27.4.15

Thorstein Veblen, nhà tiên phong của học thuyết thể chế



Thorstein Veblen, nhà tiên phong của học thuyết thể chế

Là người phê phán nặng nề xã hội đương thời, Veblen mở đường cho phái phi chính thống chống lại sự thống trị của tư tưởng tân cổ điển.
Thorstein Veblen (1857-1929)
Thorstein Veblen. Cuộc đời và các tác phẩm của ông được đánh dấu bởi tinh thần phi tuân phục.
Thorstein Veblen là người bài báng truyền thống điển hình nhất. Cuộc đời của ông cũng như các tác phẩm của ông được đánh dấu bởi tinh thần phi tuân phục và li khai. Sinh năm 1857, ông lớn lên trong một cộng đồng nông dân người Na Uy di cư đến Hoa Kỳ, nhưng sống rất khép kín. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ lấy cảm hứng từ các ý tưởng của Kant và Spencer, ông rút lui trong bảy năm về trang trại của gia đình, nơi ông đắm chìm trong một biển sách và đọc chúng với một tốc độ phi thường. Ông chỉ bắt đầu kiếm sống từ năm 34 tuổi. Cách hành xử lạ thường của ông, cách ăn mặc của ông, phương pháp giảng dạy kém chính thống của ông, cuộc sống tình cảm đầy dông bão, và sự thù địch công khai đối với tôn giáo đã làm phức tạp thêm sự nghiệp học thuật của ông được đánh dấu bởi những hợp đồng lao động không được gia hạn và những thời kỳ thất nghiệp.

Phê phán lý thuyết kinh tế

Thế nhưng, các đồng nghiệp của ông đã biết nhận ra giá trị của một sản phẩm, kết hợp những lời phê phán mỉa mai cay độc với nghiên cứu phân tích độc đáo, ở ranh giới của kinh tế học, xã hội học và sử học. Năm 1925, khi ông gần 70 tuổi, Veblen được mời đảm nhận một chức vụ uy tín là chủ tịch Hiệp hội kinh tế học Mỹ, với điều kiện là ông đồng ý trở thành thành viên! Trung thành với chính mình, ông từ chối vinh dự ấy, cho rằng đáng lí ra người ta nên mời ông khi ông từng cần đến chức danh đó. Năm sau, ông lui về sống ẩn dật trong một căn chòi mộc mạc, mà tự tay ông đóng bàn ghế, trên một ngọn đồi ở bờ biển California.
Thorstein Veblen (1857-1929)
Là người phê phán không thương xót và mỉa mai tàn nhẫn xã hội đương thời, Veblen cũng phê phán những lý thuyết nào có tham vọng giải thích xã hội ấy, đặc biệt hơn lý thuyết kinh tế. Ông là người đã tạo ra thuật ngữ "kinh tế học tân cổ điển", để nhấn mạnh đến sự liên tục hơn là sự đổ vỡ giữa kinh tế học chính trị cổ điển và kinh tế học cận biên mới. Cũng giống như nhiều trường hợp khác trong lĩnh vực tư tưởng xã hội, Veblen cho rằng lý thuyết tân cổ điển chậm hơn so với thực tế mà nó nghĩ là đã được nó phân tích và giải thích. Trừu tượng, suy diễn và tĩnh tại, lý thuyết đó không có khả năng lý giải sự tăng trưởng kinh tế và các cuộc khủng hoảng. Nó bế môn đối với các ngành học khác, chẳng hạn như xã hội học và sử học, trong khi cần phải có một cách tiếp cận đa ngành để hiểu được sự tiến hóa của xã hội và sự biến đổi của các thể chế. Nó có một quan niệm hẹp về con người, bị những thành tựu của sinh học, nhân chủng học và tâm lý học phản bác. Homo œconomicus là một nguyên tử thụ động, "một số những ham muốn", một con người tính toán những hoan lạc và đau đớn, không tương ứng với bất cứ điều gì trong thực tế.
Là người phê phán kinh tế học tân cổ điển, Veblen cũng phê phán luôn chủ nghĩa Mác, mặc dù rõ ràng là ông gần gũi với chủ nghĩa này hơn. Ông phê phán quan niệm quyết định luận lịch sử của Marx và của Hegel, người tạo cảm hứng cho Marx. Ông cho rằng lý thuyết giá trị lao động và giá trị thặng dư không thích hợp với những phức tạp của xã hội công nghiệp hiện đại bị chi phối bởi việc sử dụng máy móc một cách đại trà. Ông không tin vào cuộc đấu tranh giai cấp theo cách của Marx. Ông cho rằng giai cấp vô sản không tìm cách nổi dậy, mà bị các tầng lớp thượng lưu làm biến chất do hấp thụ các giá trị của họ và tìm cách bắt chước họ.
Bản năng, sự tiến hóa và các thể chế
Còn lâu mới là một thế giới của sự hài hòa và cân đối, xã hội, từ thời nguyên thủy, là sân khấu của những cuộc xung đột và thống trị. Còn lâu mới là một nhà tính toán duy lí sự hoan lạc, con người bị thúc đẩy bởi những bản năng và xung năng không hợp lý. Những bản năng đó tiến hóa với những biến đổi, bắt đầu từ các cộng đồng nguyên thủy, dẫn đến các xã hội công nghiệp hiện đại. Một trong những bản năng nguyên thủy quan trọng nhất là bản năng săn mồi, dẫn đến việc một thiểu số người nhàn rỗi chiếm hữu thặng dư kinh tế. Bản năng đó xuất hiện chủ yếu trong các mối quan hệ giữa nam và nữ. Sau đó nó đối lập "giai cấp nhàn rỗi", thường dành thời giờ cho những hoạt động thể thao, tôn giáo, với chiến tranh và chính quyền, với giai cấp lao động. Bản năng săn mồi thường đi kèm với thiên hướng về chiến công và thành tích, những bản năng của chiến binh và vận động viên thể thao. Trong xã hội hiện đại, bản năng đó được thể hiện dưới hình thức tranh đua tiền bạc thể hiện bằng việc khoe mẻ và phô trương trong tiêu dùng, vui chơi giải trí và hoang phí. Địa vị càng cao trên nấc thang xã hội, thì người ta càng ít tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu của mình, nhưng lại càng tiêu dùng nhiều để thể hiện ưu thế, quyền lực, sự giàu có của mình. Vì vậy người ta gọi đó là "sản phẩm Veblen", những thứ mà mức cầu giảm khi mà giá cả giảm. Đối lập với những xung năng tiêu cực đó là bản năng nghề nghiệp, hay bản năng lao động (workmanship), thiên hướng sự tự do tò mò và bản năng của cha mẹ. Đó là những động lực của sự tiến bộ kinh tế, xã hội, khoa học.
Veblen không tin rằng những bản năng trên là một cái gì đó riêng của một giai cấp xã hội. Các bản năng ấy có thể được tìm thấy, ở nhiều mức độ khác nhau, ở tất cả mọi người. Ngay cả người nghèo nhất, chịu ảnh hưởng của quảng cáo và khuôn mẫu, cũng tham gia vào những trò giải trí và tiêu dùng mang tính phô trương.
Là người ngưỡng mộ Darwin, Veblen đặt sự tiến hóa và các thể chế, cùng với bản năng, ở vị trí trung tâm của tầm nhìn về xã hội. Ông định nghĩa các thể chế, không phải như là các tổ chức, mà là "những thói quen tinh thần nổi trội, những lối suy nghĩ rất phổ biến về những mối quan hệ đặc biệt và những chức năng đặc biệt của cá nhân và xã hội" (Lý thuyết về giai cấp nhàn rỗi, trang 125). Đó là những phong tục, những tập quán, những hành vi ứng xử, những nguyên tắc pháp lý. Như vậy, các thể chế này là một chiều kích văn hóa quan trọng và chúng phát triển bằng việc thích nghi với môi trường thay đổi. Nhưng trong hầu hết mọi thời kỳ, chúng đều tiến triển chậm hơn so với sự tiến bộ về khoa học và công nghệ, và sự chậm trễ đó là cội nguồn chính của các vấn đề kinh tế và xã hội.
Phê phán kinh tế học hiện đại
Veblen vận dụng phân tích về tính hai mặt trên vào việc nghiên cứu nền kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế hiện đại, bản năng nghề nghiệp tương ứng với ngành sản xuất công nghiệp. Bản năng săn mồi tương ứng với giới kinh doanh. Tiến bộ sản xuất công nghiệp gắn với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Ngành sản xuất công nghiệp hiện đại được đặc trưng đặc biệt bởi vai trò trung tâm của việc sử dụng máy móc một cách đại trà. Mục đích của hoạt động sản xuất công nghiệp là sản xuất ra sản phẩm, để nâng cao phúc lợi của người dân. Ông chỉ ra rằng, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, hoạt động sản xuất được quản lý trong khuôn khổ các doanh nghiệp kinh doanh. Các doanh nghiệp này đầu tư vì lợi ích tài chính, vì lợi nhuận. Vấn đề không phải là tạo ra sản phẩm, mà là kiếm tiền.
Không có gì đảm bảo lợi ích của ngành sản xuất công nghiệp trùng với lợi ích của nhà kinh doanh, mà còn ngược lại nữa. Như vậy doanh nghiệp có thể có lãi, thậm chí khi hoạt động chống lại xã hội, kiềm chế sản xuất, tăng giá không có cơ sở, lãng phí nguồn lực, sản xuất ra những sản phẩm vô ích hay có hại. Có một thời, vào thời điểm xuất hiện chủ nghĩa tư bản, doanh nghiệp được lãnh đạo bởi một nhà công nghiệp đích thực được thúc đẩy bởi bản năng nghề nghiệp. Từ nay, quyền lực kinh tế nằm trong tay những kẻ săn mồi hiện đại là những thủ lĩnh sản xuất công nghiệp và tài chính. Veblen là một trong những người đầu tiên mô tả các tác động của sự tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp, và sự xuất hiện của khái niệm "sở hữu vắng mặt" được áp đặt trong thời hậu chiến như là hình thức thống trị của chủ nghĩa tư bản. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tình trạng thất nghiệp là sản phẩm của "sự kiềm chế sản xuất đó mà sở hữu tư bản thực thi trên các hệ thống giá cả" (Các kỹ sư và chủ nghĩa tư bản, trang 135). Lạm phát tín dụng và sự tư bản hóa chứng khoán thái quá tạo ra một sự mất cân đối ngày càng tăng giữa tư bản thực, có tính sản xuất, sờ mó được, và tư bản tiền tệ, thiêng liêng.
Để khắc phục tình trạng bế tắc ấy, Veblen hy vọng kiểm soát được ngành sản xuất công nghiệp bởi những tác nhân đích thực có bản năng nghề nghiệp, những nhân viên kỹ thuật và những kỹ sư, kết hợp với người lao động chân tay. Tuy nhiên, ông không giải thích làm thế nào để xây dựng chế độ "các xô-viết những kỹ thuật viên" này và cách thức chúng hoạt động. Trong những năm cuối đời, ông càng thất vọng và bi quan trước những gì được ông xem như là một sự thông đồng ngày càng lớn giữa giới kinh doanh, giới tôn giáo và giới hiếu chiến. Chắc chắn ông sẽ không bỡ ngỡ nếu sống lại ngày nay!
Chết tương đối trong cô đơn, Veblen có hai môn đồ, John R. Commons và Wesley C. Mitchell, những kiến ​​trúc sư thực thụ của dòng tư tưởng thể chế mà ông có thể được coi là cha đẻ. Là phái phi chính thống chính chống lại sự chi phối của thuyết tân cổ điển ở Hoa Kỳ, thuyết thể chế đã có nhiều dạng khác nhau, đôi khi rất khác xa với ý tưởng của Veblen. Sau khi tạo cảm hứng cho chương trình New Deal của tổng thống Roosevelt, học thuyết này trải qua một hành trình dài băng qua sa mạc trong thời hậu chiến, và trường phái đã thấy một sự hồi sinh quan trọng kể từ những năm 1960, đặc biệt với sự thành lập của Hiệp hội kinh tế học tiến hóa.
Thorstein Veblen qua vài năm tháng
1857: sinh ngày 30 tại Cato, ở bang Wisconsin, Mỹ, trong một gia đình nông dân nhập cư từ Na Uy.
1880: đỗ bằng tú tài ở trường Carleton College, Minnesota.
1881-1882: học ở Đại học Johns Hopkins.
1884: lấy bằng tiến sĩ triết học ở Đại học Yale.
1884-1891: bảy năm ở ẩn tại nông trại của gia đình.
1888: kết hôn với Ellen Rolfe.
1891: nghiên cứu kinh tế học tại Đại học Cornell.
1892-1906: dạy học tại Đại học Chicago, nơi ông làm Thư kí tòa soạn của tạp chí Journal of Political Economy.
1899: The Theory of the Leisure Class (Lý thuyết về giai cấp nhàn rỗi).
1904: The Theory of Business Enterprise (Lý thuyết về doanh nghiệp kinh doanh).
1906-1909: dạy học tại trường Đại học Stanford.
1911: ly hôn với Ellen Rolfe.
1911-1918: dạy học tại trường Đại học Missouri.
1914: The Instinct of Workmanship and the State of Industrial Arts (Bản năng lao động và trạng thái các ngành nghề công nghiệp). Kết hôn với Anne Bradley, qua đời năm 1920 vì bệnh rối loạn tâm thần.
1915: Imperial Germany and the Industrial Revolution (Đế quốc Đức và cuộc cách mạng công nghiệp).
1918: làm việc tại Cục Quản lý Thực phẩm và là thành viên của ban biên tập một tạp chí có khuynh hướng tiến bộ The Dial. An Inquiry into the Nature of Peace and the Terms of its Perpetuation (Một nghiên cứu về bản chất của hòa bình và các điều khoản về sự vĩnh cửu).
1918: The Higher Learning in America (Giáo dục đại học ở Mỹ).
1919: tham gia thành lập, ở New York, trường New School for Social Research (trường Nghiên cứu Xã hội), nơi ông thỉnh thoảng đến dạy học cho đến năm 1926. The Vested Interests and the Common Man. The Place of Science in Modern Civilization and Other Essays (Những giới có thế lực và con người bình thường. Vị trí của khoa học trong nền văn minh hiện đại và các tiểu luận khác).
1921: The Engineers and the Price System (Các kỹ sư và hệ thống giá cả).
1923: Absentee Ownership and the Business Enterprise in Recent Times (Vắng mặt chủ sở hữu và doanh nghiệp kinh doanh trong thời gian gần đây).
1926: nghỉ hưu ở Palo Alto, California.
1929: mất ngày 03 tháng 8, vì bệnh tim.
Để tìm hiểu thêm
Những tác phẩm của Veblen
The Collected Works of Thorstein Veblen, Routledge, 10 vol., 1994.
A Veblen Treasury: From Leisure Class to War, Peace, and Capitalism, M. E. Sharpe, 1993.
Théorie de la classe de loisir, Gallimard, 1970.
Les ingénieurs et le capitalisme, Gordon & Breach, 1971.
Những tác phẩm viết về Veblen
Thorstein Veblen and his America, Joseph Dorfman, Viking Press, 1934.
Veblen in Perspective: his Life and Thought, Stephen Edgell, M. E. Sharpe, 2001.
La sociologie économique, 1890-1920, Jean-Jacques Gislain et Phillippe Steiner, PUF, 1995.
Thorstein Veblen et la tradition dissidente dans la pensée économique américaine, Annie Vinokur, Librairie générale de droit et de jurisprudence, 1969.
Thorstein Veblen: Critical Assessments, John Cunningham Wood, Routledge, 3 vol., 1993.
Gilles Dostaler
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch.
Nguồn: “Thorstein Veblen, pionnier del'institutionnalisme” của G. Dostaler trong Alternatives économiques Poche no.057, tháng 10 năm 2012
Print Friendly and PDF