CON ĐƯỜNG ĐẾN THỊNH VƯỢNG:
SỰ CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC TRONG BỐN THẬP NIÊN QUA
Path to prosperity: China’s transition to market economy
in the last four decades
Justin Yifu Lin (Lâm Nghị Phu)
Nguyễn Xuân Xanh chuyển ngữ và trình bày

“Nhưng
các cơ hội và thách thức mà các nước phát triển phải đối mặt lại khác với các
nước đang phát triển. Vì vậy, các lý thuyết được thiết kế riêng cho các nước
phát triển không nhất thiết phải áp dụng cho các nước đang phát triển. Và vì
các điều kiện và vấn đề kinh tế xã hội ở các nước phát triển không ngừng thay đổi,
nên các lý thuyết thống trị của họ cũng thay đổi theo thời gian. Vì vậy, khi cố
gắng áp dụng các lý thuyết từ các nước phát triển để định hướng cho các chính
sách của mình, các nước đang phát triển có thể không biết nên chọn lý thuyết
nào. Ngay cả khi họ chọn một lý thuyết, lý thuyết đó cũng có thể không phù hợp
với điều kiện của họ.[…]
Do
đó, các nhà trí thức ở Trung Quốc và các nước đang phát triển khác nên đào sâu
hiểu biết về đất nước của họ ở mọi khía cạnh, bao gồm cả các khía cạnh chính trị,
kinh tế và các khía cạnh xã hội khác. Thông qua đó, họ có thể xây dựng một cách
sáng tạo một khuôn khổ lý thuyết nắm bắt được bản chất, thách thức và cơ hội của
quá trình hiện đại hóa đất nước mình.”
– Justin Yifu Lin
![]() |
GS Justin Yifu Lin 2025 (sinh năm 1952 tại Đài Loan) (Ảnh Wikipedia) |
Lời
nói đầu
Anh chị thân mến,
Gần đây tôi được tin GS Trung Quốc
Justin Yifu Lin, người rất am hiểu sự chuyển đổi thần kỳ của kinh tế Trung Quốc
từ kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường, và là một học giả
có tên tuổi thế giới, sắp đến Việt Nam để làm tham luận về kinh nghiệm của
Trung Quốc tại một đại học Việt Nam. Tôi rất vui mừng trước tin đó. Cách đây
khoảng mười năm tôi đã đọc sách ông, và làm một số nghiên cứu về Trung Quốc
“Xưa và Nay”, nhưng rồi tôi phải xếp lại để làm chuyện khác, vì nghĩ làm sao
công bố những nghiên cứu đó? Nhưng tình hình Việt Nam hiện nay có không khí cởi
mỡ hơn trong việc tiếp thu kinh nghiệm của thế giới, nên những kinh nghiệm về
Trung Quốc là hữu ích và cần nêu lên.
GS Lin là nhà kinh tế trưởng của
Ngân hàng Thế giới (tên đầy đủ: Phó chủ tịch cấp cao về Kinh tế phát triển và
Nhà kinh tế trưởng của Nhóm Ngân hàng Thế giới) và là nhà kinh tế cấp cao tại
Nhóm Ngân hàng Thế giới, có nhiệm vụ cung cấp sự lãnh đạo và định hướng trí tuệ
cho chiến lược phát triển quốc tế chung và chương trình nghiên cứu kinh tế của
ngân hàng, ở cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia, như Wikipedia viết. Ông tốt
nghiệp Tiến sĩ kinh tế tại Đại học Chicago (1986), và sau khi hoàn thành chương
trình nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học Yale, ông về Bắc Kinh và trở thành
giáo sư kinh tế tại Đại học Bắc Kinh vào năm 1987. Ông thành lập Trung tâm
nghiên cứu kinh tế Trung Quốc (hiện là Trường phát triển quốc gia của Đại học Bắc
Kinh) và sau đó được bổ nhiệm làm Chuyên gia kinh tế trưởng và Phó chủ tịch cấp
cao của Ngân hàng Thế giới, nơi ông làm việc từ năm 2008 đến năm 2012. Sau đó,
ông trở về Bắc Kinh và tiếp tục nghiên cứu tại Đại học Bắc Kinh.
Ông là người rất am hiểu lý thuyết
kinh tế và cả thực hành. Trong một quyển sách (Quest for prosperity, quyển
này được dịch sang tiếng Việt: Cuộc Truy Cầu Sự Thịnh Vượng), ông kể
vui, rằng Albert Einstein đã từng nói đùa: “Lý thuyết là khi bạn biết mọi thứ
nhưng không có gì hiệu quả. Thực hành là khi mọi thứ hiệu quả nhưng không ai biết
tại sao. Chúng ta đã kết hợp lý thuyết và thực hành: không có gì hiệu quả… và
không ai biết tại sao!” Nhưng đó là đùa. Chúng ta cần biết cả lý thuyết, lẫn thực
hành sao cho công việc ăn khớp với cả hai. Và đó là điều Justin Lin muốn chuyển
đạt đến giới tinh hoa của các quốc gia đang trên đường phát triển.
Bài của ông Justin Lin mà tôi dịch
dưới đây đã được đăng trong quyển China and the West, do Jan
Svejnar của Đại học Columbia và Justin Yifu Lin làm chủ biên, xuất bản năm
2021. Ông có khoảng chục quyển sách.
Tôi rất vui mừng được chia sẻ với
anh chị về bài viết của GS Justin Yifu Lin. Cảm ơn sự quan tâm của anh chị.
Tôi làm trong sự hối hã, chắc chắn còn có nhiều lỗi và còn nhiều thiếu sót. Xin
thông cảm.
Dưới đây là nội dung.
Đừng quên tham khảo Trung
Quốc đã trở thành nước tư bản thế nào:
https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/trung-quoc-da-tro-thanh-nuoc-tu-ban-the-nao/
Nguyễn Xuân Xanh Thứ Bảy 12/4/2025
Con đường đến thịnh vượng: Quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của Trung Quốc trong bốn thập kỷ
qua, 1978-2018
Justin Yifu Lin (Lâm Nghị Phu)
Năm 2018, Trung Quốc đã kỷ niệm
40 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường. Thành tựu
kinh tế, tình từ lúc cuộc chuyển đổi đó bắt đầu, là một phép màu trong lịch sử
loài người. Năm 1978, Trung Quốc là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới,
với GDP bình quân đầu người của nước này là $156, ít hơn một phần ba mức trung
bình là $490 ở các nước Châu Phi cận Sahara. Giống như các quốc gia nghèo khác,
82 phần trăm dân số của nước này sống ở các vùng nông thôn, và 84 phần trăm sống
dưới mức nghèo khổ quốc tế là 1,25 đô la một ngày. Trung Quốc cũng là một nền
kinh tế “hướng nội” (inward-looking), với thương mại chỉ chiếm 9,7 phần trăm của
GDP. Từ điểm khởi đầu khiêm tốn đó, Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng
GDP trung bình hằng năm là 9,4 phần trăm và tốc độ tăng trưởng thương mại là
14,8 phần trăm trong giai đoạn 1978–2018. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt qua Nhật
Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và vượt qua Đức để trở thành
nước xuất khẩu lớn nhất. Năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia thương mại
lớn nhất thế giới sau khi vượt qua Hoa Kỳ, và là nền kinh tế lớn nhất thế giới,
nếu được đo bằng sức mua tương đương (PPP), và năm 2014 một lần nữa khi vượt
qua Hoa Kỳ. Hơn 700 triệu người dân Trung Quốc đã thoát khỏi đói nghèo, đóng
góp hơn 70 phần trăm vào việc giảm nghèo toàn cầu trong giai đoạn này. Hơn nữa,
Trung Quốc là nền kinh tế thị trường mới nổi duy nhất trên thế giới không phải
chịu cuộc khủng hoảng tài chính trong nước. Năm 2019, GDP bình quân đầu người của
Trung Quốc đạt $10.400.
Rất có thể Trung Quốc sẽ vượt qua
ngưỡng 12.700 đô la và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào khoảng năm 2025.
Nếu dự đoán trên trở thành hiện thực, Trung Quốc sẽ là nước thứ ba, sau Hàn Quốc
và Đài Loan, tăng trưởng thành công từ nền kinh tế thu nhập thấp lên thu nhập
cao trong số gần 200 nền kinh tế đang phát triển sau Thế chiến thứ II.
Trong chương này, dựa trên Lin
(2012a), tôi muốn khảo sát lý do tại sao Trung Quốc có thể đạt được thành tích
xuất sắc như vậy sau quá sự chuyển đổi năm 1978, tại sao Trung quốc lại không
thể có thành tích tương tự trước năm 1978, tại sao Trung Quốc có thể tránh được
sự sụp đổ và trì trệ đã xảy ra ở các nền kinh tế chuyển đổi khác, Trung Quốc đã
phải trả giá gì cho thành công của mình và các bài học gì cần được rút ra.
1.
TẠI SAO TRUNG QUỐC PHÁT TRIỂN RẤT NHANH SAU NĂM 1978
Dòng chảy liên tục của đổi mới
công nghệ trong các ngành công nghiệp hiện hữu, và sự xuất hiện của các ngành
công nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn, đó là cơ sở để cải thiện liên tục năng
suất và thu nhập, do đó sự tăng trưởng bền vững trong mọi nền kinh tế, cả đối với
các nước thu nhập cao và các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, có một số khác biệt
quan trọng giữa các nước thu nhập cao và các nước đang phát triển. Ở các nước
thu nhập cao, công nghệ và ngành công nghiệp đã nằm tại các biên giới công nghệ
toàn cầu. Để nâng cấp, họ phải phát minh ra các công nghệ và ngành công nghiệp
mới để đưa các biên giới này tiến lên phía trước. Phát minh đòi hỏi chi phí vốn
lớn và cũng rất rủi ro. Kể từ cuối thế kỷ 19, tốc độ tăng trưởng trung bình
hàng năm của năng suất lao động bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người ở
các nước thu nhập cao là khoảng 2 phần trăm mỗi năm.
Đối với các nước đang phát triển,
công nghệ và ngành công nghiệp của họ nằm bên trong ranh giới công nghệ và công
nghiệp toàn cầu. Họ có thể tiếp thu hoặc bắt chước công nghệ và ngành công nghiệp
từ các nước có thu nhập cao để đạt được những đổi mới công nghệ và nâng cấp
công nghiệp. Theo cách này, những đổi mới công nghệ và nâng cấp công nghiệp ở
các nước đang phát triển sẽ có chi phí và rủi ro thấp hơn so với các nước có
thu nhập cao. Khả năng này được gọi là “lợi thế của người đến sau” hoặc “lợi thế
của sự lạc hậu”. Nếu các nước đang phát triển có năng lực khai thác được lợi thế
đó, họ có thể đạt được tốc độ đổi mới công nghệ và nâng cấp công nghiệp cao
hơn, và do đó có một tốc độ tăng trưởng nhanh, một tốc độ nhanh của cải thiện
năng suất lao động và của sự tăng trưởng thu nhập.
Kể từ Thế chiến II, 13 nền kinh tế
trên thế giới đã tìm ra cách để hiện thực hóa tiềm năng của lợi thế của người đến
sau và đạt được tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm liên tục là 7 phần trăm trở lên
trong 25 năm trở lên (Ngân hàng Thế giới 2008). Ở các quốc gia có thu nhập cao,
sản lượng bình quân đầu người và dân số tăng lên, mang lại tốc độ tăng trưởng
GDP hàng năm trung bình trong khu vực là 3 phần trăm. Tốc độ tăng trưởng 7 phần
trăm trở lên cao hơn gấp đôi so với các quốc gia có thu nhập cao. Nếu tốc độ này
được duy trì trong 25 năm trở lên, khoảng cách giữa quốc gia liên quan và các
quốc gia có thu nhập cao sẽ giảm xuống. Trung Quốc đã trở thành một trong 13 nền
kinh tế sau khi quá trình chuyển đổi bắt đầu vào năm 1978.
2.
TẠI SAO TRUNG QUỐC KHÔNG PHÁT TRIỂN SÔI ĐỘNG TRƯỚC NĂM 1978
Trung Quốc đã có lợi thế của người
đến sau từ rất lâu trước khi có sự chuyển sang nền kinh tế thị trường vào năm
1978. Tại sao Trung Quốc không tận dụng được tiềm năng đó và đạt được tăng trưởng
năng động trước năm 1979? Thất bại này là do Trung Quốc đã áp dụng một chiến lược
phát triển sai lầm sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa năm 1949.
Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo
cách mạng khác của thế hệ đầu tiên ở Trung Quốc, giống như nhiều nhà lãnh đạo
cách mạng ở các nước đang phát triển khác, đều lấy cảm hứng từ giấc mơ đạt được
công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhanh để chóng bắt kịp các nước tiên tiến.
Việc thiếu các ngành công nghiệp
nặng tiên tiến, thâm dụng vốn quy mô lớn vốn là nền tảng của sức mạnh quân sự
và sức mạnh kinh tế được coi là nguyên nhân gốc rễ của sự lạc hậu của đất nước.
Thật tự nhiên khi giới tinh hoa xã hội và chính trị ở Trung Quốc ưu tiên phát
triển các ngành công nghiệp nặng, tiên tiến, lớn sau Cách mạng khi họ bắt đầu
xây dựng đất nước. Bắt đầu từ năm 1953, Trung Quốc đã thông qua một loạt các Kế
hoạch Năm năm đầy tham vọng để đẩy nhanh việc xây dựng các ngành công nghiệp
tiên tiến hiện đại, với mục tiêu vượt qua Anh trong mười năm và bắt kịp Hoa Kỳ
trong mười lăm năm. Nhưng Trung Quốc là một nền kinh tế nông nghiệp có thu nhập
thấp vào thời điểm đó. Đất nước không có lợi thế so sánh trong các ngành công
nghiệp tiên tiến hiện đại và các công ty Trung Quốc trong các ngành công nghiệp
đó không sống được trong một thị trường cạnh tranh
mở.
Để đạt được mục tiêu chiến lược của
mình, chính phủ Trung Quốc cần bảo vệ các ngành công nghiệp ưu tiên bằng cách
trao quyền độc quyền cho các công ty trong các lĩnh vực đó và trợ cấp cho họ
thông qua nhiều biện pháp bóp méo giá, bao gồm cả việc kìm hãm lãi suất, định
giá tỷ giá hối đoái quá cao và giảm giá đầu vào.
Sự bóp méo giá cả đã tạo ra tình
trạng thiếu hụt và chính phủ buộc phải sử dụng các biện pháp hành chính để huy
động và phân bổ nguồn lực trực tiếp cho các công ty không có sức sống trong các
ngành công nghiệp ưu tiên đó (Lin 2009).
Những can thiệp này giúp Trung Quốc
nhanh chóng thiết lập các ngành công nghiệp tiên tiến hiện đại[1], thử bom hạt nhân vào những năm 1960 và phóng vệ tinh vào những năm 1970. Nhưng
các nguồn lực đã bị phân bổ sai, các kích thích (incentives) bị bóp méo và các
ngành thâm dụng lao động mà Trung Quốc có lợi thế so sánh đã bị kìm hãm. Kết quả
là, hiệu quả kinh tế thấp, tăng trưởng chủ yếu được thúc đẩy bởi sự gia tăng đầu
vào và người dân thì nghèo.
3.
CÁCH TRUNG QUỐC TRÁNH CHUYỂN ĐỔI SỤP ĐỔ
Sau Thế chiến II, tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa và hầu hết các nước đang phát triển khác, lấy cảm hứng từ giấc
mơ hiện đại hóa và được định hướng bởi chủ nghĩa cấu trúc đang thịnh hành, cũng
áp dụng một chiến lược và các can thiệp tương tự của chính phủ để đẩy nhanh sự
phát triển của các ngành công nghiệp tiên tiến, thâm dụng vốn và có hiệu suất
kinh tế kém tương tự như ở Trung Quốc.
Khi Trung Quốc bắt đầu sự chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, nhiều nước xã hội chủ
nghĩa và đang phát triển khác cũng bắt đầu một sự chuyển đổi tương tự. Trung Quốc
đạt được sự ổn định và tăng trưởng năng động, trong khi các nước khác phải chịu
sự sụp đổ kinh tế, trì trệ và khủng hoảng thường xuyên (Easterly 2001). Có hai
lý do và chúng liên quan đến sự khác biệt trong chiến lược chuyển đổi của họ.
Đầu tiên, các nước xã hội chủ
nghĩa khác và nhiều nước đang phát triển đã đi theo Đồng thuận Washington về tư
nhân hóa, thị trường hóa và tự do hóa , lấy cảm hứng từ chủ nghĩa tân tự do.
Chiến lược này bắt nguồn từ lập luận rằng các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
đang phát triển khác đã không làm tốt vì sự can thiệp quá mức của chính phủ đã
gây ra sự phân bổ sai lệch các nguồn lực. Lập luận này dẫn đến khuyến nghị rằng,
để cải thiện hiệu quả kinh tế của mình, các nước xã hội chủ nghĩa và đang phát
triển này nên ngay lập tức loại bỏ mọi sự bóp méo và chấm dứt sự can thiệp của
chính phủ, để cho phép thị trường hoạt động. Tuy nhiên, mục đích của tất cả những
sự bóp méo này là để bảo vệ các ngành công nghiệp thâm dụng vốn quy mô lớn. Nếu
chính phủ loại bỏ những sự bóp méo đó ngay lập tức, các ngành công nghiệp quy
mô lớn này sẽ phá sản và một lượng lớn công nhân sẽ mất việc làm, làm suy yếu sự
ổn định xã hội và chính trị. Nếu không có sự ổn định xã hội và chính trị, phát
triển kinh tế là không thể. Kết quả là, sau cải cách bằng trị liệu sốc theo Đồng
thuận Washington, nhiều quốc gia đã đưa ra lại sự trợ cấp và bảo hộ nhằm mục
đích duy trì việc làm.
Hơn nữa, nhiều ngành công nghiệp
quy mô lớn này liên quan đến nhu cầu cơ bản hoặc quốc phòng. Ngay cả sau khi tư
nhân hóa, chính phủ vẫn tiếp tục trợ cấp cho chúng để duy trì hoạt động. Kết quả
là, cho dù vì lý do ổn định xã hội, nhu cầu cơ bản hay quốc phòng, sau khi tư
nhân hóa, tự do hóa và thị trường hóa, chính phủ đã đưa ra lại các loại trợ cấp
và bóp méo mới. Những bóp méo này tuy nhiên không phù hợp và thậm chí kém hiệu
quả hơn so với các trợ cấp và bảo vệ rõ ràng trước đây đã bị xóa bỏ.
Trước khi tư nhân hóa, các nhà quản
lý là nhân viên nhà nước. Nếu có khó khăn, họ sẽ yêu cầu chính phủ bảo vệ và trợ
cấp. Nếu chính phủ hỗ trợ, các nhà quản lý nhiều nhất cũng chỉ có thể tăng mức
tiêu dùng tại chỗ làm việc. Tuy nhiên, việc bỏ tiền vào túi riêng của họ là
tham nhũng và đáng bị trừng phạt. Sau khi tư nhân hóa, chủ sở hữu mới của những
doanh nghiệp lớn đó cũng yêu cầu trợ cấp. Trong trường hợp này, trợ cấp có thể
dễ dàng biến thành của cải của riêng họ, và có động lực để yêu cầu trợ cấp và hỗ
trợ cao hơn nữa. Kết quả là, cải cách trước tiên dẫn đến hỗn loạn, theo sau là
sự trì trệ và những cuộc khủng hoảng thường xuyên.
Trung Quốc đã thành công duy trì
được sự ổn định và tăng trưởng kinh
tế năng động trong quá trình chuyển đổi. Lý do chính là Trung
Quốc đã áp dụng cách tiếp cận thực dụng. Chính phủ đã cung cấp sự bảo hộ và trợ
cấp tạm thời trong giai đoạn chuyển đổi cho các ngành hiện hữu
để duy trì sự ổn định. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc cũng đã tự do hóa và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập các ngành công nghiệp truyền thống mới
thâm dụng lao động và quy mô nhỏ, phù hợp với lợi thế so sánh của Trung Quốc.
Trước đây, chính phủ đã phân biệt đối xử và kềm hãm các ngành này. Để các ngành
công nghiệp thâm dụng lao động này có khả năng cạnh tranh, Trung Quốc cũng cần
cung cấp cơ sở hạ tầng thích hợp và một môi trường kinh doanh tốt. Cơ sở hạ tầng
ở Trung Quốc là cực kỳ kém khi quá trình chuyển đổi bắt đầu. Mặc dù mong muốn cải
thiện cơ sở hạ tầng cho toàn bộ quốc gia, nhưng chính phủ Trung Quốc lại thiếu
nguồn lực tài chính để thực hiện, vì vậy họ đã thành lập các đặc khu kinh tế
(SEZ), các khu công nghiệp và khu chế xuất, cải thiện cơ sở hạ tầng ở một số hạn
chế khu vực. Môi trường kinh doanh của Trung Quốc cũng rất kém do những biến dạng
cần thiết để bảo vệ các ngành công nghiệp hiện có. Tuy nhiên, tại các SEZ và
các khu kinh tế khác, chính phủ đã loại bỏ tất cả những biến dạng này. Ngoài
ra, chính phủ còn cung cấp dịch vụ một cửa và các ưu đãi khác cho các công ty
trong các khu kinh tế đặc biệt hoặc khu công nghiệp. Kết quả là, các ngành công
nghiệp mới phù hợp với lợi thế so sánh của Trung Quốc nhanh chóng trở thành lợi
thế cạnh tranh của Trung Quốc.
Chính vì những lý do này mà Trung
Quốc đã duy trì được sự ổn định, đạt được sự tăng trưởng năng động và xuất khẩu
của Trung Quốc tăng nhanh trong bốn thập kỷ qua. Khi Trung Quốc tăng trưởng và
tích lũy vốn, lợi thế so sánh của nước này dần được nâng cấp từ các ngành thâm
dụng lao động lên các ngành thâm dụng vốn. Trong quá trình nâng cấp, Trung Quốc
có thể hưởng lợi từ lợi thế của người đến sau.
4.
TRUNG QUỐC ĐÃ TRẢ GIÁ NÀO CHO SỰ THÀNH CÔNG?
Mặc dù thành tựu kinh tế trong
quá trình chuyển đổi trong bốn thập kỷ qua là phi thường, tuy nhiên, Trung Quốc
cũng phải trả giá rất đắt cho thành công của mình. Ngoài sự suy thoái môi trường
và các vấn đề về an toàn thực phẩm, những cái đã thu hút nhiều than phiền của
công chúng và là kết quả của quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng và thiếu các
quy định phù hợp, vấn đề chính trong quá trình chuyển đổi là tham nhũng tràn
lan và sự gia tăng chênh lệch thu nhập đến tồi tệ. Trước năm 1978, Trung Quốc
có một hệ thống hành chánh khá kỷ luật và trong sạch và một xã hội bình đẳng.
Theo Chỉ số nhận thức tham nhũng do Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố, Trung Quốc
xếp thứ 79 trong số tất cả 176 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ vào năm 2016; và dựa
trên ước tính của Cục Thống kê Quốc gia và nghiên cứu của nhiều học giả, hệ số
GINI[2] của Trung Quốc đã vượt quá 0,45, cao hơn mức cảnh báo quốc tế, sau năm 2000 (Li
và Sicular 2014).
Những vấn đề này liên quan đến
chiến lược chuyển đổi thực dụng theo hai hướng của Trung Quốc.
Một mặt, chính phủ cung cấp sự bảo
hộ và trợ cấp tạm thời cho các doanh nghiệp nhà nước (SOE) không khả thi trong
các lĩnh vực thâm dụng vốn cũ để duy trì sự ổn định và mặt khác, tự do hóa và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập các lĩnh vực thâm dụng lao động mới phù hợp
với lợi thế so sánh của Trung Quốc để đạt được tăng trưởng năng động. Một trong
những chi phí đầu tư và vận hành quan trọng nhất đối với các lĩnh vực thâm dụng
vốn cũ là chi phí vốn. Trước khi chuyển đổi vào năm 1978, chính phủ đã sử dụng
khoản phân bổ tài chính để trả cho các khoản đầu tư và trang trải vốn lưu động,
do đó các SOE không phải chịu bất kỳ chi phí vốn nào. Sau khi chuyển đổi, khoản
phân bổ tài chính đã được thay thế bằng các khoản vay ngân hàng. Chính phủ
Trung Quốc thành lập bốn ngân hàng nhà nước lớn và một thị trường chứng khoán để
đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp lớn. Để trợ cấp cho các SOE, lãi suất
và chi phí vốn đã bị kìm hãm một cách giả tạo.
Khi quá trình chuyển đổi bắt đầu,
hầu như tất cả các công ty ở Trung Quốc đều thuộc sở hữu nhà nước. Với quá
trình chuyển đổi theo hướng kép, các công ty tư nhân phát triển và một số trong
số họ trở nên đủ lớn để tiếp cận các khoản vay ngân hàng hoặc niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Khi lãi suất và chi phí vốn bị kìm hãm một cách giả tạo, bất
kỳ ai có thể vay tiền từ các ngân hàng hoặc niêm yết trên thị trường chứng
khoán đều được trợ cấp. Các khoản trợ cấp này được trả bằng lợi nhuận thấp từ
tiền tiết kiệm trong các ngân hàng hoặc trên thị trường chứng khoán do các hộ
gia đình cá nhân tạo ra. Những người cung cấp tiền thì nghèo hơn chủ sở hữu của
các công ty lớn mà họ tài trợ. Việc những người nghèo hơn trợ cấp cho hoạt động
của các công ty của người giàu là một lý do khiến chênh lệch thu nhập ngày càng
gia tăng. Hơn nữa, việc tiếp cận các khoản vay ngân hàng và thị trường chứng
khoán tạo ra tiền rent[3],
dẫn đến hối lộ và tham nhũng của các quan chức kiểm soát việc tiếp cận.
Tương tự như vậy, trước năm 1979,
hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên được các công ty khai khoáng nhà nước
lớn vận hành miễn phí nhượng quyền và sản lượng được cung cấp cho các doanh
nghiệp nhà nước khác với giá rất thấp. Chính phủ cho phép các công ty tư nhân
tham gia vào lĩnh vực khai khoáng vào năm 1983 và tự do hóa việc kiểm soát giá
sản lượng vào năm 1993. Phí nhượng quyền và thuế sản lượng được giữ ở mức thấp
như một biện pháp bù đắp cho gánh nặng chính sách xã hội của các doanh nghiệp
khai khoáng nhà nước khi tuyển dụng lao động dư thừa và chi trả lương hưu cho
lao động đã nghỉ hưu (Lin và Tan 1999). Các công ty khai khoáng tư nhân mới
không phải chịu những gánh nặng như vậy. Việc mua nhượng quyền hứa hẹn cho họ sự
giàu có chỉ sau một đêm và trở thành nguồn gốc của bất bình đẳng thu nhập và
tham nhũng.
Ngoài ra, một số ngành công nghiệp
độc quyền tự nhiên, như điện lực và viễn thông, được điều hành bởi các doanh
nghiệp nhà nước. Chính phủ đã tự do hóa việc gia nhập các ngành công nghiệp đó
một cách dần dần. Các khoản tiền thuê (rent) cho độc quyền đó cũng là nguồn gốc
của bất bình đẳng và tham nhũng.
Để đối phó với tham nhũng, Chủ tịch
Tập Cận Bình đã phát động chiến dịch chống tham nhũng sau khi nhậm chức vào năm
2013. Tuy nhiên, gốc rễ của nạn tham nhũng lan rộng là tiền rent phát sinh từ sự
bóp méo của quá trình chuyển đổi theo hai hướng, vốn bảo vệ và trợ cấp cho các
doanh nghiệp nhà nước SOE quy mô lớn trong các ngành công nghiệp thâm dụng vốn,
thách thức lợi thế so sánh. Vào những năm 1980 và 1990, Trung Quốc là một quốc
gia nghèo và vốn khan hiếm.
Sau bốn thập kỷ tăng trưởng kinh
tế nhanh chóng, vốn trở nên tương đối dồi dào và lợi thế so sánh ở Trung Quốc
cũng phát triển theo. Nhiều ngành công nghiệp thâm dụng vốn đã chuyển từ việc
thách thức lợi thế so sánh của Trung Quốc sang trở nên phù hợp với lợi thế so
sánh của Trung Quốc. Kết quả là, các công ty trong những ngành công nghiệp đó
trở nên sống được (viable) và đáng lẽ phải có khả năng cạnh tranh và có lợi nhuận
trên thị trường trong nước và toàn cầu miễn là họ có quản lý tốt. Bản chất của
trợ cấp và bảo vệ đối với các công ty nhận trợ cấp đã thay đổi từ nhu cầu sống
còn sang tiền rent thuần túy.
Việc xóa bỏ mọi sự bóp méo và bảo
vệ còn sót lại là điều cấp thiết và vẫn luôn cấp thiết, để hoàn tất quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường vận hành tốt và xóa bỏ tận gốc nguyên
nhân gây ra tham nhũng và chênh lệch thu nhập. Thực ra, đây chính là mục đích của
chương trình cải cách toàn diện được thông qua vào năm 2013 tại phiên họp toàn
thể lần thứ ba của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII.
5.
BÀI HỌC CHO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN KHÁC VÀ CHO KINH TẾ HỌC?
Cuối cùng, đâu là những hàm ý đối
với các nước đang phát triển khác? Phân tích trong chương này cho thấy, trước
tiên, mọi quốc gia đang phát triển đều có tiềm năng tăng trưởng năng động và
liên tục trong 30 năm trở lên và xóa đói giảm nghèo và trở nên thịnh vượng, nếu
họ phát triển nền kinh tế theo lợi thế so sánh của mình. Với sự tạo điều kiện của
chính phủ trong nền kinh tế thị trường, các quốc gia có thể biến lợi thế so
sánh của mình thành lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp cạnh tranh có thể
có lãi, tích lũy vốn và tham gia vào các quá trình nâng cấp công nghiệp khai
thác lợi thế tiềm năng của sự lạc hậu, cho phép họ tăng trưởng nhanh hơn nhiều
so với các quốc gia có thu nhập cao, duy trì tốc độ tăng trưởng 7 phần trăm trở
lên trong nhiều thập kỷ, như trường hợp của Trung Quốc trong bốn thập kỷ qua. Mặc
dù mọi quốc gia đều có tiềm năng tăng trưởng, nhưng họ cần có chiến lược phát
triển phù hợp để khai thác tiềm năng của mình.
Thứ hai, hầu hết các quốc gia đều
mang trong mình nhiều sự bóp méo từ các can thiệp trước đó. Những sự bóp méo đó
gây ra sự phân bổ sai lệch các nguồn lực và tìm kiếm lợi nhuận. Việc loại bỏ những
sự bóp méo đó là điều mong muốn. Tuy nhiên, sự bóp méo tồn tại vì một số lý do
nhất định và, xét về mặt kinh tế, phần lớn là nội sinh. Nếu nguyên nhân gây ra
sự bóp méo không được loại bỏ trước, thì nỗ lực loại bỏ sự bóp méo có thể gây hại
nhiều hơn là có lợi. Do đó, một quốc gia đang tiến hành cải cách nên thực dụng
bằng cách sử dụng biện pháp bảo vệ tạm thời và chuyển tiếp như Trung Quốc đã
làm trong 30 năm qua.
Một sự tự do hóa thận trọng đối với
việc gia nhập các lĩnh vực mới, đối với những lợi thế so sánh của một quốc gia
và sự tạo điều kiện thuận lợi từ phía chính phủ cho sự tăng trưởng trong các
khu vực đó, có thể cho phép quốc gia đó tăng trưởng năng động và duy trì sự ổn
định trong khi chuẩn bị nền tảng để loại bỏ các biến dạng. Một cách tiếp cận thực
dụng cho sự phát triển từng bước, theo lợi thế so sánh đang phát triển của một
quốc gia, có giá trị lớn đối với các nước đang phát triển.
Đồng thời, cần có chủ nghĩa thực
dụng trong quá trình chuyển đổi. Mục tiêu cuối cùng là thiết lập một nền kinh tế
thị trường hoạt động tốt, nhưng đó phải là một quá trình do chính phủ quản lý,
chú ý đến nhu cầu của tất cả các khu vực và tạo cơ hội kinh doanh cho họ.
Phân tích trong chương này cho thấy
điều quan trọng là phải xem xét thực tế tình hình ở các nước đang phát triển và
phát triển các ý tưởng mới và hiểu biết lý thuyết dựa trên kinh nghiệm của họ.
Trong những năm gần đây, phản ánh về sự yếu kém của chủ nghĩa cấu trúc và chủ
nghĩa tân tự do, Tôi ủng hộ Kinh tế học cấu trúc mới (Lin 2012b), được khái
quát từ những thành công và thất bại của quá trình phát triển và chuyển đổi của
Trung Quốc và các nước đang phát triển khác. Theo quan điểm của kinh tế học cấu
trúc mới, bí quyết thành công của Trung Quốc là sử dụng cả “bàn tay vô hình” và
“bàn tay hữu hình”, tạo thành sự tích hợp hữu cơ, bổ sung và cải thiện lẫn nhau
của các chức năng của thị trường và nhà nước. Khả năng áp dụng của một lý thuyết
khái quát từ quốc gia này sang quốc gia khác phụ thuộc vào sự tương đồng của
các điều kiện tiên quyết ở các quốc gia đó.
Tôi hy vọng rằng Kinh tế học cấu
trúc mới (New Structural Economics) sẽ cung cấp những hiểu biết hữu ích cho các
nước đang phát triển trong việc vượt qua những thách thức phát triển trên con
đường phía trước.
Justin Yifu Lin
Tài
liệu tham khảo
Easterly, William, (2001). ‘The
Lost Decades: Developing Countries’ Stagnation in Spite of Policy Reform
1980–1998’, Journal of Economic Growth. 6: 135–57.
Li, S. and T. Sicular, (2014).
‘The Distribution of Household Income in China: Inequality, Poverty and
Policies’, China Quarterly. 217: 1–41.
Lin, Justin Yifu, (2009). Economic
Development and Transition: Thought, Strategy, and Viability. Cambridge,
UK: Cambridge University Press.
Lin, Justin Yifu, (2012a). Demystifying
the Chinese Economy. Cambridge, UK: Cambridge University Press.
Lin, Justin Yifu, (2012b). New
Structural Economics: A Framework for Rethinking Development and Policy.
Washington, DC: World Bank.
Lin, Justin Yifu and Guofu Tan,
(1999). ‘Policy Burdens, Accountability, and the Soft Budget Constraint’, American
Economic Review: Papers and Proceedings. 89: 426–31.
World Bank (on behalf of the
Commission on Growth and Development), (2008). The Growth Report:
Strategies for Sustained Growth and Inclusive Development. Washington,
DC: World Bank.
Ghi chú của người dịch
[1] Một số ngành công nghiệp tiến ưu tiên cho quân sự (ND)
[2]
GINI là
thước đo sự bất bình đẳng về thu nhập, của cải hoặc bất bình đẳng về tiêu dùng
trong một quốc gia hoặc một nhóm xã hội.
[3] Rent = tiền “thù lao” cho một dịch vụ nào đó, như để được cấp vốn chẳng hạn, hay xin phép cho một hoạt động kinh tế
Bài có liên quan
