dụng cho nền kinh tế nhằm sửa sai theo một chiều hướng nhất định sự vận hành của nền kinh tế; việc kế hoạch hoá tích cực cấu trúc và sự vận hành của nền kinh tế nhằm thực hiện một số mục tiêu xã hội nhất định. Chúng tôi chỉ giới hạn đề cập hai vấn đề chung liên quan trực tiếp đến ảnh hưởng của việc ứng dụng trên lí thuyết: dự báo như một phương tiện kiểm tra và vị thế của khái niệm tính duy lí kinh tế.       

3.1 Dự báo và sự kiểm tra
Đối với một khoa học thực nghiệm, bất kể là khoa học này quan tâm đến loại hiện tượng nào thì thành công của dự báo là một thử thách không thể thiếu. Những thành tựu tầm thường của Kinh tế học trên lĩnh vực này chắc chắn là dấu hiệu của tình trạng chín muồi còn bấp bênh của bộ môn này. Tuy nhiên cần hiểu rõ là đi kèm với tiêu chí dự báo thành công phải có tiêu chí về sự giải thích, và từ một giải thích chấp nhận được, trong lĩnh vực những hiện tượng con người, không nhất thiết là suy ra được một khả năng dự báo. Đó không phải là trường hợp của các khoa học vật lí vì điều ta cần dự báo ở đây là những hiện tượng gần như hoàn toàn không có tình huống bất kì, do đã được kĩ thuật thực nghiệm xử lí, và đứng về mặt lí thuyết là những hiện tượng tùy tiện. Thế mà điều ta muốn đòi hỏi một cách quá đáng ở những khoa học về con người là những khoa học này không dự báo những hiện tượng như thế mà dự báo những biến cố, không có loại bỏ những đặc tính riêng của những biến cố này mà do bản chất của mọi tri thức bằng quan niệm, làm trung lập hoặc gạt bỏ. Độc nhất trong những khoa học tự nhiên chỉ có thiên văn học có đối tượng là những biến cố, nhưng là những biến cố tinh lọc đến độ gần như là trùng với những hiện tượng sinh thành của cơ học; từ đó có đặc quyền lịch sử và vai trò mà khoa học này đã đảm nhiệm trong sự hình thành của lí tưởng khoa học. Ngược lại Kinh tế học vấp phải khó khăn chủ yếu là những hiện tượng hợp thành đối tượng của nó suy cho cùng trong thực tế mang tính biến cố. Để đánh giá những thành tựu của khoa học này, thật là bất công khi ghi nhận là bộ môn này dự báo rất tồi biến cố tự thân. Vì loại dự báo này không thuộc về lĩnh vực của lí thuyết mà là một nghệ thuật lâm sàng, mà lĩnh vực của những hiện tượng sinh học cho ta nguyên mẫu khi chuyển từ tri thức của nhà sinh lí học sang tri thức của nhà điều trị không phải đơn giản giáp mặt với những hiện tượng mà với những biến cố của một sinh vật cá thể.
Sau khi đã nêu những dè dặt đối với một phê phán không thích đáng về tính ít giá trị dự báo của Kinh tế học, ta được quyền nghiêm khắc nhận xét sự rụt rè của những cố gắng kiểm tra, hay nếu muốn những cố gắng xác minh của các nhà kinh tế.
Tuy không đòi hỏi quá ở khoa học của các nhà kinh tế người ta chờ đợi là những dự báo các hiện tượng tổng quát, trong chừng mực có thể đã loại bỏ tính biến cố, phải được kiểm tra một cách có hệ thống. Có thể gặp một sự kiểm tra như thế, nhưng quá hiếm, trong kinh văn. Thường kiểm tra nhằm ước lượng giá trị của những dự báo do các “chuyên gia” xây dựng về tiến trình của vài biến hơn là kiểm tra một cách hậu nghiệm những hệ quả tổng quát rút ra từ việc áp dụng một lí thuyết. Ví dụ, người ta sẽ xét xem những dự báo về tiến hóa của giá cả, lương, GDP, tỉ suất thất nghiệp do 50 nhà kinh tế, lí thuyết gia lẫn những nhà kinh tế thực hành, có chệch hay không (giá trị của dự báo có đủ gần với kì vọng toán học của những giá trị quan sát không? Brown và Martal, Econometrica, vol. 49, n0 2, 1981). Hay là người ta so sánh những dự báo do các cơ quan chuyên trách cung cấp (Zarnovitch, The American Economic Review, vol. 68, n0 2, 1978). Phải thừa nhận rằng những kết quả là đáng thất vọng. Như Zarnowitz (1978: 318) viết “ít ra là trong một giai đoạn có xáo trộn như thế, phải không thừa nhận giá trị của những dự báo số liệu đặc thù của nhiều quý”. Ta chỉ đơn giản nhận xét rằng dự báo dựa trên các mô hình là “tốt hơn chút ít” dự báo chỉ dựa trên việc kéo dài một cách thống kê những chuỗi dữ liệu trước đó (Thionet. Economie appliquée, XXVI, n0 2-3-4, 1973) và dự báo những điểm chuyển hướng là “xoàng” (Sen, The American Economic Review, sđd. “Nhưng phải chăng đây chính là điều cần phải dự báo?”). Vài kết quả trên được một nghiên cứu tổng quát về việc hình thành các dự phóng 1985 của nền kinh tế Pháp do INSEE xây dựng năm 1962 (P. Dubois, Sản xuất) xác minh. Mô hình được sử dụng là một sơ đồ rất đơn giản về đầu vào đầu ra, chủ yếu là một sơ đồ kế toán, được bổ sung bằng những giả thiết về tiến hoá của dân số và năng suất. Những dự báo về những tỉ suất tiến hoá của các đại lượng của nền kinh tế là tương đối tốt (tuy nhiên đó là trong chừng mực mà ta không tính đến những dè dặt theo kiểu Morgenstern về độ tin cậy của các đo đạc). Nhưng tác giả nhận xét một cách xác đáng là thành công có lẽ do một phần có sự bù trừ thuận lợi trên thời kì này giữa một tăng trưởng mạnh từ 1960 đến 1973 và một tăng trưởng chậm từ 1973 đến 1985, khiến cho những con số dự báo, không đúng với từng giai đoạn trên, cuối cùng là đúng cho cả thời kì. Mặt khác, tác giả nhấn mạnh đến sức ì của những “xu hướng nặng” mà để dự báo chúng chỉ cần một cách máy móc kéo dài chúng về tương lai. Ngược lại, dự phóng đã không có khả năng dự báo những “khả năng gián đoạn” hay chuyển hướng, trong trường hợp này là sự gia tăng của thất nghiệp đại trà, mà do cương vị là một dữ liệu ngoại sinh, đã bị loại đi. Bởi thế, ta gặp lại nhận xét đã nêu lúc đầu về sự cần thiết trong tương lai hợp nhất khoa học kinh tế với một tri thức xã hội chính trị tổng quát về những hiện tượng con người.                          

3.2 Tính duy lí: giả thiết hành vi, hay mục tiêu nhắm đến
Câu hỏi thứ nhì và cuối cùng chúng tôi muốn nêu lên là vị thế và vai trò của khái niệm duy lí trong Kinh tế học. Khái niệm này phải được hiểu theo hai nghĩa hoàn toàn khác nhau. Thứ nhất, tính duy lí được quan niệm như một đặc tính của hành vi cá thể. Cho dù được định nghĩa như thế nào có nghĩa là một vài nguyên lí và qui tắc được cho là đặc trưng của hành vi duy lí tính duy lí gắn với một “purposive behaviour[2] như L. Robbins nói, với một sự thích nghi có chủ đích của những phương tiện với những mục tiêu, với một hoạt động “có cân nhắc”. Nhưng phải nhận xét, một mặt, là quan điểm cận biên, ví dụ, có thể nói là trung lập hoá khía cạnh tích cực của hành vi để chỉ xét đến cái chuẩn mực và những kết quả. Lí thuyết trò chơi, tiếp theo phác thảo của Cournot trong phân tích của ông về độc quyền hai người, sẽ phục hồi và hình thức hoá ý tưởng chiến lược. Mặt khác, lựa chọn đồng nhất việc thích nghi những phương tiện với những cứu cánh với việc tối đa hoá một hàm thỏa mãn, chung quy chỉ là một trong những cách ấn định có thể. Người ta có thể nghĩ ra những cách khác, ví dụ bằng cách tối thiểu hoá giá trị lớn nhất của bất trắc và rủi ro, hay mong muốn ấn định sự thỏa mãn ở những thời điểm nhất định, hoặc là tìm kiếm những giai đoạn thỏa mãn có cường độ cao hơn là tìm kiếm tổng những thỏa mãn chia nhỏ. Những qui tắc như thế chắc chắn là có khả năng mô tả một số khiá cạnh của hành vi cá thể không thua gì qui tắc jevonsian hoặc walrasian; hơn nữa lí thuyết trò chơi đã gợi ý một sự đổi mới những chuẩn ra quyết định. Như thế, giả thiết duy lí được Kinh tế học giữ lại một cách ít nhiều rõ ràng hiện ra như kết quả của một lựa chọn và một phỏng đoán về hành vi trung bình, hay tiêu biểu của những thành viên của một cộng đồng kinh tế.
Nếu đứng trên quan điểm sản xuất, thay vì quan điểm tiêu dùng thì có thể phát biểu những chuẩn duy lí tương tự, và đương nhiên chuẩn thường được đề nghị một cách tự nhiên nhất là chuẩn tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên cần chỉ ra ở đây một cố gắng độc đáo áp dụng, trong tinh thần của một triết lí marxist, lí thuyết trò chơi và qui hoạch tuyến tính. Vấn đề đặt ra là: làm sao tổ chức một cách hợp lí sản xuất của những sản phẩm khác nhau do những doanh nghiệp có năng suất và năng lực khác nhau sản xuất để cho khối lượng sản xuất là tối đa mà vẫn tuân thủ những ràng buộc về tính bổ sung kĩ thuật giữa các sản phẩm. Nhưng điểm độc đáo của Kantorovitch (1963) là ở việc xét bài toán đối ngẫu trong đó vấn đề không chỉ là xác định nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp mà là gán cho những vật liệu các doanh nghiệp này dùng những giá trị cận biên được đồng nhất với những giá tương ứng với mức sản xuất tối ưu, dưới những ràng buộc kĩ thuật và có tính đến sự hạn chế của các nguồn lực. Vả lại mục tiêu được Kantorovitch nói rõ là kiến giải những giá trị này không phải như những kết quả của các nhu cầu và thị hiếu chủ quan mà là như một biểu tượng của một lao động xã hội cần thiết theo học thuyết Marx.                 
Nếu trong mọi trường hợp về tính duy lí của những hành động của người tiêu dùng và của người sản xuất, hai tác nhân này được xem như những trung tâm ra quyết định thì còn có một nghĩa khác nữa về tính duy lí, liên quan đến việc hoàn thành một phân phối nhất định những lợi thế của các thành viên của một xã hội trong đó có thể tiến hành những so sánh và trao đổi. Pareto là người đầu tiên thể hiện khái niệm này dưới một dạng logic rõ ràng. Với những chủ thể kinh tế có khả năng sắp xếp theo thứ tự thị hiếu và sự thoả mãn của họ, một phân bổ tối ưu những sản phẩm là một phân bổ sao cho không thể cải thiện số phận của bất kì ai mà không làm giảm sự thoả mãn của ít nhất một thành viên khác của nền kinh tế. Từ khái niệm này, và từ một định nghĩa về cân bằng kinh tế chung, kinh tế học vi mô tân cổ điển, chứng minh là với một phân bổ ban đầu cho trước, mọi tối ưu kiểu Pareto ứng với một hệ thống giá cả làm tối đa hoá sự thoả mãn của mỗi tác nhân có được sự tự do trao đổi theo ý mình dưới sự ràng buộc ngân sách của bản thân, nghĩa là có thể đạt được một tối ưu như thế như một cân bằng của thị trường. Chứng minh này có hiệu lực với điều kiện có một vài giả thiết và tiên đề liên quan đến những tập hợp tiêu dùng và những hàm thoả mãn của các tác nhân này; phản đề của định lí cũng đúng nốt, thậm chí với những điều kiện được nới lỏng hơn (Malinvaud, LeVons de théorie microéconomique, 3è éd., 1975). Vả lại, ta thấy là tính duy lí của phân phối này chỉ có ý nghĩa nếu giả định là tính duy lí trên chi phối những hành vi cá thể. Sau này lí thuyết trò chơi đã cho phép đổi mới và đào sâu quan niệm này về sự phân phối những lợi thế và cân bằng bằng cách hình thức hoá ý tưởng liên minh và thương thảo mà không làm thay đổi sâu sắc nghĩa của tính duy lí vì vấn đề vẫn là định dạng khái niệm về một công bằng xã hội nhất định, được xem như là mặt đạo đức mà cân bằng kinh tế là mặt tích cực. Tương tự như thế, những lí thuyết về welfare[3] đã đưa thêm vào một khó khăn nữa khi đề nghị những định nghĩa của lợi thế tập thể và quan hệ của lợi thế này với những sự thoả mãn cá thể vì K. Arrow đã chứng minh là thường không thể có được một khái niệm tổng gộp nhất quán với lợi ích tập thể.
Những vấn đề như trên, tuy trực tiếp phát sinh từ những mối quan tâm đến hành động và việc thực hiện một số mục tiêu, không nằm ngoài trường của kinh tế học. Hẳn là khoa học kinh tế phải tránh xa hệ tư tưởng nhưng bộ môn này không thể tự cấm mình lí tưởng hoá thực tiễn, và tuy nhiên chính sự cần thiết này khiến cho việc đạt đến một tri thức thực chứng, điều mà mọi khoa học về những hiện tượng của con người đều nhắm đến, là một việc khó khăn đến thế.
*
*    *
Kinh tế học, trong cuộc chinh phục vị thế khoa học của nó, có nhiều nét riêng biệt đã và sẽ góp phần vào số phận độc đáo của bộ môn, qua đó có lẽ giải thích bước tiến của nó, so với những khoa học khác về con người, và đồng thời cũng giải thích những trở ngại quan trọng gặp phải trên con đường của nó:
1. Tri thức về những sự kiện tế kinh tế là khoa học về một đối tượng chủ yếu hay thay đổi, trong chừng mực là những sự kiện này đuợc xác định trong những bối cảnh chịu sự ngẫu nhiên của lịch sử.
2. Tuy nhiên, bộ môn này, ở cương vị là một khoa học, chỉ có thể nhắm đến những hiện tượng chứ không thể tính đến những biến cố; và khả năng dự báo của nó do đó có giới hạn có lẽ những giới hạn này hiện nay còn xa mới đạt tới và vì thế đây không phải là một điều ngạc nhiên.
3. Cuối cùng, tri thức này, hơn hẳn những tri thức khác, chịu phải tác động của những hệ tư tưởng, do con người, thông qua sự thống trị kinh tế, nghĩ là có thể thoả mãn khát vọng quyền lực, và, thông qua tổ chức kinh tế, thoả mãn ước muốn công bằng của mình.    

Thuật ngữ then chốt:
Giả thiết
Khoa học
Mô hình
Nhân quả
­ Những khái niệm vi mô
Những khái niệm vĩ mô
Nội sinh
Ngoại sinh
Tiên đề
Tiến bộ

Tài liệu tham khảo
Allais M. (1968), “L’économie en tant que science”, Revue déconomie politique, janvier-février, trang 5-30.
Allais M. (1952), Traité dEconomie pure, Impr. Nationale, 2e éd., trang 5-30
Blaugh M. (1980), The Methodology of Economics, Cambridge Surveys of Economic Literature, Cambridge
Debreu G. (1986), “Theoretic Models: Mathematical Form and Economic Content”, Econometrica, vol. 54, n0 6, trang 1259-1270
Ekeland J. (1988), Éléments déconomie mathématique, Hermann.
Granger G. G. (1984), Essai d une philosophie du style, chap.6, Odile Jacob
Hahn and Hollis (eds) (1979), Philosophy and Economic Theory, Oxford University Press
Hicks R. (1956), A Revision of Demand Theory, Oxford, Clarendon Press
Kantorovitch L. V. (1963), Calcul économique et utilisation des ressources, Dunod
Kolm S. (1986), Philosophie de léconomie, Seuil
Malinvaud E. (1981), “Econometrics Faced with the Needs of Macroeconomic Policy”, Econometrica, vol. 49, trang 1363-1376
Malinvaud E. (1981), LeVons de théorie économique, 3e éd., Dunod
Montbrial, Th. De, La science économique, Dunod, 1968
Morgenstern O. (1963), On the Accuracy of Economic Observation, 2nd ed., Princeton University Press 
Robinson J. (1962), Economic Philosophy, Aldine
Rosenberg A. (1976), Microeconomic Laws, University of Pittsburg Press
Walliser B. et Prou C. (1988), La science économique, Seuil, Paris

-----------
Phiếu số 1: Tài liệu nên đọc
Allais M. (1968), “L’économie en tant que science”, Revue déconomie politique, janvier-février, trang 5-30.
Hahn and Hollis (eds) (1979), Philosophy and Economic Theory, Oxford University Press
Montbrial, Th. De, La science économique, Dunod, 1968
Walliser B. et Prou C. (1988), La science économique, Seuil, Paris
Gilles Gaston Granger[4]
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: “Epistémologie économique” của Gilles Gaston Granger trong Encyclopédie économique (Bách khoa kinh tế), nhà xuất bản Economica, Paris, 1990, trang 3-24





[1] vàng bạc do khám phá ra châu Mĩ dồn về châu Âu (ND).

[2] hành vi có chủ đích (ND).

[3] phúc lợi (ND).

[4] giáo sư Học viện Pháp quốc (Collège de France)

Print Friendly and PDF