THẾ KỶ CỰC ĐOAN
Diễn giả: Eric John Hobsbawm
Ghi chép tóm tắt: Tôn Thất Thông
DĐKP giới thiệu: Eric Hobsbawm là một trong những nhà sử học tiếng tăm nhất nước Anh, có lẽ cả châu Âu, nếu không nói là cả thế giới. Mặc dù bài diễn văn này đã được trình bày cách đây 25 năm ở đại học Konstanz, nhưng nội dung vẫn mang tính thời sự cho những ai muốn phân tích vài khía cạnh trong lịch sử thế kỷ 20. Eric Hobsbawm là tác giả bộ lịch sử gần 1.800 trang nói về 200 năm thời kỳ cận đại châu Âu, gồm bốn tập. Tập sau cùng có tựa đề là “The Age of Extremes. The short twentieth century 1914–1991” mà một phần của nó là chủ đề bài diễn văn này.
***
Người điều phối TV: Hôm nay, quý vị đang nghe một bài diễn văn từ năm 1998, được ghi lại tại Đại học Konstanz. Nhà sử học GS.TS. Eric John Hobsbawm đã giảng dạy tại Đại học Stanford, Viện Công nghệ Massachusetts MIT, Đại học Cornell, Đại học London, College de France và New School for Social Research ở New York. Ông qua đời năm 2012 ở tuổi 95. Trong diễn từ này, GS TS Eric John Hobsbawm phát biểu về chủ đề thế kỷ cực đoan.
![]() |
Eric John Hobsbawm (1917-2012) |
Điều gọi là thế kỷ ngắn ngủi bắt đầu từ năm 1914 với sự sụp đổ của thế giới tự do tư sản trong thế kỷ 19, tức là với thời đại thảm khốc khoảng 30 đến 40 năm vào cuối thế kỷ đó. Trong thế kỷ ngắn ngủi của chúng ta, mọi thứ đều tồi tệ đối với thế giới cũ. Các cuộc chiến tranh thế giới, các cuộc khủng hoảng toàn cầu, các cuộc cách mạng xã hội mà trước hết là cách mạng Nga, sau đó được mở rộng thành một mô hình thế giới, rồi sự sụp đổ của nhà nước pháp quyền tư sản dân chủ gần đây, vốn xét cho cùng hầu như chưa thực sự tồn tại trong thế kỷ này, nhưng người ta vẫn tiếp tục xây dựng nó. Và trên hết, thế giới của thế kỷ chúng ta đang bị hủy hoại, không chỉ về mặt chính trị và kinh tế, mà còn về mặt xã hội. Tất cả giống một điều gì đó hoàn toàn mới lạ và bất ngờ.
Ngay cả mối quan hệ giữa nam và nữ dường như cũng thay
đổi, theo một cách nhìn nào đó. Những người phụ nữ cắt tóc ngắn và chưng những
kiểu tóc mới lạ tân kỳ [Bubikopf]. Lúc đó, hiện tượng này xảy ra như một trận
động đất. Tất nhiên theo thời gian, chúng ta đã quen với sự thay đổi này, mặc
dù tôi phải nói thêm rằng mãi đến thập niên 1960, số lượng quần tây trong ngành
may đo của phụ nữ mới bắt đầu nhiều hơn số lượng váy đầm.
Trong bối cảnh đó, có hai lựa chọn quan trọng để thay
thế chủ nghĩa tự do xuất hiện trước chúng ta trong thế kỷ 20, đó là chủ nghĩa
cộng sản kiểu Liên Xô và chủ nghĩa phát xít hay là chủ nghĩa quốc xã Đức. Theo
quan điểm của tôi, cả hai chỉ là sản phẩm, là tiếng vọng từ thời đại của sự sụp
đổ xã hội tư sản tự do vào cuối thế kỷ 19. Chí ít là tôi đã hiểu như thế.
Sau Thế chiến thứ hai, chủ nghĩa tư bản nổi lên ở các nước được gọi là phát triển và đặc biệt
là ở Tây Âu, bởi một phần tư thế kỷ sau năm 1950 chắc chắn là thời kỳ hoàng kim
của nền kinh tế mới trên khắp Tây Âu. Không có điều gì tương tự như thế này đã
từng tồn tại trước đây. Ví dụ, so với nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế châu Âu đã có
những bước tiến vượt bậc. Vì vậy, sau Thế chiến thứ hai, chủ nghĩa tư bản ở các
nước phát triển đã tạo ra một nền tảng mới và có vẻ ổn định do sự chuyển dịch
sâu sắc về địa chính trị và về kinh tế xã hội.
Về địa chính trị, điều này dựa trên quyền bá chủ của Hoa Kỳ và sự giải
quyết các xung đột giữa các cường quốc châu Âu cũ. Cả hai khối này đều được tạo
điều kiện thuận lợi, thậm chí đã trở thành hiện thực, nhờ sự đối đầu lưỡng cực
trong chiến tranh lạnh.
Về
kinh tế xã hội, nó dựa trên sự bác bỏ có hệ
thống chủ nghĩa tư bản sơ khai kéo dài suốt nhiều thế hệ, để chuyển dịch nó từ
một nền kinh tế thị
trường tự do tuyệt đối chuyển qua nền
kinh tế do nhà nước làm trung gian và hướng dẫn – dù không phải là kế hoạch
trung ương – để hình thành một cuộc hôn phối thành công giữa một bên là tinh thần kinh
doanh của doanh nhân và bên kia là sức
mạnh của lực lượng lao động có tổ chức. Kết quả của cuộc hôn phối này là 25 năm
hoàng kim từ thập niên 1950 kéo dài đến đầu thập niên 1970 ở thế giới phương
Tây, đặc biệt là ở châu Âu không cộng sản, như tôi đã nói. Ngẫu nhiên thay,
ngay cả ở dạng khiêm tốn nhất, thập niên 1950 và 1960 cũng là thời đại tiến bộ
và hạnh phúc tương đối khiêm tốn ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở các khu vực
không bị chiến tranh tàn phá của Thế giới thứ ba.
Sau năm 1973, một kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới
rõ ràng đã bắt đầu, cho đến ngày nay vẫn được đặc trưng bởi sự quay trở lại nền
kinh tế thị trường tự do tuyệt đối và không bị kiểm soát vốn dĩ đã biến mất
trong 25 năm trước. Trong cuốn sách của tôi, thời đại này kết thúc với bước
ngoặt không thể nhầm lẫn là sự sụp đổ của khối cộng sản Đông Âu từ năm 1989 đến
khi Liên Xô chính thức tan rã vào năm 1991. Liệu thời đại mới này có thực sự
thay đổi mọi thứ hồi đó hay liệu chúng ta vẫn còn mắc kẹt trong thời đại này
cho đến ngày nay hay không thì vẫn chưa rõ ràng. Bởi vì thời đại mới kể từ năm
1973 đã mang đến một cuộc khủng hoảng kép, đó là cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa
cộng sản kiểu Xô Viết và cuộc khủng hoảng của giai đoạn mới và toàn cầu hóa của
chủ nghĩa tư bản.
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa cộng sản bên ngoài
Đông Á đã không tồn tại được trong cuộc khủng hoảng này. Nhưng kết quả của kỷ
nguyên tư bản chủ nghĩa mới vẫn chứa đựng đầy mâu thuẫn và đầy khủng hoảng của
nền kinh tế thế giới kể từ năm 1973, chẳng hạn, tình trạng thất nghiệp hàng loạt trở thành trạng thái thường trực ở nhiều
nước. Có lẽ tôi không cần phải giải thích thêm điều này.
Chúng ta vẫn đang chìm sâu trong cuộc khủng hoảng này
và chưa thể đoán trước được kết cục của nó ra sao. Vì vậy, thế kỷ ngắn xuất
hiện trong cuốn sách của tôi như một chiếc hộp được bảo mật. Lịch sử thế giới
chuyển từ thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng, bước qua một thời kỳ ổn định
tương đối ngắn như một thời gian đệm, rồi lại chuyển sang thời kỳ khủng hoảng
mới.
Tuy nhiên, người ta có thể nhìn thế kỷ 20 theo một
cách khác. Cụ thể là bạn có thể chia nó thành hai phần. Khi kết thúc giai đoạn
khủng hoảng đầu tiên, tức là vào giữa thế kỷ, một tốc độ thay đổi kinh tế và xã
hội rất độc đáo bắt đầu, điều này sẽ quyết định lịch sử thế giới kéo dài đến
thời đại của chúng ta hôm nay. Điều đánh dấu thế kỷ của chúng ta như một thời
đại cực đoan là, một mặt, có nhiều người phải chịu
đựng đau khổ một cách tàn nhẫn và bị tàn sát nhiều hơn bao giờ hết, thực tế là
hàng trăm triệu người. Nhưng mặt khác, ngoại trừ một vài trường
hợp ngoại lệ, bao gồm những người dân không may mắn ở Liên Xô cũ và các dân tộc
châu Phi, thì vào cuối thế kỷ có gấp ba lần số người trên hành tinh này đang
sống trong điều kiện thể chất tốt hơn, có tuổi thọ dài hơn, khỏe mạnh hơn, vật
chất tốt hơn và giàu có hơn bao giờ hết.
Mặt khác, quyền lực của con người đối với thiên nhiên
đã tăng lên nhảy vọt trong hậu bán thế kỷ này đến mức mà lần đầu tiên trong
lịch sử, chúng ta đối mặt với nguy cơ loài người sắp phá hủy nền tảng tồn tại
của chính mình trên hành tinh này.
Khi các nhà sử học ở thiên niên kỷ thứ ba – theo cách
làm lịch của chúng ta – nhìn lại thế kỷ cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai,
tôi tin rằng sự tăng tốc đáng kinh ngạc của tốc độ thay đổi thế giới đối với họ
dường như là một điều mới lạ thực sự trong lịch sử của thế kỷ này. Kể từ thập
niên 1950, chúng ta chưa từng trải qua sự kết thúc của lịch sử, như một nhà tư
tưởng Mỹ đã nhận xét vào năm 1989, nhưng sự thay đổi trong thế kỷ này quả thực
chưa từng có so với mười thiên niên kỷ của lịch sử mà, kể từ thời đồ đá mới, đã
gắn liền với sự vươn lên các thành thị, với kim loại, với chữ viết, với nông
nghiệp.
Nhìn từ góc độ lịch sử thế giới, thực tế là thời đại
25 năm phát triển ngắn ngủi nói trên có thể được xem là cuộc cách mạng thực sự
của thế kỷ 20, sau nhiều thiên niên kỷ kéo dài từ đầu thời đại kim loại cho đến
giữa thế kỷ 20.
Tôi đã gợi ý trong cuốn sách của mình rằng, từ góc độ
trong vài thế kỷ tới nhìn trở lại, chúng ta sẽ thấy các cuộc chiến tranh chính
trị và ý thức hệ trong thế kỷ của chúng ta có thể được đánh giá là hết sức lỗi
thời, cũng giống như khi chúng ta hôm nay nhìn lại các cuộc xung đột tôn giáo ở
thế kỷ 17. Các bạn hãy nhớ lại xem, vào cuối thế kỷ 17, Vua Louis XIV của Pháp
đã quyết định bắt buộc cải đạo hoặc trục xuất những người theo đạo Tin lành
trong đất nước của mình, và người Anh đã làm một cuộc cách mạng chống lại Vua
James II vì ông muốn tái công giáo hóa cư dân của mình. Và nhà khoa học vĩ đại
Isaac Newton gần như quan tâm đến việc diễn ngôn Kinh thánh cũng nhiều như ông
quan tâm đến vật lý học. Đối với chúng ta ngày nay, những điều đó tỏ ra rất lỗi
thời, dù rằng những điều đó xảy ra trong một thời đại mà chúng ta coi như là
bước đột phá cách mạng trong quá trình phân chia khoa học và chính trị nhà
nước. Tôi nghĩ rằng, nhìn từ góc độ tương lai, những xung đột trong thế kỷ 20
dường như cũng rất lỗi thời theo ý nghĩa đó.
Ví dụ, quan sát từ thế kỷ tiếp theo, sẽ có vẻ kỳ lạ
khi diễn ngôn ý thức hệ của thế kỷ 20 chỉ đề cập đến hai hình thức trật tự kinh
tế mang tính chất loại trừ lẫn nhau, đó là chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa xã
hội. Thay vì xem xét một loạt các biến thể kinh tế nằm giữa các
thái cực, một bên là hệ thống thúc đẩy lợi nhuận thị trường
hoàn toàn không được kiểm soát, không có kế hoạch và bên kia là
hệ thống chỉ huy, hoàn toàn có kế hoạch và thực tế là phi thị trường của chủ
nghĩa xã hội nhà nước.
Đây là những sự phân cực khó hình dung có thể xảy ra.
Nhưng chúng đã thực sự tồn tại. Thật không may cho những người dân bất hạnh ở
Nga, cả hai thái cực này có lẽ đã được áp dụng lần đầu tiên, có lẽ là lần cuối
cùng ở đất nước này. Lần đầu tiên là sau cuộc cách mạng năm 1917, hay đúng hơn
là vào thời Stalin, lần thứ hai là sau năm 1989, trong số đó những con người
tội nghiệp của dân tộc này vẫn còn chịu khổ đau.
Tuy nhiên, sự đối lập lưỡng cực này đơn giản là không
phù hợp với thực tế. Và dạng thức mà rất nhiều cuộc thảo luận trong thế kỷ 20
đề cập đến cũng không thực tế: cụ thể là, lập luận cho rằng thị trường tự do
đồng nghĩa với chính trị dân chủ; sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
đồng nghĩa với chính phủ độc tài. Đúng như vậy hay không? Để trả lời, bạn chỉ
cần nghĩ đến thể chế của Tướng Franco ở Tây Ban Nha và Tướng Pinochet ở Chile,
vốn ủng hộ tự do thị trường hoàn toàn nhưng lại là những thể chế độc tài, nhưng
mặt khác, bạn hãy nhìn vào khối Bắc Âu, nơi đã và đang sử dụng rất nhiều sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, nhưng họ chắc hẳn không phải là các nước
độc tài thiếu dân chủ.
Thực không may, những sự đối đầu nhị phân như vậy
dường như là điều tự nhiên đối với hầu hết trí thức trong thế kỷ của chúng ta.
Thế mà đối với chúng ta, những người đương thời, ngay cả đối với giới trẻ,
những cuộc chiến tranh ý thức hệ của thế kỷ này xem ra vẫn quan trọng như đạo
Tin lành đối với Oliver Cromwell và đạo Thiên Chúa đối với Vua Louis XIV hay James II. Và đó là
lý do tại sao đối với chúng ta, nó vẫn xoay quanh lịch sử chính trị của thế kỷ,
cả về cuộc xung đột giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ
này cũng như giai đoạn trung tâm của thế kỷ về chủ nghĩa phát xít, vốn đã làm
cho cả chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa cộng sản đoàn kết với nhau để chống
lại nó.
Ít nhất, đó là cách tôi nhìn lịch sử chính trị của
thời đại cực đoan. Bản thân tôi cũng cấu trúc hóa nó xung quanh cuộc xung đột
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác, lại có những nhà phê
bình, chẳng hạn như một nhà sử học rất tiếng tăm về thời Đức Quốc xã, Mark
Mazower gần đây đã viết cuốn lịch sử Châu Âu trong thế kỷ 20 với tựa đề “The
Dark Continent – Lục địa đen tối”. Các nhà phê bình
phản đối rằng tôi đánh giá thấp sức nặng lịch sử của chủ nghĩa phát xít so với
chủ nghĩa cộng sản. Bởi vì, như Mazower nói, một châu Âu cộng sản chưa bao giờ
nằm trong chương trình nghị sự, dù có hay không có sự trợ giúp của Moscow.
Nhưng một châu Âu phát xít dường như không chỉ có thể xảy ra mà thậm chí đôi
khi còn có thể xảy ra. Và không chỉ bởi vì Đức Quốc xã đã chiếm được gần như
toàn bộ lục địa châu Âu và đã thực sự có thể giành chiến thắng trong cuộc
chiến, nếu Hitler không phạm sai lầm đã tuyên chiến với mọi phe, làm cho cả Nga
và Mỹ đoàn kết chống lại ông ta.
Không có sai lầm đó, cuộc chiến chắc chắn sẽ không thể
đảo ngược được đối với Đức, tức là Đức sẽ thắng ở châu Âu. Mặt khác, cũng bởi
vì cánh hữu, nhất là cực hữu, thông qua chủ nghĩa phát xít, tức là Quốc xã,
được ưa chuộng hơn cánh tả lúc bấy giờ rất nhiều. Đến mức có những cuộc bầu cử
dân chủ vào thập niên 1930, chẳng hạn như ở Trung và Đông Âu, họ đã thiên về
cánh hữu nhiều hơn. Ở châu Âu, chỉ có Bắc Âu là rõ ràng đi về hướng tả. Mặt
khác, ở Mỹ, họ đã thể hiện rất rõ ràng dưới thời Roosevelt. Cánh tả luôn ở thế
phòng thủ trong suốt thập niên 1930 và người ta không được quên rằng đối với
nhiều người vào thời điểm đó, không chỉ những người nắm quyền, mà đa số người
dân đã xem chủ nghĩa phát xít dường như có năng lực đưa ra một giải pháp, thậm
chí một giải pháp cho cuộc khủng hoảng kinh tế.
![]() |
Jean Monnet (1888-1979) |
![]() |
Joseph Goebbels (1897-1945) |
Vì vậy thay vì chủ nghĩa tự do, theo họ thì một châu
Âu tư bản dựa trên chủ nghĩa phát xít sau chiến thắng của Đức là hoàn toàn có
thể hình dung được, có thể nói là một Liên minh châu Âu dưới ngọn cờ của Joseph
Goebbels chứ không phải của Jean Monnet. Goebbels đã từng tuyên truyền về một
châu Âu thống nhất về mặt kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế sẽ không có một châu
Âu như vậy mà chỉ có chế độ độc tài của những người Đức thuần chủng đứng trên
nhiều chủng tộc khác, và điều đó có lẽ sẽ gây khó khăn vô cùng cho việc duy trì
sự ổn định lâu dài cho châu Âu. Tuy nhiên, đó chỉ là sự suy đoán.
Chưa hết, trong lịch sử thế kỷ 20, không giống như chủ
nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít mặc dù có tiềm năng quân sự to lớn và không
kém phần quan trọng, nhưng chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi, dù cho ký ức về nó
vẫn đè nặng lên chúng ta. Bởi vì như Kirschaw, đồng nghiệp của tôi, lưu ý trong
phần giới thiệu cuốn tiểu sử mới hai tập về Hitler, sẽ được xuất bản trong vài
tháng tới, “nó cho chúng ta thấy một xã hội văn hóa tiên tiến, hiện đại có thể
bị nhấn chìm bởi chủ nghĩa man rợ nhanh chóng như thế nào”. Tuy nhiên, với tư
cách là một hiện tượng lịch sử, giai đoạn chủ nghĩa phát xít không phải là
trung tâm của lịch sử châu Âu. Ngay cả lịch sử châu Âu, chứ đừng nói đến lịch
sử thế giới, khó lòng được cấu trúc xung quanh chủ nghĩa phát xít.
Các cường quốc của phe Trục không chỉ thua trong chiến
tranh mà chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã nhanh chóng và gần như biến
mất hoàn toàn khỏi sân khấu chính trị sau chiến tranh. Ngày nay thật khó để
nghĩ về điều đó, khi nhớ lại phong trào này nổi bật như thế nào, chứ không chỉ
sức mạnh của nó, vào thập niên 1930. Họ đã tiến gần đến chiến thắng dễ dàng đến
mức nào.
Tại sao điều này lại gây tranh cãi? Nhưng điều chắc
chắn là, sự thật này không có gì để tranh cãi. Ngày nay, tôi cũng chắc chắn
rằng cái gọi là thử nghiệm Nga, như nó được gọi khi tôi còn trẻ, không phải là
một giải pháp thay thế lâu dài khả thi cho chủ nghĩa tư bản thế giới. Ngay cả
khi chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô tồn tại lâu hơn bảy lần so với mười hai năm
Đệ tam Đế chế trong thực tế, vốn dĩ đã được xem như nghìn năm đế chế Đức về mặt
lý thuyết.
Nói cho cùng, Cách mạng Tháng Mười trong lịch sử thế
kỷ của chúng ta có vai trò trung tâm hơn rất nhiều so với chủ nghĩa cánh hữu
cực đoan. Đơn giản vì chủ nghĩa cộng sản đã đóng một vai trò trong lịch sử của
mọi nơi trên thế giới kể từ năm 1918. Đây có lẽ là phong trào thế giới ngoài
châu Âu đầu tiên kể từ thời đại Hồi giáo bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy sau CN. Và
nhân tiện nói thêm, ngày nay người ta vẫn dễ quên rằng gần mười năm sau cuộc
đại sụp đổ năm 1991, khoảng 20% dân số thế giới vẫn sống dưới sự cai trị của
các đảng cộng sản, chủ yếu là ở Trung Quốc.
Làm thế nào để chống lại cuộc cách mạng của quần chúng
lao động, điều đó đã trở thành vấn đề chính của tất cả những người nắm quyền
sau năm 1917. Nếu không có cái gọi là mối nguy hiểm Bolshevik, chủ nghĩa phát
xít đã không tồn tại.
Không ai nghi ngờ rằng đây chính là bóng ma đã ám ảnh
các nước tư bản giám sát và các cơ quan tình báo trên thế giới sau năm 1917, và
ngay cả ở Hoa Kỳ, nơi thực sự không hề có mối hiểm họa cách mạng nào. Sau Thế
chiến thứ hai, mối đe dọa đỏ nổi lên như một siêu cường chiến thắng. Mặt khác,
ở các quốc gia giàu có và có vẻ ổn định về mặt xã hội ở phương Tây, mối đe dọa
cách mạng xã hội đã biến mất và do đó tính hợp pháp về mặt ý thức hệ của chủ
nghĩa chống Bolshevik cũng thay đổi, dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà
khoa học chính trị về chủ nghĩa toàn trị và những vấn đề tương tự.
Chủ đề về sự nguy hiểm của cách mạng xuyên suốt toàn
bộ lịch sử của thế kỷ này, từ năm 1917 cho đến khi bức tường Bá Linh sụp đổ. Nó
không bao giờ có thể được giảm bớt hoàn toàn từ xung đột quyền lực lớn hoặc từ
chính trị thực dụng.
Đây chính xác là điều khiến thập niên 1930 và 1940 trở
nên vô cùng thú vị đối với các nhà sử học, bởi vì ở một khía cạnh nào đó, sự
đoàn kết thống nhất giữa chủ nghĩa tư bản tự do với chủ nghĩa cộng sản là hoàn
toàn bất thường, mà đó chỉ là một sự gián đoạn ngắn ngủi trong mối thù truyền
kiếp sẽ xuất hiện trở lại.
Sự thống nhất này đã được áp đặt cho cả hai. Nếu không
có Hitler thì điều đó đã không xảy ra. Mặt khác, theo tôi, cả chủ nghĩa tư bản
tự do và chủ nghĩa cộng sản đều thuộc về một gia đình trí thức lịch sử.
Cả hai đều là con đẻ của thời đại khai
sáng. Họ nói cùng một ngôn ngữ. Họ
cùng quan tâm đến những xã hội giống nhau. Và nếu cả hai muốn sống sót, họ
không chỉ phải hợp tác cùng nhau trong cuộc chiến chống lại Hitler mà còn phải
học hỏi lẫn nhau. Nghịch lý thay, các nhà tư bản tự do đã thành công trong việc
này tốt hơn nhiều so với chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa tư bản đã tích hợp phong trào lao động có tổ
chức vào chính sách kinh tế xã hội của mình, đồng thời học hỏi nhu cầu lập kế
hoạch từ Liên Xô. Theo tôi, điều này xuất phát từ nỗi sợ bị hủy hoại, không
phải do sự sụp đổ kinh tế trong cuộc đại khủng hoảng, mà từ những tác động cách
mạng về mặt chính trị và xã hội của nó, ở cả cánh tả và cánh hữu.
Chủ nghĩa Cộng sản không thể đạt được sự kết hợp tương
tự giữa nền kinh tế thị trường với sự kiểm soát và lập kế hoạch công, giữa tăng trưởng kinh
tế với phúc lợi xã hội. Kể cả
trường hợp Hungary cũng thế. Thật không may, chúng ta chưa rõ liệu điều này chỉ
có thể thực hiện được ở phương Tây trong những điều kiện đặc biệt của thế giới
thời hậu chiến hay không.
Đó là, liệu nền kinh tế hỗn hợp có thể được xây dựng
lại trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay hay không và bằng cách nào. Thật không
may, ít nhất là ở phương Tây, chủ nghĩa tư bản đã có một thời kỳ hiệu quả trong
việc quên đi nỗi sợ bị hủy diệt và do đó quên đi những bài học lịch sử của
chính nó trong thế kỷ 20. Làm thế nào để chúng ta tiến về phía trước? Cảm ơn
Chúa, nhà sử học không phải là một nhà tiên tri. Cùng lắm, anh ta có thể xác
định được vấn đề, nhưng các giải pháp thì thuộc về tương lai.
Đó là cái nhìn tổng quan của tôi về thế kỷ 20. Nhưng
hôm nay khi tôi nói với các bạn về thế kỷ này, tôi không chỉ nói với tư cách là
một nhà sử học mà còn với tư cách là một người mà dữ liệu cuộc sống gần như
giống hệt với thế kỷ ngắn ngủi của chúng ta. Điều này có thể đã ảnh hưởng đến
phân tích của nhà sử học. Bất cứ ai cũng có thể viết lịch sử của một thời đại,
nhưng nó trông như thế nào còn tùy thuộc vào góc nhìn của nhà sử học. Và điều
này phần lớn được định hình bởi kinh nghiệm sống của người đó. Tất nhiên, điều
này đặc biệt quan trọng trong lịch sử đương đại, bởi vì nó xác định ranh giới
giữa lịch sử sống và lịch sử được học hoặc nghiên cứu từ bên ngoài. Phải chăng
điều đó có nghĩa là mọi người chỉ nhìn thấy hoặc có thể nhìn thấy thế kỷ của
chính mình?
Việc chúng ta, với tư cách là những nhà sử học, chỉ có
thể nói chuyện với những người giống mình không tiết lộ điều đó, bởi vì những
đánh giá của chúng ta về lịch sử là khác nhau, bộc lộ những phản ứng khác nhau
trước các sự kiện. Cũng không thể tranh luận về những sự thật có thể xác định
được của lịch sử một khi chúng đã được xác lập theo các quy tắc của phường hội
nghề nghiệp. Đức đã thua chứ không phải thắng trong hai cuộc chiến tranh thế
giới. Thật khó để khẳng định ông Kohl chết năm 1999 vì có bằng chứng cho thấy
ông vẫn còn sống.
Bà giáo cũ của tôi, người đã khiến chúng tôi đắm chìm
trong những niên đại thuộc chính quyền của các hoàng đế Đức, hoàng hậu và nội
các Anh, có lẽ bà đã tin rằng những niên đại này quan trọng hơn những gì chúng
có vẻ đối với tôi với tư cách là một nhà sử học xã hội ngày nay. Nhưng đơn giản
là không thể phủ nhận lời giảng của cô giáo ấy rằng, Nữ hoàng Elizabeth I đã
hành quyết Nữ hoàng Mary Stewart của Scotland vào năm 1587.
Lịch sử theo nghĩa này cũng khách quan như một thành
phố lớn. Bất kể bạn đến từ đâu, bạn tin vào điều gì, bất kể giới tính hay màu
da nào, nếu bạn muốn định hướng cho mình ở thành phố này ngày nay, tất cả các
bạn đều sử dụng một bản đồ thành phố giống nhau, trong đó ghi lại sự thật khách
quan nhất định của thành phố. Và ngay cả khi những người lãnh đạo thành phố
nghĩ đến việc đổi tên đường phố và các tòa nhà, hoặc thậm chí thay đổi tên của
chính thành phố, như việc thường xảy ra đối với người Trung và Đông Âu,.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là Berlin hay St.
Petersburg có ý nghĩa giống nhau đối với tất cả người dân, du khách hoặc đối
với tất cả những người liên quan đến những thành phố này. Làm sao điều đó có
thể xảy ra được? Nhưng điều đó có nghĩa là tất cả những ai muốn đi từ Wimbledon
đến Wembley đều có thể và phải sử dụng cùng một bản đồ tàu điện ngầm, bất kể
động cơ, mục tiêu và cảm xúc của du khách có khác nhau đến đâu.
Nói tóm lại, điều đó có nghĩa là chúng ta có thể biết
mình đang nói về điều gì. Và trong lịch sử cũng vậy. Tuy nhiên, rõ ràng là cùng
một thế kỷ, nhưng nó có vẻ khác đối với tôi, khi so sánh với một nhà sử học 30
tuổi hoặc một độc giả Hàn Quốc.
Có ngạc nhiên không khi ba điều quyết định quan điểm
của chúng ta về lịch sử? Cái cũ, mô tả địa lý theo thời điểm. Nhiệm vụ của nhà
sử học đương thời là giải thoát bản thân ra khỏi chúng và, nếu có thể, suy nghĩ
về con đường đi vào lịch sử của mình từ quan điểm của một thế hệ tương lai.
Nhưng tất nhiên điều đó trước hết có nghĩa là nhận ra bản chất quan điểm của
chính bạn.
Thời đại cũ, tức là thời đại lịch sử trong đó chúng
ta, với tư cách là những người trẻ, khám phá thế giới, không chỉ quyết định
kinh nghiệm sống mà còn quyết định phần lớn thế giới quan của chúng ta.
Ví dụ, tôi rõ ràng thuộc về thế hệ của thập niên 1930.
Sau thời thơ ấu ở Vienna, tôi trải qua những năm cuối cùng của Cộng hòa Weimar
ở Berlin, nơi đã định hình quan điểm chính trị của tôi và đánh thức mối quan
tâm của tôi đối với lịch sử thông qua Marx và Engels. Tôi thuộc thời đại của
Mặt trận Bình dân ở Paris, nhưng Mặt trận Bình dân ở Paris khác hẳn phong trào
sinh viên tháng 5 năm 1968, cũng khác hẳn cuộc nội chiến Tây Ban Nha v.v..
Thế hệ tôi thuộc về những năm xảy ra cuộc đại khủng
hoảng, khi ngay cả chủ nghĩa tư bản cũng đã trực tiếp phát hiện ra rằng nền
kinh tế thị trường không bị hạn chế và không được kiểm soát có thể dẫn đến
không những thảm họa về kinh tế mà còn cả thảm họa chính trị và xã hội.
Vì vậy, chẳng hạn, không giống như các biên tập viên
kinh doanh của hai hoặc ba năm trước, tôi không hề ngạc nhiên rằng vào năm
1997-98, phép lạ kinh tế Đông Á đã sụp đổ và cuộc nổi dậy quần chúng của các
nạn nhân đã biến chế độ độc tài kéo dài 30 năm trong một quốc gia lớn như Nam
Dương có thể sụp đổ. Nói cho cùng, chúng tôi đã chứng kiến điều tương tự vào
những năm từ 1930 đến 1933.
Do đó, thế hệ của tôi ngay từ đầu đã được miễn nhiễm
với những điều mê tín của lý thuyết kinh tế tân tự do đặc biệt lan tràn trong thập niên 1980. Chúng tôi
thấy thật khó tin rằng sau cuộc đại khủng hoảng người ta lại có thể lý tưởng
hóa nền kinh tế thị trường tự do không hạn chế. Chúng tôi nhớ rằng những người
theo chủ nghĩa thị trường tự do tuyệt đối hồi đó, trước hết, về mặt lý thuyết
đã phủ nhận ngay cả khả năng xảy ra cuộc khủng hoảng thế giới mà tất cả chúng
ta đã và đang chứng kiến. Và thứ hai, tư duy Chính thống giáo của họ đã biến
mất trong vòng 30 năm, chính xác bởi vì bản thân họ hoàn toàn bất lực khi đối
mặt với cuộc khủng hoảng này.
Chúng ta nên nhớ rằng những nhà phê bình chủ nghĩa tân
tự do thập niên 1980 – vốn đã trục xuất những người theo chủ nghĩa thị trường
tự do cực đoan vào cuộc sống lưu vong 30 năm của họ – không phải là kẻ thù của
chủ nghĩa tư bản, càng không phải là người mở đường cho chế độ độc tài.
Họ là những người như Tổng thống Roosevelt và John Maynard Keynes, những người được nhiều người biết đến là không cộng sản, thậm chí không phải là một nhà dân chủ xã hội trong suốt cuộc đời của mình, mà Keynes là thành viên trong Đảng Tự do của Anh, đồng thời cũng là kiến trúc sư của nhà nước phúc lợi của Anh thể hiện qua chính sách xã hội được thiết kế bởi Sir William Beveridge.
![]() |
John Maynard Keynes (1883-1946) |
Mục tiêu mà Maynard Keynes theo đuổi một cách có ý
thức là cứu giai cấp tư sản tự do và vì thế là cứu xã hội tư bản và cứu “giai
cấp tư sản có học thức của tôi”, tôi xin trích dẫn Cains như thế. Ông muốn cứu
chủ nghĩa tư bản khỏi việc tự sát thông qua lòng ích kỷ thiển cận của những kẻ
đi săn lợi nhuận.
Keynes và hầu hết những người cùng thời với ông đều
thấy rất rõ ràng rằng có điều gì đó không ổn trong một hệ thống trong đó, và
tôi tiếp tục trích dẫn lời của Keynes, “nền kinh tế là sản phẩm phụ của công
việc trong sòng bạc”, đặc biệt vì bản thân Keynes cũng là một nhà đầu cơ thị
trường chứng khoán thành công và ông biết rõ hoạt động kinh doanh này. Nhưng
sòng bạc đang diễn ra trên thị trường ngoại hối quốc tế ngày nay vẫn chưa được
ông biết đến, đơn giản vì những thứ như thế không hề tồn tại vào thời điểm đó.
Mặt khác, theo tôi, một nhà sử học khó có linh cảm về
những chuyện có thể sẽ xảy ra, như các phong trào sinh viên năm 1968 và các
cuộc cách mạng văn hóa tương tự. Như tôi đã tự mình phát biểu, chúng tôi rất
đồng cảm với những phong trào như vậy, nhưng thật ngạc nhiên thú vị khi những
người trẻ ở Tây Âu, ở Hoa Kỳ, một lần nữa lại tuyên bố chính mình là thành viên
của những cuộc cách mạng ấy, và cũng là người thuộc cánh tả phi lý hoặc hoàn
toàn phi thực tế. Nhưng nói cho cùng, điều đó vẫn tốt hơn là thờ ơ không làm
gì.
Nhưng quả thực chúng tôi không hiểu động cơ của họ,
ngoại trừ trường hợp những phong trào tình cờ có liên quan ít nhiều đến chính
trị, chẳng hạn như những cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam hoặc như
một cuộc cải cách chính trị ở Đông Âu.
./.
Bài diễn từ này được phát sóng
lại vào ngày 22 tháng 6 năm 2015 từ 14 giờ đến 14 giờ 45 bởi kênh giáo dục của
ARD ALPHA và SWR, những phân nhánh của đài truyền thông công cộng Deutsches
Erstes Fernsehen (ARD).
Diễn giả: Eric John Hobsbawm
Xem từng chương bản dịch cuốn sách (xin chú ý đến các
links trong mục lục):
THỜI ĐẠI THÁI CỰC 1914 – 1991; THE AGE OF EXTREMES - Nguyễn Ngọc Giao dịch
Nguyễn Ngọc Giao (Diendan.org) –
Nhà sử học của hai thế kỉ
Nguyễn Quang/Kiến Văn dịch: Đọc
thời đại của những thái cực
Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất
Thông
Nguồn: Thế kỷ cực đoan, diendankhaiphong.org, 15/09/2023.
Bài có liên quan:
