26.5.17

Phỏng vấn Robert Barro

PHỎNG VẤN ROBERT BARRO

Brian Snowdon, Howard VanePeter Wynarczyk
Robert Barro sinh tại New York năm 1944. Ông đỗ BSc (về vật lí) tại Cal Tech năm 1965 và PhD kinh tế tại đại học Harvard vào năm 1969. Ông đã giảng dạy trong nhiều đại học, đại học Brown (1968-72), Chicago (1973-75 và 1982-84) và Rochester (1975-1982). Ông từng là Visiting Fellow tại Hoover Institution của đại học Standford (1977-78). Từ 1988, ông là giáo sư kinh tế tại đại học Harvard.
Giáo sư Barro được thừa nhận là một nhà kinh tế vĩ mô Mĩ hàng đầu và là một trong những kiến trúc sư của kinh tế học cổ điển mới. Trong số những quyển sách nổi tiếng nhất của ông có thể kể: Money, Employment and Inflation (Cambridge University Press, 1976), viết chung với Herschel Grossman. Money, Expectations and Business Cycle (Academic Press, 1981), Modern Business Cycle (Harvard University Press, 1989), chủ biên Robert Barro và Macroeconomics (Wiley, 4th edition, 1993).


Những bài viết của ông được biết đến nhiều nhất là: “A General Disequilibrium Model of Income and Employment”, American Economic Review (1971), viết chung với Herschel Grossman, “Are Government Bonds Net Weath?”, Journal of Political Economy (1974), American Economic Review (1977), “Unanticipated Money Growth and Unemployment in the United States”, American Economic Review (1977), “A Positive Theory of Monetary Policy in a Natural Rate Model”, Journal of Political Economy (1983), viết chung với David Gordon, “Recent Developments in the Theory of Rules versus Discretion”, Economic Journal  (1986) và “The Ricardian Approach to Budgets Deficits”, Journal  of Economic Perspectives (1989).
Cuộc phỏng vấn giáo sư Barro diễn ra trong văn phòng ông tại đại học Harvard ngày 16 tháng hai 1993.
Giáo sư bắt đầu học vật lí tại Cal Tech. Điều gì đã khiến giáo sư quyết định tiếp tục học kinh tế tại Harvard?
Tôi nghĩ là tại tôi thích việc kết hợp phân tích định lượng với khoa học xã hội ứng dụng. Tôi bắt đầu bằng việc thu thập những hiểu biết trong lĩnh vực định lượng và do đó việc chuyển đổi là dễ dàng, có thể là quá dễ dàng, vì thời bấy giờ, nếu bạn làm chủ một tí kĩ thuật thì bạn có thể làm hơn những gì người ta chờ đợi ở bạn trong chương chình cao học kinh tế ở Harvard.
Theo giáo sư, những bài viết/sách nào đã có tác động chủ yếu đến sự phát triển của kinh tế học vĩ mô từ 25 năm nay?
Để có thể trả lời tốt câu hỏi này, phải tham khảo bảng tra thư mục trong khoa học xã hội và xem những trích dẫn nào xuất hiện thường xuyên nhất. Bảng tra này tương ứng với ý kiến của giới trong nghề, mà gia quyền là số xuất bản. Thật vậy, tôi thấy dường như thiên hạ nhắc đến những công trình, dù cho không thích chúng, khi họ nghĩ rằng những công trình này có một tầm quan trọng nhất định.
Đâu là những ảnh hưởng chính trên các công trình của giáo sư?
H. Grossman (1939-2004)
Neil Wallace (1939-)
Tôi nghĩ đến một công trình, vào đầu thập niên 1970, làm chung với Herschel Grossman [AER, 1971][1] về kinh tế học keynesian. Tôi có cảm tưởng là chúng tôi đã đạt vài tiến bộ, nhưng thật ra đó là một ngõ cụt nếu tính đến khả năng giải thích thực tế của lí thuyết chúng tôi. Sau đó, trong vòng một hay hai năm, tôi đã tự hỏi nên đi hướng nào. Tôi biết chắc là khung phân tích có được lúc đó là sai, nhưng lại không có gì để thay thế nó. Lúc bấy giờ tôi bị công trình của Bob Lucas về kinh tế học những dự kiến duy lí ảnh hưởng nhiều. Công trình này đã tác động sâu sắc đến tôi và đến vừa đúng lúc tôi cảm thấy hẫng hụt đối với loại công trình mà tôi tiến hành trong giới. Những bài của Lucas [1972, 1973 và 1976][2] cũng có nhiều ảnh hưởng. Những bài này thường được dẫn nhiều. Ít lâu sau, công trình của Sargent và Wallace [1975][3] cũng ảnh hưởng đến tôi nhiều.
Lúc đầu giáo sư có xem mình là một nhà kinh tế keynesian không?
Don Patinkin (1922-1995)
Robert Clower (1926-2011)
Tôi đã không nghĩ mình là một nhà kinh tế keynesian trong nghĩa là tôi không nghĩ rằng những can thiệp tích cực của chính phủ vào chính sách kinh tế là rất có ích. Nhưng có lẽ đó là “thú tiêu khiển” duy nhất của kinh tế học vĩ mô và tôi muốn hiểu cách hoạt động của nó. Thời gian học cao học, hai bài viết đã có một ảnh hưởng đặc biệt: đó là bài của Robert Clower [1965][4], và chương tương ứng trong sách của Patinkin [1965][5]. Tôi có cảm giác rằng đó là hai phân tích bổ sung cho nhau về cách mà những dư thừa của cung lan truyền từ thị trường này sang thị trường khác. Tôi nhớ là đã thử tổng hợp hai đóng góp này. Và đó là việc chúng tôi, Herschel và tôi, đã làm, và tôi nghĩ làm một cách thành công. Điều này đã giúp tôi hiểu khuôn khổ keynesian về tính cứng nhắc của giá và lương danh nghĩa, và điều gì ấn định sản xuất và việc làm. Tôi nghĩ là chúng tôi đã giải quyết điểm này rồi. Nhưng kể từ đó, dường như các nhà keynesian đã thoái hoá: mức hiểu biết của kinh tế học keynesian hôm nay là yếu hơn cách đây 20 năm. Thiên hạ đã quên hay không biết đến công trình này, và trong thực tế phạm những sai lầm giống với những sai lầm mà chúng tôi nghĩ là đã sửa chữa lúc đó rồi.
Theo giáo sư đâu là điểm yếu chính của mô hình keynesian của thập niên 1970?
Tôi nghĩ chủ yếu là việc mô hình đó không có khả năng giải thích việc ấn định giá, cũng như không có khả năng tính đến cung. Đó là một mô hình hoàn toàn hướng về cầu. Do dó, năng suất, tiến bộ công nghệ và những kích thích để lao động ngay từ đầu đã bị loại khỏi khung phân tích. Cú sốc dầu lửa làm hiện rõ sự cần thiết phải tính đến những yếu tố này.
Trong chừng mực nào việc đặt những mô hình kinh tế vĩ mô trên cơ sở lí thuyết tân cổ điển những lựa chọn là một điều quan trọng?
Đối chọn của mô hình keynesian dường như gồm có một khung điều chỉnh của thị trường, và tất cả những gì xoay quanh cung và cầu đều có cơ sở là lí thuyết thông thường về giá cả. Tôi không chắc rằng điều thiết yếu là phải có một lí thuyết toán học rất kĩ thuật. Nhưng điều quan trọng là phải có một mô hình nhất quán với việc tối đa hoá lợi ích và lợi nhuận, việc tối đa hoá này suy ra từ những tiên đề về hành vi các tác nhân của mô hình. Điều này không đòi hỏi một kĩ kĩ thuật tinh vi cho lắm.
Giáo sư được xem là một trong những nhà kinh tế vĩ mô cổ điển mới hàng đầu. Nhãn hiệu cổ điển mới có làm vừa lòng giáo sư không?
Tôi nghĩ là một điều tốt nếu điều này hàm ý là phải mang đến những cơ sở vi mô cho kinh tế học vĩ mô, và suy nghĩ bằng sự điều chỉnh các thị trường.
Giáo sư có xem kinh tế học cổ điển mới là một trường phái tư tưởng khác với học thuyết trọng tiền không?
Milton Friedman (1912-2006)
Thomas Sargent (1943-)
Tôi chưa bao giờ hiểu thật sự thuật ngữ “học thuyết trọng tiền” cả. Thuật ngữ này được dùng một cách mâu thuẫn. Đối với Friedman đây là qui chiếu về lí thuyết định lượng về tiền tệ, như một nguyên lí tổ chức, về lí thuyết ấn định giá cả và lạm phát, và như thế là tốt. Có lẽ điều này kéo theo những hiệu ứng thực tế quan trọng của những nhiễu loạn tiền tệ trên nền kinh tế trong ngắn hạn. Nhưng khuôn khổ được Milton đặt ra năm 1970 thật ra là keynesian hơn nó không khác mấy mô hình IS-LM truyền thống. Trong một số trường hợp khác, người ta qui về học thuyết trọng tiền để ngầm hiểu là không muốn Nhà nước can thiệp quá nhiều vào nền kinh tế, là việc này chỉ làm rối thêm. Nhưng khung phân tích đưa đến những kết luận này không được đặt rõ ràng. 
Theo giáo sư đâu là những khẳng định trung tâm của kinh tế học cổ điển mới?
Robert Lucas (1937-)
Thứ nhất, những kết quả tích cực về điều gì được xem là quan trọng cho những biến động kinh tế và, thứ hai, những hệ quả quan trọng cho chính sách kinh tế sự can thiệp của Nhà nước là có ích và thích đáng không? Một số những kết quả của Lucas về những yếu tố quyết định những chu kì kinh tế là không mấy thuyết phục. Lúc đầu, người ta quan tâm nhiều đến những nhiễu loạn tiền tệ, ngay cả trong một bối cảnh cân bằng. Thật ra đây là điều làm cho mọi chuyện là khó nhọc. Rất khó có được những hiệu ứng nhất quán của những cú sốc tiền tệ vì hình như chúng gần như là trung lập. Lucas chấp nhận ý rằng tiền tệ là quan trọng trong thực tế và ông muốn thiết lập khung lí thuyết theo đúng ý đó. Đó là một thành tựu trí tuệ lớn. Nhưng trên vấn đề này, tôi đã biến chuyển và bây giờ tôi nghĩ rằng những cú sốc tiền tệ, ở cương vị là những lực hướng dẫn các chu kì, là không mấy quan trọng trên phương diện thực nghiệm. Do đó tôi thấy là kiểu rèn luyện trí tuệ này là không đúng chỗ. Có ích gì khi chấp nhận thách thức to lớn để giải thích vì sao tiền tệ là quan trọng đến thế và làm cho nó tương thích với một khung phân tích cân bằng khi nó tỏ ra là không mấy quan trọng?
Trong cuốn giáo trình của giáo sư về kinh tế học vĩ mô [1993][6], giáo sư bảo vệ cách tiếp cận bằng điều chỉnh của thị trường, giải thích rằng nó tránh những thiếu nhất quán nội tại và cho phép hiểu tốt hơn hiện thực. Ảnh hưởng của kinh tế học vĩ mô cổ điển mới có tăng hơn trong những giáo trình khác không?
Tôi nghĩ là có. Mẻ giáo trình cuối có nhiều yếu tố về những nhà cổ điển mới và những chu kì thực tế hơn bất cứ mẻ nào trước đấy. Nhưng khi người ta làm một cuốn sách về kinh tế học vĩ mô, tôi nghĩ là chỉ cần một cách tiếp cận cơ bản duy nhất. Dành một tầm quan trọng như nhau cho tất cả những lí thuyết là không có kết quả. Sinh viên sẽ bị rối: họ thích đọc một câu chuyện duy nhất và nhất quán. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra với sách của các bạn, nhưng đó là điều xưa nay tôi vẫn nghĩ [Cười]. Các nhà xuất bản luôn đòi hỏi thêm vào nhiều mánh keynesian chính thống kiểu IS-LM, v.v.. Nhưng mục đích chính của một sách kinh tế học vĩ mô là đánh giá những biến cố và chính sách, và tôi không nghĩ rằng làm được điều này một cách thỏa đáng bằng cách trình bày nhiều cách tiếp cận.
Giáo sư có nghĩ là tốt hơn nên trình bày những cách tiếp cận khác nhau cho sinh viên, ngay cả ở mức vỡ lòng, để họ thấy rằng có nhiều cuộc tranh luận trong bộ môn không?
Có lẽ. Bạn có thể làm một khi đã nghiên cứu thật sâu một mô hình và sau đấy trình bày một phiên bản song song. Nếu không sinh viên sẽ lẩn tránh vấn đề ít ra là các sinh viên Mĩ. Tôi có thể nhầm lẫn. Nhưng tôi không biết cách làm thỏa đáng nào khác.
Alan Blinder [1987][7] khẳng định là sức nặng của những sự kiện chống lại giả thiết những dự kiến duy lí là áp đảo. Giáo sư phản ứng như thế nào trước kiểu phê phán này?
Alan Blinder (1945-)
Đúng là chúng ta không có những lí thuyết tốt về cách mà thiên hạ khám phá thế giới. Nhưng không có lí thuyết thỏa đáng nào khác về những dự kiến. Trong trò chơi này chỉ có một người cạnh tranh. Điều này khiến cho nó kì lạ đến thế. Thật ra, những dự kiến duy lí đã chinh phục lí thuyết kinh tế vĩ mô. Hầu hết những nhà keynesian sử dụng khái niệm này. Tất nhiên, quả đúng là bạn luôn có thể có được những kết quả keynesian ngay cả khi vận dụng những dự kiến duy lí. Người ta thường nghĩ là những dự kiến trong kinh tế học vĩ mô đồng nghĩa với kinh tế học cổ điển mới. Điều này không đúng vì bạn có thể đưa những dự kiến duy lí vào những mô hình kiểu keynesian. Tuy nhiên, điều này có vẻ không nhất quán, vì khái niệm dự kiến duy lí kéo theo việc các tác nhân phát biểu một cách duy lí những cung và cầu của họ. Do đó sẽ là ngược đời khi có một phương thức lấy quyết định có hiệu quả một bên và mặt khác cho rằng giá cả là cứng nhắc.
Những lí thuyết về chu kì thực tế xử lí tiền tệ như thế nào?
Tiền tệ có một vai trò thứ yếu trong những mô hình này. Nhưng mặt khác, những mô hình này buộc phải nhất quán với một số đều đặn thực nghiệm, trong số đó có tính thuận chu kì của những đại lượng tiền tệ. Để làm cho các mô hình này nhất quán với những sự kiện đó, dù cho tiền tệ không có một vai trò lớn, thì phải có một lí thuyết nội sinh về tiền tệ, có tính đến hệ thống ngân hàng hay phương thức hành động của những giới chức tiền tệ. Điều này cho phép sinh ra một dạng mà tiền tệ và sản xuất cùng tiến hoá và có lẽ trong đó tiền tệ đi trước chu kì. Rõ ràng là người ta đã chấp nhận ý này trong một vài hoàn cảnh. Ví dụ, gần đến lễ Giáng sinh, có một cầu tiền lớn và những giới chức tiền tệ cung cấp nó, và như thế thích nghi với nền kinh tế. Tính nội sinh của tiền tệ trong bối cảnh này được chấp nhận hoàn toàn. Người ta chấp nhận ý là nếu những giới chức tiền tệ ấn định những lãi suất thì sẽ có một tiến hoá nội sinh của những đại lượng tiền tệ, để phản ứng lại với sản xuất và những biến khác chi phối cầu tiền.
Điều được gọi là kinh nghiệm trọng tiền, tại Vương quốc Anh cũng như ở Hoa Kì, trong thời gian 1970-82, là một nguồn tranh luận vô tận. Giáo sư kiến giải như thế nào những gì đã xảy ra trong giai đoạn đó?
Tôi chưa bao giờ dám chắc, đặc biệt là trong trường hợp của Hoa Kì, là bạn có thể thực sự xem giai đoạn này như một giai đoạn trong đó “đích nhắm” là những đại lượng tiền tệ. Tôi đã làm một nghiên cứu dài về tính chất của cung tiền, những lãi suất và mức giá tại Hoa Kì, và đã không phát hiện, trong công trình thống kê này, một điều gì khác lạ một cách sâu sắc trong giai đoạn này. Tôi không nghiên cứu trường hợp của Vương quốc Anh. 
Giáo sư nghĩ gì về toan tính của những nhà keynesian mới nhằm sửa chữa việc kinh tế học keynesian thiếu những cơ sở kinh tế vi mô?
George Akerlof (1940-)
Gregory Mankiw (1958-)
Thật tình tôi nghĩ là trên điểm này họ đã có một bước tiến quan trọng. Một kết quả lí thú liên quan đến công trình về những chi phí thay đổi thực đơn của Akerlof và Mankiw. Nhưng một trong những phê phán là dường như chi phí trực tiếp của thay đổi giá là không mấy quan trọng khiến cho khó hiểu được là tại sao lại phát triển một lí thuyết như thế. Kết luận là chi phí riêng lẻ thay thế giá là yếu, nhưng những hệ quả kinh tế vĩ mô có thể là quan trọng. Nhưng điều này không thực sự đúng. Thật vậy, nếu bạn không còn ở thế toàn dụng lao động thì những chi phí tư nhân không còn là không đáng kể. Một vấn đề song song cũng được đặt ra trong những mô hình của các nhà cổ điển mới, liên quan đến tầm quan trọng của tiền tệ. Tất cả dựa trên những thiếu sót thông tin, như việc không biết khối lượng tiền tệ. Thế mà, trong những nước như Hoa Kì, loại thông tin này được phổ biến rộng rãi. Tương tự như thế, chi phí thay đổi giá cả trong lí thuyết keynesian mới hình như không phải là một lối giải thích quan trọng lắm. Tôi nghĩ là cả hai phê phán đều có giá trị và cả hai lí thuyết đều bỏ qua một điều gì rất quan trọng. Còn có những trào lưu phân tích keynesian khác, như lí thuyết về lương hiệu quả, nhưng tôi nghĩ là không thể rút tỉa được gì nhiều lắm từ đấy đó hoàn toàn không phải là một lí thuyết tiền tệ và không liên quan đến vấn đề tầm quan trọng của tiền tệ trong những chu kì kinh tế.
Blanchard và Fischer trong Lectures on Macroeconomics [1989][8] gợi ý rằng bề ngoài hình như kinh tế học vĩ mô là một bộ môn được chia thành nhiều trường phái khác nhau, nhưng có điều đó chỉ là do những xảo thuật về giao tiếp công cộng và sự khuyến khích mạnh mẽ trong giới đại học để làm cho các sản phẩm khác biệt nhau. Giáo sư có đồng tình với nhận định này không?
Stanley Fischer (1943-)
Tôi chấp nhận là người ta thích khác biệt hoá sản phẩm của họ để làm cho thiên hạ tin rằng những gì họ làm là quan trọng và duy nhất, nhưng điều này không ngăn cản là các ý kiến thường rất khác nhau. Có những khác biệt thật sự giữa các trường phái này, đặc biệt về những khuyến nghị chính sách kinh tế. Một số chủ trương chủ nghĩa tích cực dưới nhiều dạng khác nhau, tiền tệ hay tài chính, hay ngay cả việc can thiệp trực tiếp. Ý kiến cũng khác nhau về cách đúng đắn để xem xét nền kinh tế hay về điều gì là một đề tài nghiên cứu lí thú.
Đâu là vai trò của chính sách tài khoá?
Tôi nghĩ là quan niệm ricardian đã gặt hái thành công lớn [Cười]. Tôi đã từ bỏ rất nhiều những ý nghĩ lúc trước, trừ ý này. Tôi nghĩ về cơ bản đó là một ý đúng. Mặc dù một sự chú ý lớn được dành cho những thâm hụt ngân sách và nợ công cộng, những chứng cớ thực nghiệm cho thấy là chúng không có một vai trò quan trọng trong việc giải thích những lãi suất, cán cân hiện hành và tiến hoá của đầu tư.
Giáo sư có nghĩ rằng những thâm hụt ngân sách tài chính quan trọng là một điều xấu cho nước Mĩ không?
Tôi nghĩ vấn đề của thập niên vừa qua là tỉ trọng của Nhà nước. Reagan muốn một nhà nước liên bang nhỏ, và để đạt mục tiêu đó, ông ta muốn giảm thuế và tính sử dụng việc này như một đòn bẫy để giảm chi tiêu. Tôi nghĩ là ông ta có lí. Xung đột thực tế xảy ra giữa những ai muốn tăng thuế và có một Nhà nước quan trọng hơn và những ai muốn giảm thuế nhằm giảm chi tiêu công cộng. Đó là thực chất của cuộc tranh luận chứ không phải đâu là tầm quan trọng của thâm hụt.
Phải chăng đó là một lập luận chính trị hơn là một lập luận kinh tế?
Có lẽ là người ta có thể áp dụng những công cụ kinh tế để xác định là chi tiêu công cộng là có ích hay không, nhưng tôi thừa nhận rằng một phần lập luận là một lập luận chính trị. Bush trong thực tế đã từ bỏ chương trình này bằng cách tăng thuế, và như thế là chấp nhận có một Nhà nước quan trọng hơn. Và bây giờ Clinton háo hức tiếp tục ý có một Nhà nước quan trọng hơn. Khi ông ta nói là phải có can đảm và tăng giá vì ông ta quan tâm đến nợ và thâm hụt, phải hiểu là ông ta thích có một chính phủ giàu hơn vì có thể nghĩ rằng đó là điều hữu ích.
Theo giáo sư đâu là những sự kiện cách điệu hoá quan trọng nhất của chu kì kinh tế mà mọi lí thuyết kinh tế vĩ mô tốt đều phải giải thích?
Đầu tư là một thành phần mấu chốt trong chu kì kinh tế. Chuyển động chủ yếu của sản xuất trong chu kì kinh tế liên quan đến thành phần mà ta gọi là đầu tư, hay nói chung hơn, những sản phẩm lâu bền nếu tôi kể cả những sản phẩm tiêu dùng lâu bền và những tồn kho. Vì bạn quan sát là tiêu dùng của những sản phẩm không lâu bền và dịch vụ ít tiến hoá hơn. Đây là những sự kiện cần phải giải thích. Năng suất và lương thực tế là thuận chu kì hơn trong lúc nhiều lí thuyết dẫn đến những kết luận ngược lại. Trong rất nhiều nước, mức giá của thời kì hậu chiến thật ra là ngược chu kì, trong khi nhìn chung người ta nghĩ một cách sai lầm rằng nó là thuận chu kì và cố gắng giải thích vì sao. Do đó, trong một số trường hợp, có một sự hiểu lầm ngay về bản chất của những sự kiện.
Một số những phê phán các nhà cổ điển mới liên quan đến việc thiếu những chứng cứ về sự tồn tại của những hiệu ứng liên thời gian của lao động, vốn rất quan trọng. Giáo sư nghĩ gì về kiểu phê phán này?
Khó có thể có những chứng cứ trực tiếp về điểm này, cũng như khó mà biết được tính nhạy cảm của đầu tư với chi phí của đồng tiền đó thuộc về cùng một loại vấn đề. Đầu tư cũng rất biến động trong suốt chu kì, cũng như lao động vậy. Nếu bạn theo một quan điểm cân bằng đối với việc làm thì bạn phải giải thích điều gì khiến việc làm biến động như thế. Nhưng những chứng cứ trực tiếp của việc thay thế liên thời gian của lao động là khó mà tách bạch. Điều này cũng đúng đối với tiêu dùng. Khó mà nắm bắt những hiệu ứng liên thời gian, dù cho các tác nhân có xu hướng chấp nhận những biến động này. Thật ra, việc xác định một cách thực nghiệm những hàm cung và hàm cầu là một điều khó và đặt ra vấn đề đồng nhất hoá.
Giáo sư có nghĩ là còn luôn phải nói đếnchu kì kinh tếsau khi có những đóng góp của các nhà lí thuyết về chu kì kinh doanh thực tế không?
Những mô hình kinh tế thực tế tương thích với những chuyển động tạm thời của sản xuất và việc làm. Hiên nay có thể có một lí thuyết chỉ bị chi phối duy nhất bởi những nhiễu loạn công nghệ, trong đó sản xuất dường như di động ngẫu nhiên so với xu thế tiến hoá của nó. Do đó chỉ có những chuyển động thường xuyên. Nhưng kiểu lí thuyết này không phải là không tránh được việc sản xuất những loại kết quả như thế.
Trong thập niên 1980, mặc dù có tất cả những phê phán của các nhà cổ điển mới, kinh tế học keynesian hình như đã được quan tâm trở lại. Giáo sư có nhận thấy những phát triển mới đây là như thế không?
Có lẽ điều này đúng về mặt sự kiện. Công trình của các nhà tân cổ điển có tính đổi mới và kích thích vào giữa thập niên 1970 và mọi người đều muốn học nó để dạy lại cho sinh viên. Và không thể tránh được rằng tiếp sau đó là một thời kì ít có tiến bộ hơn, mặc dù có những công trình về chu kì kinh doanh thực tế và việc đổi mới những lí thuyết tăng trưởng. Tôi nghĩ là có một xu hướng nhất định muốn rời xa những gì không còn là mới, là thời trang nữa. Tôi không tin rằng sự trở về của những nhà keynesian là do có những chứng cứ thực nghiệm mới hay những chỉ báo là lí thuyết vận hành tốt hơn. Tổng thống Clinton và chính quyền của ông có lẽ là có thiện cảm hơn đối với những lí thuyết can thiệp. Chúng ta sẽ tiêu 15 tỉ đô la rồi mọi việc sẽ tốt! [Cười]
Tại sao những lí thuyết về chu kì kinh doanh thực tế có vẻ xem thất nghiệp là một vấn đề thứ yếu?
Để giải thích thất nghiệp ở thế cân bằng, cần phải đưa vào những khái niệm tìm việc làm và thông tin, hay chi phí dịch chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác; như ý về dịch chuyển khu vực được David Lilien [1982][9] phát triển. Tôi nghĩ công trình là thú vị, nhưng tôi chưa bao giờ biết chắc chắn cách xử lí tốt nhất thất nghiệp ở thế cân bằng.
Giáo sư nghĩ sao về Keynes, nhà kinh tế? Giáo sư có nghĩ rằng ông ấy xứng đáng được giải Nobel kinh tế không?

John M. Keynes (1883-1946)
Tất nhiên rồi. Keynes là một nhà kinh tế xuất sắc. Ông ấy đã đề nghị một lí thuyết khéo léo trong một bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Dù cho cuối cùng tôi nghĩ rằng lí thuyết của ông là không tốt thì điều này chứng minh được gì? Có rất nhiều lí thuyết không đúng. Trước đó, ông cũng có một công trình rất lí thú về tiền tệ, không liên quan gì đến điều ngày nay ta gọi là học thuyết Keynes ví dụ quyển Tract on Monetary Reform.
Kinh văn về chu kì chính trị-kinh tế và tính tiền hậu bất nhất trong thời gian có biện hộ cho những quy tắc tiền tệ và tài chính không hay chúng ta phải tin tưởng các nhà chính trị và để họ tùy nghi sử dụng những công cụ chính sách kinh tế?
Alberto Alesina (1957-)
Tôi nghĩ đây là một hướng nghiên cứu nhiều hứa hẹn. Một đồng nghiệp của tôi, Alberto Alesina, đã có một trong những công trình tốt nhất trên lĩnh vực này. Ông ấy tìm ra vài kết quả thú vị về sự tương tác giữa những biến cố chính trị, những chính sách kinh tế vĩ mô và những biến động kinh tế. Từ kinh văn về tính tiền hậu bất nhất trong thời gian nổi lên đôi điều có ích cho cách nên khuôn chính sách kinh tế. Kinh văn này chứng minh tính hữu ích của một chính sách tiền tệ chỉ dành duy nhất để duy trì sự ổn định của giá cả. Cùng một cách nhìn dưới góc độ hiến pháp được áp dụng cho chính sách tài khoá. Ý cho rằng các chính phủ được khuyến khích để nuốt lời hứa của họ hay sau đó theo đuổi một chính sách không được chờ đợi là rất phổ biến. Ví dụ, Clinton muốn nhắm vào những công ti bào chế thuốc vì giá thuốc quá cao, nhưng giá cao là để tài trợ cho nghiên cứu cho phép tìm ra những sản phẩm mới. Đó cũng chính là điều đối với chính sách tiền tệ hay những khoản nợ khi Nhà nước định làm giảm nợ bằng lạm phát. Tất cả những vấn đề này là giống nhau. Một ví dụ khác: đã có một cơn bão đổ bộ vào Miami và chính phủ đã giúp dân ở đấy vượt qua thiên tai. Làm như thế chính phủ khuyến khích dân sống không đúng chỗ, nơi mà họ bị nhiều nguy hiểm!
Giáo sư có nghĩ rằng có một ngân hàng trung ương độc lập là một điều thiết yếu cho tính ổn định của giá cả?
Tính độc lập là một vấn đề mức độ. Một số tác giả đã xem xét vấn đề một cách thực nghiệm và dường như là có nhiều độc lập hơn cho phép giảm lạm phát mà không làm hại đến tăng trưởng. Alain Cukierman và một số đồng nghiệp của ông đã viết một cuốn sách trong đó họ nghiên cứu nhiều nước đang phát triển khác nhau. Họ đã nhận xét là những nước có một ngân hàng trung ương độc lập không chỉ có ít lạm phát mà còn có tăng trưởng mạnh. Sẽ là quá đáng để cho rằng đây là một điều thiết yếu vì không thể chối cãi là có rất nhiều cách để có được sự ổn định giá cả.
Giáo sư có nghĩ rằng những chính sách tiền tệ và tài khoá tùy nghi không tránh khỏi sinh ra lạm phát không?
Rõ ràng là ta đang đi trên chiều hướng này. Tuy nhiên các chính phủ không phải là hoàn toàn không cưỡng lại được sự quyến rũ này. Không phải lúc nào họ cũng sa ngã vì những lí do mà tôi không hoàn toàn hiểu hết.
Kinh tế học vĩ mô của những nhà cổ điển mới có làm đảo lộn kinh tế học vĩ mô không?
Vâng, tôi nghĩ là điều này đã thay đổi cách mà những người sử dụng khuôn khổ phân tích này nhìn những yếu tố kinh tế vĩ mô quyết định các chính sách. Thứ nhất, đó là một cách tích cực để giải thích điều gì xảy ra khi nền kinh tế chịu phải một nhiễu loạn. Thứ hai, đó là một cách đánh giá hoàn toàn khác những chính sách kinh tế. Hiện có một xu hướng xem xét những vấn đề này dưới góc độ hiến pháp.
Kinh tế học vĩ mô của các nhà cổ điển mới có vững chắc hơn học thuyết trọng tiền không?
Tôi không biết là kinh tế học vĩ mô này có trở thành khung phân tích thống trị để mọi người qui phục không, nhưng điều rõ ràng là nó có những khía cạnh thường xuyên liên quan đến cách tư duy kinh tế vĩ mô, như các dự kiến duy lí. Quan niệm ridardian về nợ công cộng là quan trọng. Dù cho thiên hạ nghĩ rằng đó không phải là một quan niệm đúng thì họ vẫn buộc phải biết đến nó. Tương tác giữa cung và cầu trong một khuôn khổ cân bằng vĩ mô là trung tâm và thường dẫn đến những khái niệm về các lực của thị trường và sự điều chỉnh của thị trường.
Allan Meltzer (1928-2017)
Karl Brunner (1916-1989)
Giáo sư có chia sẻ quan điểm của Stanley Fischer cho rằng những quan điểm của Milton Friedman, Karl Brunner và Alan Meltzer là gần với quan điểm của các nhà keynesian hơn là với trường phái chu kì kinh doanh thực tế không?
Vâng, có lẽ đúng như thế [Cười]. Tôi thích Milton hơn khi ông ấy làm về lí thuyết giá cả ứng dụng và nối nó với những vấn đề xã hội, hơn nữa Monetary History là một tác phẩm lớn.
Giáo sư có nghĩ rằng 20 năm nghiên cứu vừa qua về kinh tế học vĩ mô gợi ý là các nhà kinh tế nên theo một cách tiếp cận chiết trung trong việc xây dựng mô hình của họ không?

Tôi không rõ là cách tiếp cận chiết trung đó sẽ như thế nào, cũng không biết làm cách nào để theo cách tiếp cận đó. Bằng cách nào bạn có thể trộn chung những khía cạnh tốt nhất của những mô hình kinh tế vĩ mô khác nhau? Kinh văn về chu kì kinh doanh thực tế đã có công nối liền lí thuyết với những đều đặn thực nghiệm một cách có tổ chức. Nó coi những tiến hoá thực nghiệm như một kiểm định của lí thuyết. Các nhà keynesian không theo cách tiếp cận này, ít ra là chưa theo. Họ không quan tâm đến việc buộc lí thuyết phải qua những cuộc kiểm định thực nghiệm. Mô hình IS-LM kéo theo điều gì liên quan đến tiến hoá chu kì của đầu tư, năng suất, lương thực tế và những lãi suất và bằng cách nào những tiến hoá này có theo sát những dữ kiện không? Thường thì các nhà keynesian không theo cách tiếp cận này.
Giáo sư có thấy dấu hiệu của sự đồng thuận trong kinh tế học vĩ mô không, và nếu có, sẽ là dưới dạng nào?
Thật ra tôi không thấy dấu hiệu nào cả. Olivier Blanchard muốn rằng tôi nói có. Ông ta cho rằng không có đồng thuận là một điều không hay. Nhưng theo tôi thì không có đồng thuận.
Nếu giáo sư phải cố vấn cho tổng thống Clinton, đâu là ý kiến của giáo sư về chính sách kinh tế vĩ mô cho thập niên 1990?
Alan Greenspan (1926-)
Olivier Blanchard (1948-)
Ý nghĩ cho rằng tôi có thể cố vấn cho tổng thống Clinton quả là buồn cười. Nhưng dù sao đi nữa thì ổn định giá cả là điều ưu tiên. Thiên hạ đã trở nên quá lạc quan và coi như làm giảm lạm phát là điều đã đạt được. Tôi cho rằng điều này còn quá mong manh. May thay ta có thể tin tưởng Alan Greenspan, và cũng may cho tổng thống Clinton rằng ông này ở Quĩ dự trữ liên bang. Bạn không thể có những thâm hụt ngân sách thường xuyên và một tỉ số nợ/GDP luôn tăng. Tới một lúc nào đó, thì thuế phải tài trợ cho chi tiêu, song đó không phải là một thảm kịch. Tôi rất muốn là người ta giảm bớt những chương trình chi tiêu thường là vô ích và làm nhiễu loạn nền kinh tế. Reagan đi đúng hướng nhưng lại đi không được xa, Trên bình diện kinh tế vĩ mô, tôi thích là người ta có một cái nhìn dài hạn. Điều thật sự quan trọng là tỉ suất tăng trưởng và bành trướng của năng suất trong dài hạn và chính phủ phải được thúc đẩy để hành động trong chiều hướng này. Ngoài việc ổn định giá cả, cũng còn phải đối xử thuận lợi hơn cho những thu nhập của vốn. Theo tôi dường như một số đầu tư cho cơ sở hạ tầng là có ích, song không phải là những chương trình xã hội to lớn mà Clinton nghĩ đến.
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: A Modern Guide to Macroeconomics. An Introduction to Competing Schools of Thought của Brian Snowdon, Howard Vane và Peter Wynarczyk, Edward Elgar Publishing Limited, Hants, UK.




[1] “A General Disequilibrium Model of Income and Employment”, American Economic Review, March 1971.

[2] Expectations and the Neutrality of Money”, Journal of Economic Theory, April 1972.
“Some International Evidence on Output-Inflation Tradeoffs”, American Economic Review, June 1973.
Econometric Policy Evaluation: A Critique” in K. Brunner and A. Meltzer (eds.), The Phillips Curve and Labor Markets, Amsterdam, North Holland, Carnegie Rochester Series on Public Policy.

[3] Rational Expectations, the Optimal Monetary Instrument and the Optimal Money Supply Rule”, Journal of Political Economy, April 1975.

[4] The Keynesian Counter-Revolution: A Theoretical Appraisal” in F. H. Hahn and F. P. R. Breckling (eds.), The Theory of Interest Rates, London, Macmillan.

[5] Money, Interest and Prices, 2nd edn, New York, Harper and Row.

[6] Macroeconomics, 4th edn, New York, John Willey.

[7] “Keynes, Lucas and Scientific Progress”, American Economic Review, May 1987.

[8] Lectures on Macroeconomics, Cambridge, MIT, Press.

[9] “Sectoral Shifts and Cyclical Unemployment”, Journal of Political Economy, August 1982.

Print Friendly and PDF