KLAUS KRICKEBERG
MỘT ĐỜI GẮN BÓ VỚI VIỆT NAM
Nguyễn Xuân Xanh
(2017)
[1]
Klaus Krickeberg (1929-) thuộc thế hệ tinh hoa của
CHLB Đức thời hậu chiến. Ông sinh năm 1929 tại Ludwigslust, thành phố lâu đài
trung tâm của bang Mecklenburg-Vorpommern, Bắc Đức. Ngoài dòng máu Đức, ông còn
mang dòng máu của những người Hugenot Pháp định cư lâu đời ở Đức để tránh đàn
áp tôn giáo. Ở tuổi 29, và là một trong những người trẻ nhất, ông được phong
hàm giáo sư thực thụ (full professor) tại Đại học Heidelberg (1958). Đại học
Heidelberg là một đại học rất cổ xưa và nổi tiếng châu Âu, với rất nhiều alumni
tên tuổi, như Max Weber, Hermann von Helmholtz, Karl Jaspers, Wilhelm Wundt,
Hannah Arendt, Fritz Haber, Max Born, và những người nước ngoài như Dmitri
Mendeleev, Sofia Kovalevskaya. Ông là nhà toán học làm về xác suất đầu tiên thời
hậu chiến, cùng giúp xây dựng ngành xác suất từ con số không sau khi Quốc xã
phá tan nền khoa học đỉnh cao của nước Đức. Ông là người nổi tiếng đầu tiên ở
nước ngoài và được mời đi diễn thuyết, ở Mỹ, Đan Mạch, Pháp, Liên Xô… Năm 1968,
ông đã được bầu làm “Fellow” của “Institute of Mathematical Statistics” của Hoa
Kỳ, một vinh dự rất lớn. Sự công nhận lớn nhất dành cho ông là từ 1977-1979,
ông được bầu làm Chủ tịch của “Bernoulli Society for Mathematical Statistics
and Probability”, tổ chức quốc tế trong lãnh vực này. Ngoài ra, 1983, ông được
bầu làm viện sĩ của “Hàn lâm viện Khoa học Đức Leopoldina”, viện hàn lâm hoạt động
lâu đời nhất thế giới, nơi mà Albert Einstein và David Hilbert cũng từng là
thành viên. Còn rất nhiều vinh dự khác dành cho ông.
Năm 1965 một cử chỉ đã đưa ông vào một cuộc dấn thân có tính “định mệnh” mà có lẽ ông cũng chưa hình dung hết, là góp tiền cho Vietnam Hilfsaktion, một tổ chức nhân đạo ở Cộng Hòa Liên Bang Đức quyên góp giúp Việt Nam. Đó là một việc làm nhân đạo trước nhất, nhưng cũng hàm chứa tính chất chính trị nhất định. Mối liên hệ với Việt Nam hình thành từ đó, và ngày càng sâu sắc.
Năm 1966, ông đã ký tên vào Tuyên cáo chống lại
cuộc chiến tranh Việt Nam của các nhà toán học tham dự Hội nghị toán học
quốc tế lần thứ 15 tại Moscou, do sáng kiến của nhà toán học Pháp Laurent
Schwartz (giải Fields 1950). Rất nhiều nhà toán học Nhật Bản ký tuyên cáo này.
Năm 1966 được đánh dấu bằng việc Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc, đồng thời bằng sự
hình thành của phong trào phản chiến Mỹ ở UC Berkeley, với sự tham gia của nhà
toán học Mỹ Stephen Smale (giải Fields 1966). Phải nói đó là hành động rất can
đảm của Krickeberg nếu biết rằng CHLB Đức là đồng minh thân cận nhất của Hoa Kỳ
trong cuộc chiến tranh lạnh. Từ năm đó, phong trào chống chiến tranh trên thế giới
phát triển mạnh mẽ cùng với sự gia tăng chiến tranh.
Từ 1965 đến nay, ông ngày càng dấn thân hoạt động nhiều
hơn, và gần gũi hơn với Việt Nam. Đến thời điểm 2016, tức hơn nửa thế kỷ, tổng
cộng ông đã thăm và làm việc với Việt Nam cả thảy 31 lần. Trong các nhà khoa học
nước ngoài đã từng ủng hộ cuộc đấu tranh chống chiến tranh, có lẽ Klaus
Krickeberg là một trong rất ít người, hay duy nhất, vẫn miệt mài công việc hỗ
trợ Việt Nam trong công cuộc xây dựng hòa bình đất nước, mặc cho những thăng trầm
của xứ sở.
Krickeberg hoạt động với cả uy tín khoa học của ông,
chấp nhận những rủi ro cá nhân, không những ủng hộ chính trị cho hòa bình và độc
lập dân tộc, giúp phá thế cô lập của Việt Nam về khoa học, mà còn giúp xây dựng
nền toán học ứng dụng cho thời bình từ sau 1975, đặc biệt trong lãnh vực y tế
công cộng. Phát triển Việt Nam thành một quốc gia có nền khoa học tiên tiến, là
điều ông mong muốn. Muốn giữ vững độc lập, không thể không có nền tảng khoa học
vững mạnh. Ông đóng góp cho Việt Nam không những với tư cách một nhà toán học
có uy tín, mà còn với tư cách một nhà khoa học đa dạng. Thực tế, mối quan tâm của
thế hệ toán học, khoa học, của Việt Nam thời chiến, đến những vấn đề của toán học
ứng dụng là rất sâu sắc, các nhà khoa học hàng đầu thời ấy đã nhận thức rõ khoa
học ứng dụng là khâu huyết mạch nhưng còn yếu kém của Việt Nam. Krickeberg được
đặt nhiều câu hỏi rất thú vị liên quan đến ứng dụng. Nếu tương tác tích cực ấy
vẫn còn tiếp tục diễn ra trong thời bình, thì các đóng góp của Krickeberg có thể
sẽ còn nhiều hơn.
[2]
Mùa hè năm 1974, ông bước lên chuyến xe lửa “định mệnh”
từ thành phố Bielefeld (ông đã về Đại học Bielefeld từ 1971) để đi thăm Việt
Nam, theo lời mời của Viện Toán Việt Nam ở Hà Nội. Chuyến đi xuyên quốc gia bằng
đường bộ này kéo dài hơn 10 ngày, qua Siberia, Mông Cổ, Trung Quốc đến Hà Nội.
Một hành trình táo bạo và gây tiếng vang trong dư luận Đức. Tuy có lẽ chỉ sau
hai nhà toán học Pháp Laurent Schwartz và Grothendieck, nhưng chưa ai thực hiện
một chuyến đi ‘mạo hiểm’ như thế đến Việt Nam. Để chuẩn bị, ông tự học tiếng Việt,
và ông tiếp tục tự học tiếng Việt trên xe lửa bằng cách… đọc bài giảng bằng tiếng
Việt tại Hà Nội. Sau đó tại ĐH Paris 7, ông học tiếp về ngôn ngữ và văn hóa Việt
Nam đến khi lấy được bằng cử nhân năm 1988. Điều đó cho thấy tình yêu Việt Nam
của ông đang “cháy bỏng”, và ông đã nghĩ đến một cuộc dấn thân lâu dài. Có một
duyên nợ tiền kiếp nào đó với nhau chăng? Klaus Krickeberg là người có năng khiếu
đặc biệt về ngôn ngữ. Ông thạo tiếng Pháp, Anh, Nga, Đan Mạch, Tây Ban Nha và
tiếng Hy Lạp hiện đại.
Klaus Krickeberg 1976, ảnh của Viện toán học Oberwolfach, Đức. |
Trong
chuyến thăm tại Hà Nội trong sáu tuần, ông đọc nhiều bài giảng tại Viện toán,
và gặp gỡ các nhà toán học và khoa học lớn như GS Lê Văn Thiêm, GS Hoàng Tụy,
GS Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu. Họ đều bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến ứng dụng
toán xác suất thống kê trong y tế, chẩn đoán được hỗ trợ bằng máy tính. Xác suất
thống kê là một ngành toán có rất nhiều ứng dụng quan trọng, và rất thiếu tại
Việt Nam. Không khí làm việc rất sôi nổi, và sự quan tâm nồng nhiệt của các nhà
khoa học Việt Nam bấy giờ được ông ghi lại sống động như sau trong một bài nói
chuyện tại một hội nghị toán học quốc tế năm 2013:
Tại thời điểm đó tình hình tại Hà Nội vẫn rất
khó khăn. Người ta bị cô lập nhưng rất tò mò về sự phát triển khoa học của bên
ngoài. Trong sáu tuần tôi ở Hà Nội, nhiều nhà khoa học từ các ngành khác nhau
đã đến gặp tôi và mong muốn được biết thêm điều gì đó về các phương pháp toán học
trong lĩnh vực làm việc của họ. Trước tiên là bộ trưởng Bộ đại học, Tạ Quang Bửu,
một nhà toán học đã từng nghiên cứu tại Pháp trước chiến tranh thế giới thứ hai
và từng tham gia vào nhóm Bourbaki. Ông quan tâm đến tất cả mọi thứ. Tôi vẫn
còn nhớ cuộc thảo luận với ông ấy về các cơ sở thống kê để phát triển việc sử dụng
năng lượng gió.
Tiếp theo, mọi người đến từ Đại học Lâm nghiệp
đã hỏi về các phương pháp hiện đại để ước lượng sản lượng rừng. Vì vậy, tôi đã
quan tâm đến các công trình của Bertil Matérn về thống kê không gian với các ứng
dụng trong dự báo, từ đó tôi đã tổ chức buổi nói chuyện về chủ đề này tại Đại học
Lâm nghiệp. Sau đó, những người nghiên cứu nông nghiệp đến và đưa ra các câu hỏi
về thử nghiệm giống. Đó là chủ đề của thống kê cổ điển, phân tích phương sai,
v.v. Một lần nữa lại dẫn đến một bài thuyết trình khác của tôi kèm theo các ý
kiến trao đổi.
Cuối cùng, một cô học sinh cấp 3 đã được giới
thiệu với tôi. Cô vừa giành được giải nhì tại Olympic toán học quốc tế. Điểm
đáng lưu ý hơn cả là cô đã từng học cấp 2 trong điều kiện khó khăn của chiến
tranh, Hà Nội còn bị ném bom đến cuối năm 1972.
Tôi thuyết trình trước các nhà toán học Việt
Nam một dịp nữa vào đầu năm 1978, lần này về chủ đề phân tích thống kê quá
trình điểm, chủ yếu liên quan đến quá trình không gian, song cũng đề cập tới
cách tiếp cận của Aalen đối với quá trình trên đường thẳng. Tổng cục Thống kê,
đối tác Việt Nam của ngành thống kê Thụy Điển, đã đến gặp tôi. Họ muốn có một
khóa học về điều tra chọn mẫu, tôi đã hứa thực hiện việc đó vào thời gian sau.
Tuy nhiên, nhu cầu cấp bách nhất đến từ lĩnh vực y tế. Từ mùa hè 1974, nhà lãnh
đạo y học Việt Nam, Tôn Thất Tùng, đã xuất hiện trong thời gian giải lao giữa
khóa học của tôi. Ông cũng đã từng nghiên cứu ở Pháp và trước cuộc chiến tranh
Việt Nam lần thứ nhất (trước 1945) đã là một bác sĩ phẫu thuật gan nổi tiếng.
Ông đã tổ chức các dịch vụ y tế của quân đội Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Sau
chiến tranh, ông trở thành giám đốc Bệnh viện Phẫu thuật trung ương tại Hà Nội.
Ông muốn biết về kỹ thuật chẩn đoán với sự hỗ trợ của máy tính. Việc này vẫn
còn rất mới mẻ vào năm 1974 và tất nhiên liên quan đến thống kê hơn là đến khoa
học máy tính, ông đã hiểu được chính xác điều đó. Mặc dù là một bác sĩ phẫu thuật,
ông Tùng đã có một cảm quan tuyệt vời về Dịch tễ học và phương pháp thống kê
tương ứng. Năm 1978 ông lại đến gặp tôi và hỏi về thử nghiệm lâm sàng cho điều
trị ung thư gan. Đây là Dịch tễ học lâm sàng, liên quan đến phân tích thống kê
thời gian sống sót, mô hình Cox và những kiến thức tương tự. Trên hết, ông đã
tiến hành các nghiên cứu dịch tễ học đầu tiên về hậu quả của chất độc da cam đối
với con cái các đối tượng tiếp xúc chất độc. Ông cho tôi xem bản thảo bài báo
công bố kết quả nghiên cứu trước khi xuất bản và tôi đã có vinh dự sửa chữa một
lỗi nhỏ trong tính toán.
Rồi
một đề tài rất quan trọng chợt đến với ông như một tia sáng:
Cũng vào đầu năm 1978, một lãnh đạo khác của
ngành y tế Việt Nam đã tiếp xúc với tôi. Đó là nhà vi trùng học Hoàng Thủy
Nguyên, người đã nghiên cứu ở Đông Đức và sau đó là giám đốc của”Viện Vệ sinh Dịch
tễ Trung ương”, gọi tắt là “Viện Vệ sinh Dịch tễ”, nguyên là Viện Pasteur Hà Nội,
có chức năng phòng ngừa và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm. Ông Nguyên hỏi về
các phương pháp toán học trong Dịch tễ học. Đó chính là chủ đề của buổi nói
chuyện giới hạn nội dung về các bệnh truyền nhiễm. Câu hỏi có vẻ vô tình của
ông đã trở thành nguồn gốc của sự hợp tác được tiếp diễn tích cực suốt 35 năm
sau đó. Nó đã làm thay đổi hoàn toàn các mối quan tâm khoa học của tôi.
Sáu
năm sau, cô học sinh giải nhì Olympic sau khi tốt nghiệp ngành Toán xác suất tại
trường Đại học quốc gia Moscou đã trở thành người lãnh đạo của “Nhóm toán” mà
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương lập ra để làm việc với GS Krickeberg. Những
trích đoạn trên cho thấy tinh thần khoa học của thế hệ đang sống trong điều kiện
chiến tranh vô cùng khó khăn lại vô cùng mạnh mẽ, óc tò mò rất cao. Đây là tinh
thần của lớp tinh hoa chịu gian khổ sẵn sàng đưa đất nước tiến lên công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, để bắt kịp thế giới. Đó là tinh thần độc lập, và tình yêu nước
cao độ, như nền tảng tinh thần và đạo đức cần thiết để các quốc gia chậm tiến
vươn lên bắt kịp thế giới.
Chuyến
đi này, cũng như những chuyến đi sau thuyết phục ông cần phải tiếp tục dấn thân
cho Việt Nam. Viện Vệ sinh Dịch tễ (NIHE) nằm trong “tầm ngắm” của ông, vì qua
đó, ông hy vọng ảnh hưởng của hoạt động của ông sẽ lan tỏa lên cả Việt Nam.
Do
chuyến đi Hà Nội này, ông đã phải từ chối lời mời đọc bài tham luận toàn thể
trước Hội nghị toán học thế giới (IMC) được tổ chức tại
Vancouver, một vinh dự rất lớn dành cho ông. Nhưng Việt Nam mới là mục tiêu ưu
tiên của ông, xứ sở mà ông muốn “khám phá”.
Trở
lại Bielefeld, ông triển khai một loạt hoạt động ủng hộ Việt Nam, như tổ chức
“Tuần lễ Việt Nam” cùng Hội sinh viên ở đó, tổ chức gửi sách khoa học từ Đức về
Việt Nam, thuyết trình về ngành toán học Việt Nam tại các diễn đàn Đức và Pháp.
[3]
Các
chuyến đi thăm Việt Nam trong những năm 1970 có ý nghĩa của một khúc quanh trọng
đại trong đời ông. “Dần dần diễn ra một điều đã đem lại đời tôi một định hướng
hoàn toàn khác” như ông nói. Hoạt động khoa học của ông được hướng đến phục vụ
xã hội một cách cụ thể.
Sau
chuyến đi Việt Nam đầu tiên 1974, ông chuyển sang làm giáo sư của Đại học Paris
V, ở đây không khí chính trị và môi trường hoạt động cho Việt Nam có lẽ thuận lợi
hơn. Ông là thành viên của Phòng thống kê y tế của Trung tâm quốc gia nghiên cứu
khoa học Pháp (CNRS) gắn liền với Đại học. Từ 1980 trở đi, với tư cách là Giáo
sư cấp ngoại hạng (Professeur de Classe exceptionnelle), ông đã dạy 12
năm liền những ý tưởng về Y tế công cộng. Ông tự nhủ: “Trước tiên, phải tự học
thêm những thứ mà chính mình đang trăn trở”, và không gì tốt hơn là bằng giảng
dạy. Ông đã dành cho sinh viên Toán ứng dụng của ông ở Đại học Paris V một khóa
học về “Dịch tễ học” theo nghĩa rộng, bao gồm cả Dịch tễ học lâm sàng và các thử
nghiệm lâm sàng cụ thể. “Chương trình bao gồm 6 giờ lý thuyết và thực hành hàng
tuần suốt toàn năm học. Trong đó có nhiều kiến thức Thống kê, nhưng cũng chứa
các nội dung khác như Phương pháp mô hình hóa rời rạc trong di truyền học dân số
và mô hình hóa phát triển dịch bệnh bằng phương trình vi phân, theo cả hai cách
tiếp cận tất định và ngẫu nhiên. … Ông đã dạy giáo trình đó hơn chục lần cho đến
khi nghỉ hưu vào năm 1998. Kết quả là những sinh viên theo đuổi thành công
chương trình đó đã rất “đắt hàng” trong hệ thống y tế Pháp. Họ dễ dàng tìm được
các vị trí trong các bệnh viện lớn, trong bộ máy quản lý y tế và trong các viện
nghiên cứu y tế và “y tế công cộng” như ông thuật lại trong một bài diễn thuyết
về trải nghiệm Việt Nam “Toán học có cần cho Y tế công cộng?”
Đó
là chương trình mà ông sẽ thực hiện ở Việt Nam bằng giảng dạy và thực hành 35
năm liền. Năm 1998, ông nghỉ hưu tại ĐH Paris, nhưng còn lâu mới nghỉ hưu đối với
Việt Nam.
[4]
Năm
1978, sau khi chuẩn bị quy mô, ông trở lại Việt Nam ba lần liên tiếp trong năm
để giảng bài và làm hội thảo tại nhiều nơi, trong đó có TP.HCM, làm việc với
nhiều đại học, viện nghiên cứu và Bộ Nông lâm, Tổng cục Thống kê, đề nghị cách
dạy toán có thực nghiệm hơn cho trường học… Các nhà y học Việt Nam đến với ông
ngày càng nhiều hơn. Ông viết biên bản ghi nhớ về các phương pháp toán và thống
kê học trong y tế, đặc biệt trong ngành dịch tễ học. Qua các xêmina về phương
pháp lấy mẫu của ông, phương pháp lấy mẫu lần đầu tiên được đưa vào Việt Nam,
và chẳng bao lâu đã trở thành công việc “cơm bữa” của những người làm thống kê
khắp nơi ở Việt Nam. Một vài học trò của ông từ xêmina này sau đó xây dựng Viện
khoa học về kế hoạch gia đình, viện có vai trò lớn ở Việt Nam. Trong những năm
đầu, ông đào tạo tiếp những người đã có chức vụ cao trong hệ thống y tế. Bên cạnh
đó, ông đào tạo Nhóm toán học bốn người trong Viện Vệ sinh Dịch tễ. Những người
này đều thành công với những công việc mới ở những vị trí cao hơn.
Ông
tiếp tục giảng dạy, làm xêmina, chăm sóc sinh viên, ứng viên tiến sĩ, gửi các
nhà nghiên cứu ra nước ngoài để nâng cao chất lượng. Ông đi đến nhiều làng quê
để biết về hệ thống y tế Việt Nam. Ông viết những bản ghi nhớ, gửi Bộ Y tế các
đề nghị. Ông nhận được sự hỗ trợ của một số tổ chức nước ngoài.
Năm
1981 Bộ ngoại giao Pháp đã chấp thuận cho ông một chương trình phát triển 10
năm nhằm đào tạo tiếp nhân sự cao cấp của Bộ y tế về những đề tài như Dịch tễ học
tổng quát, Dịch tễ học của những chứng bệnh kinh niên, của những bệnh truyền
nhiễm, Thử nghiệm lâm sàng, tính hiệu quả và tiêm thử của các các tiêm phòng,
Thống kê y tế, và hệ thống thông tin y tế, vân vân.
Năm
1984, UNICEF bảy lần yêu cầu ông tư vấn về những vấn đề như CDD (Kiểm soát các
bệnh tiêu chảy), EPI (Chương trình mở rộng của chủng ngừa), MCH (Sức khỏe của mẹ
và con), Bệnh sốt rét, Lao, Dịch tễ học tại các hệ thống y tế làng xã.
Năm
1994, “Tổ chức Đức Hợp tác kỹ thuật” (GTZ) hỗ trợ ông thực hiện một nghiên cứu
thử nghiệm về kế hoạch hóa gia đình, cũng như thực hiện bằng phương pháp lấy mẫu
tại các tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Không
thể kể hết những việc làm của ông cho Việt Nam trong nước và ở nước ngoài nhằm
tranh thủ sự hỗ trợ và nâng cao trình độ khoa học của các tổ chức và nhà khoa học
Việt Nam trong ngành. Các phương pháp toán học trước đây trên bục giảng đã trở
thành phương pháp hiệu quả trong ngành y.
Những
năm 1980, ông mở rộng hoạt động sang Vientiane (1983 và 1984 với Trung tâm thống
kê, và Viện Vệ sinh, Dịch tễ và Vi sinh), và Phnom Penh (1987 với Phân khoa Y).
[5]
Đáng
lẽ câu chuyện của ông với Việt Nam có thể kết thúc khi ông nhận quyết định nghỉ
hưu của Đại học Paris V năm 1998, và kết thúc nhiệm vụ trong Chương trình Châu
Âu – Việt Nam vào năm 2004. Tuy nhiên, như ông kể, “năm 2005 tôi đã đến Việt
Nam một lần nữa, lần đầu tiên như một du khách, và tôi đã đến thăm người bạn cũ
Hoàng Thủy Nguyên, khi đó đã thôi chức giám đốc Viện Vệ sinh Dịch tễ và nghỉ
hưu. Ông nói với tôi rằng một trường đại học y tế nhỏ của khu vực Đông Bắc Việt
Nam muốn được giúp đỡ về giảng dạy y tế công cộng cho sinh viên của mình. Đó là
khởi đầu cho một chương khác trong câu chuyện của tôi.” Đó là Đại học Thái Bình
là nơi rất cần giúp đỡ, và đề tài tập trung: Một chương trình cải tổ và nâng cấp
ngành Y tế công cộng mở rộng trên quy mô lớn đến các tỉnh khác. Lần này ông kết
hợp với ĐH Bielefeld, và một viện y tế của Lào. Lúc đó ông đã ở tuổi 76. Ông muốn
giúp các đại học còn gặp nhiều khó khăn và cần được nâng cao chất lượng. Về
chương trình 10 năm này, ông nói:
Tôi bắt đầu một chương trình, mà theo dòng thời
gian đã trải rộng tới tất cả khoa y hoặc các trường đại học y của Việt Nam, ngoại
trừ hai trung tâm lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình được Quỹ
“Else Kröner-Fresenius-Stiftung” của Đức tài trợ. Trong giai đoạn đầu Chương
trình tập trung vào việc giảng dạy Y tế công cộng cho sinh viên y khoa bình thường
trong thời gian 6 năm học cơ bản.
Ở Việt Nam, chương trình đào tạo y tế cơ bản
này thực tế bao gồm hầu hết các khóa học về các chủ đề của Y tế cộng đồng, điều
đó rất hợp lý vì các bác sĩ ở nông thôn hoặc ở các thành phố nhỏ cũng phải làm
rất nhiều việc của Y tế công cộng, chẳng hạn như quản lý một trạm y tế thôn bản,
thúc đẩy giáo dục sức khoẻ, các hoạt động phòng bệnh bao gồm hoạt động vệ sinh
thông thường, cùng các nhiệm vụ khác nữa.
Điều đó thật tuyệt vời, song nội dung của các
khóa học này chất lượng rất kém, trình độ giáo viên của các trường còn kém hơn.
Các giảng viên áp dụng cách đọc thành lời các tài liệu viết sẵn mà không bao giờ
suy nghĩ về nó. Điều đó có nhiều lý do: truyền thống Nho giáo, làm việc quá sức,
nhưng cũng là do ảnh hưởng tai hại của các tổ chức quốc tế, bất kể là tổ chức
phi chính phủ (NGO) hay không, là những gốc rễ của thói quen làm việc hời hợt của
nhân viên.
Nhiều giảng viên thậm chí không biết về hệ thống
y tế Việt Nam ngoài phạm vi làm việc nhỏ hẹp của riêng mình. Ngoài ra, tôi nghĩ
rằng sự thiếu tư duy chặt chẽ và thiếu nhận thức rõ ràng về vai trò của toán học
đã ngăn cản bất kỳ sự cải thiện tình hình đáng kể nào. Gần như không có nhà
toán học nào làm việc trong hệ thống y tế. Vì thế, trong giai đoạn đầu của
Chương trình, chúng tôi cố gắng mở rộng tầm nhìn của các giảng viên, đồng thời
giúp họ có thể làm việc độc lập hơn và tư duy chặt chẽ hơn.
Nhằm
nâng cấp ngành Y tế công cộng, Krickeberg đưa ra hai nội dung chính:
- Cải thiện việc giảng dạy ngành Y tế công cộng, và nâng cao mặt bằng khoa học của giảng viên.
- Biên soạn và xuất bản Tủ sách “Giáo khoa cơ bản về Y tế công cộng” để làm những tài liệu quan trọng cho giảng viên. Dưới đây là những quyển sách đã được xuất bản của Tủ sách.
- Toán học có vai trò thiết yếu trong hầu hết các thành phần của Y tế công cộng, bắt đầu từ các yếu tố cơ bản nhất và không thể thiếu của Y tế công cộng như được giảng dạy cho sinh viên y khoa bình thường.
- Tư duy chặt chẽ và sáng sủa theo phương pháp toán học là không thể thiếu để cải thiện hiệu quả giảng dạy và thực hành Y tế cộng đồng.
- Các nhà toán học cần phải được tuyển dụng vào nhiều vị trí trong Hệ thống y tế.
- Các nhà quản lý y tế, giảng viên đại học y, cán bộ ngành y tế và nghiên cứu y học nói chung nhất thiết phải nhận thức rõ ràng về vai trò của toán học trong Y tế cộng đồng. Điều đó đã trở thành phổ biến ở nhiều nước nhưng chưa được quán triệt tại Việt Nam.
GS Klaus Krickeberg với chương trình Dịch tễ học cho Việt Nam, 2009 |
Trong
các hoạt động này, ông luôn luôn nhấn mạnh vai trò của toán học và tư duy chặt
chẽ của nó:
“Tham
vọng” của GS Krickeberg là đưa ngành Y tế công cộng Việt Nam, về nhân sự, cấu
trúc, trình độ khoa học trong nghiên cứu và giảng dạy, tính chuyên nghiệp, năng
lực ứng dụng toán học, óc tổ chức, sự vận hành bộ máy, lên mặt bằng thế giới,
hay tương đương, và nâng vị thế của y tế công cộng trong ý thức của cộng đồng
khoa học và dân chúng, cũng như cải thiện vị thế và điều kiện làm việc của các
giảng viên.
K. Dietz (trái), N.X. Xanh, H. Zessin (phải) mừng sinh nhật thứ 80 của K. Krickeberg tại Đà Lạt 2009. Ông và cả nhóm vẫn còn “chinh phục” đỉnh Langbiang. |
[6]
Những
người Việt công tác với ông đều rất trân quý ông, xem ông còn hơn là một người
bạn của Việt Nam. Trong những năm 1980, lúc ông làm việc tại Viện Vệ sinh và Dịch
tễ ở Hà Nội, một trợ lý của giám đốc, khi cùng gởi xe đạp với ông trong Viện
vào một buổi sáng, đã buột miệng thốt lên với ông: “Ki-kơ-rơ-béc là người Việt
Nam”. Câu nói này bộc lộ đúng tình cảm mà các cộng tác viên đã dành cho ông, rằng
từ trái tim ông giúp đỡ tận tụy cho Việt Nam, và sống đơn giản như một người Việt
Nam, xứng đáng là một công dân Việt Nam.
Năm
2009, một học trò cũ của ông năm xưa tại ĐH Heidelberg (NXX) đã tổ chức mừng
sinh nhật thứ 80 của ông tại Đà Lạt. Có hai học trò và đồng nghiệp ông đến từ Đức,
và hơn chục đồng nghiệp, học trò từ Việt Nam. Lễ mừng sinh nhật kéo dài một tuần,
với nhiều kỷ niệm khó quên. Lần đó, ở tuổi 80, ông cũng “thi gan với núi”: leo
lên đỉnh Langbiang cùng với một số đồng nghiệp, một thói quen của ông, nói
chung của người Đức, nhất là trong giới khoa học. Max Planck, cha đẻ của thuyết
lượng tử vẫn còn leo núi cao ở tuổi 79. Cuộc sống ồn ào, hay đầy khách du lịch
đối với ông là buồn tẻ và xa lạ.
GS
Klaus Krickeberg rất yêu đất nước, con người và văn hóa Việt Nam. Căn hộ của
ông tại Paris được trang trí với bàn ghế bằng mây tre mang từ Việt Nam. Ông
thích một cuộc sống đơn giản, thích lịch sử phong phú của Việt Nam; hay tìm đến
những nơi vắng vẻ trong những ngày nghỉ ở Việt Nam. Ông luôn luôn có sự thông cảm
và kiên nhẫn với Việt Nam. Xét ở một số khía cạnh nào đó, có thể nói “Ông còn
Việt Nam hơn cả nhiều người Việt Nam trong chúng ta”.
Tháng
2-2009, Bộ Y tế Việt Nam đã quyết định tặng ông kỷ niệm chương “Vì sức khỏe
nhân dân” vì đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển y tế Việt Nam. Năm
2014 Đại học Quốc gia TP HCM trao tặng ông bằng tiến sĩ danh dự, “trong sự
công nhận những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng của Việt Nam trong 50 năm qua,
đặc biệt cho nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng các khoa học thống kê, và cho việc
củng cố ngành Y tế công cộng Việt Nam, và cho sự phát triển các quan hệ hữu nghị
giữa nhân dân các nước Đức – Pháp – Việt Nam.” Tiếp theo đó là Đại học Đà Nẵng
năm 2015.
GS Klaus Krickeberg cũng thích “ăn bụi” như người Việt Nam, 2009 |
Nửa thế kỷ qua, ông đã đến Việt Nam cả thảy 31 lần. Đáng lẽ ông hưởng tuổi già ở một xứ sở phồn vinh như Đức. Nhưng không hiểu sao ông vẫn lặn lội hoạt động cho Việt Nam? Hiện ông vẫn còn tiếp tục biên soạn bộ sách “Y tế công cộng” cho Việt Nam. Chưa biết tìm đâu ra chi phí cho lần này. Tôi không tưởng tượng nổi vì sao ông đã “yêu” một đất nước như Việt Nam như thế, khi mà sự khác biệt văn hóa và đời sống rất lớn khiến một người châu Âu khó hội nhập được. Tôi rất ngạc nhiên khi được nghe ông trả lời: “Tôi có ý kiến hoàn toàn khác, ít nhất đối với tôi và phần lớn những người trong vòng quen biết của tôi. Những khác biệt trong văn hóa giữa Việt Nam và nước Đức thật sự không lớn lắm, trong mọi trường hợp nhỏ hơn sự khác biệt giữa nước Đức và Hoa Kỳ; có nhiều cái giống nhau giữa hai nước. Điều tôi không thích ở Việt Nam hôm nay chính là những cái “không−Việt Nam” (un-vietnamese) đang lan tràn khắp nơi, sự thắng thế của tâm lý buôn bán, sự phá hỏng cảnh quan, sự phô trương giàu có, sự bắt chước những cái kiểu Mỹ gớm ghiếc, cách ăn uống không lành mạnh, quá nhiều tivi…”. Thực tế, ông cảm thấy lo lắng cho sự phát triển của Việt Nam.
Các đại biểu và sinh viên tham dự buổi lễ vinh danh chụp hình lưu niệm cùng GS Klaus Krickeberg và người bạn đời Helga Zeile tại lễ trao bằng tiến sĩ danh dự tại ĐHQG HCM 2014 |
Hội thảo lần thứ mười về Giảng dạy Y tế công cộng tại trường ĐH Tây Nguyên |
Một cảnh hội thảo quốc tế tại ĐH Tây Nguyên |
[7]
Nhật
Bản Minh Trị cuối thế kỷ 19 đã thuê rất nhiều (trên 3.000) nhà khoa học phương
Tây sang góp sức xây dựng đất nước họ. Một số được trả lương rất hậu, đôi khi
cao hơn lương của Thủ tướng họ. Chẳng hạn như kỹ sư trẻ Henri Dyer từ Scotland,
người được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Công nghệ hoàng
gia Tokyo để xây dựng trường này. Hay Bác sĩ Đức Erwin Bälz, người xây dựng
ngành Y của Nhật Bản hai mươi lăm năm tại ĐH Tokyo. Hay William S. Clark của Mỹ,
nhà khoa học và giáo dục nông nghiệp hàng đầu của Mỹ, người xây dựng Trường
nông nghiệp Sapporo, sau này là ĐH Hokkaido. Những vị này khi từ giã sau khi
làm xong nhiệm vụ, được Hoàng Đế Meiji trân trọng trao tặng “Huân chương Mặt trời
mọc” (Kyokujitsushō), một huy chương rất cao quý của Nhật Bản. Có
người được nhập quốc tịch Nhật, như trường hợp của Lafcadio Hearn (1850-1904) một
trí thức có quốc tịch Anh, người có công lớn giới thiệu văn hóa Nhật Bản ra nước
ngoài. Khi Hearn mất, quan tài ông được phủ với hoa cúc, và olive thơm, được tô
điểm bằng một vòng quyệt quế. Bốn mươi giáo sư và 100 sinh viên Nhật từ hai đại
học mà ông từng giảng dạy, Đại học Hoàng gia Tokyo, và Waseda, cũng có mặt. Bảy
vị sư Phật giáo đọc kinh. Những điều đó cho thấy người Nhật vô cùng trân quý sự
đóng góp của các chuyên gia nước ngoài, để xây dựng nền tảng một xã hội hiện đại
theo mô hình phương Tây, để mong nhanh chóng đuổi kịp thế giới.
Một
thí dụ khác sau Thế chiến thứ hai. Một kỹ sư, thống kê học, chuyên gia về kiểm
tra chất lượng (quality control), của Mỹ, William E. Deming (1900 –1993), được
gửi tới Nhật để tham gia điều tra dân số. Do tên tuổi ông, ông được Hiệp
hội các nhà khoa học và kỹ sư Nhật Bản (JUSE) mời. Trong năm 1950,
Deming huấn luyện hàng trăm kỹ sư, nhà quản lý, và học giả, về điều khiển quá
trình thống kê (statistical process control) và khái niệm chất lượng. Ông cũng
dành một khóa đặc biệt cho các nhà lãnh đạo cấp cao (trong đó có những nhà công
nghiệp Nhật Bản hàng đầu như Akio Morita, nhà sáng lập Sony).
Thông
điệp của Deming đến các nhà lãnh đạo chóp bu là: cải thiện chất lượng sẽ giảm
chi phí, đồng thời tăng năng suất, uy tín sản phẩm, và thị phần thế giới. Thực
tế, Deming đã trở thành “Ông Tổ” của ngành kiểm tra chất lượng của Nhật Bản.
Người Nhật hiểu ngay tầm quan trọng của các phương pháp toán học này cho sự
phát triển kinh tế sống còn của họ. Các nhà công nghiệp Nhật Bản đã áp dụng rộng
rãi các kỹ thuật toán thống kê của Deming, và đã rất thành công trong việc nâng
cao uy tín của sản phẩm công nghiệp của Nhật Bản, làm cho “Made in Japan” trở thành
thương hiệu ngày càng chinh phục thế giới. Năm 1960, Deming được Thủ tướng Nhật
Bản Nobusuke Kishi thay mặt cho Hoàng đế Hirohito trao tặng Huân chương “Thụy bảo
chương” (Zuihōshō), huân chương sau Huân chương Mặt trời mọc. Các nhà
công nghệ muốn trả ông tiền tác quyền từ lợi nhuận do phương pháp ông làm ra,
nhưng ông từ chối. Họ liền lấy tiền đó để lập Giải thưởng Deming dành
cho các ngành kiểm tra chất lượng và quản lý chất lượng, nói lên lòng biết ơn
mãi mãi của họ đối với Deming. Toyota Motor
Corporation là một trong những công ty Nhật đoạt giải Deming này năm 1965.
[8]
GS Klaus Krickeberg, năm nay đã 88 tuổi, là người dấn
thân toàn diện cho sự nghiệp xây dựng Việt Nam trong những giai đoạn rất khó
khăn. Ông đưa luồng gió mới của toán học ứng dụng khá sớm vào Việt Nam, làm phấn
chấn các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam. Họ hiểu, và tìm thấy ở ông một người
khai phá và gieo trồng những hạt giống mới trên mảnh đất khoa học còn mới. Những
năm sau, ông xây dựng ngành Dịch tễ học và Y tế công cộng hiện đại theo những
chuẩn mực thế giới, những ngành mà không một quốc gia nào phát triển lại dám
làm ngơ từ thế kỷ 19, nhằm ngăn ngừa những thảm họa dịch bệnh như từng đã diễn
ra trong lịch sử nhân loại. Phòng bệnh, tránh bệnh hơn chữa bệnh.
Ông đã truyền cảm hứng, chuyển giao công cụ, phương
pháp, tư duy toán học, cách tổ chức, tinh thần khoa học, sự tận tụy, tính chính
xác, óc khách quan, và kinh nghiệm thế giới cho người Việt Nam. Thay vì Việt
Nam gửi người đi du học, thì ông đem tri thức và bầu nhiệt huyết đến cho Việt
Nam. Thành công nhiều hay ít cuối cùng là do mảnh đất, con người, cơ chế, sự nhạy
bén, quyết tâm của Việt Nam. Thực tế, Klaus Krickeberg là người thầy, người
nâng cấp ngành Y tế công cộng Việt Nam một bước đáng kể về nền tảng, đủ để phía
Việt Nam tiếp tục sự nghiệp và hoàn thiện. Làm sao để Việt Nam tự có được một
nhà khoa học tầm cỡ thế giới như thế tận tụy hoạt động liên tiếp nửa thế kỷ liền
cho Việt Nam?
Ông là một tấm gương sáng của tinh thần phụng sự, của
lao động khoa học không mệt mỏi, và lòng vị tha. Ông hoạt động vì một đất nước
Việt Nam phát triển, với tâm huyết và một sự dấn thân bền bỉ trong mọi thời kỳ
của đất nước, và với những mục tiêu cụ thể.
Vài khẩu hiệu của ông, thiết tưởng không thừa, nếu được
lặp lại ở đây:
Học một biết mười
Hãy học một cách thông minh, không nên chỉ bằng lòng với
cách học thuộc lòng.
Học đi đôi với hành
Như một cách học mới không từ chương, vì sự hữu ích
cho xã hội.
Tinh thần của cả hai khẩu hiệu này tương tự tinh thần thực
học của nhà khai sáng Nhật Bản Fukuzawa Yukichi chủ trương cho Nhật Bản
Minh Trị. Chúng ta cũng nhớ lại khẩu hiệu của William S. Clark, người xây dựng
nền tảng cho ĐH Hokkaido, trước khi chia tay đã nhắn nhủ sinh viên Nhật Bản: Các
bạn trẻ, hãy có tham vọng!, câu nói mà sau đó người Nhật đã ghi tâm khắc cốt.
Người Nhật đã làm thế nào để phát triển khoa học trong
quá khứ? Họ được những người thầy từ phương Tây nhắc nhở rằng, không nên xem
khoa học như trái cây có sẵn để mua, và các thầy cũng không muốn mình là những
người đi bán trái cây, mà phải quan niệm rằng khoa học là cái cây mà thầy và
trò phải vun xới mảnh đất theo đúng các tiêu chuẩn để nó ra trái ngọt. Những
năm qua, sự đơm hoa kết trái ngày càng hiện rõ hơn bao giờ hết khi hầu như năm
nào người Nhật cũng đều có giải Nobel, giống như người Đức đầu thế kỷ 20. Đó là
trái mà cây khoa học đã đơm ở tầng cao nhất. Khu vườn khoa học của họ chính là
mảnh đất văn hóa khoa học không ngừng được vun xới và chăm
bón. Không có mảnh đất văn hóa đó, người ta phải chịu tốn kém đi mua trái của
khoa học suốt đời. Các tiêu chuẩn chăm sóc mảnh vườn, và của khoa học, là phổ
quát − universal. Trật đi, cây không bao giờ có trái.
Những gì Klaus Krickeberg thực hiện hơn 50 năm ở Việt
Nam, ngoài những đóng góp chuyên môn cho ngành y tế, còn có ý nghĩa chính, là xây
dựng và vun bồi văn hóa khoa học trong nghiên cứu, giảng dạy
và ứng dụng. Ông không đến để “bán trái cây”, mà tự nguyện làm “người làm vườn”
để chăm sóc khu vườn văn hóa đó, đúng theo tinh thần khoa học, cho nó tự đơm
hoa kết trái. Tinh thần khoa học cũng không phải là cái gì có thể mua được, lại
càng không phải tự dưng mà có như hôm nay, mà đã phải do bao thế hệ đấu tranh
qua bao thế kỷ với sự trả giá đắt mới dành được, để khoa học mới được công nhận
là khoa học, và nhà khoa học được quyền làm nhà khoa học. Khoa học có văn hóa
riêng của nó cần được dăm bồi theo những tiêu chuẩn phổ quát của nó. Không phải
tự nhiên mà có.
Krickeberg làm việc hoàn toàn tự nguyện, xuất phát từ
tình cảm đặc biệt dành cho dân tộc Việt Nam. Thật khó mà hình dung có một nhà
khoa học nước ngoài thứ hai nào tận tụy và gắn bó cả một đời với Việt Nam như
ông. Ông rất xứng đáng được người lãnh đạo cao nhất của đất nước trao cho một
danh hiệu cao quý cấp nhà nước. Đó cũng sẽ là sự công nhận tiền lệ
cho tất cả những người bạn nước ngoài có những đóng góp quan trọng trong việc
xây dựng nền tảng cho một đất nước Việt Nam hiện đại theo chuẩn mực khoa học thế
giới. Điều đó sẽ khích lệ thêm sự đóng góp của người bạn nước ngoài. Việt Nam
có rất nhiều cảm tình viên từ thời chiến tranh, cần tiếp tục kêu gọi sự giúp sức
của các chuyên gia, các nhà giáo dục, khoa học, công nghệ, nhà kinh tế nước
ngoài tham gia mạnh mẽ vào cuộc chấn hưng đất nước. Đây nên là một việc làm có
hệ thống và lâu dài để chứng tỏ Việt Nam biết ơn và trân quý họ. Chúng ta rất cần
những người giàu kinh nghiệm và năng lực tham gia góp phần xây dựng nền tảng
phát triển cho đất nước.
Chúng tôi mong rằng Việt Nam sẽ dành cho GS Klaus
Krickeberg những điều cao quý và trân trọng mà người Nhật đã dành cho vô số những
người nước ngoài đã có công đóng góp cho sự phát triển và phồn vinh của đất nước
họ, như trao tặng ông một danh hiệu như Công dân danh dự của Việt Nam,
và hỗ trợ ông tiếp tục hoạt động. Ông vẫn tiếp tục là thành viên của “Hội Y tế
công cộng Việt Nam”.
Nguyễn Xuân Xanh
Tháng 7, 2017
TB. Tháng 2, 2019, Klaus Krickeberg chính thức được Bà
Bộ trưởng Y tế Việt Nam Nguyễn Thị Kim Tiến trao Huân chương Hữu nghị tại Hà Nội,
Huân chương cao nhất của Nhà nước Việt Nam cho người nước ngoài có những đóng
góp to lớn của họ cho Việt Nam.
Xem ở đây: Thầy tôi: Klaus Krickeberg – Người yêu mến đất Việt
Nguồn bài viết: Klaus
Krickeberg: Một đời gắn bó, rosetta.vn,
21-3-2019.