MARKOWITZ Harry M., sinh năm 1927
Damien Gaumont
Harry M. Markowitz sinh tại Chicago, bang Illinois, Hoa Kì, năm 1927. Ông
vào ủy ban Cowles năm 1952 lúc mới 25 tuổi, nhờ sự hỗ trợ của T. Koopmans
(Nobel 1975) lúc bấy giờ muốn đào tạo một êkíp có hiệu quả trong việc áp dụng
qui hoạch tuyến tính vào kinh tế học. Song song đấy ông thường xuyên gặp
Dantzig và Wolfe tại Rand Corporation. Giáo sư tài chính và kinh tế tại Baruch
College của New York, ông là chủ tịch American Finance Association năm 1982 và
được Viện hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển biểu dương năm 1990.
Lợi ích của những công trình của Markowitz là chứng minh rằng lựa chọn của
một nhà đầu tư chứng khoán tài chính có thể được tóm tắt bằng một sự đánh đổi
có hai chiều kích: kì vọng thắng và rủi ro (1977). Trong vô số những danh mục
đạt tới được, có một số danh mục khống chế những danh mục khác. Chúng được gọi
là danh mục hiệu quả và chúng là những danh mục, mà ở một phương sai nhất định,
nghĩa là ở một mức rủi ro nhất định, cho được kì vọng lợi tức cao nhất (1979).
Tập những danh mục này hợp thành đường biên hiệu quả của Markowitz. Chính tùy
vào của cải ban đầu và thái độ đối với rủi ro mà mỗi nhà đầu tư xác định danh
mục nào thực hiện được cho mình sự thoả hiệp tốt nhất giữa rủi ro (không mong
muốn) và kì vọng lợi tức (mong muốn). Markowitz chứng minh là điều quan trọng
trong tổng rủi ro của một danh mục không phải là rủi ro của từng chứng khoán
riêng lẻ mà là sự đóng góp cận biên của một chứng khoán vào rủi ro toàn bộ của
danh mục đầu tư. Đó là một số chứng khoán có tương quan lẫn nhau, hoặc là
theo chiều âm hoặc là theo chiều dương. Chính vì thế những cá nhân muốn tối
thiểu hoá rủi ro của danh mục của mình phải đưa vào đấy một sự đa dạng hoá tối
ưu, nhưng không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro. Năm 1956, ông chứng minh cách tính
một danh mục tối ưu bằng một bài toán tối thiểu hoá một dạng toàn phương dưới
ràng buộc. Tính đơn giản của bài toán cho phép nó là nguồn gốc của nhiều kiểm
định thực nghiệm. Một cách tổng quát, công trình của Markowitz trình bày phân
tích tài chính kinh tế vi mô như một chuyên ngành thật sự của phân tích kinh
tế. Năm 1990, cùng với Merton H. Miller và William F. Sharpe, ông được giải
khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel “vì những công trình tiên phong của ông
trong lĩnh vực lí thuyết kinh tế tài chính và đặc biệt là đã phát triển lí
thuyết lưạ chọn danh mục đầu tư”.
William F. Sharpe (1934-) |
Merton H. Miller (1923-2000) |
· “Portfolio
selection” [Lựa chọn danh mục đầu tư], Journal
of Finance, march 1952. – “The optimization of a quadratic function
subject to linear constraints” [Tối ưu hoá một hàm toàn phương chịu những ràng buộc tuyến tính], Naval Research Logistic Quarterly, 1956,
vol. 3. – Portfolio Selection: Efficient
Diversification [Lựa chọn danh mục đầu tư: đa dạng hoá hiệu quả], New York,
John Wiley & Sons, 1959. – “Markowizt
Revisited”, Financial Analyst Journal, sept.oct.
1976. – MARKOWITZ H.
& MANN M., “On
the solution of discrete programming problems” [Về giải pháp của những vấn đề qui hoạch rời rạc], Econometrica, 1957 in LEWIS H & SARNAT M, An Algorithm for Finding Undominated Portfolio [Một thuật toán để
tìm danh mục không bị khống chế], Academic Press, 1977 LEVY H. & MARKOWITZ
H., “Approximating expected utility by a
function of mean and variance” [Xấp xỉ hoá lợi ích kì vọng bằng một
hàm của trung bình và phương sai], American
Economic Review, june 1979.
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: “Les prix des sciences économiques à la mémoire d’Alfred Nobel” (Những
giải khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel) của Damien Gaumont trong Dictionnaire des sciences économiques do
Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry chủ biên, Paris, Presses
Universitaires de France, 2001, trang 1030-1031.