Dani Rodrik (1957-) |
NÓI THẲNG VỀ THƯƠNG MẠI
CAMBRIDGE – Các nhà kinh tế có phải chịu một phần trách nhiệm về chiến thắng gây sốc của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ không? Cho dù họ không ngăn Trump lại được, thì đáng lẽ ra họ đã có một ảnh hưởng lớn hơn lên những tranh luận công cộng nếu họ bám sát hơn những giáo huấn của bộ môn của họ, thay vì đứng về phe cỗ vũ cho toàn cầu hóa.
Gần hai thập kỷ trước, khi quyển sách của tôi Có Phải Toàn Cầu Hóa Đã Đi Quá Xa? được đưa đi in tôi đã tiếp cận một nhà kinh tế học nổi tiếng để đề nghị ông ấy viết vài lời quảng bá ở bìa sau. Tôi đã tuyên bố trong cuốn sách rằng, trong sự thiếu vắng một phản ứng của chính phủ được phối hợp hơn nữa, toàn cầu hóa quá mức sẽ làm sâu sắc thêm sự phân chia giai cấp xã hội, trầm trọng thêm những vấn đề về phân phối, và xói mòn cuộc đối thoại xã hội trong nước – những lập luận đã trở thành kiến thức thông thường từ đó.
Kinh tế gia này bác bỏ. Ông đã nói rằng ông thực sự không phủ nhận bất kỳ phân tích nào, nhưng lo ngại rằng cuốn sách của tôi sẽ cung cấp “đạn dược cho những kẻ man rợ”. Những người theo chủ nghĩa bảo hộ sẽ bám vào những lập luận trong sách về mặt trái của toàn cầu hóa để tạo dựng vỏ bọc cho chương trình nghị sự hẹp hòi, ích kỷ của họ.
Đó là một phản ứng tôi vẫn còn nhận được từ những đồng nghiệp của mình. Sau phần trình bày của tôi, một trong số họ sẽ do dự giơ tay và hỏi: thầy không nghĩ là những lập luận của thầy sẽ bị lạm dụng và phục vụ cho những kẻ mị dân và những người chủ trương bảo hộ mà thầy đang công khai chỉ trích?
Luôn có một rủi ro là những lập luận của chúng ta sẽ bị bắt làm con tin trong tranh luận công cộng bởi những người mà chúng ta không ủng hộ. Nhưng tôi không bao giờ hiểu nỗi tại sao nhiều nhà kinh tế tin rằng điều này kéo theo là chúng ta phải nghiêng hẵn lập luận của mình về thương mại theo một hướng riêng biệt. Tiên đề tiềm ẩn ngụ ý dường như những kẻ man rợ chỉ ở một phía nhất định trong cuộc tranh luận thương mại. Hiển nhiên là, những ai phàn nàn về luật lệ của Tổ chức Thương mại Thế giới hay các hiệp định thương mại là những người bảo hộ xấu xí, trong khi những ai ủng hộ các cơ chế này thì luôn luôn ở phía của những “thiên thần” lạc quan.
Sự thật là, nhiều người ủng hộ nhiệt thành cho thương mại được thúc đẩy không ít bởi những chương trình nghị sự hẹp hòi, ích kỷ của riêng họ. Các hãng dược mưu cầu những quy định về bằng sáng chế cứng rắn hơn, các ngân hàng thì theo đuổi sự gia nhập không bị ràng buộc vào các thị trường nước ngoài, hay các tập đoàn đa quốc gia thì tìm kiếm những tòa án trọng tài đặc biệt không chú ý nhiều đến các lợi ích công cộng, chẳng kém gì những người bảo hộ. Vì thế khi các nhà kinh tế thay đổi ít nhiều các lập luận của họ, họ thật ra chiếu cố một nhóm những kẻ man rợ hơn một nhóm những kẻ man rợ khác.
Điều này từ lâu đã là một luật bất thành văn về nghĩa vụ công của những nhà kinh tế rằng họ nên ủng hộ thương mại và đừng quá nhấn mạnh vào các chi tiết gây bất lợi. Điều này đã tạo ra một tình huống kì lạ. Những mô hình chuẩn của thương mại kết hợp với những gì các nhà kinh tế tạo ra thông thường có các hiệu ứng phân phối đậm nét: thu nhập bị mất bởi những nhóm nhất định các nhà sản xuất hay người lao động là mặt trái của “lợi ích từ thương mại”. Và các nhà kinh tế đã biết từ lâu rằng những thất bại thị trường – bao gồm sự vận hành tồi tệ của thị trường lao động, tính không hoàn hảo của thị trường tín dụng, những ngoại ứng của môi trường hay của tri thức, và những hình thức độc quyền – có thể của các lợi ích trên.
Họ cũng biết rằng những lợi ích kinh tế của hiệp định thương mại mà vượt qua các biên giới tác động đến các quy định trong nước - như với việc thắt chặt các quy tắc bằng sáng chế hoặc sự hài hoà các yêu cầu về sức khỏe và an toàn - về cơ bản là không rõ ràng.
Adam Smith (1723-1790) |
David Ricardo (1772-1823) |
Tuy nhiên, có thể tin tưởng các nhà kinh tế để lặp lại như vẹt về những kỳ công của lợi thế so sánh và tự do thương mại bất kỳ khi nào những hiệp định thương mại xuất hiện. Họ đã giảm nhẹ những mối quan ngại về phân phối một cách rất nhất quán, mặc dù bây giờ rất rõ ràng rằng tác động phân phối của, nói ngay, Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ hay sự gia nhập của Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới là rất lớn đến những cộng đồng bị ảnh hưởng trực tiếp nhất ở Hoa Kỳ. Họ đã phóng đại tầm quan trọng của thu hoạch gộp từ những giao dịch thương mại, trong khi những thành quả như thế này đã tương đối ít ỏi ít nhất từ những năm 1990. Họ đã chấp nhận truyên truyền miêu tả những thỏa thuận thương mại hiện nay là “những hiệp định tự do thương mại”, mặc dù Adam Smith và David Ricardo có thể sẽ đội mồ bật dậy nếu như họ đọc (Hiệp định) Đối tác Xuyên Thái Bình Dương.
Cái giá phải trả cho sự miễn cưỡng giả vờ trung thực về thương mại này là các nhà kinh tế đánh mất sự tín nhiệm của công chúng. Còn tệ hơn, thái độ này bị đối thủ của họ khai thác. Sự thất bại của những nhà kinh tế trong việc cung cấp bức tranh đầy đủ về thương mại, với tất cả sự khác biệt và sự cảnh báo cần thiết, khiến cho việc lên án, thường là một cách sai trái, thương mại trở nên dễ dàng hơn, với tất cả dạng thức của các tác động tiêu cực.
Ví dụ, cho dù thương mại đã góp phần làm gia tăng sự bất bình đẳng thì nó chỉ là một yếu tố đóng góp cho xu hướng rộng đó – và gần như chắc chắn đó là một yếu tố tương đối thứ yếu, so với công nghệ. Nếu các nhà kinh tế tỏ ra thẳng thắn hơn về những điểm bất lợi của thương mại, có thể họ đã có sự tín nhiệm lớn hơn như những người trung gian trung thực trong cuộc tranh luận này.
Tương tự, chúng ta có thể đã có một thảo luận công khai sâu sát tình hình hơn về hệ thống bảo vệ xã hội nếu các nhà kinh tế sẵn sàng để thừa nhận rằng hàng nhập khẩu từ các nước mà quyền lao động không được bảo vệ đặt ra nhiều câu hỏi nghiêm túc về công lý phân phối. Như vậy sẽ có thể phân biệt trường hợp các mức lương thấp ở những nước nghèo phản ảnh năng suất lao động thấp với những trường hợp vi phạm thật sự quyền của người lao động. Và phần lớn hơn của thương mại mà không tạo những mối quan ngại như vậy có thể sẽ không bị kết án là “thương mại không công bằng”.
Hơn nữa, nếu các nhà kinh tế lắng nghe những phê phán cảnh báo sự thao túng tiền tệ, sự mất cân bằng thương mại và mất việc làm, thay vì bám vào những mô hình không tính đến những vấn đề như thế, họ có thể đã có một chỗ đứng tốt hơn để chống lại những yêu sách quá đáng về những tác động bất lợi của những giao dịch thương mại lên việc làm.
Nói ngắn gọn, nếu các nhà kinh tế công khai với dư luận những cảnh báo trước, sự bất trắc và hoài nghi trong những cuộc hội thảo nội bộ, họ có thể trở thành những nhà bảo vệ tốt hơn nền kinh tế thế giới. Thật không may, nhiệt huyết của họ để bảo vệ thương mại chống những kẻ thù của nó đã phản tác dụng. Nếu những kẻ mị dân ra những tuyên bố vô lý về thương mại hiện đang thu được sự ủng hộ - và, ở Hoa Kỳ và các nơi khác, thực tế đã dành được quyền lực – thì những những nhà hàn lâm bảo vệ cho thương mại xứng đáng để ít nhất chịu một phần trách nhiệm.
Dani Rodrik là Giáo sư Kinh tế Chính trị quốc tế tại Trường Chính phủ John F.Kennedy thuộc Đại học Harvard. Ông là tác giả của cuốn sách The Globalization Paradox: Democracy and the Future of the World Economy (Sự phản biện Toàn cầu hóa: Dân chủ và Tương lai của Nền kinh tế thế giới) và, mới nhất, cuốn Economics Rules: The Rights and Wrongs of the Dismal Science (Những quy tắc kinh tế học: Những đúng đắn và Sai lầm của Khoa học buồn thảm).
Nguyễn Vũ Hoàng dịch
Nguồn: “Straight Talk on Trade”, Project-syndicate.org, on 15 November 2016