NOAM CHOMSKY Ở TUỔI 96: NHÀ NGÔN NGỮ HỌC, NHÀ GIÁO DỤC, NHÀ TRIẾT HỌC VÀ NHÀ TƯ TƯỞNG ĐẠI CHÚNG VỚI TẦM ẢNH HƯỞNG TO LỚN VỀ TRÍ TUỆ VÀ ĐẠO ĐỨC
Noam Chomsky đã diễn thuyết và tranh luận tại nhiều diễn đàn về nhiều chủ đề trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình. Neilson Barnard/Getty Images |
Noam Chomsky, một trong những trí thức nổi tiếng và được kính trọng nhất thế
giới, sẽ tròn 96 tuổi vào ngày 7 tháng 12 năm 2024. Trong hơn nửa thế kỷ, vô số người đã đọc các tác
phẩm của ông bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, và nhiều người đã dựa vào các bình luận và bài trả lời phỏng vấn của
ông để có cái nhìn sâu sắc về các cuộc tranh luận trí thức và sự kiện đương thời.
Chomsky bị đột quỵ
hồi tháng 6 năm 2023 nên khả
năng vận động, nói chuyện và đi lại của ông bị suy giảm nghiêm trọng. Sinh nhật của Chomsky là dịp để xem xét lượng tác phẩm đồ sộ
mà ông đã sáng tác nhiều năm qua cũng như suy ngẫm về nhiều cách mà các văn bản và bài nói chuyện của ông vẫn đóng góp sâu sắc tại các cuộc thảo luận đương đại rộng khắp các lĩnh vực và quốc
gia.
Khối lượng công trình đồ sộ của Chomsky bao gồm nghiên cứu khoa học
tập trung vào ngôn ngữ, bản chất con người và tâm trí, cùng các bài viết chính
trị về chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, Israel và Palestine, Trung Mỹ, Chiến tranh Việt
Nam, các thể chế cưỡng chế, phương tiện truyền thông và
vô vàn cách, mà theo đó, nhu cầu của con người bị gạt bỏ để nhường chỗ cho lợi nhuận và quyền kiểm soát.
Là một học giả về nhân văn và luật, tôi đã tiếp cận công trình của Chomsky từ nhiều góc độ khác nhau và là tác giả của cuốn tiểu sử “Noam Chomsky: A Life of Dissent” (tạm dịch: Noam Chomsky: Một cuộc đời bất đồng chính kiến) và quyển sách về ảnh hưởng của Chomsky có tựa đề “The Chomsky Effect: A Radical Works Beyond the Ivory Tower” (tạm dịch: Hiệu ứng Chomsky: Sự nghiệp cấp tiến vượt khỏi tòa tháp ngà). Một chủ đề quan trọng xuyên suốt lượng tác phẩm đồ sộ của ông là niềm say mê suốt đời đối với sự sáng tạo của con người, điều này giúp giải thích những cuộc tấn công dữ dội của ông vào những kẻ tìm cách kiểm soát quần chúng.
Những ngày đầu
Avram Noam Chomsky sinh ngày 7 tháng 12 năm 1928 tại Philadelphia. Ông và
em trai, David
Chomsky, được nuôi dưỡng
trong một gia đình ngập tràn sức sống bởi Elsie Simonofsky và William
(Zev) Chomsky, những
nhà giáo dục tiến bộ, những người tham gia sâu vào các hoạt động văn hoá đa dạng
về văn hóa Do Thái và chủ nghĩa phục quốc Do thái [Zionnist].
Chomsky thường cho rằng sở thích về dạy và học của ông bắt nguồn từ việc nghiền ngẫm các tác phẩm tiếng Do Thái cùng cha mẹ và từ những trải nghiệm giáo dục
sôi nổi mà ông có được tại Trường
Oak Lane County Day, một
trường thực nghiệm
áp dụng phương pháp học tập nhập vai
của John Dewey và
khuyến khích mỗi học sinh hãy sáng tạo thay vì cạnh tranh với các trò khác.
Là người sớm bắt
đầu học tập, Chomsky đã đọc bản in thử
cho cuốn sách của cha mình về một nhà ngữ pháp tiếng Do Thái thế kỷ 13 tên
là David
Kimhi khi mới 12
tuổi. Quả là khởi
đầu tốt lành cho một cuộc đời đắm chìm trong ngữ văn, triết học và việc nghiên cứu về ngôn ngữ và tâm trí. Ngay từ rất sớm, ông đã
cố để hiểu khuynh hướng bẩm sinh hướng tới tự do, phẩm giá
và sự sáng tạo của con người, điều
này đã khơi dậy trong ông niềm hứng thú về việc nuôi dưỡng những đặc tính
của bản chất người đó.
Trong khi cha mẹ của Chomsky là những người mà ông gọi là đảng viên Dân chủ
Roosevelt bình thường, ông lại bị thu hút bởi những cách tiếp cận cấp tiến hơn
đối với xã hội và với việc thúc đẩy các cấu trúc xã hội phi cưỡng
bức. Năm 10 tuổi,
Chomsky đọc về cuộc Nội chiến Tây Ban Nha và được truyền cảm hứng để viết một bài xã luận về sự sụp đổ
của Barcelona cho tờ báo trường. Đây là
điềm báo sớm cho công việc trí tuệ quần chúng và những lời chất vấn của
ông nhằm vào các hệ thống áp bức và
quyền lực bất hợp pháp.
Khi còn trẻ, Chomsky tham gia nhánh xã hội chủ nghĩa của phong trào thanh niên Zionist (Chủ nghĩa Phục quốc Do
Thái), phong trào này phản đối một
nhà nước Do Thái riêng biệt, và thông qua việc đọc và
thảo luận (về
chủ đề này), ông đã chọn ủng hộ sự hợp
tác giai cấp Ả Rập-Do Thái trong một Palestine xã hội chủ nghĩa. Kiến thức sâu rộng của ông về
Palestine và Israel, được củng cố bởi khả năng đọc và nói tiếng Ả Rập và tiếng
Hebrew, là cơ sở cho nhiều chỉ
trích gay gắt của ông đối với quyền lực nhà nước Israel.
Phương pháp sư phạm cấp tiến
Sau giai đoạn giáo dục sớm tập trung vào việc tự khám phá và
khám phá tự do, Chomsky được tiếp xúc với việc học thuộc
lòng, cạnh tranh với các học sinh
khác và một hệ thống giá trị chính thống tại trường trung học. Để phản ứng lại, ông bắt đầu đều đặn ghé Thành phố New York để khám phá các hiệu sách. Ông cũng thường xuyên lui tới sạp báo của một người họ hàng trên
Phố 72, một tụ điểm trí thức
sôi nổi cho
những người di cư quan tâm đến các phương pháp tiếp cận xã hội cấp tiến hơn.
Năm 1944, Chomsky hoàn thành chương trình phổ thông và ghi danh vào Đại học
Pennsylvania. Dù tỏ ra thất vọng về các khuôn mẫu cứng nhắc và kiểu tư duy theo lối
mòn mà mình gặp phải ở đó, Chomsky đã tìm thấy cảm hứng trong
các khóa học với triết gia C. West
Churchman, nhà ngôn ngữ
học Giorgio
Levi Della Vida và
nhất là nhà
ngôn ngữ học Zellig Harris. Chomsky biết các thành viên của gia đình Harris vì gia đình Chomsky thỉnh
thoảng có đến tham dự các buổi lễ Do Thái do cha của Zellig Harris tổ
chức tại nhà họ.
Cách tiếp cận của cha Chomsky đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ có nhiều điểm
tương đồng với công trình của Zellig Harris về văn hóa và ngôn ngữ người Semit nghiên cứu về tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái và các ngôn ngữ Semit
khác. Harris đã mời Noam đọc bản in thử của quyển “Methods in Structural
Linguistics” (tạm dịch: Các phương pháp trong ngôn ngữ học cấu trúc) của ông. Cuốn sách rất được mong chờ này bắt nguồn từ ý tưởng rằng chức năng và ý
nghĩa của các yếu tố ngôn ngữ được xác định bởi mối quan hệ của chúng với các
thành phần khác trong câu. Cuối cùng, sau khi hết sức cố gắng để hiểu được hệ hình ngôn ngữ học của Harris, Chomsky đã từ bỏ nó,
nhưng ông vẫn bị cuốn hút bởi quan điểm chính trị cũng
như bởi các cuộc tranh luận sôi nổi,
sáng tạo và không có cấu trúc mà Harris thúc đẩy.
Chomsky gặp Carol
Doris Schatz tại
Trường Hebrew, nơi mẹ bà là giáo
viên dạy học và
cha của Chomsky là hiệu trưởng. Nhiều năm sau, khi cả hai đã trở thành sinh viên tại
Đại học Pennsylvania, họ bắt đầu hẹn hò. Họ kết hôn vào năm 1949, và bốn năm
sau, họ quyết định chuyển đến một kibbutz của Israel – một
dạng định cư nông nghiệp theo lối sống cộng đồng. Cả hai đã kỳ vọng
sẽ tìm thấy ở đó một nền văn hóa tư duy tự do và sáng tạo. Thế nhưng, họ đã vô cùng
thất vọng khi chứng kiến điều mà Chomsky mô tả là tư tưởng tuân thủ cứng nhắc theo ý thức hệ Stalin. Chỉ sau
sáu tuần, họ
đã quay về Hoa Kỳ.
Cặp đôi trẻ định cư tại Boston và xây dựng tổ ấm. Noam
theo đuổi chương trình sau đại học, trong khi Carol tạm dừng việc học của mình
để nuôi con. Sau đó, bà quay lại nghiên cứu về quá trình tiếp thu ngôn ngữ, cuối cùng bà đã giảng dạy
và nghiên cứu tại MIT và Harvard về chính lĩnh vực này. Carol Chomsky qua đời vào năm 2008. Năm 2014, Noam tái hôn với
biên dịch viên người Brazil Valeria
Wasserman Chomsky.
Cách mạng Chomskian
Khi Chomsky còn là sinh viên, hầu hết các nhà tâm lý học hàn lâm mô tả ngôn ngữ con người là một hệ thống các thói quen, kỹ năng hoặc
khuynh hướng hành động có được thông qua quá trình đào tạo, quy nạp, khái quát
hóa và liên tưởng sâu rộng. Theo cách giải thích này, ngôn ngữ phát triển dần dần
theo kinh nghiệm, được củng cố bằng hệ thống
thưởng và phạt.
Công trình tiến sĩ của Chomsky, cuốn sách “Syntactic Structures” (Các cấu trúc
cú pháp) xuất bản năm 1957 và bài điểm
sách về tác phẩm “Verbal Behaviour” (tạm dịch: Hành vi ngôn ngữ)
của B.F. Skinner đăng trên New York
Review of Books đã thách thức mô hình này và báo hiệu cuộc cách mạng ngôn ngữ học Chomsky.
Xuất phát điểm Chomsky là con người được phú cho một thứ ngữ
pháp phổ quát, được
kích hoạt nhờ tiếp xúc với ngôn ngữ
tự nhiên. Trẻ nhỏ thành thạo một ngôn ngữ bằng cách bồi đắp trên nền tri thức bẩm sinh. Điều này có nghĩa là khả năng ngôn ngữ thực sự phát triển
trong tâm trí theo cách tương tự như cách
các cơ quan phát triển trong cơ thể.
Mối quan tâm của Chomsky đến năng lực bẩm sinh của
con người một phần xuất phát từ một loạt các chuyên luận triết học được viết
vào thế kỷ 17 và 18 và gắn liền với hệ thống logic Port
Royal và triết học Khai sáng, vốn nhấn mạnh khoa học, tự do cá nhân và pháp quyền.
Ông đã phát triển những ý tưởng này trong cuốn sách có tựa
đề “Cartesian Linguistics” (tạm
dịch: Ngôn ngữ học Descartes), chỉ rõ việc ông chịu ảnh hưởng trí tuệ từ các tác phẩm của Descartes, Kant, Rousseau và Wilhelm von Humboldt
cùng nhiều học giả khác.
Đến đầu những năm 1960, công trình của Chomsky đã giúp ông được công nhận trong lĩnh vực ngôn ngữ học, triết học và tâm lý học. Nghiên cứu của riêng ông và của ngày càng nhiều những nhà ngôn ngữ học áp dụng cách tiếp cận của ông, đã mang đến những tiến bộ đáng kể trong nghiên cứu cú pháp, ngữ pháp tạo sinh, ngôn ngữ và tâm trí, ngữ nghĩa học, hình thức và cách diễn giải ngôn ngữ.
Hoạt động chính trị của Chomsky được ghi lại trong một tuyển tập mà tôi cho là rất
đáng chú ý gồm các cuộc phỏng vấn và
sách về chủ nghĩa đế quốc Mỹ, Chiến tranh Lạnh, Trung Đông, Trung Mỹ và Đông Nam Á, bao gồm “Problems
of Knowledge and Freedom” (tạm dịch: Các vấn đề về tri thức
và tự do) và “For Reasons of State”
(tạm dịch: Vì lý do nhà nước).
Bối rối trước tinh thần đồng thuận đầy cam chịu của người Mỹ, ông bắt đầu cộng tác với Edward
S. Herman trong
các cuốn sách gồm “Counter-Revolutionary
Violence” (tạm dịch: Bạo lực phản cách mạng), “The Political Economy
of Human Rights” (tạm dịch: Nền kinh tế chính trị của nhân quyền) và “Manufacturing
Consent” (Tạo dựng sự đồng thuận), tác phẩm này sau đó được chuyển thể thành một bộ phim
nổi tiếng cùng
tên.
Chủ đề chung
Sợi chỉ đỏ xuyên
suốt nhiều dự án trí tuệ của Chomsky
là bốn “vấn
đề” – trọng tâm của phần lớn các công trình trong đời ông. Một là vấn đề của Plato, xem xét lý do tại sao con người, dù tiếp xúc ngắn ngủi và hạn
chế với thế giới, lại có thể biết được nhiều đến vậy. Thứ hai là vấn
đề bổ sung của Orwell, đặt ra câu hỏi tại sao con người lại biết quá ít so
với lượng thông tin mà họ có thể tiếp
cận. Thứ ba là vấn
đề của Descartes, liên
quan đến khả năng của con người trong việc tự do biểu đạt suy nghĩ theo những cách thức luôn
luôn mới lạ, trên một phạm vi vô hạn, bằng những phương tiện phù hợp với hoàn cảnh
nhưng lại không
phải do hoàn cảnh tạo ra. Cuối cùng, là vấn đề của Humboldt, tập trung vào điều gì cấu thành nên ngôn ngữ.
Những vấn đề này có liên quan theo nhiều cách khác nhau đến cách mọi
người học, điều gì cản trở sự phát triển của con người và đến những suy đoán về trạng thái ban đầu
của khả năng ngôn ngữ, được ông phác thảo trong một loạt các văn bản, bao gồm
“Knowledge
of Language: Its Nature, Origin, and Use” (tạm dịch: Tri thức
về ngôn ngữ: Bản chất, nguồn gốc và cách sử dụng), “Language
and Problems of Knowledge: The Managua Lectures” (tạm dịch: Ngôn
ngữ và các vấn đề về tri thức: Các bài giảng ở Managua), “The
Minimalist Program” (tạm dịch: Chương trình tối giản) và “Why Only Us? Language and
Evolution” (tạm dịch: Tại sao chỉ có chúng ta? Ngôn ngữ và sự tiến hóa), cộng tác với Robert C.
Berwick.
Di sản của Chomsky
'Manufacturing Consent' là một trong những tác phẩm chính trị nổi tiếng nhất của Noam Chomsky. Ảnh: courtesy Penguin Random House |
Với tư cách là nhân vật được công nhận rộng rãi là người sáng lập khoa học
nhận thức, Chomsky đã chỉ trích sự thổi phồng xung quanh dữ liệu
lớn, trí tuệ
nhân tạo và ChatGPT.
Là tiếng nói của những người bị chà đạp và áp bức, ông đã lên tiếng từ góc nhìn nhân quyền, sự tự vệ trí tuệ và
cuộc đấu tranh của quần chúng thông qua tư duy
độc lập chống lại
các cấu trúc quyền lực và sự nô dịch hóa.
Những thành tựu phi thường của Chomsky đã gây được tiếng vang rộng rãi – và có khả năng là vẫn thế trong tương lai.
Tác giả
Robert F. Barsky |
Giáo sư Khoa học Nhân văn và Giáo sư Luật, Đại học Vanderbilt
Tuyên bố công
khai
Robert F. Barsky
đã nhận tài trợ từ Quỹ Rockefeller, Quỹ Guggenheim, Hội đồng nghiên cứu khoa học
xã hội và nhân văn, Fonds FCAR và Đại học Vanderbilt.
Huỳnh
Thị Thanh Trúc dịch
Nguồn: Noam Chomsky at 96: The linguist, educator, philosopher and public thinker has had a massive intellectual and moral influence, The Conversation, Dec 3, 2024.