NHỮNG ĐIỂM CHUNG GIỮA MARX VÀ NIETZSCHE
![]() |
Karl Marx (1818-1883) và F. Nietzsche (1844-1900) |

![]() |
Frank Furedi (1947-) |
![]() |
Friedrich Engels (1820-1895) |

Quan trọng hơn, Marx không phải là 'kẻ chống tư bản' theo nghĩa của các nhà hoạt động phản đối McDonald ngày nay. Marx tin rằng chủ nghĩa tư bản đã mang lại sự tiến bộ và sự thịnh vượng vô cùng to lớn. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848), ông và Engels đã viết về cách mà chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ 'những gì hoạt động của con người có thể mang lại' và ‘đã tạo ra những kỳ quan hoành tráng những kim tự tháp Ai-cập, những cầu dẫn ở nước La-mã, những nhà thờ kiểu Gô-tích; nó đã tiến hành những cuộc viễn chinh vượt hơn hẳn những cuộc di cư của các dân tộc và những cuộc thập tự chinh.’ Nhưng Marx cũng tin rằng chủ nghĩa tư bản đã hết thời và rằng điều bắt buộc đối với xã hội là tiến lên cấp độ tiếp theo, chủ nghĩa cộng sản.
![]() |
Francis Wheen (1957-) |
Cũng giống như Marx có thể thoái lui trong kinh hoàng trước chủ nghĩa Stalin, Nietzsche sẽ kinh hãi trước Đức quốc xã và việc chúng chiếm dụng sai trái những tác phẩm của ông. Ngay từ đầu, Nietzsche đã ghê tởm những kẻ bài Do Thái, ở họ ông đã thấy sự hiện thân của tinh thần oán hận và lòng ghen tỵ. Chủ nghĩa bài Do thái là cảm xúc của những kẻ yếu đuối, thấp kém, mà 'ai đó phải bị đổ lỗi cho việc tôi cảm thấy không khỏe'. Trong cuốn Human, All Too Human [Người, quá đỗi con người] (1878), ông viết về những người kém cỏi căm ghét người Do Thái vì 'năng lượng và trí thông minh cao hơn của họ, vốn tinh thần và ý chí của họ, tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác trong trường kỳ khổ đau của họ', và rằng sự thành công của những người thượng đẳng này 'đánh thức sự ghen tỵ và lòng hận thù', làm cho người Do Thái trở thành ‘vật tế thần cho mọi bất hạnh có thể xảy ra cho công chúng và cá nhân'.
Ông thậm chí còn so sánh theo kiểu bênh vực người Do Thái chống lại những người đồng hương (người Ky-tô giáo) của ông: "Thật là phước lành khi là người Do Thái trong đám người Đức! Hãy nhìn sự ngớ ngẩn, tóc nâu vàng, mắt xanh, và thiếu trí tuệ trên khuôn mặt, ngôn ngữ, và thói điệu; thói quen lười biếng của việc duỗi chân tay và nhu cầu nghỉ ngơi ở người Đức.'

Khi Nietzsche sử dụng từ Kampf, ý ông không phải là đấu tranh vũ trang, càng không phải là chiến tranh – ý ông là sự đấu tranh của cá nhân để vượt lên trên ý kiến áp bức của kẻ khác, để tự mình tốt hơn, dám trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. Nietzsche là một người siêu độc lập [arch-individualist], người dị ứng với các cuộc mít-tinh tại Nuremberg, khi các cuộc mít-tinh này minh hoạ chính xác thứ tâm lý bầy đàn và hành vi tập thể vô ý thức mà ông cực kỳ thương hại.
Nhưng liệu chúng ta có thể miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của Nietzsche hay Marx khỏi những tội ác phạm phải nhân danh họ bởi những chế độ phát xít và cộng sản ở thế kỷ 20? Trong khi không ủng hộ chiến tranh hay kêu gọi các trại tập trung, người ta có thể cãi rằng họ, theo thứ tự, là vô trách nhiệm và ngây thơ. Nietzsche vô trách nhiệm trong việc sử dụng ngôn từ chiến tranh. Các tác phẩm của ông được truyền tải với những ẩn dụ về quân sự và thuật hùng biện thích gây chiến về sự sống còn, với việc nói về ‘những chủ nô’ và cuộc đấu tranh không ngừng của họ chống lại 'những người suy đồi, 'những nô lệ' và 'những kẻ yếu'. Đây là món ngon cho những người phân biệt chủng tộc, những người theo thuyết ưu sinh học và những người phát xít tôn sùng quyền lực. Phần lớn lời mạt sát hiếu chiến này có trong cuốn di cảo mang tên The Will To Power [Ý chí vươn tới quyền lực], một cuốn sách dựa trên những ghi chú hoặc tư tưởng chưa hoàn thành mà ông không cảm thấy hài lòng. Đó là bi kịch mà cuốn sách này - do chị gái của ông biên soạn, người đã kết hôn với một kẻ bài Do Thái và đã trở thành một người theo chủ nghĩa phát xít - đã trở thành một trong những cuốn sách được những người theo chủ nghĩa phát xít đọc nhiệt tình nhất trong thập niên 1920 và 1930.
![]() |
George Orwell (1903-1950) |
Giống như những nhà cách mạng Pháp, Marx mắc phải niềm tin sai lầm rằng sự tự do và bình đẳng có thể đi đôi với nhau, khi thực sự chúng đang cạnh tranh với nhau. Bạn có càng nhiều cái này, bạn càng ít có thể có cái kia. Trong một xã hội tự do mọi người bị bỏ lại một mình, một số người sẽ trở nên thành công hơn và giàu có hơn những người khác. Ngược lại, cách duy nhất để ngăn điều này xảy ra và duy trì sự bình đẳng là để cho nhà nước mạnh mẽ phân phối lại của cải.
Vô trách nhiệm và ngây thơ, có lẽ vậy, nhưng đổ lỗi cho Nietzsche vì Đức quốc xã và cho Marx vì chủ nghĩa Stalin là một lỗi cực kì nghiêm trọng và bôi bác. Thay vào đó, chúng ta phải đổ lỗi cho những tín đồ và đệ tử lầm đường lạc lối của họ. Và từ điều này, bài học rất rõ ràng: đừng trở thành đệ tử. Hãy nghĩ cho chính mình. Như chính Nietzsche đã bày tỏ: 'Ta chẳng cần lũ đệ tử. Hãy để bọn chúng trở thành tín đồ chân chính của riêng mình.'
Và, vâng, tôi thấy sự trớ trêu trong đó.
Giới thiệu tác giả
Patrick West là một nhà bình luận của báo spiked. Cuốn sách mới nhất của ông: Get Over Yourself: Nietzsche For Our Times, được xuất bản bởi Societas.
Huỳnh Kim Bảo dịch
