28.1.16

Bàn tay vô hình



Bàn tay vô hình

Invisible Hand
® Giải Nobel: BECKER, 1992 SAMUELSON, 1970 SCHULTZ, 1979 STIGLER, 1982 VICKREY, 1996
Vấn đề trung tâm của khoa học kinh tế là vấn đề phối hợp: bằng cách nào hành động của vô số con người tự chủ lại tương hợp với nhau được? Một câu trả lời là kế hoạch, và một câu trả lời khác là thị trường. Thể theo lí thuyết bàn tay vô hình, sự vận động của những lợi ích diễn ra trên một thị trường đủ để làm cho đời sống kinh tế hài hoà. Do đó thị trường là một quá trình phối hợp không cần đến sự can thiệp lẫn điều tiết: bàn tay vô hình biện minh cho tự do kinh doanh.
Bernard Mandeville (1670-1733)
David Hume (1711-1776)
Adam Ferguson (1723-1816)














Cách trình bày này qui về hai ý. Ý thứ nhất là ý về sự hội tụ của những lợi ích cá thể với lợi ích chung. Được gán cho Mandeville, ý này cũng có mặt ở những tác giả ảnh hưởng đến Adam Smith như Hume, Ferguson và Hutchinson. Nhưng trong lúc đối với Mandeville, chính tính ích kỉ và thói hư tật xấu đẩy cá nhân đến việc ứng xử có lợi cho người khác (và như thế tạo ra những ngoại ứng tích cực, đặc biệt là thông qua chi tiêu điều này khiến cho Mandeville nhận sự ca ngợi tốt đẹp của Keynes) thì các nhà triết học Scotland lại cho rằng chính lợi ích cá nhân khiến cho cá thể tự đặt mình vào vị trí những người khác để tìm ra những cơ sở cho một cuộc trao đổi có lợi cho mọi người. Ý thứ hai cho rằng kết quả thu được thông qua thị trường là kết quả tốt nhất có thể. Đó không phải là một kết quả mà một cá nhân hoàn toàn duy lí có thể tìm ra hay xác định được. Trong nghĩa này, sự kiên trì của các nhà cổ điển và tân cổ điển trong việc qui chiếu về cân bằng của thị trường đối nghịch với lí thuyết bàn tay vô hình. Bàn tay này giả định những điều chỉnh thường trực, mỗi cá nhân thích nghi hành vi ứng xử của mình tuỳ theo những thông tin được giá cả và lợi nhuận tương đối chuyển tải, giá cả và lợi nhuận tương đối này cũng biến đổi dần cùng với diễn tiến của những giao dịch. Do đó, thị trường là một quá trình khám phá thường xuyên, với những kết quả bất ngờ và không dự báo được: thậm chí những nhà kinh viện còn tìm thấy ở đấy sự sáng tạo của thượng đế. Do đó, không thể mô phỏng thị trường (như cách nói của O. Lange, N. Kaldor và như mong muốn ngày nay của các nhà bảo vệ chủ nghĩa xã hội thị trường). 
Oskar Lange (1904-1965)
Nicholas Kaldor (1908-1986)
Trong cách nhìn động này, các doanh nhân gần như là những ngón tay của bàn tay vô hình. Được thúc đẩy bởi việc sở hữu lợi nhuận, họ quan tâm đến thông tin được thị trường chuyển tải và xử lí những mất cân bằng mà những tín hiệu này bộc lộ. Những phản ứng vi mô của các doanh nhân đảm bảo sự phối hợp chung tốt hơn bất kì điều tiết vĩ mô nào tìm kiếm một cân bằng chung đáng nghi ngờ.
Ở đây ta thấy là bàn tay vô hình thuộc về một triết học xã hội kéo chúng ta trở về với những nhà triết học Scotland ở thế kỉ XVIII, và cả về những nhà kinh tế Áo đương đại. Triết học xã hội này khẳng định rằng trật tự xã hội là kết quả không mong muốn của những hành động tự nguyện của các cá thể. Một trật tự tự phát do đó không thể được kiến tạo từ một dự án cá nhân, cho dù đó là dự án duy lí nhất. Giải thích điều này là đơn giản: cuộc sống xã hội hợp thành từ những tương tác cá thể, mỗi một người trong chúng ta nắm giữ một phần hiểu biết, song chỉ một phần thôi. Hayek nhấn mạnh đến hiện tượng phân tán của hiểu biết, đặc trưng cho một xã hội lớn. Đây là một sự vượt qua đáng kể (nhưng logic) của ý tưởng phân công lao động mà Adam Smith đã dừng lại ở đó. Đối với Hayek, trật tự tự phát sinh ra từ một truyền thống xã hội, và chắc chắn là không sinh ra từ một quyết tâm được một người hay một thiểu số khẳng định ở một thời điểm nhất định nào đó. Ông tố cáo chủ nghĩa kiến tạo, nguồn gốc của những chủ nghĩa toàn trị trong thế kỉ XX. Phác hoạ (và áp đặt) những kế hoạch của một xã hội hoàn hảo không nằm trong tầm với của lí tính con người, lí tính này không thể nào làm tốt hơn việc chỉ giúp ta rút ra bài học của những sai lầm phạm phải (lí tính phê phán).
Carl Menger (1840-1921)
Điều đó không có nghĩa rằng trật tự xã hội tự phát là bất kì trật tự nào. Adam Smith đã mô tả khuôn khổ thể chế không thể thiếu: bàn tay vô hình chỉ có thể hoạt động khi có quyền sở hữu, tính an toàn của những hợp đồng, tính ổn định của đồng tiền, sự cạnh tranh (nghĩa là tự do kinh doanh và trao đổi). Menger, nhờ quan niệm tổ chức của ông về những hiện tượng xã hội, đã cho thấy rằng các thể chế không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên hay của một quyết định luận tự nhiên hay vật lí. Từ đó Hayek suy ra một lí thuyết tiến hoá của các thể chế, và ngày nay người ta nói đến một cách tiếp cận của bàn tay vô hình (Ullmann-Magalit) để đặc trưng những lí thuyết giải thích sự nổi lên và những thay đổi của thể chế không có sự can thiệp của những hành động tự nguyện của con người (các lí thuyết này đặc biệt đối lập với những cách tiếp cận hợp đồng hay qui ước). Nhưng, giống như hình ảnh của những gì diễn ra trên thị trường, có chăng những doanh nhân đang thiết chế (Kizner)? Câu hỏi gây tranh luận và đưa đến việc vượt qua khuôn khổ của Hayek để đưa vào trong phân tích thể chế những nhận định đạo đức, nhằm giải thích vì sao một số cá nhân có xu hướng không còn chấp nhận thể chế nữa.  
Amartya Sen (1933-)
Ta còn gặp kiểu tra vấn này trong khoa học chính trị, và ý tưởng bàn tay vô hình được đưa vào bộ môn này để hoặc là phê phán hoặc là được viện đến. Một mặt, có những tác giả cho rằng không thể để tổ chức chính trị rơi vào những điều phi logic của bàn tay vô hình (A. Sen), mặt khác có những tác giả tố cáo cách nhìn của các nhà kiến tạo, nhân danh những khái niệm trừu tượng hay tuỳ tiện như công lí xã hội, để phủ nhận các quyền tự do cá nhân (N. Barry).  
Như thế người ta nhận thức được đến mức độ nào bàn tay vô hình nằm ở trung tâm của cuộc tranh luận cơ bản về tự do cá nhân và sự hài hoà xã hội.
BARRY N., The Invisible Hand in Economics and Politics, Hobart Paper 111, London, Institute of Economic Affairs, 1988. KOPPL R., Invisible Hand Explanations, The Elgar Companion to Austrian Economics, London, Elgar, 1993, p. 192-196. NOZICK R., Invisible Hand Explanations, AER, Papers and Proceedings, May 1994, vol. 84, n0 2, p. 394-398. ULLMANN-MARGALIT E., Invisible Hand Explanations, Synthese, 1978, vol. 39-42, p. 263-291. VAUGHN K., Invisible Hand in EATWELL J., MILGATE M. & NEWMAN P., ed., The New Palgrave. The Invisible Hand, 1987, p. 168-172.
Jacques GARELLO
Giáo sư Đại học luật, kinh tế và khoa học (Aix Marseille 3)
Nguyễn Đôn Phước dịch
® Áo (trường phái); Cạnh tranh; Cân bằng chung; Kinh tế thị trường; Smith; Tối ưu; Tự do kinh doanh.
Nguồn: Dictionnaire des sciences économiques, Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry (đồng chủ biên), PUF, Paris, 2001.
Print Friendly and PDF