Mác và kinh tế thị trường (I)
TIỀN TỆ PHẢI CHĂNG LÀ HÀNG HOÁ?
Trần Hải Hạc
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, từ “chủ nghĩa tư bản” hình như cũng biến mất theo, nhường chỗ cho từ “kinh tế thị trường” để trở thành phạm trù đầu lưỡi của mọi người khi bàn luận về kinh tế. Tại Việt Nam, điều này rõ ràng hơn ở nơi nào hết.
Sự thay thế từ ngữ thường hàm ý một sự phân biệt: chủ nghĩa tư bản xem như là một phạm trù tiêu cực, còn kinh tế thị trường là một phạm trù, nếu không có tính tích cực, thì cũng trung tính. Với hàm ý đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra khái niệm “kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa” (tương đương với khái niệm “kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường” của Đảng cộng sản Trung Quốc).
Song việc thay đổi từ ngữ không thể không có hậu quả trong nội dung lý luận: Chủ nghĩa tư bản phải chăng đồng nghĩa với khái niệm kinh tế thị trường hiểu theo nghĩa một nền kinh tế trong đó thị trường điều tiết tất cả? Hay đằng sau sự thay thế từ ngữ còn là sự thay thế lý luận về chủ nghĩa tư bản của Các Mác bởi lý luận về kinh tế thị trường của chủ nghĩa tự do kinh tế?
Luận điểm của bài viết dưới đây là. Những hạn chế của lý luận mácxít – đặc biệt trong phân tích về tiền tệ và về sức lao động – có nhiều điểm tương đồng với những giới hạn của kinh tế học tự do chủ nghĩa cổ điển và tân cổ điển. Cho nên một sự nhận thức phê phán lý luận về chủ nghĩa tư bản của Mác đồng thời cũng là sự phê phán nhận thức về kinh tế thị trường của kinh tế học thống trị. Đó còn là điều kiện để lý luận của Mác tiếp tục khẳng định tính chất của nó là “phê phán khoa kinh tế chính trị” – tiểu tựa của bộ Tư bản và của hầu hết các tác phẩm kinh tế khác của Mác.
Phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác đặt vấn đề hình như không khác kinh tế học tự do chủ nghĩa cổ điển hay tân cổ điển: Nền kinh tế thị trường biến tất cả thành hàng hoá. Mọi quan hệ xã hội đều trở nên quan hệ mua bán. Từ hạt thóc đến đất đai, và ngay cả sức lao động, không một vật nào không có thị trường và giá cả của nó.
Đồng thời, cũng theo cách đặt vấn đề của Mác, không phải bất cứ vật nào được mua bán và có giá cả đều là hàng hoá. Phạm trù hàng hoá chỉ những sản phẩm xuất phát từ một hoạt động có tính tư nhân, được xã hội công nhận là có ích thông qua thể thức thị trường, tức thông qua khả năng của sản phẩm được trao đổi với tiền tệ.
Từ định nghĩa này, vấn đề được đặt ra là: đất đai, sức lao động hay tiền tệ có phải là hàng hoá hay không?
Trong trường hợp thứ nhất, câu trả lời của Mác dứt khoát: đất đai không thuộc phạm trù hàng hoá; giá cả của đất đai không biểu hiện giá trị của một hàng hoá, mà là một biểu hiện của địa tô (địa tô tư bản hoá), tức là của quan hệ giữa các nhà tư bản và các nhà địa chủ phân chia giá trị thặng dư xã hội.
Ngược lại, những phân tích của Mác về tiền tệ và sức lao động khá nhập nhằng, thiếu nhất quán. Trong điều kiện đó, có thể có hai cách đọc Mác, hai cách trả lời khác nhau câu hỏi ở trên.
Tiền tệ là hàng hoá
1. Đó là cách đọc thông thường nhất, trở thành quan điểm chính thống trong các sách giáo khoa Mác-Lênin. Nói rằng tiền tệ là hàng hoá có nghĩa là tiền tệ, như mọi hàng hoá, có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Nếu vàng, chẳng hạn, là hàng hoá được chọn làm tiền tệ, đặc tính của hàng hoá tiền tệ này nằm ở giá trị sử dụng của nó, vừa có công dụng của một kim loại, vừa có công dụng của vật ngang giá chung. Còn giá trị của tiền tệ, giống như giá trị của mọi hàng hoá khác, do hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra vàng quyết định. Tuy nhiên, đã là vật ngang giá chung, vàng không thể biểu hiện giá trị trong bản thân nó. Do đó không thể có một phạm trù “giá cả tiền tệ”. Tiền tệ chỉ có thể biểu hiện giá trị của nó trong toàn bộ những hàng hoá khác hơn là vàng: đó là hình thái giá trị tương đối của tiền tệ.
Lập luận này dẫn đến hai hệ luận:
1. Quan hệ giữa hàng hoá và tiền tệ được quan niệm như là quan hệ giữa hai hàng hoá với nhau. Nói cách khác, tiền tệ chỉ là một hình thái bề mặt của hàng hoá, cho nên có thể để nó qua một bên mà chỉ phân tích quan hệ giữa hàng hoá với nhau. Từ đó nền kinh tế thị trường được quan niệm như một nền kinh tế trao đổi hiện vật, tiền tệ chỉ giữ vai trò – không thiết yếu – của một trung gian trong quan hệ trao đổi hàng hoá. Đó là cách tiếp cận tiền tệ của kinh tế học cổ điển và tân cổ điển thuần tuý, không phải là phân tích của Mác.
2. Nếu tiền tệ là hàng hoá, hoạt động tạo lập tiền tệ, như mọi hoạt động sản xuất hàng hoá, là hoạt động có tính tư nhân. Tiền tệ là sản phẩm của một qui trình tạo ra giá trị, tức một qui trình xã hội hoá lao động thông qua thị trường, bằng sự trao đổi tiền tệ với hàng hoá. Quan niệm này đi ngược lại phân tích của Mác.
Tiền tệ, cực đối lập với hàng hoá
2. Theo những phân tích của Mác về hình thái giá trị, tiền tệ không phải là hàng hoá, nhưng cũng không phải là phi hàng hoá, mà là cực đối lập với hàng hoá. Trong hình thái giá trị, quan hệ giữa hàng hoá và tiền tệ là quan hệ đối cực (Tư bản, Quyển I, tập 1, nxb Sự thật, trang 74).
Nếu vàng là hàng hoá được chọn làm tiền tệ thì cần phân biệt rõ vàng-hàng hoá và vàng-tiền tệ. Vàng là hàng hoá, nhưng khi trở thành tiền tệ thì vàng không còn là một hàng hoá, mà là cực đối lập với hàng hoá. Nói cách khác, khi cử vàng vào địa vị vật ngang giá chung của hàng hoá thì đồng thời cũng là loại vàng ra khỏi thế giới hàng hoá (Tư bản, I, 1, trang 100).
Phân tích này có hai hệ quả là vàng-tiền tệ từ bỏ giá trị sử dụng lẫn giá trị riêng của vàng-hàng hoá:
1. Với tính cách là vật ngang giá chung, vàng phải để qua một bên công dụng kim loại của nó thì mới có thể đóng vai đại biểu giá trị của giới hàng hoá.
2. Vàng, tất nhiên, phải có giá trị thì mới làm vật ngang giá chung. Nhưng đã là vật ngang giá chung, vàng biểu hiện giá trị của các hàng hoá, chớ bản thân không có giá trị phải biểu hiện. Tiền tệ đối lập với hàng hoá ở chỗ nó là sản phẩm có tính xã hội trực tiếp, không phải thông qua thị trường. Do đó, hoạt động tạo lập tiền tệ, khác với hoạt động sản xuất hàng hoá, không phải là một qui trình sản xuất giá trị. Vì vậy mà không có một phạm trù “giá trị tiền tệ”: cái được gọi là giá trị tiền tệ thật ra là giá trị mà tiền tệ đại biểu; cũng như cái được gọi là hình thái giá trị tương đối của tiền tệ thật ra chỉ sức mua của tiền tệ.
Ngược lại, có một phạm trù “giá cả tiền tệ”: đó là lãi suất, song đây không phải là hình thái biểu hiện giá trị của một hàng hoá, mà là hình thái biểu hiện quan hệ phân phối giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản tài chính và các nhà tư bản công thương nghiệp (Tư bản, III, 2, trang 28).
Quan điểm cho rằng tiền tệ là cực đối lập với hàng hoá dẫn đến hai nhận định mấu chốt:
1. Tiền tệ và hàng hoá là một thể thống nhất, vừa đối lập, vừa làm tiền đề cho nhau. Không thể quan niệm hàng hoá mà không có tiền tệ, đồng thời hàng hoá chỉ tồn tại trong sự đối lập với tiền tệ. Nền kinh tế thị trường phải được nhận thức từ quan hệ đối cực hàng hoá-tiền tệ chớ không phải từ những quan hệ trao đổi hàng hoá trực tiếp với nhau. Đó là điểm khác nhau chính giữa Mác và kinh tế học cổ điển và tân cổ điển.
2. Sự khác biệt cơ bản giữa tiền tệ và hàng hoá ở chỗ tiền tệ là sản phẩm của lao động xã hội trực tiếp, trong khi hàng hoá là sản phẩm của lao động xã hội gián tiếp: hàng hoá xuất phát từ một qui trình lao động có tính tư nhân, cho nên lợi ích xã hội của nó còn phải được thị trường thừa nhận qua sự trao đổi với tiền tệ. Quan hệ đối cực hàng hoá-tiền tệ biểu hiện tính chất hai mặt tư nhân-xã hội của nền kinh tế thị trường. Ưu điểm của học thuyết Mác là đã vạch ra được điều đó.
Tiền tệ, một hình thái thể chế hoá
3. Song cũng chính ở điểm mấu chốt nói trên những phân tích của bộ Tư Bản lại không hoàn chỉnh. Tiền tệ xuất phát, theo Mác, từ một qui trình lao động tư nhân được xã hội công nhận không thông qua thị trường: vậy thì thông qua thể thức cụ thể nào? Điều này học thuyết Mác không nói rõ.
Câu trả lời không thể tìm thấy trong những quan hệ giữa các tác nhân tư nhân trao đổi hàng hoá với nhau. Mặc dù đó là giải thích thông thường nhất, không thể cho rằng tiền tệ là kết quả phát triển tự phát của quan hệ trao đổi hàng hoá trực tiếp giữa nhau, bởi vì hàng hoá mang từ đầu hình thái tiền tệ. Mác đã phủ định kinh tế học cổ điển trên điểm này: quan hệ hàng hoá-tiền tệ không xuất phát từ những trao đổi hiện vật. Nói cách khác, không thể quan niệm hàng hoá tách rời khỏi tiền tệ; vấn đề nguồn gốc của tiền tệ và nguồn gốc của hàng hoá là một: đó là một thể thống nhất. Lập trường của Mác, vì vậy, là từ chối hai thái độ phiến diện:
– một mặt, thuyết tiền tệ-ký hiệu (bao gồm thuyết tiền tệ nhà nước) cho rằng tiền tệ chỉ là ký hiệu có tính qui ước xã hội, không quan hệ gì với giới hàng hoá;
– mặt khác, thuyết tiền tệ-hàng hoá (bao gồm thuyết tiền tệ kim loại) cho rằng tiền tệ chỉ là một hàng hoá không hơn, không kém, tức là không nhìn thấy sự khác nhau, đối lập giữa tiền tệ và hàng hoá.
Theo tác giả bộ Tư bản, chỉ có một hành vi xã hội mới đưa được một hàng hoá lên địa vị vật ngang giá chung và đồng thời loại nó khỏi thế giới hàng hoá. Nhưng Mác không xác định hành vi xã hội đó là gì.
Câu trả lời có thể tìm thấy trong mối tương quan mà Mác vạch ra giữa tiền tệ và nhà nước: như là mối tương quan giữa quyền lực của tiền tệ và quyền lực của nhà nước tập quyền; hoặc là mối tương quan giữa quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ xã hội công dân-nhà nước pháp quyền; hoặc một chỉ dẫn khác theo đó, một hàng hoá trở thành tiền tệ thông qua việc xác lập tiêu chuẩn giá cả và việc đúc tiền là hai công việc mà nhà nước độc quyền đảm nhận. Do đó, Mác xác định: đằng sau quyền lực của tiền đúc là quyền lực của nhà nước. (Phê phán khoa kinh tế chính trị, nxb Editions Sociales, các trang 181, 189-190, 193-194, 236).
Trên cơ sở đó, có thể đưa ra luận điểm như sau:
1. Hành vi xã hội lựa chọn một hàng hoá lên làm vật ngang giá chung là hành vi nhà nước với tư cách là đại biểu của xã hội. Tiền tệ là một hình thái thể chế hoá thuộc phạm vi chính quyền.
2. Ấn định giá chính thức của vàng (bao nhiêu vàng có thể qui đổi thành bao nhiêu tiền đúc) là thể thức cụ thể qua đó sản phẩm của một lao động tư nhân (vàng) được hợp thức hoá bởi một quyết định của nhà nước, và bằng cách đó được xã hội công nhận là vật ngang giá chung.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là thể thức tiền tệ hoá vàng không phải là một quan hệ trao đổi: người mang vàng thoi đến ngân hàng trung ương không làm hành vi bán vàng cho nhà nước, mà qui đổi vàng thành tiền đúc. Cần phân biệt rõ hành vi mua bán hàng hoá là một quan hệ giữa những tác nhân tư nhân với nhau, với hành vi đúc tiền, tức tạo lập tiền tệ, là một quan hệ giữa một tác nhân tư nhân và nhà nước. Trong trường hợp của tín dụng, việc tiền tệ hoá kỳ phiếu tư nhân được thực hiện qua thể thức tái chiết khấu của ngân hàng trung ương.
Quan hệ đối cực tư nhân-nhà nước
4. Cách đọc Mác trình bày trên đây, nếu có cơ sở, cho phép kết luận rằng thị trường không phải là tổng thể những quan hệ tư nhân mua bán hàng hoá. Những tác nhân tư nhân chỉ là một cực của nền kinh tế thị trường. Cực thứ hai là nhà nước, là cơ cấu thể chế hoá và quản lý tập trung tiền tệ. Nói cách khác, cơ cấu tản quyền tư nhân và cơ cấu tập quyền nhà nước là hai cực đối lập trong thể thống nhất cấu tạo thị trường.
Kết luận này cho phép nêu hai nhận định sau cùng:
1. Những thiếu sót trong lý luận về tiền tệ đã làm cho Mác không triển khai được quan hệ đối cực tư nhân-nhà nước cơ cấu hoá nền kinh tế thị trường. Điều đó có thể giải thích những thành kiến trong chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đó kinh tế thị trường là một nền kinh tế mang tính thuần tuý tư nhân, phi tập trung, vô chính phủ, tự điều tiết một cách mù quáng và vô thức bằng giá cả. Một cách nhìn về cơ bản không khác quan điểm của kinh tế học cổ điển và tân cổ điển. Đó là một cách nhìn phiến diện: bởi vì, nếu nhận thức rõ được mặt kia của thị trường (mặt đối lập với hàng hoá, tức là tiền tệ; và mặt đối lập với các tác nhân tư nhân, tức là nhà nước), thì nền kinh tế thị trường chứa đựng ngay trong khái niệm một phương thức xã hội hoá trực tiếp, có tính tập trung – cụ thể hoá trong chế độ tiền tệ –, và những khả năng điều tiết vĩ mô, có ý thức – là những chính sách tiền tệ.
2. Với sự tan rã của chủ nghĩa xã hội hiện thực, ở các nước hoặc đã chính thức từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, hoặc còn duy trì nó trong hình thức, chủ nghĩa tự do kinh tế – mà học thuyết tân cổ điển hiện là đại biểu chính – đang thống trị và hoành hành. Khái niệm “quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường” thường chỉ tải một nội dung giản đơn: phi nhà nước hoá nền kinh tế, tư nhân hoá các doanh nghiệp, thiết lập giá cả tự do, bãi bỏ những chế độ hạn chế tự do của các thị trường vốn, lao động, đất đai... Song đây mới chỉ là một mặt của nền kinh tế thị trường. Mặt còn lại, cần được hình thành song hành, bao gồm bộ máy nhà nước trung ương với hệ thống tiền tệ và tín dụng (trong đó ngân hàng trung ương giữ vai trò cấp cho vay cuối cùng). Vấn đề, như vậy, không phải là chuyển quyền quyết định kinh tế từ tay nhà nước sang tay tư nhân, mà là cấu tạo lại những quan hệ giữa các doanh nghiệp – phải là những đơn vị quyết định thực sự tự chủ –, và nhà nước trung ương – là cấp phải có quyền lực xác lập chế độ tiền tệ và có năng lực đề ra và áp dụng những chính sách tiền tệ. Nói cách khác, vấn đề, đối với các doanh nghiệp, là thay thế chế độ ràng buộc vi mô bởi quan hệ hành chính bằng một chế độ ràng buộc vĩ mô bởi quan hệ tiền tệ.
Thực tế của nhiều nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường còn cho thấy: Khi những ràng buộc cũ đã tan rã mà những ràng buộc mới chưa hình thành, thay vì vận động theo qui luật thị trường, nền kinh tế vận động theo luật rừng(1). Những nơi không có một nhà nước trung ương thực sự thì cũng không có thị trường đúng nghĩa của nó.
Trần Hải Hạc*
* Đồng tác giả với Pierre Salama của Introduction à l’Economie de Marx, nxb La Découverte, Paris 1992.
Chú thích:
(1) Trong những kinh nghiệm của Việt Nam, không thể không nhắc tới hệ thống hợp tác xã tín dụng hình thành bất chấp mọi quy tắc và kiểm tra của nhà nước trung ương; và sự sụp đổ dây chuyền của toàn bộ hệ thống đó vào năm 1991. Cũng có thể nhắc đến tình trạng các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu dành quyền quản lý ngoại tệ theo lợi ích riêng của mỗi đơn vị; chỉ từ tháng 10 năm 1994, nhà nước trung ương mới quyết tâm nắm lại quyền quản lý tập trung ngoại tệ thông qua hệ thống ngân hàng.
Kỳ sau: Mác và kinh tế thị trường (II):
Sức lao động phải chăng là hàng hoá?
Nguồn: Tiền tệ phải chăng là hàng hoá?, DienDan.Org